Tải bản đầy đủ (.doc) (476 trang)

Lich su dang bo tinh bac ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 476 trang )

CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Ninh
BAN CHỈ ĐẠO

NGUYỄN
NGỌ

CÔNG Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
Trưởng ban

NGUYỄN SỸ

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ
Phó Trưởng ban

NGÔ ĐÌNH LOAN Nguyên Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
Uỷ viên
NGÔ VĂN LUẬT

Nguyên Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
Uỷ viên

PHẠM
THIỆU

KHẮC Nguyên Trưởng Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Phó Trưởng
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Bắc
Uỷ viên

NGUYỄN
NHƯỜNG


NGUYỄN
CHIẾN

TIẾN Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
Uỷ viên Thường trực
NHÂN Uỷ viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Thường trực Uỷ ban
nhân dân tỉnh
Uỷ viên

NGUYỄN
QUẤT

HỮU Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ

LÊ ĐĂNG DÂN

Uỷ viên
Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
Uỷ viên


BAN BIÊN SOẠN
NGUYỄN SỸ

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ
Trưởng ban

NGUYỄN
NHƯỜNG


TIẾN Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
Phó Trưởng ban

LÊ ĐĂNG DÂN

Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
Uỷ viên

NGUYỄN
THỊNH
NGUYỄN
LÂM

ĐỨC Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ
Uỷ viên
ĐĂNG Trưởng phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ

PHAN ĐÌNH THI

Uỷ viên
Chánh Văn phòng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
Uỷ viên

LÊ THỊ AN

Phó Trưởng phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
Uỷ viên


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng
- Quảng Ninh; phía bắc và đông bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang, phía đông nam
và nam tiếp giáp với tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, phía tây và tây bắc tiếp giáp
với thủ đô Hà Nội.
Là vùng đất giàu truyền thống văn hiến, yêu nước và cách mạng, ngay từ năm 1926
những thanh niên, học sinh và trí thức yêu nước của Bắc Ninh với tố chất thông
minh đã sớm tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào địa phương, tiêu biểu
như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt… và đã trở thành những lãnh
tụ xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Trong những năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ luôn nắm vững quan điểm cách mạng tiến
công, không ngừng xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị
vững mạnh, củng cố khối liên minh công, nông, binh vững chắc, hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao.
Đặc biệt, sau gần 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân
dân Bắc Ninh đã quán triệt và triển khai nghiêm túc, vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của địa phương, kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ cấu đầu tư
được điều chỉnh, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phát triển theo hướng sản xuất
hàng hoá. Dấu mốc quan trọng được ghi nhận là từ khi tỉnh được tái lập (năm
1997), Bắc Ninh đã vươn lên mạnh mẽ: kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, là tỉnh
có tốc độ tăng trưởng cao thứ hai trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; đời sống,
vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; văn hoá, y tế tiếp tục phát
triển và là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về giáo dục - đào tạo; thế trận
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững; quan hệ kinh tế đối ngoại
được mở rộng và phát triển; công tác xây dựng Đảng được thực hiện thường xuyên,
hệ thống chính trị được củng cố, hoàn thiện… Những thành tựu và kinh nghiệm
tích luỹ trong hơn 80 năm qua cùng với truyền thống đoàn kết, sáng tạo đã trở
thành hành trang quý báu để Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Ninh vững bước trên
con đường đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương, đất

nước.
Để lưu lại những trang sử vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh trong suốt
chặng đường hơn 80 năm qua; đồng thời góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền
thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tỉnh Bắc Ninh, Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia tổ chức biên
soạn, xuất bản cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-2008).


Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của 3 tập sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh (1926-2000), nội dung cuốn sách được trình bày một cách khái quát,
nhưng có hệ thống về chặng đường hơn 80 năm đầy vinh quang và gian khổ của
Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện, sâu sắc và triệt để do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Chắc chắn cuốn sách sẽ là nguồn tư liệu quý để tuyên truyền, giáo dục truyền thống
yêu quê hương, đất nước và cổ vũ tinh thần cách mạng cho các thế hệ người Việt
Nam nói chung, người Bắc Ninh nói riêng, nhằm tiếp tục xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Mặc dù đã có nhiều cố
gắng trong quá trình sưu tầm và biên soạn, song cuốn sách khó tránh khỏi còn thiếu
sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau được
hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 8 năm 2010
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Lời giới thiệu
Phần mở đầu

VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG
I. ĐỊA GIỚI BẮC NINH QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Bắc
Giang, phía đông nam giáp tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, phía tây và tây bắc giáp
thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh là vùng đất ngàn năm văn hiến; có gần 700 người đỗ
trạng, nghè, cống; có Cổ Loa, Luy Lâu, Long Biên đã từng là thủ đô của nước Việt
Nam; thời Bắc thuộc có nền kinh tế và văn hóa phát triển, là một địa bàn quân sự
trọng yếu của đất nước. Suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân địa
phương từ đời này đến đời khác đã đổ nhiều xương máu đánh đuổi kẻ thù xâm lược
để giữ vững chủ quyền độc lập của Tổ quốc, quê hương; lao động tích cực và sáng
tạo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng cuộc sống ngày càng phồn thịnh và
hạnh phúc.
Địa giới tỉnh Bắc Ninh qua các thời kỳ lịch sử như sau:
Thời Hùng Vương - An Dương Vương, đây là đất bộ Vũ Ninh trong nhà nước Văn
Lang - Âu Lạc. Dưới thời Lý, địa phương có tên là Lộ Bắc Giang. Đến thời Hồ lại
tách ra thành Lộ Bắc Giang và Lộ Lạng Giang.
Sang thời Lê: Sau một thời gian mang tên là Bắc Đạo, đến năm 1469, dưới triều Lê
Thánh Tông, đổi thành trấn Kinh Bắc. Trên 4 thế kỷ, trấn Kinh Bắc ổn định số
lượng 20 huyện nằm trong 4 phủ 1).
Dưới triều Nguyễn: Năm 1823, trấn Kinh Bắc đổi thành trấn Bắc Ninh. Năm 1831,
trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Thời kỳ này, tỉnh Bắc Ninh có 21 huyện 2),
diện tích khoảng 6.000 km2, với số dân khoảng 70 vạn người.
Thời thuộc Pháp: Tháng 10-1895, thực dân Pháp chia Bắc Ninh thành 2 tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang, lấy sông Cầu làm địa giới. Trong những năm cuối thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiếp tục thay đổi địa giới để cuối cùng tỉnh Bắc
Ninh còn 10 phủ, huyện là: phủ Từ Sơn, phủ Thuận Thành, phủ Gia Lâm và các
huyện Văn Giang, Gia Bình, Lang Tài, Quế Dương, Võ Giàng, Tiên Du, Yên
Phong.
Ngày 19-10-1938, chính quyền thuộc địa Pháp ở nước ta quyết định nâng cấp thị xã
Bắc Ninh lên thành phố loại III.



Thời kỳ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tỉnh Bắc Ninh đặt dưới sự quản lý
của Ủy ban hành chính Bắc Bộ, rồi Ủy ban hành chính Liên khu I, Liên khu Việt
Bắc. Để thuận lợi cho việc chỉ đạo, quản lý, Quốc hội, Chính phủ đã quyết định
điều chỉnh địa giới các huyện, xã của tỉnh Bắc Ninh như sau: Tháng 8-1950, huyện
Gia Lương ra đời trên cơ sở hợp nhất Gia Bình và Lang Tài; tháng 4-1961, huyện
Gia Lâm cùng một số xã của các huyện Thuận Thành, Tiên Du, Từ Sơn thuộc tỉnh
Bắc Ninh được chuyển giao về Hà Nội. Tháng 10-1962; huyện Quế Võ ra đời trên
cơ sở hợp nhất Quế Dương và Võ Giàng; tháng 3-1963, huyện Tiên Sơn ra đời, sau
khi Tiên Du, Từ Sơn đã chuyển một số xã sang Gia Lâm và Đông Anh; xã Đông
Thọ, xã Văn Môn chuyển sang Yên Phong, nhận của Yên Phong hai xã Tương
Giang và Phú Lâm và từ Quế Võ hai xã Khắc Niệm và Võ Cường.
Ngày 27-10-1962, Quốc hội khóa II ra Nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc, với 14 huyện, 2 thị xã. Ngày 01-4-1963, đơn vị hành
chính mới chính thức đi vào làm việc.
Sau 1/3 thế kỷ hợp nhất, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, ngày 6-11-1996 đã ra
Quyết định phê chuẩn việc tái lập hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Ngày 1-1-1997,
tỉnh Bắc Ninh chính thức hoạt động theo đơn vị hành chính mới. Thị xã Bắc Ninh
trở thành thị xã tỉnh lỵ. Tỉnh Bắc Ninh có diện tích tự nhiên gần 822,7 km 2 với 1 thị
xã, 5 huyện, có 123 xã, phường, thị trấn; dân số 925.997 người, là tỉnh có mật độ
dân số cao (1.163 người/km2).
Sau khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập, để thuận lợi cho việc chỉ đạo, Quốc hội, Chính
phủ đã quyết định điều chỉnh địa giới các huyện, xã của tỉnh Bắc Ninh như sau: Tại
Nghị định số 68/1999/NĐ-CP ngày 9-8-1999, Chính phủ quyết định chia tách
huyện Gia Lương thành hai huyện Lương Tài và Gia Bình; tách huyện Tiên Sơn
thành huyện Từ Sơn và Tiên Du. Tháng 4- 2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Nghị định số 37/2002/NĐ-CP thành lập đơn vị hành chính phường Suối Hoa, thị xã
Bắc Ninh và thị trấn Gia Bình, huyện Gia Bình. Tháng 1-2006, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Nghị định số 15/2006/NĐ-CP thành lập thành phố Bắc Ninh. Ngày
24-9-2008, thị xã Từ Sơn được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của

