Tải bản đầy đủ (.doc) (345 trang)

1 LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẠ LONG 1930 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.18 MB, 345 trang )

ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH
BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY HẠ LONG

LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HẠ LONG
(1930-2010)

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
HÀ NỘI - 2013
CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
1


BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY HẠ LONG

BAN CHỈ ĐẠO
1. Đồng chí Vũ Hồng Thanh, UVBTV Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy, Trưởng ban;
2. Đồng chí Nguyễn Văn Sơn, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch
HĐND thành phố, Phó Trưởng ban Thường trực;
3. Đồng chí Đào Xuân Đan, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố,
Phó Trưởng ban;
4. Đồng chí Trịnh Minh Thanh, Phó Bí thư Thành ủy, Phó Trưởng ban;
5. Đồng chí Vũ Văn Hợp, Ủy viên BTV Thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực
UBND thành phố, Ủy viên;
6. Đồng chí Ninh Văn Thương, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, Ủy viên
Thường trực;
7. Các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy, Thường trực HĐND, UBND
thành phố; Lãnh đạo các Ban Xây dựng Đảng, Văn phòng Thành ủy,
UBMTTQ và các đoàn thể thành phố, Ủy viên.

BAN BIÊN SOẠN


1. TS. Hoàng Thị Kim Thanh (Chủ biên)
2. ThS. Vũ Trọng Hùng
3. ThS. Nguyễn Chí Thảo
4. ThS. Vũ Thái Dũng
5. Nguyễn Duy Thái

BAN BIÊN TẬP
1. Đ/c Nguyễn Quang Hưng
2. Đ/c Ninh Văn Thương
3. Đ/c Vũ Thanh Đạm
4. Đ/c Lê Quyền
5. Đ/c Trần Nhuận Minh
6. Đ/c Hoàng Phúc Sinh

7. Đ/c Tống Khắc Hài
8. Đ/c Đào Duy Cát
9. Đ/c Nguyễn Văn Quý
10. Đ/c Nguyễn Thị Vân Hà
11. Đ/c Trần Kiên

SƯU TẦM VÀ KHAI THÁC TƯ LIỆU
1. Đ/c …………………………………………….
2. Đ/c …………………………………………….
3. Đ/c …………………………………………….

2


LỜI GIỚI THIỆU
Hạ Long là thành phố tỉnh lỵ, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của

tỉnh Quảng Ninh, thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Đây là một trong những khu vực
được hình thành lâu đời nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Lịch sử hình thành và phát
triển của thành phố Hạ Long gắn liền với các phong trào đấu tranh cách mạng anh
hùng và đầy tự hào của cán bộ, nhân dân thành phố. Hơn 80 năm dưới sự lãnh
đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy
Quảng Ninh, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hạ Long đã phát huy tinh thần đoàn
kết, yêu nước, truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của vùng mỏ, vượt
qua bao khó khăn, thử thách, một lòng tin tưởng theo Đảng, cùng cả nước viết lên
những trang sử hào hùng trong cuộc đấu tranh giành chính quyền (1930-1945),
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1955), kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1955-1975) và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976-2010). Những sự kiện
lịch sử gắn với bao chiến công oanh liệt, thắng lợi vẻ vang mà Đảng bộ và nhân
dân thành phố Hạ Long đạt được hơn 80 năm qua mãi là niềm tự hào của các thế
hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố.
Thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 28-8-2002 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng Khóa IX về Tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên
soạn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Ninh,
Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hạ Long quyết định tổ chức biên soạn Lịch
sử Đảng bộ thành phố giai đoạn 1930-2010, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và bổ
sung, chỉnh sửa cuốn “60 năm chiến đấu xây dựng-trưởng thành của Đảng bộ
và nhân dân thị xã Hồng Gai (1930-1990)” đã được Ban Chấp hành Đảng bộ thị
xã Hồng Gai chỉ đạo biên soạn, xuất bản năm 1991.
Công trình Lịch sử Đảng bộ thành phố Hạ Long (1930-2010) ra đời là
tài liệu quý, phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trong thành phố nâng cao niềm tự hào,
phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân thành phố
Hạ Long đã tạo dựng nên hơn 80 năm qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong chỉ đạo và biên soạn cuốn sách, song
do nguồn tài liệu lưu trữ còn thiếu, trải qua các cuộc chiến tranh nên thất lạc
nhiều, nhân chứng lịch sử, nhất là cán bộ chủ chốt của thành phố qua các thời kỳ

tuổi cao, thời gian trôi đi quá lâu nên nguồn cung cấp tư liệu còn hạn chế. Vì vậy,
3


cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Rất mong được sự đóng
góp ý kiến và bổ sung thêm tư liệu lịch sử của cán bộ, đảng viên và nhân dân
trong thành phố cùng bạn đọc để cuốn sách lần sau tái bản đạt chất lượng hơn.
Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố
Hạ Long chân thành cảm ơn các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng, các nhân
chứng lịch sử qua các thời kỳ, các cơ quan và tổ chức, các cán bộ khoa học lịch
sử đã nhiệt tình cung cấp tài liệu, đọc và góp ý bản thảo. Xin trân trọng cảm ơn
Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh và Ban Địa phương, Viện Lịch sử
Đảng thuộc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã giúp đỡ,
tạo điều kiện để cuốn sách Lịch sử Đảng bộ thành phố Hạ Long (1930-2010) ra
mắt bạn đọc.
BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY HẠ LONG

4


5


Mở đầu
HẠ LONG - VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI
VÀ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, DÂN SỐ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Thành phố Hạ Long nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Ninh, cách thủ đô Hà
Nội 155 km. Hạ Long có diện tích 27.195,03 ha (chiếm 4,5% diện tích đất toàn

tỉnh) với 227.874 người (bằng 19% số dân của tỉnh), 59.819 hộ dân1, trong đó dân
tộc Kinh chiếm đại đa số, ngoài ra còn có các dân tộc khác như Sán Dìu, Hoa,
Tày, Nùng, Hán, Dao, Thổ, Mường, Vân Kiều, Cao Lan...
Thành phố Hạ Long có địa hình đặc biệt, chiều dài khu vực tiếp giáp trực
tiếp với bờ biển dài 50 km, khu vực bên trong tựa vào đồi núi, tạo cho Hạ Long trở
thành một trong những nơi có cảnh quan đẹp nhất Việt Nam. Thành phố Hạ Long
trải dài và chia thành hai khu vực: phía Đông và phía Tây ngăn cách bằng eo biển
Cửa Lục rộng 420m. Nối hai bờ Cửa Lục là cầu Bãi Cháy - một trong năm cây cầu
dây văng, mặt phẳng dây lớn nhất thế giới. Phía Đông thành phố là trung tâm chính
trị, thương mại và công nghiệp khai thác than của tỉnh. Phía Tây thành phố là trung
tâm du lịch-dịch vụ, đồng thời cũng là khu công nghiệp đóng tàu và cảng biển nổi
tiếng của cả nước. Ở đây có khu du lịch quốc tế Hoàng Gia, Tuần Châu, với nhiều
khách sạn từ 2 sao đến 4 sao. Riêng đảo Tuần Châu, rộng trên 400 ha, có đường nối
với quốc lộ 18A dài khoảng 2km, được xem là thiên đường du lịch của Việt Nam
và đang phấn đấu mang tầm khu vực và quốc tế.
Về khí hậu, Hạ Long thuộc kiểu khí hậu vùng ven biển, mỗi năm có 2 mùa
rõ rệt, mùa đông từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, mùa hè từ tháng 5
đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình hàng năm 23,70C, dao động không lớn, từ 16,70C
đến 28,60C. Mùa hè, nhiệt độ trung bình cao là 34,90C, nóng nhất đến 380C. Mùa
đông, nhiệt độ trung bình thấp là 13,70C, rét nhất là 50C.
Lượng mưa trung bình một năm 1.832mm, phân bố không đều theo 2 mùa.
Mùa hè, mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm từ 80-85% tổng lượng mưa cả năm.
1

Số liệu tính đến ngày 31-12-2011.

6


Lượng mưa cao nhất vào tháng 7, tháng 8 với khoảng 350mm. Mùa đông ít mưa,

chỉ đạt khoảng 15-20% tổng lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí trung bình hàng
năm 84%. Hạ Long nằm phía trong vùng biển kín nên ít chịu ảnh hưởng của những
cơn bão lớn, sức gió mạnh nhất trong các cơn bão thường là cấp 9, cấp 10. Cá biệt
có cơn bão mạnh cấp 11.
Về sông ngòi, các sông chính chảy qua địa phận thành phố Hạ Long gồm
có sông Diễn Vọng, Vũ Oai, Man, Trới. Cả bốn con sông đều đổ vào vịnh Cửa Lục,
rồi chảy ra vịnh Hạ Long. Các con suối chảy dọc sườn núi phía Nam thuộc phường
Hồng Gai, Hà Tu, Hà Phong. Cả sông và suối ở thành phố Hạ Long đều nhỏ, ngắn,
lưu lượng nước không nhiều. Vì địa hình dốc nên khi có mưa to, nước dâng lên
nhanh và thoát ra biển thuận lợi.
Chế độ thuỷ triều của vùng biển Hạ Long chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế
độ nhật triều vịnh Bắc Bộ, biên độ dao động thuỷ triều trung bình 3.6m. Nhiệt độ
nước biển ở lớp bề mặt trung bình 180C đến 30.80C, độ mặn nước biển trung bình
21.6‰ (tháng7) cao nhất là 32.4‰ (tháng 2, 3 hàng năm).
Về tài nguyên thiên nhiên, thành phố Hạ Long có nguồn tài nguyên
phong phú, đa dạng. Người dân Quảng Ninh ai cũng thuộc câu ca:
Hồng Gai than lắm, cá nhiều.
Bao nhiêu bể, núi, bấy nhiêu bạc vàng.
Tài nguyên khoáng sản ở thành phố Hạ Long chủ yếu là than đá và nguyên
vật liệu xây dựng. Năm 2010, tổng trữ lượng than đá thăm dò được đạt gần 600
triệu tấn, chủ yếu nằm ở phía Bắc và Đông Bắc thành phố Hạ Long trên địa bàn
các phường Hà Khánh, Hà Lầm, Hà Trung, Hà Phong, Hà Tu. Hạ Long còn có đất
sét với trữ lượng 63,5 triệu m3, tập trung chủ yếu ở phường Giếng Đáy; có đá vôi
với trữ lượng 1,3 tỷ tấn, hàm lượng cao 54,36%, chủ yếu tập trung ở các phường
Hà Phong, Đại Yên; có các khu vực khai thác cát xây dựng tại ven biển phường Hà
Phong, Hà Khánh, khu vực sông Trới tiếp giáp Hà Khẩu, Việt Hưng…, song trữ
lượng phân tán và không lớn. Đây là những nguồn nguyên liệu phục vụ làm xi
măng và vật liệu xây dựng.
7



Tài nguyên rừng, theo số liệu thống kê tính đến hết năm 2011, thành phố
Hạ Long có tổng diện tích đất rừng 7.002,09 ha; trong đó đất rừng sản xuất
1.678,63 ha, đất rừng phòng hộ 5.029,98 ha, đất rừng đặc dụng 297,48 ha 1. Rừng
vịnh Hạ Long phong phú, đa dạng như các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát
ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở cửa hang
hay khe đá. Trong đó, có 7 loài thực vật đặc hữu mà không nơi nào trên thế giới có
được, như thiên tuế, cọ, khổ cử đại nhung, móng tai, ngũ gia bì, hài vệ nữ hoa
vàng…
Tài nguyên đất, thành phố Hạ Long có tổng diện tích đất tự nhiên
27.195,03 ha, trong đó đất nông nghiệp 9483,18 ha; đất phi nông nghiệp 16.349,77
ha, đất ở 1370,22 ha, đất chuyên dùng 10.057,02 ha2.
Tài nguyên biển, vùng biển Hạ Long rất phong phú về các loại động vật và
thực vật dưới nước. Theo nghiên cứu có 950 loài cá, 500 loài động vật thân mềm và
400 loài giáp xác, trong đó có nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao như cá thu, cá
nhụ, cá song, cá tráp, cá chim và tôm, cua, mực, ngọc trai, bào ngư, sò huyết, tu
hài… 117 loài san hô thuộc 40 họ, 12 nhóm. Vịnh Hạ Long đã hai lần được Unesco
công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, được bình chọn là một trong bảy kỳ quan
thiên nhiên mới của thế giới. Vùng Di sản được Thế giới công nhận có diện tích
434 km2, bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ
(phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông). Với nhiều hang
động đẹp và huyền ảo như hang Bồ Nâu, Trinh Nữ, Sửng Sốt, Đầu Gỗ, Thiên
Cung, Tam Cung, Mê Cung đã đưa danh tiếng của vịnh Hạ Long trở thành một
trong những điểm du lịch nổi tiếng trên toàn thế giới.
Tài nguyên nước, tài nguyên mặt nước ở thành phố Hạ Long tập trung tại
các khu vực hồ Yên Lập với tổng dung tích khoảng 107.200.000 m3 (thời điểm đo
trong tháng 8-2010), Hồ Khe Cá tại phường Hà Tu… Đây là nguồn cung cấp nước
tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra có các hồ điều hòa tạo cảnh quan
cho thành phố như hồ Yết Kiêu, Ao Cá-Kênh Đồng…
1

2

Số liệu tính đến ngày 31-12-2011.
Số liệu tính đến ngày 31-12-2011.