huyện Từ Sơn và thành lập một số phường thuộc thị xã Từ Sơn.
Thời gian và sự thay đổi địa giới hành chính tuy đã làm cho diện mạo của tỉnh Bắc
Ninh có những thay đổi, nhưng mảnh đất ngàn năm văn hiến, địa linh nhân kiệt,
giàu truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước và cách mạng vẫn trường tồn và
phát triển.
II. CHINH PHỤC THIÊN NHIÊN, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI


Vùng đất Bắc Ninh xa xưa gồm các khối đồi gò bên cạnh các ô ruộng trũng, đầm
lầy và rừng rậm. Từ thời Lý đến thời Hồ (thế kỷ XI đến thế kỷ XV), rừng Báng
(Đình Bảng) vẫn đầy ắp lâm lộc, hoa nghị và gỗ quý, đặc biệt là loại củ mài nhỏ có
công hiệu chữa bệnh hơn cả sâm Trung Quốc 3). Vào thời nhà Hồ, rừng ở đây vẫn
khai thác được hàng vạn cây ô mễ (tức gỗ mun) dùng vào việc rào sông, ngăn cửa
biển đề phòng giặc Minh xâm lược. Ở Cổ Loa, rừng vẫn bạt ngàn, trong rừng cũng
có loại củ mài là thứ đầu vị trong các thứ cống hiến, nó thú vị hơn cả củ mài ở rừng
Báng 4). Ngày nay, dấu tích của rừng còn để lại trong các tên gọi như huyện Đông
Ngàn (huyện rừng), Núi Lim (núi của rừng gỗ lim), rừng Sặt (Trang Liệt), rừng Cả
(Tam Tảo), rừng Mành (Giới Tế), cùng với rừng (trám, sấu, thông) trải kín núi đồi
vùng Đông Sơn, Phật Tích.
Do sự biến cải của thiên nhiên và bằng sức lao động sáng tạo của biết bao thế hệ
nhân dân Bắc Ninh, các thảm thực vật đã được vùi lấp, các ô trũng và các vùng
sình lầy đã được tạo dựng thành đồng ruộng, vườn bãi, ao hồ để trồng lúa, trồng
ngô, cây ăn quả và nuôi thả tôm, cá. Sông Cầu, bắt nguồn từ Bắc Kạn, chảy qua địa
phận Bắc Ninh từ ngã ba Sà (Yên Phong) đến Phả Lại có độ nước sâu từ 2m-6m
tạo ra một đường thủy rất thuận lợi. Sông Cầu còn bồi đắp phù sa tạo thành hàng
trăm hécta soi bãi màu mỡ, tạo điều kiện cho nhân dân gieo trồng rau màu và
những nương dâu xanh tốt. Sông Đuống vốn là dòng Thiên Đức được đào từ thời
Lý để nối sông Hồng với sông Thái Bình. Sông rộng và sâu, nước chảy xiết, lượng
phù sa trong nước tới 1,028-1,4 kg/m3. Đất ngoài đê sông Đuống bồi tụ hàng năm
lên tới hàng nghìn hécta thuộc các huyện Tiên Sơn, Thuận Thành, Gia Lương, Quế

Võ. Đây là loại đất nguyên dạng phù sa sông Hồng, tỷ lệ mùn cao, dinh dưỡng khá,
phù hợp với nhiều loại cây trồng cho năng suất cao. Nước sông Đuống đậm đặc
phù sa nên hệ thống thủy lợi, thủy nông lấy nước tưới cho lúa, màu rất tốt. Sông
Thái Bình hợp lưu ba dòng Đức: Thiên Đức (Đuống), Nguyệt Đức (Cầu), Nhật Đức
(Thương), bắt đầu từ Phả Lại đến cửa Vạn Úc, dài 93 km, trong đó có 10 km hữu
ngạn chảy qua Gia Lương, lòng sông rộng 300m-400m, độ sâu trung bình mùa cạn
cũng đến 8-9m, rất thuận lợi cho giao thông đường thủy.
Hệ thống sông nhỏ, sông nội đồng phân bố khá dày đặc. Sông Ngũ Huyện Khê sông Thiếp, từ Đông Anh đổ xuống, chảy vào sông Cầu tưới tiêu cho một vùng
đồng ruộng rộng lớn thuộc các huyện Tiên Sơn, Yên Phong, Quế Võ. Sông Tiêu
Tương khởi đầu từ Phù Lưu (Tiên Sơn), sông Ngụ (Gia Lương), sông Dâu (Thuận
Thành) đều rất hữu ích cho nền nông nghiệp lúa nước.
Toàn bộ địa phận Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ trung bình
hàng năm là 23,50C, lượng mưa đạt 1.100 mm-1.200 mm/năm, có năm lên 1.800
mm/năm. Độ ẩm trung bình là 82,5%. Khí hậu Bắc Ninh thuận lợi cho việc sinh
trưởng của lúa, màu, cây công nghiệp, cây ăn quả và luân canh tăng vụ.


Bắc Ninh thuộc vùng đồng bằng, được hình thành trên trầm tích sa bồi, với loại đất
chủ yếu là phù sa. Đồng đất và khí hậu tạo cho nhân dân trong tỉnh sản xuất ra loại
thóc gạo ngon nhất, xứng đáng với lời ngợi ca: Đạm thực diệc giai Kinh Bắc (cơm
Kinh Bắc ăn nhạt cũng ngon).
Từ xa xưa, nhân dân Bắc Ninh đã sớm chú ý đến sản xuất vật phẩm tiêu dùng, tiểu
thủ công nghiệp. Hệ thống làng nghề xuất hiện sớm như gò đúc đồng (Đề Cầu, Đại
Bái, Quảng Bố, Trang Liệt), đồ hàng sắt (Đa Hội, Đông Xuất, Ân Phú, Việt Yên,
Thị Cầu, Nga Hoàng), đồ gốm (Bát Tràng, Phù Lãng), dệt vải lụa (Nội Duệ, Lũng
Giang, Duệ Đông, Tiêu, Hồi Quan, Xuân Ổ, Tam Tảo, Tam Sơn, Yên Phụ, Phù
Ninh, Thống Thiện, Thượng Mão, Lãng Ngâm, Bà Dương, Tuyên Bá, Lĩnh Mai,
Ngọc Trì), nung gạch ngói (Xuân Ổ, Vĩnh Kiều, Tấn Bào, Tiêu Sơn, Lũng Giang),
chạm đồ gỗ (Hương Mạc, Kim Thiều, Phù Khê), đồ sơn mài (Đình Bảng, Nội Trì,
Lam Cầu, Phù Dực, Định Cương), cày bừa (Đông Xuất), giấy dó (Xuân Ổ, Phong