8


Thành phố Hạ Long là đầu mối giao thông quan trọng của tỉnh Quảng Ninh
và vùng Đông Bắc Tổ quốc. Thành phố có có hệ thống giao thông đường bộ với
chất lượng hạ tầng kỹ thuật tương đối đồng bộ, khá hoàn chỉnh với cả đường bộ lẫn
đường thuỷ, như: đường Quốc lộ 18A đi Hải Dương, Hải Phòng. Quốc lộ 279
từ Bắc Giang, qua Hoành Bồ, đến Hạ Long. Từ Hà Nội, có 3 tuyến đường bộ đi Hạ
Long là: Hà Nội-Bắc Ninh-Hạ Long dài 155 km, Hà Nội-Hải Dương-Hạ Long dài
170km và Hà Nội-Hải Dương-Hải Phòng-Hạ Long dài 160km… Trong kế hoạch sẽ
xây dựng các tuyến đường cao tốc Nội Bài-Hạ Long, Hải Phòng-Hạ Long, Móng
Cái-Hạ Long.
Thành phố Hạ Long còn có tuyến đường sắt Hà Nội-Kép-Hạ Long nối đến
cảng Cái Lân, tuyến đường sắt đang được đầu tư nâng cấp để đáp ứng nhu cầu vận
chuyển hàng hóa từ Hà Nội tới Hạ Long và các tỉnh lân cận. Hệ thống cảng và bến
tàu du lịch nằm trong vịnh Hạ Long sẵn sàng đón nhận các loại tàu nội địa và tàu
viễn dương có trọng tải lớn. Bên cạnh đó, Hạ Long cũng có một số bãi đỗ cho sân
bay trực thăng và thuỷ phi cơ.
Vị trí địa lý“đắc địa” cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa
dạng và hệ thống giao thông thuận lợi đã tạo điều kiện thuận lợi để thành phố
Hạ Long sớm trở thành một trong những trung tâm phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội toàn diện, hiện đại của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói
chung.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HẠ LONG


Ở Giáp Khẩu (nay thuộc phường Hà Khánh) đã phát hiện một di chỉ lớn
thời trung kỳ đồ đá mới. Ở Đồng Mang (phường Giếng Đáy), đảo Tuần Châu, Cái
Lân (phường Bãi Cháy), Cọc 8 (phường Hồng Hà) và trong nhiều hang động, mái
đá trên vịnh Hạ Long đã phát hiện những di chỉ thời đại đồ đá mới. Căn cứ vào
những di chỉ khảo cổ được phát hiện cho thấy, ngay từ rất sớm ở Hạ Long đã có
con người sinh sống và cùng nhau xây dựng nên các xóm làng. Trải qua hàng nghìn
năm lịch sử, cộng đồng dân cư và tổ chức xã hội ở đây ngày càng phát triển, để
hình thành thành phố Hạ Long như ngày nay.
9


Vùng đất trung tâm của thành phố Hạ Long ngày nay, xưa kia chỉ là một
làng chài ven biển, có tên là Bãi Hàu, sau thành làng xã. Đến đầu thời Nguyễn
được đổi tên thành xã Mẫu Lệ. Về sau hình thành nên các xã Hà Lầm, Lũng Phong,
Giang Võng và Trúc Võng. Các phường phía Đông và phía Tây của thành phố hiện
nay, trước đó đều thuộc huyện Hoành Bồ.
Năm 1883, thực dân Pháp chiếm vùng vịnh Hạ Long, chúng tiến hành khai
thác than ở các mỏ trên bờ vịnh, lập ra phố Hòn Gai, do một quan bang người Việt
cai quản, nhưng mọi thực quyền nằm trong tay viên Đại lý người Pháp. Ở Hòn Gai,
thực dân Pháp còn chia thành nhiều bang nhỏ như Hà Tu, Hà Lầm, Bãi Cháy…
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Hòn Gai trở thành thị xã, thủ phủ của
vùng mỏ. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đặc khu Hòn Gai là
đơn vị hành chính độc lập cấp tỉnh, được đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của Ủy
ban kháng chiến Hành chính Liên khu I1.
Ngày 10-5-1949, huyện Hoành Bồ được tách khỏi tỉnh Quảng Yên để sáp
nhập vào Đặc khu Hòn Gai. Do đó, Đặc khu Hòn Gai có hai huyện Cẩm Phả và
Hoành Bồ. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Hòn Gai trở thành thị xã, thủ phủ
của khu Quảng Hồng (Hồng Quảng trên cơ sở sáp nhập tỉnh Quảng Yên và khu
Hồng Gai).
Ngày 30-10-1963, tỉnh Hải Ninh và khu Quảng Hồng hợp nhất thành tỉnh

Quảng Ninh, từ đó thị xã Hồng Gai trở thành thủ phủ của tỉnh Quảng Ninh và được
mở rộng địa bàn thị xã về phía Đông và phía Tây.
Trước ngày 10-9-1981, thị xã Hòn Gai có 6 thị trấn, 3 xã và 6 tiểu khu 2.
Ngày 10-9-1981, một số thị trấn và tiểu khu thuộc thị xã Hồng Gai giải thể và một
số phường được thành lập như: Phường Hà Tu và phường Hà Phong trên cơ sở thị
trấn Hà Tu. Phường Hà Lầm, Hà Trung và Hà Khánh từ thị trấn Hà Lầm. Phường
Hồng Hà, Hồng Hải từ thị trấn Cọc 5. Phường Cao Thắng, Cao Xanh từ thị trấn

Theo Nghị định số 142-NV/3 ngày 17-9-1949 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
2
Thị trấn Giếng Đáy, Bãi Cháy, Cao Thắng, Hà Lầm, Hà Tu, Cọc 5; 3 xã: Thành Công, Hùng Thắng, Tuần Châu; 6
tiểu khu: Vựng Đâng, Công Nhân, Phố Mới, Bạch Đằng, Ba Đèo, Hạ Long.
1

10


Cao Thắng. Phường Giếng Đáy, Hà Khẩu từ thị trấn Giếng Đáy. Thành lập phường
Bãi Cháy từ thị trấn Bãi Cháy.
Sau khi thành lập các phường mới, thị xã Hồng Gai gồm 16 phường (Bạch
Đằng, Hạ Long, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Hà Phong, Hà Tu, Hà Trung, Hà Lầm,
Hà Khánh, Hồng Hà, Hồng Hải, Cao Thắng, Cao Xanh, Giếng Đáy, Hà Khẩu, Bãi
Cháy) và ba xã (Thành Công, Hùng Thắng, Tuần Châu). Năm 1992 sáp nhập xã
Thành Công vào phường Cao Xanh.
Ngày 27-12-1993, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 102/NĐTTg, đổi thị xã Hồng Gai thành thành phố Hạ Long. Thực hiện Nghị định số
51/2001-NĐ/CP ngày 16-8-2001 của Chính phủ Về việc điều chỉnh địa giới hành
chính huyện Hoành Bồ để mở rộng thành phố Hạ Long và thành lập phường thuộc
thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, hai xã Việt Hưng và Đại Yên của huyện Hoành
Bồ được sáp nhập vào thành phố Hạ Long.

Ngày 26-9-2003, theo Quyết định số 199/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, thành phố Hạ Long được công nhận là thành phố đô thị loại II, đã
khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của thành phố Hạ Long trong tiến trình phát
triển của lịch sử.
Ngày 5-2-2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 07/NQ-CP
Về việc thành lập các phường thuộc thành phố Hạ Long và thành phố Móng Cái,
tỉnh Quảng Ninh. Nghị quyết nêu rõ: Thành lập phường Đại Yên và Việt Hưng trên
cơ sở toàn bộ diện tích, nhân khẩu của xã Đại Yên và Việt Hưng. Thành phố Hạ
Long trải dài từ Yên Lập (sát với địa phận huyện thị xã Quảng Yên) tới Đèo Bụt
(giáp ranh với thành phố Cẩm Phả) như ngày nay.
Sau khi thành lập các phường Đại Yên và Việt Hưng, thành phố Hạ Long
có 20 phường, đó là các phường Hà Khánh, Hà Lầm, Hà Trung, Hà Phong, Hà Tu,
Hồng Hà, Hồng Hải, Cao Thắng, Cao Xanh, Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo, Bạch
Đằng, Hồng Gai, Bãi Cháy, Hà Khẩu, Giếng Đáy, Hùng Thắng, Tuần Châu, Việt
Hưng, Đại Yên.
III. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG TRƯỚC NĂM 1930

11


Hạ Long là nơi có vị trí chiến lược về kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh
của tỉnh Quảng Ninh và vùng Đông Bắc Tổ quốc. Trong các thời kỳ lịch sử của dân
tộc, con đường tiến quân xâm lược nước ta bằng đường thủy của các triều đại phong
kiến phương Bắc đều đi qua vịnh Hạ Long, ngược sông Bạch Đằng đến Thăng Long.
Ngoài ra, Hạ Long còn có các mỏ than với trữ lượng lớn, nên ngay từ rất sớm, nơi
đây đã trở thành miếng mồi béo bở đối với các thế lực ngoại xâm. Tất cả bọn thực
dân, đế quốc, điển hình là Pháp, Nhật, Mỹ mỗi khi đánh chiếm vùng Đông Bắc Việt
Nam đều coi Hạ Long là mục tiêu số một, hàng đầu của chúng 1. Do đó, lịch sử Hạ
Long gắn bó hữu cơ với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trước sự xâm lược và thống trị của các thế lực ngoại xâm, nhân dân các

dân tộc Hòn Gai đoàn kết một lòng đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ngay từ buổi
đầu dựng nước và trong suốt thời phong kiến, nhân dân Hòn Gai đã cùng nhân dân
cả nước vùng lên đấu tranh đánh bại nhiều đội quân xâm lược, làm nên thiên anh
hùng ca bất diệt trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng),
chính thức xâm lược nước ta. Sau khi đánh ra Bắc Kỳ lần thứ nhất (1874), trong
các năm 1880-1881, thực dân Pháp đã đưa các đoàn kỹ thuật Pyuystxơ, Xalađanh,
Xărăng đến khu mỏ Hòn Gai thăm dò, khảo sát.
Đầu tháng 3-1883, thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Sau khi hạ
thành Hà Nội, ngày 12-3-1883, thực dân Pháp đưa tàu chiến vào vịnh Hạ Long, tiến sâu
vào vũng Cửa Lục, đổ quân lên đóng đồn trên đỉnh đồi Bãi Cháy. Mở đầu 72 năm
chiếm đóng vùng mỏ, chúng đem 500 quân đánh chiếm Hòn Gai, dựng trại tại Bãi
Cháy.
Ngày 24-1-1884, thực dân Pháp ép triều đình nhà Nguyễn làm khế ước bán
vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả cho Baviê Sôphua với giá 10 vạn đồng Đông Dương.
Ngày 24-4-1888, chúng lập Công ty khai thác than Bắc Kỳ thuộc Pháp (S.F.C.T);
cùng ngày, toàn quyền Đông Dương ký văn bản chính thức nhường quyền sở hữu
Tháng 3-1883, tên đại tá Pháp Henri Rivie đem quân đánh chiếm Hòn Gai, hắn đã thừa nhận: “Ngày 12-3, tôi
chiếm vịnh Hạ Long, đây là nơi có phong cảnh đẹp lạ lùng. Sự chiếm đoạt phía Tây Hòn Gai (tức Bãi Cháy) cho
chúng ta (Pháp) cái chủ quyền trên vùng mỏ và cái chìa khóa để mở cả mặt bể Bắc Kỳ” (dẫn theo Trần Văn Giàu:
Giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1963, tr. 53).
1

12


vùng mỏ mà Baviêsô Phua đã mua của triều đình nhà Nguyễn, do đó Hòn Gai trở
thành “đất nhượng” thuộc quyền của chủ mỏ, có bộ máy cai trị riêng. Vì thế, Hòn
Gai tồn tại song song hai bộ máy cai trị, đó là bộ máy cai trị của thực dân chủ mỏ
và bộ máy cai trị của chính quyền thực dân.

Hòn Gai là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng,
đặc biệt là than, nên là một trong những mục tiêu quan trọng trong chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp và bọn chủ mỏ. Dựa vào chế độ cai trị hà khắc,
bọn chủ mỏ thực dân ra sức vơ vét tài nguyên thiên nhiên và bóc lột sức lao động rẻ
mạt của nhân dân với quy mô và mức độ ngày càng lớn, nhất là việc đẩy mạnh khai
thác than. Hàng nghìn nông dân từ đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Thanh - Nghệ Tĩnh bị bần cùng hóa được mộ ra làm phu mỏ. Cùng với Cẩm Phả, Đông Triều,
Uông Bí, Hòn Gai trở thành nơi ra đời sớm nhất và tập trung đông đảo nhất giai cấp
công nhân Việt Nam1.
Dưới sự thống trị hà khắc, tàn bạo của thực dân Pháp, phong kiến tay sai và
chủ mỏ, nhân dân Hòn Gai, nhất là công nhân mỏ bị bóc lột thậm tệ. Họ phải làm
10-12 giờ/ngày, nhưng chỉ nhận được đồng lương rẻ mạt, lại luôn bị chủ thầu, cai
mỏ, giám thị đánh đập, cúp phạt tiền lương. Công nhân mỏ trở thành những người
“lao động khổ sai”, bị đẩy vào đường cùng không lối thoát với nghèo đói và bệnh
tật. Hòn Gai trở thành địa ngục trần gian. Mâu thuẫn giữa công nhân mỏ, nhân dân
Hòn Gai với bọn thực dân chủ mỏ, phong kiến tay sai vô cùng gay gắt. Phong trào
đấu tranh liên tiếp nổ ra, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia.
Ngay khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam nói chung, Quảng Ninh nói
riêng, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước, nhân dân Hòn Gai nêu cao ý chí
quật cường, bất khuất, đoàn kết một lòng cùng nhân dân cả nước nổi dậy chống
xâm lược.
Từ năm 1885 đến năm 1895, hưởng ứng phong trào Cần Vương, trên vùng
biển Hạ Long, sát khu mỏ, nhân dân Hòn Gai tham gia cuộc khởi nghĩa chống thực
dân Pháp do Lãnh Pha lãnh đạo, lập căn cứ ở đảo Vạn Hoa. Nghĩa quân tiến nhiều
lần công vào các cơ sở của thực dân Pháp ở mỏ Kế Bào, Hà Lầm… và giành thắng
1

Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng ninh: Địa chí Quảng Ninh, tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội 2001, tr. 71.