Khê), tranh (Đông Hồ), thợ mộc, thợ xẻ (Thiết Úng, Kim Bảng, Phù Khê, Đồng
Kỵ, Đại Vi, Đỗ Xá, Tư Thế, Chi Nê...), thợ ngõa, thợ nề (Vĩnh Kiều, Tiêu Sơn, Lễ
Xuyên, Nội Duệ, Chi Nê, Ngăm Điền, Đặng Xá...).
Hoạt động buôn bán ở Bắc Ninh cũng khá sôi nổi, ở các chợ kẻ bán người mua tấp
nập, nhộn nhịp đông vui. Chợ Bát Tràng ở huyện Gia Lâm, bờ bắc sông Nhị, nhiều
thuyền buôn tụ tập, mỗi ngày họp hai buổi sáng và chiều. Chợ Giầu, huyện Đông
Ngàn, là chợ sầm uất vào loại nhất tỉnh. Chợ Lim, huyện Tiên Du, bán nhiều tơ
sống. Chợ Nội Trà, huyện Yên Phong, quán xá đông đúc, hàng hóa nhiều. Do
thương mại phát triển nên đã xuất hiện các làng buôn như Phù Lưu, Đình Bảng (Từ
Sơn), Xuân Cầu, Đa Ngưu (Văn Giang) có tới 70-80% số người trong làng làm
nghề buôn bán.
Dù làm ruộng, làm nghề thủ công hay buôn bán, từ thượng cổ cho đến ngày nay,
nhân dân Bắc Ninh vẫn sống cùng nhau với mô hình cộng đồng làng xóm. Mái
đình, giếng nước, cây đa đã gắn bó dân làng với nhau hết sức keo sơn, tràn đầy tình
nghĩa.
Ở Bắc Ninh, đình không chỉ là nơi thờ thành hoàng của làng, là nơi tế tự và hội
họp; mà đình còn là nơi mở hội làng. Mùa xuân; các làng, xã của Bắc Ninh đều vào
đám và mở hội. Mỗi hội có những nét riêng, nhưng nhiều người ca ngợi về hội Lim
- hội chùa và hội Quan họ với làn điệu dân ca trữ tình mượt mà độc đáo; hội Phù
Đổng tượng trưng cho hội chiến trận, cho sức mạnh phi thường của ông Gióng; hội
Đình Bảng ca ngợi 8 đời vua Lý có công mở ra thời kỳ văn minh Đại Việt; hội
Dâu, hội chùa. Các hội chùa đã tạo ra không khí tươi vui, lành mạnh trong vùng.
Về nghệ thuật, dân ca Quan họ Bắc Ninh với hàng trăm làn điệu trữ tình được
nhiều người mê say, ngưỡng mộ.


Theo nhiều ngả khác nhau, Phật giáo đã vào Bắc Ninh từ đầu Công nguyên. Dòng
Nam Phương và Quan Bích là cơ sở chủ yếu của đạo Phật ở Việt Nam. Đạo Thiên
chúa xuất hiện ở Bắc Ninh vào đầu thế kỷ XVIII. Thôn Tử Nê thuộc xã Phá Lãng
(Lang Tài) đón nhận sớm nhất, rồi từ đó truyền bá sang các thôn Lai Tê, Nghĩa La,

Hương La. Sau đó các nhà truyền giáo tiếp tục dựng thêm cơ sở ở Phượng Mao,
Phong Cốc (Quế Dương), Xuân Hòa, Quả Cảm (Võ Giàng), Ngô Khê, Đông Tảo
(Yên Phong), Dũng Vi (Tiên Du), Cẩm Giang (Từ Sơn), Ngăm Điền (Gia Bình).
Nho giáo và Hán học vào Bắc Ninh từ đầu Công nguyên 5), để từ đó lan tỏa đi khắp
đất nước. Tuy nhiên đến thời nhà Lý, Nho giáo và Hán học mới được phát triển.
Suốt chặng đường 826 năm (1075-1901), tham gia thi cử tại nơi cửa Khổng, nho sĩ
Bắc Ninh đã giành nhiều vị trí hàng đầu cả về số lượng và học vị.
Xứ Kinh Bắc có gần 700 người đỗ đại khoa. Có trạng nguyên khai khoa Lê Văn
Thịnh, quê xã Đông Cứu, huyện Gia Bình. Khoa Mậu Thân (1508), nho sĩ Bắc
Ninh chiếm giải Tam khôi: trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh, người xã Hương
Mạc, huyện Đông Ngàn; bảng nhãn Hứa Tam Tỉnh, người xã Như Nguyệt, huyện
Yên Phong; thám hoa Nguyễn Hữu Nghiêm, người xã Phúc Khê, huyện Đông
Ngàn. Ở xã Hoài Bão, huyện Tiên Du có Nguyễn Đăng Hạo thi hương, thi hội, thi
đình, thi đông các đều đỗ đầu. Sau đó Nguyễn Đăng Hạo đi sứ, nổi tiếng ở nước
Tàu, được vua nhà Thanh phong tặng là khôi nguyên. Em trai là Nguyễn Đăng
Minh đỗ cùng bảng và cháu gọi bằng chú là Nguyễn Đăng Đạo đỗ trạng nguyên.
Gia đình Nguyễn Đăng là một vọng tộc ở huyện Tiên Du - trạng nguyên Nguyễn
Đăng Đạo 6) đi sứ, thông minh, tài giỏi kiệt xuất được phong lưỡng quốc trạng
nguyên, Khi Nguyễn Đăng Đạo mất được vua ban cờ và câu đối:
Tiến sĩ thượng thư thiên hạ hữu
Trạng nguyên tể tướng thế gian vô.
Dịch:
Thiên hạ có tiến sĩ làm chức thượng thư
Thế gian hiếm trạng nguyên lại là tể tướng.
Xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn có bảng nhãn Ngô Đạm với chức hàn lâm thi thư,
dự hội Tao Đàn được phong tước Thái Bảo. Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu là con.
Tiến sĩ Ngô Diễn và Ngô Dịch là cháu ông. Cha truyền con nối hiển đạt, là một
dòng họ danh vọng ở Đông Ngàn.
Trong biển học mênh mông suốt mấy trăm năm đó, làng Kim Đôi huyện Võ Giàng
(nay là huyện Quế Võ) nổi bật hơn cả bởi sự đồ sộ về số lượng đại khoa.



Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: “Về những họ nối đời
hiển đạt như các họ ở làng Kim Đôi, Vịnh Kiều, Vân Điềm, Vọng Nguyệt đều hơn
cả một xứ… Làng Kim Đôi ở huyện Võ Giàng có họ Nguyễn từ Nhân Thiếp trở
xuống ba đời thi đỗ 13 người. Đầu thời Lê, năm anh em đồng thời cùng đỗ cả, con
cháu nối nhau đỗ cao, làm quan to trong triều”.
Đại Nam nhất thống chí ghi đậm nét hơn: “Năm anh em cùng làm quan một triều,
đời bấy giờ ví anh em nhà này như Ngũ Quế ở Yên Sơn. Thánh Tông từng bảo thị
thần rằng: Kim Đôi gia thế, chu tử mãn triều (gia thế làng Kim Đôi áo đỏ áo tía đầy
triều). Như thế là có ý khen ngợi nhiều lắm”.
Châu Cổ Pháp xưa, nay là làng Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh là nơi
phát tích vương triều Lý, một vương triều có 9 đời vua (1009-1225) với 216 năm trị
vì đã xây dựng nên nền văn minh Đại Việt.
Với tư duy khoa học, nhìn xa trông rộng, vua Lý Thái Tổ thấy thành Hoa Lư không
đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: “...
Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao
Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc
đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế
đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi
tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu
của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân
địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”. Bầy tôi đều nói: “Bệ hạ vì thiên
hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng
được đông đúc giàu có, điều lợi như thế ai dám không theo”. “Vua rất mừng” 7).
Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ
ở Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở nơi thuyền ngự, nhân
đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên Đức,
thành Hoa Lư gọi là phủ Trường Yên, sông Bắc Giang gọi là sông Thiên Đức 8).
Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở Thiên Đức, tất cả ở 8

sở, đều dựng bia ghi công.
Thăng Long rồng cuộn hổ ngồi đã tạo dựng nên văn minh Đại Việt và trước hết là
nền văn minh lúa nước. Vua Lý Thái Tông đích thân đi cày ruộng “Trẫm không tự
cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì để xướng xuất thiên hạ?” 9). “... nhân dân thiếu ăn
thì xuống chiếu khuyến nông” 10). Lại chiếu rằng: “Trâu là một con vật quan trọng
trong việc cày cấy, lợi cho người không ít. Từ nay về sau... không được giết trâu ăn
thịt, ai làm trái thì trị tội theo pháp luật” 11) và hàng năm đến vụ lúa chín, vua Lý
Thánh Tông, Lý Nhân Tông đều ngự giá kinh lý xem nhân dân gặt hái. Công việc
tu bổ đê điều chống hạn lụt cũng được các triều đại hết sức chú trọng. Nghề trồng


dâu nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa cùng nhiều nghề thủ công mỹ nghệ phát triển mạnh
mẽ.
Mùa thu, tháng 8 năm Canh Tuất (1070) làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu
Công và Tứ Phối 12), vẽ tượng Thất thập nhị hiền 13), bốn mùa cúng tế. Hoàng thái
tử đến học ở đây.
Mùa xuân, tháng giêng năm Tân Hợi (1071), vua viết bia chữ “Phật” dài 1 trượng 6
thước đặt ở chùa Tiên Du 14).
Năm Ất Mão (1075), vua Lý Nhân Tông “xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và
thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học" 15). Hán
học được mở rộng và phát triển, đào tạo cho đất nước hàng trăm ông trạng, ông
nghè, ông cống, một đội ngũ trí thức hiểu rộng tài cao.
Tháng 9 năm Nhâm Ngọ (1042), vua Lý Thái Tông xuống chiếu về việc phú thuế
của trăm họ “... lấy quá thì xử theo tội ăn trộm; trăm họ có người tố cáo được tha
phú dịch cho cả nhà trong 3 năm; người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho
bằng hiện vật thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng nhau
thu quá lệ, tuy xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp (quản giáp là
quan châu giữ việc kinh), chủ đô và người thu thuế cũng phải tội như nhau” 16).
“Ban sách hình thư”, “... làm sách hình luật của một triều đại, để cho người xem dễ
hiểu”17), “... cho đặt cái hòm đồng ở giữa sân, để ai có nói việc gì thì bỏ thư vào