13



lợi. Trước sự lớn mạnh của nghĩa quân, thực dân Pháp điều binh đoàn thủy quân
lục chiến Cờlamoocgăng đến Vịnh Hạ Long để bao vây, càn quét, khủng bố, nhưng
không tiêu diệt được nghĩa quân.
Đầu thế kỷ XX, phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục do các sĩ
phu yêu nước nổ ra mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia. Ở Quảng
Ninh, một số nhà nho và thương gia có tinh thần yêu nước chống Pháp đã thành lập
Hội Công thương ái hữu, đặt trụ sở tại Hòn Gai và đã kết nạp được 100 hội viên,
gồm những thương gia, công chức lớp dưới, học sinh, công nhân mỏ. Hoạt động
chính của Hội là cổ động cho hàng nội hóa, tổ chức thanh niên học tập, quyên tiền
ủng hộ phong trào Đông Du. Từ khi Hội Công thương ái hữu thành lập, những bài
văn, bài thơ cổ động lòng yêu nước và chí căm thù giặc như bài “Hải ngoại huyết
thư” của Phan Bội Châu được truyền bá rộng rãi trong công nhân và nhân dân Hòn
Gai.
Ngay từ khi mới ra đời, công nhân mỏ Hòn Gai đã sớm được giác ngộ cách
mạng, nên vùng lên đấu tranh quyết liệt chống thực dân Pháp và tay sai. Năm 1906,
công nhân mỏ Hà Tu đình công vì bọn cai mỏ cắt xén tiền ăn đường của họ. Chủ
mỏ đối phó bằng cách không bán lương thực cho những người đấu tranh, đẩy họ
vào cảnh đói khát buộc phải đi làm. Được sự giúp đỡ của những người thợ cũ ở Hà
Tu, cuộc đấu tranh giành được thắng lợi.
Năm 1909, công nhân mỏ Hà Tu-Cẩm Phả đấu tranh phản đối chủ mỏ trả
tiền công thấp, nhưng không được chấp nhận. Công nhân căm phẫn đốt chòi, chặt
mai cuốc, rồi rủ nhau bỏ về.
Năm 1916, khoảng 10 công nhân đề pô xe lửa Hà Tu chặn đánh lính khố
xanh, vì chúng trắng trợn cướp giật hàng hóa, trêu ghẹo, hãm hiếp phụ nữ. Năm
1918, công nhân Hà Tu đấu tranh đòi chủ mỏ thả một công nhân bị bắt vô cớ; 700
công nhân Lán Phục, Lán Nghệ (Hà Tu) phối hợp cùng công nhân xe lửa kéo đến
đốt nhà tên Bang Sâm, vì tên này thường hống hách, dọa nạt, áp bức công nhân.
Năm 1919, một số nữ công nhân nhà sàng Hòn Gai nghỉ việc một ngày để phản đối
tên đốc công Valuy và cai nhà máy thường trêu ghẹo, làm nhục họ.

14


Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đặc biệt chú ý đến việc phát huy ảnh
hưởng và gây dựng cơ sở ở Hòn Gai. Các hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên đẩy mạnh tuyên truyền, giác ngộ công nhân mỏ và coi đó là nhiệm vụ trọng
tâm. Hình thức tuyên truyền linh hoạt, sáng tạo, phù hợp hoàn cảnh lịch sử như tổ
chức những cuộc gặp gỡ trong xưởng máy, tầng lò lúc làm việc hay tổ chức họp kín
để tuyên truyền, giác ngộ cách mạng. Các hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên đã nhanh chóng “bắt rễ” được vào những công nhân bị bóc lột dã man, có tinh
thần đấu tranh cách mạng cao để tuyên truyền, giáo dục và gây dựng cơ sở cách
mạng.
Từ năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thực hiện phong trào
“vô sản hóa”. Một loạt cán bộ của Hội được Kỳ bộ Bắc Kỳ cử đi vô sản hóa và
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
ở Hòn Gai, Hà Tu, Hà Lầm, Cọc 5, Cẩm Phả, Cửa Ông, Mạo Khê, Vàng Danh,
Uông Bí…, trong đó có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Văn Xứng (tức Lê
Thanh Nghị), Đặng Châu Tuệ, Vũ Thị Mai, Nguyễn Văn Lịch (tức Mẫn), Vũ Văn
Hiếu, Trần Văn Nghệ.
Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, các hội viên Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên đã giác ngộ được nhiều công nhân và dẫn dắt họ vào con
đường đấu tranh cách mạng. Trên cơ sở đó, nhiều Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên lần lượt được thành lập.
Đầu năm 1929, Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Hòn Gai
được thành lập. Phong trào yêu nước và phong trào công nhân mỏ Hòn Gai ngày
càng phát triển, nhất là từ khi đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Ủy viên Trung ương
Đông Dương Cộng sản Đảng cử đồng chí Đỗ Huy Liêm ra khu mỏ Hòn Gai-Cẩm
Phả xây dựng tổ chức Đảng (cuối tháng 7-1929). Đồng chí Đỗ Huy Liêm đã triệu
tập Hội nghị cán bộ, hội viên thanh niên ở Cẩm Phả, Cửa Ông để truyền đạt chủ

trương của Đông Dương Cộng sản Đảng, giải tán các Chi bộ Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, để thành lập các Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng.
15