trong ấy”18).
Như vậy, chế độ phong kiến tập quyền nhà Lý đã chú trọng xây dựng pháp luật để
cai trị, thiết chế quản lý nhà nước của vương triều Lý đã đưa xã hội vào kỷ cương
khuôn phép, ổn định và phát triển.
Một điểm nổi bật của vương triều Lý là Hoàng thái hậu Ỷ Lan, một nhà nhiếp
chính tài giỏi mà sự nghiệp của bà sống mãi với non sông đất nước.
Tục truyền rằng, vua Lý Thánh Tông đi khắp các chùa quán, “xa giá vua đi đến
đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu
cứ đứng nép trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu,
phong làm Ỷ Lan phu nhân”19).
Bính Ngọ (1066), “Mùa xuân, tháng giêng, ngày 25 giờ Hợi, Ỷ Lan sinh Hoàng tử
Càn Đức. Ngày hôm sau, lập làm Hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá, phong mẹ
Hoàng thái tử là Ỷ Lan phu nhân làm thần phi” 20). Vua đi đánh giặc Chiêm Thành,
giao cho Ỷ Lan phu nhân quyền nhiếp chính, khi trở về “đến châu Cư Liên, nghe
tin Nguyên Phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa hoà hợp, trong cõi vững vàng,
tôn sùng Phật giáo, dân gọi bà là Quan Âm, vua nói: Nguyên phi là đàn bà còn làm


được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao! Bèn quay lại đánh nữa,
thắng được” 21). Ỷ Lan được nhân dân gọi là Quan Âm có nghĩa là sự đức độ, lòng
nhân ái, bác ái của Ỷ Lan như Phật bà Quan Âm bồ tát.
Ngày 25 tháng giêng năm Nhâm Tý (1072), Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi hoàng
đế - tức Lý Nhân Tông, khi ấy mới 7 tuổi. Ỷ Lan trước đây đã giúp chồng nhiếp
chính nay lại giúp con.
Khi giặc Tống chuẩn bị tiến công Đại Việt, vua biết tin sai Lý Thường Kiệt chủ
động đánh thành Ung Châu của quân nhà Tống. Giặc Chiêm Thành ở phía nam
cũng bị Lý Thường Kiệt dẹp tan, giữ yên bờ cõi.
Đến tháng 3 năm Bính Thìn (1076), nhà Tống sai tướng Quách Quỳ và Triệu Tiết
mang quân xâm lược nước ta. Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã giúp vua nhiếp chính sai
Lý Đạo Thành, quan phụ chính, lo việc chính sự trong triều đình. Cử Lý Thường

Kiệt thống lĩnh đại quân củng cố chiến tuyến sông Cầu, lũy cao, hào sâu và đóng
quân ở Yên Phụ, Đại Lâm (Yên Phong), lập căn cứ thủy quân ở Vạn Xuân (Quế
Dương). Quân sĩ nhà Tống đã bị tướng quân Lý Thường Kiệt cùng quân và dân Đại
Việt đánh cho tan tành, buộc phải giảng hòa rút chạy về nước. Cuộc xâm lược lần
thứ hai của quân Tống hoàn toàn bị thất bại.
“Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch:
Sông núi nước Nam, Nam đế ở
Rõ ràng phân định tại sách trời
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Cứ thử làm xem, chuốc bại nhơ” 22).
Bài thơ trên là bản anh hùng ca bất hủ, được coi là lời tuyên ngôn độc lập của nước
Đại Việt.


Bắc Ninh đã sản sinh và cung cấp cho đất nước một đội ngũ trí thức tài đức, hiểu
rộng biết nhiều, có nhãn quan tinh tế. Họ là nhà ngoại giao, nhà thơ, nhà quản lý
xuất sắc của đất nước.
Trong dòng văn học thành văn bằng chữ Hán - còn gọi là văn học Hán học, dòng
thơ thiền với tên tuổi của Nguyễn Học, Thiền Lão, Lâm Khu, Tô Minh Trí (Yên
Phong), Vạn Hạnh, Đàm Cứu Chỉ, Phạm Thường Chiếu, Vương Minh Thiềm, Lý
Ngọc Kiều (Từ Sơn), đã đem vào thi ca sự khoáng đạt, những tâm niệm về nhân
sinh với những nét đặc sắc Việt Nam.
Đội ngũ văn nhân thi sĩ Bắc Ninh vào thời Lê đã để lại nhiều ấn phẩm có giá trị: Vũ
Mộng Nguyên với Vị khê thi tập; Nguyễn Thiên Tích có Tiên Sơn thi tập; Đào Cừ,
Đàm Văn Lễ cùng biên soạn Thiên Nam dư học tập; Thái Thuận có Lã Đường thi

tập; Đàm Thận Huy có Mạc trai thi tập; Nguyễn Giản Thanh có Thượng Côn châu
ngọc tập; Nguyễn Đăng Đạo có Phụng sứ tập; Nguyễn Công Hãng có Trịnh xà thi
tập; Nguyễn Gia Thiều có Cung oán ngâm khúc; Đoàn Thị Điểm có Chinh phụ
ngâm; Lê Ngọc Hân có Ai tư vãn. Phơi bụng viết kinh là quan thám hoa người Hoài
Bão - Nguyễn Đăng Hạo, tài hoa độc đáo lưu danh muôn thủa. Người nhà Thanh
(Trung Hoa) bấy giờ kính phục than rằng: “địa linh nhân kiệt đời nào cũng có,
nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chỉ có một Đăng Hạo” 23).
Mạch văn học ấy dưới thời Nguyễn cũng phát triển với những tên tuổi như Hoàng
Văn Hòe, Cao Bá Quát, Nguyễn Cao, Nguyễn Tư Giản. Đến nay, Bắc Ninh lại rất
đỗi tự hào là quê hương của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng như Ngô Tất
Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Trần Đức Thảo, Hoàng
Tích Chu, Nam Xương, Thế Lữ, Nguyễn Ngọc Tuyết, Hoàng Cầm, Hồ Bắc, Huy
Du, Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Phan Hách và bao tài năng trẻ khác. Những tác
phẩm văn học và nghệ thuật cùng với những tên tuổi của các tác giả ấy là niềm tự
hào và sẽ sống mãi cùng với quê hương, đất nước.
Người Bắc Ninh thanh lịch, hào hoa, thông minh, sáng tạo. Các thế hệ người Bắc
Ninh có tính cộng đồng cao, luôn đoàn kết thủy chung bên nhau, vượt khó đi lên
xây dựng quê hương, đấu tranh dũng cảm, kiên cường bảo vệ quê hương, đất nước.
III. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG
Trang sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Bắc Ninh có từ thời Hùng
Vương thứ 6.
Trước họa xâm lăng do giặc Ân gây nên, nhân dân bộ Vũ Ninh đã có chàng trai
làng Gióng vụt lớn, đứng lên cưỡi ngựa sắt, nhổ tre đằng ngà đánh đuổi kẻ thù khỏi
bờ cõi. Núi Vệ Linh đã chứng kiến lần cuối cùng Phù Đổng Thiên Vương trở về cõi
trời sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tất cả vẻ đẹp, hình tượng ấy đã làm tỏa sáng


truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân Bắc Ninh như lời Cao Bá Quát
cảm khái:
“Đánh giặc còn hiềm ba tuổi muộn

Lên mây chín tầng hận chưa cao”.
Cuối thời Hùng Vương, nhà nước Âu Lạc ra đời với Cổ Loa thành kiên cố và nỏ
liễu phòng chống giặc ngoại xâm. Tác giả của các công trình quân sự này là Cao
Lỗ, quê ở Tiểu Than (Vũ Ninh). Nhờ đó, vào năm 218 trước Công nguyên, quân
đội Âu Lạc đã giành được thắng lợi quan trọng. Tướng nhà Tần là Đồ Thư bị giết.
Mấy chục vạn quân Tần phải rút lui.
Đến tháng 11 năm 210 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng chết ở Sa Khâu, lợi
dụng cơ hội ấy Nhâm Ngao và Triệu Đà đem quân vào Âu Lạc nhưng bị đánh bại,
bèn tìm cách đánh cắp bí mật quân sự của Cao Lỗ chiếm cao điểm Tiên Du tấn
công Cổ Loa.
Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà bất ngờ tấn công, chiếm được Cổ Loa. Đất
nước Âu Lạc rơi vào tay kẻ thù phương Bắc.
Thâu tóm được Âu Lạc hơn 60 năm thì nhà Triệu bị Tây Hán tiêu diệt. Đến đầu
Công nguyên, nhà Đông Hán lên thay, vùng đất Bắc Ninh thuộc quận Giao Chỉ.
Dưới sự cai trị của thái thú Tô Định, cuộc sống nhân dân vô cùng khổ cực.
Không cam chịu kiếp sống nô lệ, mùa xuân năm 40, cuộc khởi nghĩa Mê Linh do
Trưng Trắc, Trưng Nhị lãnh đạo bùng nổ, nhân dân địa phương đã vùng đứng dậy
hưởng ứng với những tên tuổi như Nguyệt Thai, Nguyệt Độ, Ả Lã - Rộng Nhị, Ả
Tắc - Ả Dị, Diệu Tiên - Pháp Hải, Doãn Công- Đào Nương và hàng chục danh
tướng khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc khởi nghĩa Mê Linh đã giành thắng
lợi. Luy Lâu, Long Biên và 63 thành trì khác được giải phóng. Bản anh hùng ca bất
diệt của một thời vô cùng oanh liệt, những tấm gương anh dũng vô song của phụ nữ
Bắc Ninh ngàn năm còn ngời sáng.
Liền trong mấy thế kỷ, nhân dân địa phương phải sống dưới ách thống trị của nhà
Ngô, nhà Tần, nhà Tề, nhà Đường. Năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, đã nhận
được sự hưởng ứng kịp thời của Tuy Ông (Lập Ái, Gia Bình); Nguyễn Thi, Nguyễn
Quảng, Nguyễn Vân (Đông Côi, Thuận Thành); Trương Hống, Trương Hát (Vân
Mẫu, Quế Dương) cùng nhiều hào trưởng khác như Tinh Thiều, Triệu Túc, Phạm
Tu, Lý Phục Man... Sau khi chiếm được lỵ sở Giao Châu, ông lên ngôi lấy hiệu là
Lý Nam Đế, lập nước Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên 24).



Năm 545, quân nhà Lương từ Trung Quốc kéo sang, chiếm lại được Long Biên.
Cuối năm 548, Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục con của Triệu Túc lên thay rút
về đầm Dạ Trạch hoạt động suốt ba năm. Lợi dụng tướng nhà Lương là Trần Bá
Tiên đem quân về Trung Quốc cướp ngôi, Triệu Quang Phục đã tổ chức phản công,
giết chết Dương Sàn, giành lại Long Biên rồi lại lên ngôi lấy tên là Triệu Việt
Vương.
Hơn 20 năm sau, Lý Phật Tử đoạt quyền Trương Hống, Trương Hát và nhiều tướng
lĩnh khác không theo đã tự vẫn. Năm 602, Lý Phật Tử - tức hậu Lý Nam Đế, hèn
yếu, đẩy nước ta vào vòng Bắc thuộc như những thế kỷ trước.
Năm 980, đất nước vừa giành được quyền độc lập, nhà Tống lại lăm le thôn tính.
Nhận biết vị trí quan trọng của vùng Thiên Đức, Lê Đại Hành đã đích thân chỉ đạo
việc xây thành Bình Lỗ trên sông Cầu kéo từ Yên Phong đến Võ Giàng.
Tuy quân Tống bị chặn trước sông Cầu, nhưng một vài cánh quân của chúng đã đến
được Hoa Bộ (Hoa Lâm), hợp quân ở Đa La (Đa Hội, Đa Vạn) vào tháng 4-981.
Tướng giặc Hầu Nhân Bảo bị giết ở Bình Lỗ. Hai cánh quân của Tôn Toàn Hưng,
Lưu Trường bị đánh bật khỏi Hoa Bộ, chết hơn một nửa, xác chất đầy đồng, phải
theo đường sông chạy ra biển. Các tướng Quách Quang Biện, Triệu Phụng Huân bị
bắt sống.
Lê Đại Hành tiếp tục xuôi sông Cầu, sông Thái Bình đuổi giặc. Chàng Dì, một thủ
lĩnh quê ở Dị Sử (Lang Tài) đã đem toàn bộ lực lượng của mình tham gia truy kích,
bất ngờ tập kích vào trại quân của địch, giành nhiều thắng lợi lớn, được triều đình
cử làm thống lĩnh các đạo quân binh 25).
Năm 1073, dưới triều Lý Nhân Tông, một lực lượng thủy quân lớn của địch từ phía
Chiêm Thành đã vượt biển vào sông Thái Bình để tiến sâu vào nội địa Đại Việt.
Chúng đã bị quân và dân Đại Việt đánh lui.
Cuối năm 1075, với chủ trương đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc (Tiêu
phát chế nhân), Lý Thường Kiệt đem hơn 10 vạn quân thủy bộ bất ngờ tập kích vào
các căn cứ quân sự, hậu cần của quân Tống mà trung tâm của nó là thành Ung

Châu.
Mùa xuân năm 1076, tại chiến tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt cùng quân và dân
Đại Việt đã đập tan cuộc xâm lược lần thứ hai của quân nhà Tống.
Cuối thế kỷ XIII, dưới triều Trần, Bắc Ninh lại trở thành hướng chính của cuộc
xâm lược do quân Nguyên tiến hành vào năm 1285 và 1288. Với khí thế của Hội
nghị Bình Than, nhân dân địa phương đã hăng hái tham gia xây dựng phòng tuyến
từ Phả Lại đến Châu Cầu, Lãm Sơn, Nghi Vệ, Phật Tích. Hơn 1.000 chiến thuyền


được điều đến đóng giữ ở Bình Than, Vạn Tải và Vũ Dương. Lý Nương tập hợp
được nhiều dân binh ở xã Xuân Ổ. Châu Nương quê ở Đình Bảng cùng chồng là
Trần Thái Bảo đã lập được nhiều chiến công ở Châu Hoan và gìn giữ kho tàng tại
Thăng Long.
Cuối năm 1327, nửa triệu quân Nguyên lại tràn vào Đại Việt. Nhân dân Đại Than,
Bình Than, Châu Cầu, Thất Gian, Phù Than, Tiểu Than, Văn Than, Cao Trụ, Bà
Dương đã tham gia lấp cửa Đại Than góp phần vào chiến thắng kẻ thù lần thứ ba,
giữ vững nền độc lập của đất nước Đại Việt.
Nhà Trần lâm vào tình cảnh vui chơi hưởng lạc, trễ nải việc nước, nhân cơ hội ấy,
cha con Hồ Quý Ly cướp ngôi. Trước tình hình ấy, đầu năm 1407, nhà Minh phát
động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt, từ đó nhân dân nước ta phải sống trong
cảnh đô hộ của nhà Minh.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh đã thu hút nhiều thanh niên Bắc
Ninh vào hàng ngũ nghĩa quân. Ngô Đễ người Khánh Lâm (Rừng Mành) “có nhiều
chiến công, được Lê Lợi phong công thần thống lãnh đại tướng quân” 26). Nguyễn
Nghi người Dương Sơn, nhờ lập được nhiều chiến công, được phong hùng uy
tướng quân. Thành Điêu Diêu (Gia Lâm) của quân Minh bị hạ vào tháng 2 và tháng
3-1427, quân Minh do Đường Bảo Trinh chỉ huy đóng tại thành Thị Cầu buộc phải
đầu hàng, đều có sự tham gia của nghĩa quân và nhân dân địa phương Bắc Ninh.
Chiến thắng Điêu Diêu, Thị Cầu góp phần quan trọng trong sự nghiệp đánh đổ ách
thống trị của nhà Minh tồn tại 20 năm (1407-1427) ở nước ta.