Thực hiện chủ trương của cấp trên, tháng 9-1929, đồng chí Phạm Văn Cát
(tức Cao) từ Cao Bằng về vô sản hóa ở Cái Đá, đã thực hiện nhiệm vụ giải thể các
Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và thành lập Chi bộ Đông Dương
Cộng sản Đảng đầu tiên ở Hòn Gai, gồm các đồng chí Phạm Văn Cát (tức Cao), Đỗ
Văn Hợp (tức xếp Hiên), Nguyễn Thành (tức Tuất), do đồng chí Phạm Văn Cát làm
Bí thư. Trụ sở liên lạc của Chi bộ được đặt tại nhà số 3, phố Paris (nay là nhà số 11,
phố Cây Tháp, phường Hồng Gai, thành phố Hạ Long).
Ngay sau khi thành lập, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Hòn Gai đã
lãnh đạo công nhân mỏ Hòn Gai phối hợp với các Chi bộ Đông Dương Cộng sản
Đảng mỏ Cửa Ông, Cẩm Phả, Uông Bí, Vàng Danh… tổ chức rải truyền đơn, treo
cờ, dán áp phích kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/1929).
Để thúc đẩy phong trào các mạng ở khu mỏ Hòn Gai phát triển hơn, tháng
2-1930, Trung ương Đông Dương Cộng sản Đảng tiếp tục cử nhiều cán bộ về Hòn
Gai hoạt động, trong đó có đồng chí Nguyễn Thị Lưu (tức Nguyễn Thị Nhâm, tức
Phan Thị Khương, Cả Khương).
Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Cộng sản, phong trào yêu nước và phong
trào công nhân ở Hòn Gai ngày càng lớn mạnh, đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều chi
bộ Cộng sản. Cuối năm 1929, đầu năm 1930, các Chi bộ Đảng ở Hà Tu, Cọc 5 lần
lượt được thành lập. Nhiệm vụ đặt ra của cách mạng Hòn Gai lúc này là phải thành
lập được Chi bộ Cộng sản thống nhất và duy nhất để lãnh đạo cách mạng tiến tới
thắng lợi hoàn toàn.

16



Chương I
17


ĐẢNG ỦY MỎ HÒN GAI THÀNH LẬP,
LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
I. CHI BỘ ĐẢNG, ĐẢNG BỘ MỎ HÒN GAI THÀNH LẬP

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03-2-1930) đánh dấu bước ngoặt vĩ đại
của cách mạng Việt Nam “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng”1. Đảng thành lập là biểu hiện sự xác lập vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng nước ta, mở ra một thời đại
mới-thời đại giai cấp công nhân đứng ở trung tâm kết hợp các trào lưu cách mạng
và quyết định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam.
Cuối tháng 2-1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Hòn Gai thành lập,
gồm các đồng chí Nguyễn Khắc Khang (tức Lê Quốc Trọng), Vũ Văn Hiếu, Trần
Văn Nghệ (tức Nguyễn Viết Lục), Nguyễn Văn Xứng (tức Lê Thanh Nghị), do
đồng chí Nguyễn Khắc Khang làm Bí thư. Chi bộ Đảng lập ra các tổ chức kinh tế,
giao thông, ấn loát… để làm công tác chuyên môn của Đảng.
Chi bộ Đảng ở Hòn Gai thành lập là một bước ngoặt lịch sử quan trọng,
thúc đẩy phong trào cách mạng ngày càng phát triển. Trong các xí nghiệp lớn và
hầu hết các cơ sở sản xuất quan trọng như bến cảng, nhà máy điện Cọc 5, mỏ Hà
Tu, Hà Lầm, Cái Đá… đều có đảng viên hoạt động.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng, để kịp thời chỉ đạo được sâu
sát, Chi bộ Hòn Gai tách ra và phát triển thành nhiều chi bộ, đó là Chi bộ mỏ Hà
Tu, Chi bộ Nhà máy điện Cọc 5, Chi bộ mỏ Cái Đá, Chi bộ nhà máy cơ khí Hòn
Gai. Nhờ đó, phong trào đấu tranh của công nhân mỏ và quần chúng nhân dân Hòn
Gai ngày càng có bước tiến rõ rệt.
Do sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức Đảng, tháng 3-1930, Ban cán sự
mỏ Hòn Gai được thành lập, gồm các đồng chí Nguyễn Khắc Khang, Vũ Văn Hiếu,

Trần Văn Nghệ, do đồng chí Nguyễn Khắc Khang làm Bí thư. Tính đến tháng 41930, các tổ chức cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng được tổ chức rộng khắp khu
mỏ. Yêu cầu lịch sử đặt ra lúc này là phải có sự lãnh đạo tập trung thống nhất để
đưa phong trào cách mạng tiến lên
1

Hồ Chí Minh: Ba mươi năm hoạt động của Đảng, tuyển tập, tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội ,1980, tr. 52.

18


Trước tình hình đó, tháng 4-1930, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập
“Đảng ủy mỏ Hòn Gai-Cẩm Phả”, gồm các đồng chí Vũ Văn Hiếu, Trần Văn
Nghệ, Nguyễn Công Hòa, do đồng chí Vũ Văn Hiếu làm Bí thư.
Đến tháng 9-1930, để đáp ứng với tình hình mới, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định
tách Đảng ủy Hòn Gai-Cẩm Phả thành Đảng ủy mỏ Hòn Gai và Đảng ủy mỏ Cẩm
Phả-Cửa Ông. Đồng chí Trần Văn Nghệ được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mỏ Hòn
Gai, trụ sở đặt tại Ba Đèo.
Sự thành lập Đảng ủy mỏ Hòn Gai và các tổ chức quần chúng chứng tỏ sự
lớn mạnh nhanh chóng của phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo
nền tảng, tiền đề quan trọng cho thắng lợi của cách mạng trong những giai đoạn sau
và góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng cả nước.
Ngay sau khi được thành lập, Đảng ủy mỏ Hòn Gai đẩy mạnh công tác
tuyên truyền chủ trương của Đảng ủy, vạch trần tội ác của bọn thực dân chủ mỏ,
đồng thời vận động công nhân đấu tranh từ hình thức thấp đến hình thức cao, từ qui
mô nhỏ đến quy mô lớn với khẩu hiệu đấu tranh phù hợp.
Đảng ủy mỏ Hòn Gai quan tâm tới việc xây dựng, phát triển cơ sở Đảng,
cơ sở quần chúng, nhất là ở những vùng kinh tế quan trọng của địch. Dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng ủy mỏ Hòn Gai, những đảng viên Cộng sản đã lăn lộn trong
phong trào, xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng, lấy việc hoạt động
trong quần chúng làm việc chính và nhân sự tranh đấu mà tổ chức cho thêm đông 1.

Với nhiệm vụ “Đảng phải làm cho Công hội nhiều và rộng ra” 2, Đảng ủy mỏ Hòn
Gai phân công đảng viên vận động quần chúng theo từng khối (như khối thợ thủ
công, khối viên chức, khối tiểu thương, khối trường học…) dưới hình thức các lớp
học văn hóa, các hội ái hữu, hội phụ nữ, hội tương tế, hội hiếu hỉ, hội đá bóng.
Những người tích cực nhất trong các hội được kết nạp vào Công hội đỏ, làm nòng
cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng.

1, 2

Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Văn kiện Đảng 1930-1945, tập I, Hà Nội, 1977, tr. 88-89.