Năm 1873, thực dân Pháp gây ra sự biến Quý Dậu, xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất.
Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hòe, các đội nghĩa dũng của địa
phương đã sát cánh cùng quân đội của triều đình do Phạm Thận Duật, Trương
Quang Đảng chỉ huy, tiêu diệt chốt đóng quân của địch ở Gia Lâm (ngày 04-121873), giải phóng Siêu Loại (ngày 21-12-1873) bắt sống hàng trăm tên.
Chưa chiếm được Bắc Kỳ, đầu năm 1882, thực dân Pháp lại tiến hành xâm lược lần
thứ hai, Nguyễn Cao một lần nữa lại phối hợp với các đội nghĩa dũng bao vây địch
ở Đồn Thủy, đột nhập Hàng Đậu, tấn công Cửa Đông. Nhân dân hai huyện Tiên
Du, Đông Ngàn đã khẩn trương xây dựng một chiến lũy từ làng Đình Bảng đến
sông Đuống, đề phòng thực dân Pháp đánh chiếm thành Bắc Ninh.
Mùa xuân năm 1884, thành Bắc Ninh bị thất thủ. Nhân dân địa phương sát cánh
cùng đội quân Tam tỉnh nghĩa đoàn do Nguyễn Cao, Dương Khải, Ngô Quang Huy
27)
và Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo đánh giặc. Khi Nguyễn Cao hy sinh và phong
trào Tam tỉnh nghĩa đoàn tan rã, họ lại có mặt trong đội ngũ của Đội Văn 28) gây


cho địch nhiều thiệt hại trên địa bàn các huyện Lang Tài, Gia Bình, Siêu Loại, Tiên
Du.
Đầu thế kỷ XX, phong trào Trung châu ứng nghĩa đạo có cơ sở ở Từ Sơn, Văn
Lâm, Thuận Thành với 300 cây súng sẵn sàng hỗ trợ cùng nghĩa quân Yên Thế
đánh chiếm Hà Nội. Cử nhân Nguyễn Văn Đảng, người Nội Duệ (Tiên Du), đã tổ
chức tại nhà mình với sự có mặt của các chí sĩ Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng
Hiền để hợp nhất hai nhóm Ám xã và Minh xã. Sau đó xây dựng phân hiệu Đông
Kinh Nghĩa Thục ở Phù Ninh (Tiên Du). Nhiều nhân sĩ khác như Ngô Gia Du
(Tam Sơn); Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Duyên (Phù Khê) đã tham gia phong
trào rất tích cực. Đặc biệt là tú tài Hoàng Tích Phụng, quê ở Phù Lưu (Từ Sơn), tuy
đang làm tri huyện nhưng vẫn hòa nhập vào các cuộc vận động công khai và là một
thành viên trong ban Hán học của nhà trường.
Truyền thống yêu nước chống giặc phương Bắc, chống thực dân Pháp xâm lược
của các thế hệ nhân dân Bắc Ninh đã hun đúc và tạo tiền đề cho công cuộc vận

động cách mạng giải phóng dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc tức
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
___________
1.
- Phủ Thuận An gồm có: Gia Lâm, Siêu Loại, Văn Giang, Gia Định, Lang Tài.
- Phủ Từ Sơn gồm có: Tiên Du, Đông Ngàn, Võ Giàng, Quế Dương, Yên Phong.
- Phủ Bắc Hà gồm có: Hiệp Hoà, Yên Việt, Kim Thoa, Yên Phúc.
- Phủ Lạng Giang gồm có: Yên Dũng, Phương Nhỡn, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục
Ngạn, Hữu Lũng.
2. Năm 1867 thành lập thêm huyện Đông Anh, cộng với 20 huyện của trấn Kinh
Bắc thành 21 huyện.
3, 4. Lê Quý Đôn: Thượng kinh phong vật chí.
5. Đền và lăng Sĩ Nhiếp - học tổ Sĩ Vương, hiện còn tại làng Tam Á, huyện Thuận
Thành.
6. Đỗ Trọng Vĩ: Bắc Ninh Dư địa chí, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997, tr.
68.
7. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, t.1, tr.249.
8. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 249 - 250.


9, 10, 11. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.190, 191, 214.
12. Tứ Phối tức là: Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử là bốn học trò của
Khổng Tử được thờ phụ với thầy ở Văn Miếu.
13. Thất thập nhị hiền: 72 học trò giỏi của Khổng Tử.
14. Chùa Tiên Du: ở núi Tiên Du thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, còn có tên
là núi Phật Tích, lại có tên là núi Lạn Kha (do truyền thuyết nói Vương Chất vào
núi đốn củi, chống cán rìu xem hai ông già đánh cờ, tan cuộc nhìn lại thấy cán rìu
đã mục nát).
15. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd.

16, 17, 18. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.289.
19, 20. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.289.
21. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.295.
22. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.238.
23. Đỗ Trọng Vĩ: Bắc Ninh Dư địa chí, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997,
tr.63.
24. Chưa có đủ cứ liệu chính xác thủ đô Long Biên ở đâu. Nhưng nhiều nhà sử học
cho rằng là ở vùng Luy Lâu (Thuận Thành). Hiện ở đình Long Khám vẫn còn bức
đại tự Vạn Xuân đế quốc. Lại có miếu thờ Phụ mẫu thánh tự, khải thánh từ. Đình
Đông Mai thờ Dương Mai công chúa, tức bà Hứa Trịnh Hoà. Hàng chục làng dọc
Ngũ Huyện Khê và sông Cầu thờ Trương Hống, Trương Hát. Đình Lập Ái thờ Tuy
Ông và đình Đông Côi thờ 3 anh em họ Nguyễn.
25. Theo thần tích thôn Đông Hương.
26. Xem Đại Nam nhất thống chí.
27. Nguyễn Cao, sinh năm 1837 tại Cách Bi (Võ Giàng) đã đỗ cử nhân. Dương
Khải, người Chương Xá, tổng Bình Ngô (Thuận Thành) đỗ cử nhân. Năm 1852
Ngô Quang Huy quê ở An Lạc (Văn Giang) đỗ cử nhân, làm quan đến đốc học, là
chiến hữu của Nguyễn Cao, Dương Khải.
28. Đội Văn họ Vương quê ở Thái Lạc (Văn Giang).
Bắc Ninh là một trong những cái nôi của dân tộc Việt Nam, là tỉnh có truyền thống
văn hiến và cách mạng, vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi phát tích vương triều Lý
- đã tạo dựng nền văn minh Đại Việt. Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước, Bắc Ninh đã sản sinh nhiều danh nhân, thi sĩ nổi tiếng tiêu biểu
như Lê Văn Thịnh, Hàn Thuyên, Hoàng Sỹ Khải, Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Gia


Thiều, Đoàn Thị Điểm, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng… làm rạng rỡ non sông
đất nước ta. Nhân dân Bắc Ninh cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên
cường, anh dũng trong đấu tranh, luôn tự lực tự cường, ý thức cộng đồng sâu sắc,
phấn đấu vươn lên xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh.

Bắc Ninh là một tỉnh có phong trào cách mạng sớm. Ngay từ những năm 20 của thế
kỷ XX, nhiều thanh niên, học sinh yêu nước đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin,
giác ngộ cách mạng, trở thành những lãnh tụ xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt
Nam, như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt…
Hơn 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bắc Ninh luôn đoàn kết, khắc
phục khó khăn, vượt qua thử thách, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong
đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới.
Để tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân, ngay sau khi tái lập tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy lâm thời đã có chủ trương và
thành lập Ban Chỉ đạo biên soạn, xuất bản Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh. Sau gần
10 năm (1997-2005) nghiên cứu, biên soạn, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xuất bản 3
tập Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-2000).
Năm 2010, có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội, Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh tổ chức biên soạn, bổ sung
và tái bản cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-2008) trên cơ sở kế
thừa những kết quả nghiên cứu và nội dung của 3 tập Lịch sử Đảng bộ đã xuất bản
và biên soạn tiếp giai đoạn 2001-2008.
Cuốn sách được hoàn thành là kết quả sự chỉ đạo sát sao của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy, sự giúp đỡ của Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, trách nhiệm cao của tập thể Ban chỉ đạo, Ban biên soạn và sự động
viên giúp đỡ của các đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh qua các thời kỳ
cùng đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Bắc Ninh chân thành cảm ơn sự phối hợp, giúp đỡ và đóng góp quý báu đó.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn và biên tập, song cuốn sách khó
tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để
lần xuất bản sau cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-2008)
với bạn đọc.
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC NINH



Phần thứ nhất: Đảng bộ lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc tổng khởi
nghĩa giành chính quyền tháng tám năm 1945 (1926-1945)
Chương I: QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ ĐÔNG DƯƠNG
CỘNG SẢN ĐẢNG
(1926-1930)
I. BỐI CẢNH TỈNH BẮC NINH ĐẦU THẾ KỶ XX
Tỉnh Bắc Ninh có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng ở Bắc Kỳ về nhiều lĩnh vực,
trong đó có khu vực Gia Lâm bao bọc phía bắc Hà Nội, án ngữ trục giao thông nối
giữa trung tâm đồng bằng Bắc Bộ với đồng bằng duyên hải, có thành Bắc Ninh trấn
giữ các đầu mối đường bộ nối liền Phả Lại - Hải Dương, có giang cảng Đáp Cầu
khống chế trung lưu sông Cầu, sông Đuống và sông Lục Đầu. Mùa xuân năm 1884,
thực dân Pháp đã huy động một lực lượng gồm 16.300 binh sĩ với nhiều chiến
thuyền cùng với 55 đại bác yểm trợ do trung tướng Milô (Millot), hai thiếu tướng
Brieđờ Lin (Briede L’Isle) và Nêgriéc (Négrier) chỉ huy tiến đánh tỉnh Bắc Ninh.
Ngay từ khi đặt chân vào cửa ngõ Bắc Ninh, kẻ thù đã vấp phải sự kháng cự mạnh
mẽ của nhân dân trong tỉnh dưới sự lãnh đạo kiên quyết của các sĩ phu Hoàng Văn
Hòe (1884-1885), Nguyễn Cao (1884-1887), Dương Khải, Ngô Quang Huy, Đội
Văn (1884-1889). Đội quân viễn chinh Pháp càng tiến sâu và mở rộng xâm lược,
chúng càng vấp phải các cuộc khởi nghĩa do Cai Kinh - Cai Bình (1884-1887),
Tuần Xô - Đề Vang (1886-1889) lãnh đạo và đã gây cho chúng biết bao thảm bại.
Để đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình đánh chiếm và thống trị, thực dân Pháp còn
thực thi nhiều biện pháp nhằm làm suy yếu tính cố kết truyền thống của nhân dân
bằng cách chia nhỏ tỉnh Bắc Ninh vốn chỉ rộng khoảng 6.000 km 2, với 21 phủ
huyện và 700.000 dân thành nhiều địa phương khác nhau, với các chế độ cai trị
khác nhau (quân quản, bán quân quản, dân sự) để cuối cùng chỉ còn tỉnh Bắc Ninh
nhỏ bé (1.100 km2, 11 phủ huyện, 350.000 dân). Việc thay đổi địa giới, tách nhập
đất đai kể trên là nhằm thực hiện chính sách chia để trị.
Thực dân Pháp khuyến khích vui chơi, tăng nồng độ của rượu cồn, thuốc phiện và

gái điếm; triệt để sử dụng bộ máy quản lý làng, xã cũ bằng cách tiến hành các đợt
cải lương hương chính vào các năm 1921-1927, nhằm ru ngủ tinh thần dân tộc
trong nhân dân ta, nhất là thế hệ thanh niên.
Chưa hoàn toàn yên tâm ở những biện pháp vô hình nhưng hữu hiệu kể trên, thực
dân Pháp còn áp đặt lên Bắc Ninh một bộ máy quân sự đồ sộ với doanh trại của
Tiểu đoàn pháo thủ số 3 Bắc Kỳ trong thành Bắc Ninh, đại bản doanh của Lữ đoàn
4 Quân khu miền đông ở Thị Cầu - Đáp Cầu, cùng nhiều trại lê dương, trại pháo
thủ và sân bay Gia Lâm.


Thực hiện kế hoạch khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất, thực dân Pháp
đua nhau nhảy vào cướp đất, lập đồn điền. Tính đến năm 30 của thế kỷ XX, toàn
tỉnh Bắc Ninh có 23 đồn điền, chiếm 13.271 ha, có ở hầu hết các huyện như Mácty
(Marty), Loady (Loisy) ở Gia Lâm; Poanớp (Poineuf), Giônétcô (Jonesco) ở Quế
Dương; Bracôni (Broconir), Luít (Louis), Lôi (Lauise) ở Võ Giàng; Đôloóc
(Dolorge) ở Gia Bình... Ngoài ra còn phải kể đến một số đồn điền của địa chủ kiêm
tư sản người Việt như Vũ Văn An (ở Yên Phong), Nghiêm Xuân Quảng (ở Gia
Lâm), Trần Văn Tư (ở Từ Sơn), Trần Quang Huy (ở Thuận Thành), Hàn Sĩ Thiện
(ở Gia Bình), Nguyễn Huy Tường, Nguyễn Huy Oanh (ở Lang Tài), Phùng Văn
Quân, Ngô Đình Bách, Nguyễn Bất (ở Quế Dương).
Hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ, đường sắt và đường không trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh cũng được thực dân Pháp chú trọng mở mang. Đường thuộc địa số 1
được làm năm 1885 với các đoạn đường số 55 (Gia Lâm - Đáp Cầu), đường số 60
(Đáp Cầu - Lạng Sơn). Các tuyến Gia Lâm - Hải Phòng, Bắc Ninh - Phả Lại, Bắc
Ninh - Hải Dương, Bắc Ninh - Đò Lo cũng lần lượt được xây dựng. Nơi đây còn là
đầu mối của các tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, Hà Nội - Hải Phòng, Hà
Nội - Vân Nam tại các giao điểm Gia Lâm, Yên Viên. Về đường thủy, “Đáp Cầu là
một thành phố tương lai và sẽ là trung tâm thương mại người Âu châu của tỉnh, nhờ
có mực nước sâu nên tàu thuyền buôn bán có thể ra vào” 1). Giang cảng này có cả
khách sạn hạng sang, có chi nhánh của hãng sửa chữa và đóng tàu SACRIC

(Société anonymel de Chalandage et Remorquage de I’IndoChine) đặt trụ sở tại Hải
Phòng.
Năm 1909, Nhà máy điện và cơ sở sản xuất nước đá (Công ty Vâyren), Nhà máy
gạch ngói (Công ty ngói Đông Dương), Nhà máy pháo của Công ty sản xuất pháo
Đông Dương, được xây dựng tại Đáp Cầu. Tại Gia Lâm có Nhà máy gạch Hưng
Ký (còn gọi là Nhà máy gạch Du Lâm) xây dựng năm 1921, sử dụng 300 công
nhân. Tại thị trấn Gia Lâm, ngoài Nhà máy sửa chữa xe lửa của Công ty đường sắt
Pháp - Vân Nam còn có Nhà máy sơn (xây dựng năm 1921), Nhà máy khuy trai,
Nhà máy rượu (xây dựng năm 1928).
Thị xã Bắc Ninh là một trung tâm xuất khẩu nông sản (chủ yếu là xuất khẩu thóc
gạo), hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là mặt hàng thêu ren đã có vị trí đáng kể trên
thị trường Mỹ, Pháp cũng như các hội chợ ở Pari, Mácxây (Pháp), Brúcxen (Bỉ) và
Hà Nội. Hoạt động của các làng nghề chuyên buôn bán, các làng nghề tiểu thủ công
nghiệp trở nên sôi động: phụ nữ Nội Duệ (Tiên Du) buôn bán khắp trong Nam,
ngoài Bắc, đàn ông làm thợ xây dựng ở khắp nơi; Đình Bảng vừa buôn bán, vừa
nhuộm thâm. Các làng gò đồng ở Đại Bái, đúc đồng ở Quảng Bố (Gia Bình), giát
vàng ở Kiêu Kỵ (Gia Lâm) có nhiều hộ chuyển sang hành nghề ở Hà Nội.
Sự phát triển và mở rộng phương thức sản xuất mới đã khiến cho xã hội Bắc Ninh
biến đổi và phân hóa mạnh mẽ. Số lượng giai cấp địa chủ tuy ít nhưng có tiềm lực


lớn về kinh tế và địa vị chính trị ở nông thôn. Giai cấp nông dân đông đảo về số
lượng nhưng ngày càng lún sâu vào con đường bần cùng hóa, họ phải làm tá điền,
lĩnh canh ruộng của địa chủ người Pháp và người Việt, bị tô cao thuế nặng, sưu
thuế đè nặng làm cho nhiều người không trụ nổi, phải dời bỏ quê hương và những
người thân đi làm phu ở vùng mỏ than Hồng Gai, Cẩm Phả, Vàng Danh hoặc vào
làm phu ở các đồn điền cao su Nam Bộ và đi làm nô lệ cho bọn chủ tư bản ở Tân
Đảo. Giai cấp tư sản nhỏ bé về số lượng, yếu ớt về thế lực kinh tế (vì tư bản Pháp
và Hoa kiều chèn ép, phương thức phong kiến kìm hãm) dẫn đến sự bạc nhược về
chính trị.