2

19


20


Cuối năm 1930, tổ chức Công hội đỏ ở Hòn Gai được thành lập. Với chủ
trương đúng đắn của Đảng ủy và tinh thần chịu đựng gian khổ, cố gắng của đảng
viên, các tổ chức Đảng và quần chúng phát triển khá mạnh. Tháng 10-1930, Hòn
Gai mới chỉ có 15 đảng viên, 8 hội viên Công hội đỏ, thì đến tháng 12-1930, đã
phát triển lên 24 đảng viên, 17 hội viên Công hội đỏ.
Sự ra đời của Chi bộ Đảng Hòn Gai, rồi phát triển thành Đảng ủy mỏ Hòn
Gai và sự hình thành các cơ sở quần chúng khẳng định sự trưởng thành nhanh
chóng, vượt bậc của cách mạng, tạo nền tảng, tiền đề quan trọng để cán bộ, đảng
viên và nhân dân Hòn Gai đạt được những thắng lợi to lớn trong những giai đoạn
sau.
II. HÒN GAI TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930-1931 VÀ CUỘC VẬN

ĐỘNG DÂN SINH, DÂN CHỦ 1936-1939

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, một làn sóng cách mạng
trong cả nước đã dâng lên, lôi cuốn hàng triệu người tham gia, làm nên phong trào
cách mạng những năm 1930-1931 với đỉnh cao là Xô Viết-Nghệ Tĩnh.
Hòa trong không khí đấu tranh mạnh mẽ trên phạm vi cả nước, dưới sự
lãnh đạo của Đảng ủy mỏ Hòn Gai và các tổ chức cơ sở Đảng, toàn khu mỏ bước
vào thời kỳ đấu tranh mới, dưới nhiều hình thức và phương pháp phong phú. Hàng
loạt cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra, mở đầu là các cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân với chủ mỏ.
Tháng 4-1930, công nhân nhà máy luyện than Hòn Gai, công nhân mỏ Cái
Đá, Nhà sàng đình công đòi tăng lương, chống đánh đập, cúp phạt vô lý, đòi trả
lương giờ làm thêm… Hưởng ứng phong trào đấu tranh của công nhân, chị em tiểu
thương chợ Hòn Gai, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Thị Lưu, đã
bãi thị đòi chính quyền thực dân giảm thuế môn bài.
Đặc biệt, trong khí thế cách mạng sôi sục, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương phát động một đợt đấu tranh rộng lớn trong cả nước nhân ngày Quốc tế Lao
động 1-5-1930. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Đảng ủy mỏ Hòn Gai mở một
đợt tuyên truyền đấu tranh rộng lớn như treo cờ trên núi Bài Thơ, rải truyền đơn,
21


dán áp phích để tuyên truyền về Đảng, chào mừng ngày hội của lao động thế giới,
cổ vũ tinh thần hăng hái đấu tranh của công nhân.
Đảng ủy mỏ Hòn Gai phân công đồng chí Nguyễn Thị Lưu chịu trách
nhiệm đi Hải Phòng chuyển tài liệu và mua vải về may cờ; đồng chí Trần Văn
Nghệ (tức Nguyễn Viết Lục) trực tiếp chỉ huy một số anh em cắt điện khu vực nội
thị; đồng chí Đào Văn Tuất (tức Nguyễn Thành) được giao nhiệm vụ cắm cờ trên
núi Bài Thơ. 8 giờ tối ngày 30-4-1930, tại cầu Kênh Liêm, đồng chí Trần Văn
Nghệ cùng một số đồng chí thực hiện nhiệm vụ cắt điện trong nội thị Hòn Gai, tạo

điều kiện cho lực lượng của ta ở các nơi hành động, đặc biệt là việc treo cờ trên núi
Bài Thơ.
Lợi dụng lúc cả thị xã mất điện, ngay trong đêm 30-4-1930, đồng chí Đào
Văn Tuất bí mật cắm cờ Đảng trên núi Bài Thơ. Sự kiện làm chấn động Hòn Gai,
cổ vũ tinh thần đấu tranh của công nhân và nhân dân toàn khu mỏ. Cũng trong đêm
30-4-1930, cán bộ, đảng viên ở Hòn Gai lãnh đạo quần chúng nhân dân rải truyền
đơn, treo băng, biển, khẩu hiệu ở khắp nơi kêu gọi đấu tranh.
Việc lá cờ Đảng được cắm ngay thị xã Hòn Gai-trung tâm kinh tế, chính trị
của cả khu mỏ, nơi được chúng bảo vệ cẩn mật, đã làm cho bọn chủ mỏ và chính
quyền thực dân ở đây vô cùng tức tối, hoảng sợ. Chúng phải huy động lực lượng
cảnh sát, mật thám để lùng sục hòng uy hiếp tinh thần đấu tranh của quần chúng.
Nhưng công nhân mỏ và quần chúng lao động vẫn một lòng tin vào cách mạng, tin
vào sự dẫn dắt của Đảng, đấu tranh giành quyền sống, quyền tự do.
Ở Hà Tu, khẩu hiệu, băng đỏ được treo ngay lối công nhân đi làm về ở mỏ
Sạc Lồ. Truyền đơn được rải dọc đường từ tầng than đến phố, trong nhà máy và cả
ở quanh đồn lính khố xanh.
Tại Hà Lầm, áp phích vẽ hình búa liềm được dán khắp nơi công cộng,
truyền đơn được rải ở những nơi đông người qua lại, công nhân đi làm về, nhặt
được truyền tay nhau đọc. Khí thế cách mạng ngày càng cao.

22


Một số đảng viên và hội viên Công hội đỏ ở Hòn Gai còn dùng thuốc nổ
phá hoại một đoạn đường sắt chạy từ Hà Tu ra bến than, làm đổ toa than, gây được
tiếng vang lớn trong khu mỏ.
Sự kiện ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930 khích lệ tinh thần đấu tranh của
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân nhân Hòn Gai; là một bước ngoặt đối với
phong trào cách mạng năm 1930 và năm 1931 ở khu mỏ. Nó chứng minh rằng, khi
Đảng ra đời, người công nhân mỏ được tập hợp dưới lá cờ của Đảng đã tiến lên đấu

tranh có tổ chức và liên tiếp giành được nhiều thắng lợi.
Kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao
động cả nước, Đảng ủy mỏ Hòn Gai tiếp tục vận động công nhân và nhân dân ủng
hộ cuộc đấu tranh của công nhân Vinh-Bến Thủy và nông dân 18 làng xã thuộc
huyện Tiên Hưng, Tiền Hải tỉnh Thái Bình (10-5-1930). Truyền đơn được rải ở
nhiều nơi trong thị xã Hòn Gai, Hà Tu, Hà Lầm… Nội dung truyền đơn kêu gọi:
“… Các đồng chí bị áp bức! Hãy đứng dậy đấu tranh. Các đồng chí không được
quên rằng, bọn thực dân Pháp dã man, chính bọn chúng đã áp bức và sát hại dân
nghèo. Các đồng chí hãy luôn nhớ rằng, ngày 1-5 là ngày mà thực dân Pháp đã sát
hại dã man thợ thuyền và nông dân. Các đồng chí hãy noi gương các đồng chí Bến
Thủy và Thái Bình để đấu tranh đòi giảm thuế, phải có cơm ăn và phản đối sự tăng
cường bóc lột. Sự tàn sát thợ thuyền và nông dân sẽ làm sụp đổ bọn thực dân Pháp
dã man, tàn bạo”1.
Công nhân Hòn Gai không chỉ đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp mình, mà
còn phối hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh vì lợi ích chung của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong cả nước. Những cuộc đấu tranh mang sắc thái
chính trị rõ rệt, không chỉ giành quyền lợi thiết thực trước mắt mà còn mang tính
chất giai cấp sâu sắc.
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của công nhân mỏ Hòn Gai, chính
quyền thực dân và bọn chủ mỏ vô cùng hoảng sợ. Chúng tăng cường khủng bố, đàn
áp dữ dội hòng nhanh chóng dập tắt ngọn lửa cách mạng. Mật thám chia nhau
Dẫn theo Công văn mật số 63-14/S ngày 15-5-1930 của Chánh mật thám Bắc Kỳ, tài liệu lưu trữ tại Phòng Lịch sử
Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh.
1

23


khám xét các ngả đường vào khu mỏ, lùng bắt những người mà chúng khả nghi.
Nhiều đồng chí bị bắt, bị tra tấn dã man nhưng vẫn kiên quyết không chịu cung

khai. Nhờ đó, phong trào đấu tranh của công nhân được duy trì và phát triển.
Tháng 10-1930, hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Khu mỏ,
công nhân và nhân dân lao động Hòn Gai dấy lên phong trào ủng hộ Nghệ Tĩnh đỏ,
để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của công nhân Nghệ-Tĩnh đang bị thực dân
Pháp đàn áp dã man. Truyền đơn kêu gọi công nhân đấu tranh được rải ở nhiều nơi
trong thị xã và các xưởng máy, trên tầng than nơi đông người qua lại.
Hưởng ứng đợt đấu tranh kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga do Đặc khu
ủy phát động, từ ngày 4-11-1930, Đảng ủy mỏ Hòn Gai và các Chi bộ Đảng lãnh
đạo công nhân và nhân dân biểu tình kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga.
Trong ngày kỷ niệm, pháo nổ ngay cửa ra vào nhà máy cơ khí Hòn Gai. Công nhân
cắt điện ở thị xã làm ảnh hưởng tới sản xuất và sinh hoạt của bọn chủ mỏ.
Sau đợt kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào đấu tranh của
công nhân Hòn Gai tiếp tục phát triển. Ngày 18-1-1931, truyền đơn được rải ở khắp
nơi trong thị xã, lên án bọn chủ mỏ coi rẻ mạng sống của công nhân.
Cùng với phong trào đấu tranh toàn khu mỏ, phong trào cách mạng 19301931 ở Hòn Gai là một đòn giáng mạnh mẽ vào thực dân Pháp và tay sai; chứng tỏ
sức mạnh của đội ngũ công nhân mỏ và quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đồng thời cổ vũ, động viên và góp phần to lớn vào thắng lợi chung của
phong trào cách mạng ở toàn khu mỏ, cũng như trong cả nước. Trong tất cả các
cuộc đấu tranh, đội ngũ công nhân mỏ luôn đi đầu và đứng ở mũi nhọn của cuộc
đấu tranh. Đây là một trong những cơ sở thực tiễn giúp đồng chí Trần Phú dự thảo
Luận cương chính trị (10-1930) của Đảng1.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, thực dân Pháp và
bọn chủ mỏ điên cuồng khủng bố, đàn áp hòng dìm phong trào cách mạng trong
biển máu.

Trước khi dự hảo Luận cương Chính trị (10-1930) của Đảng, đồng chí Trần Phú đã đến khảo sát phong trào công
nhân ở Hồng Gai,Nam Định và phong trào nông dân Thái Bình
1

24



Do sơ hở về công tác tổ chức và cán bộ, nên tên Bùi Huy Toại (tức Vương,
tức Văn) đã chui vào Đảng, phản bội cách mạng, báo tin cho mật thám Pháp đến
vây bắt hầu hết các đồng chí trong Đặc khu ủy và Đảng ủy mỏ Hòn Gai. Đồng chí
Vũ Văn Hiếu-Bí thư Đảng bộ đầu tiên của Đặc khu mỏ và một số đồng chí khác bị
bắt ngay tại cơ quan Đảng ủy Cẩm Phả-Cửa Ông. Đây là tổn thất lớn nhất của
Đảng ủy mỏ Hòn Gai và Đặc khu ủy. Tính đến tháng 4-1931, sau đợt khủng bố của
địch, ở Hòn Gai chỉ còn 8 đảng viên và 10 hội viên Công hội đỏ (so với tháng 121930 là 24 đảng viên và 17 hội viên Công hội đỏ).
Các đồng chí bị địch bắt, giam cầm trong nhà tù đế quốc. Kẻ địch dùng mọi
cực hình tra tấn dã man, tìm mọi cách dụ dỗ nhằm mua chuộc hòng phát hiện cơ sở
Đảng, nhưng các đồng chí vẫn một lòng kiên trung với Đảng, với cách mạng, tiêu
biểu là các đồng chí Vũ Văn Hiếu-Bí thư Đảng bộ đầu tiên của Đặc khu mỏ, Trần
Văn Nghệ (tức Nguyễn Viết Lục)-Bí thư Đảng ủy mỏ Hòn Gai, Nguyễn Thị Lưucán bộ của Đảng ủy mỏ Hòn Gai… Trong thời gian bị bắt, giam giữ, bị tra tấn dã
man, tàn bạo nhưng các đồng chí không một lời khai báo để bảo vệ bí mật của
Đảng, dũng cảm lên án tội ác của giặc và tìm mọi cách tuyên truyền, giác ngộ,
động viên đồng chí, quần chúng tiếp tục đấu tranh. Trong nhà tù thực dân, trước khi
mất, đồng chí Vũ Văn Hiếu đưa chiếc áo của mình cho đồng chí Lê Duẩn và nói:
“Tôi sắp chết rồi, tôi nghĩ mãi mà không biết làm cái gì để phục vụ Đảng đến phút
cuối cùng. Tôi có chết trần truồng cũng không sao. Áo đây, đồng chí mặc lấy để
sống và làm việc cho Đảng”. Đồng chí Trần Văn Nghệ lấy máu của mình viết lên
tường xà lim, kêu gọi anh em đấu tranh và luôn tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự tất
thắng của cách mạng.
Tinh thần bất khuất của các chiến sỹ cộng sản thể hiện cả ở tòa án đế quốc;
ngày 26-1-1931, thực dân Pháp mở phiên tòa đặc biệt (Hội đồng đề hình) tại Kiến
An, xử 72 chiến sỹ cộng sản. Với khí phách hiên ngang, kiên cường, bất khuất,
cùng với các chiến sỹ cách mạng trong cả nước, các đồng chí hoạt động ở Hòn Gai
biến phiên tòa thành nơi kết tội kẻ thù, tuyên truyền cho lý tưởng cộng sản cao đẹp.
Các đồng chí Ngô Kim Tài, Nguyễn Huy Sán hoạt động cách mạng ở Hồng Gai từ
25



×