Giai cấp công nhân Bắc Ninh được hình thành qua nhiều thời kỳ trên những lĩnh
vực khác nhau (xây dựng đường bộ, làm đường sắt, lập bến cảng, làm thuê cho
hãng cầu Lơroa ở Đáp Cầu hoặc làm trong các nhà máy gạch, khuy, giấy, sơn, điện,
sửa chữa xe lửa, v.v.). Chưa tính đến công nhân áo nâu ở các đồn điền, cả tỉnh có
5.000-6.000 công nhân ở các nhà máy. Tầng lớp tiểu tư sản phát triển khá nhanh về
số lượng, họ bao gồm thị dân, thợ thủ công và giới trí thức, cư trú chủ yếu ở thành
thị, mang trong mình dòng máu yêu nước lại nhạy bén, năng động nên đã trở thành
lớp người đầu tiên tiếp xúc với tư tưởng tiến bộ, đóng vai trò to lớn trong việc
truyền bá những tư tưởng đó vào nhân dân.
Những biến đổi về mặt kinh tế và kết cấu giai cấp trong xã hội Bắc Ninh có một giá
trị nhất định trong việc hình thành và phát triển các trào lưu tư tưởng và các phong
trào chính trị lúc đó.
Từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa dân tộc bản xứ ở các
nước thuộc địa chính là động lực vĩ đại chống lại chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân phương Tây.
Điều đó hoàn toàn đúng vì ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, sự chuyển đổi
phương thức đấu tranh của khởi nghĩa nông dân Yên Thế đã tạo tiền đề cho sự phát
triển các phong trào cách mạng sau này. Tiếp theo đó, dòng giáo dục yêu nước do
Đông Kinh Nghĩa Thục khởi xướng, với các yếu nhân Bắc Ninh như Nguyễn
Quyền, Hoàng Tích Phụng, Nguyễn Cảnh Lâm, Nguyễn Văn Đảng, Nguyễn Phát
Hoành. Các hoạt động chính trị công khai của họ đã tạo ra nét đặc sắc của thời đại
cách mạng tư sản dân quyền. Cuối cùng sự tiếp bước của Phó Đức Chính, Lương
Ngọc Tốn, Nguyễn Văn Viện trong tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng đã chỉ rõ
những điều kiện xã hội Việt Nam, khi tư tưởng cách mạng từ bên ngoài đưa vào đã
được các trí thức tiểu tư sản tiếp thu tạo ra vị trí xứng đáng trong tầng lớp tư sản,
trong cách mạng dân chủ tư sản.
Phong trào đấu tranh cách mạng đã xuất hiện những xu hướng mới tại Bắc Ninh,
tiếp tục chuyển mình khi tầng lớp trí thức tiểu tư sản tiếp cận với ánh sáng của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Sự đàn áp nặng nề và tàn khốc của kẻ thù, những thủ đoạn bóc
lột dã man và tinh vi cộng với sự mê hoặc về chính trị và tinh thần mà thực dân



Pháp đã thực thi tại địa phương đã làm cho lòng căm giận của nhân dân bùng cháy
thêm dữ dội và chính trong bối cảnh tối tăm đó trải qua nhiều hy sinh gian khổ,
tầng lớp trí thức Bắc Ninh đã dần dần tìm thấy ánh sáng và chân lý thời đại.
II. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐƯỢC TRUYỀN BÁ VÀO BẮC NINH
Cho đến những năm 1920, đội ngũ trí thức tiêu biểu của Bắc Ninh khá đông đảo,
trong đó có nhiều người bắt đầu có tên tuổi trên lĩnh vực báo chí, văn chương như
Ngô Tất Tố, Vũ Ngọc Phan, Nam Xương (Nguyễn Cát Nhạc), Thế Lữ (Nguyễn
Thứ Lễ), Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Tích Chu... Không ít trí
thức đã trưởng thành trong cao trào đấu tranh dân chủ 1925-1926, nhất là không
khí sôi sục sau các cuộc bãi khóa đòi thả Phan Bội Châu và truy điệu Phan Chu
Trinh, nhiều học sinh đã rời bỏ ghế nhà trường, đi tìm con đường cứu nước.
Giữa lúc ấy Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu (Trung Quốc) truyền bá nội
dung, phương pháp cách mạng mới gắn liền tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để xây
dựng đội ngũ cách mạng của quần chúng có ý thức giác ngộ chính trị cao, đoàn kết
và thống nhất hành động nhằm mục tiêu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tháng
2-1925, Người lập ra Cộng sản Đoàn. Đến tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên thu hút hầu hết các phần tử ưu tú trong tầng lớp trí
thức trẻ, cử người về trong nước vận động, lựa chọn để đưa thanh niên yêu nước
sang Quảng Châu dự các lớp huấn luyện chính trị do chính mình tổ chức.
Từ cuối năm 1926, theo đường dây đặc biệt, lớp thanh niên đầu tiên của tỉnh Bắc
Ninh là Nguyễn Tuân, Nguyễn Sơn, Trần Tư Chính, Nguyễn Hữu Căn 2) đã đến
được lớp huấn luyện an toàn, được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, trở thành nòng cốt, hạt nhân của phong trào.
Nối tiếp khóa đào tạo trên còn có Ngô Gia Tự
Bản Đáy (Quảng Tây, Trung Quốc).

3)


được tham dự lớp huấn luyện ở

Ngô Gia Tự học cùng với Nguyễn Tuân ở trường Bưởi (Hà Nội) và cũng bị đuổi
học vì tham gia bãi khóa. Ngay sau đó, Ngô Gia Tự trở về quê vừa dạy học vừa tự
học để thi lấy bằng tú tài, tham gia nhiều hoạt động của địa phương, được Nguyễn
Công Thu đánh giá cao, kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cuối
năm 1926 tại số nhà 47 Trần Nhân Tông, Hà Nội, cùng sinh hoạt với Trịnh Đình
Cửu, Trần Tích Du, Trần Tích Dương. Đầu năm 1927, Ngô Gia Tự được cử đi dự
lớp huấn luyện ở Bản Đáy. Sau hai tháng, Ngô Gia Tự được cử về hoạt động ở Bắc
Ninh.
Ngoài ra, Nguyễn Quốc Huy, bạn học của Ngô Gia Tự, cháu nhà chí sĩ Nguyễn
Cảnh Lâm, cũng trưởng thành từ cái nôi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cuối
năm 1926.


Từ những thành phần xuất thân khác nhau, lớp thanh niên trí thức kể trên sau khi
tham dự các lớp huấn luyện của Tổng bộ, được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên đều tán thành và đến với chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, chính
nguồn gốc ấy, cộng với môi trường sinh ra và lớn lên đã chi phối mạnh mẽ quá
trình hoạt động và cống hiến của từng người.
Những hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên của Bắc Ninh được đào tạo
ở Quảng Châu, Bản Đáy và trưởng thành ở trong nước, cùng với sách báo do Tổng
bộ xuất bản thực hiện được nhiệm vụ trọng đại là tuyên truyền tư tưởng cách mạng,
tổ chức quần chúng để đưa họ vào trường đấu tranh. Nhờ các nỗ lực ấy, chủ nghĩa
Mác - Lênin được truyền bá vào địa phương một cách hiệu quả, thu hút và quy tụ
tất cả các giai tầng xã hội, đặc biệt là giai cấp công - nông dưới ngọn cờ của mình
chiến đấu cho mục đích cao cả, nguyện vọng tha thiết của dân tộc là giải phóng đất
nước, giành lại nền độc lập, tự do.
Quán triệt và thấm nhuần phương pháp vận động cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, trong một thời gian ngắn và giữa năm 1927, bốn chi hội của Hội Việt

Nam Cách mạng Thanh niên đã ra đời ở Bắc Ninh.
Chi hội Tam Sơn (Từ Sơn) xuất hiện đầu tiên trong tỉnh. Chi hội này được Ngô Gia
Tự tổ chức ngay tại nhà mình ở xóm Xanh, gồm 5 hội viên là Ngô Gia Hương, Ngô
Tự Lan, Ngô Sách Ngọ, Ngô Gia Chỉ, Ngô Gia Tự; do Ngô Gia Hương (sinh năm
1907, thư ký hương hội) làm Bí thư.
Chi hội Tam Sơn là thử nghiệm của Ngô Gia Tự về việc tuyên truyền, vận động lớp
thanh niên tiên tiến ở nông thôn có học thức hoặc có chút vai vế trong bộ máy chức
dịch và quan hệ họ hàng. Từ kết quả này, Ngô Gia Tự đã hướng sự chú ý tới thị xã
Bắc Ninh - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh để xây dựng và phát triển
phong trào.
Nguyễn Tuân cũng chọn vùng Thị Cầu - Đáp Cầu làm địa bàn phát triển cơ sở cách
mạng của mình nhưng quá chậm khiến Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên Bắc Kỳ phải đôn đốc và cử Nguyễn Hữu Căn, Nguyễn Trọng Ngọc đến hỗ trợ.
Nhờ được tăng cường, Nguyễn Tuân và các đồng chí của mình đi sâu vào mối thân
tình bằng hữu nên đầu tháng 7-1927 chi hội Thị Cầu - Đáp Cầu ra đời, gồm các học
sinh Ngô Đình Chương, An Đình Họa, Vũ Đình Đại, Ngô Thế Dương và một số
thành phần khác là Vũ Xuân Hồng - tiểu thương, Trần Nhu - công nhân, Phạm
Đình Thúy - thợ thủ công; do Ngô Đình Chương làm Bí thư.
Khoảng giữa tháng 7-1927, chi hội thị xã Bắc Ninh (còn gọi là chi hội Tiền An Vệ An - Ninh Xá) do Ngô Gia Tự tổ chức cũng được thành lập. Hội viên của chi
hội này hầu hết là thợ thủ công gồm Phạm Văn Chất, Hồ Ngọc Lân, Trần Văn
Quảng, Trần Đức Minh, Trần Văn Thìn và học sinh Thái Bá San, Trương Văn Nhã;
do Phạm Văn Chất làm Bí thư.


Nhận thấy công việc tổ chức do mình phụ trách tiến triển chậm, nhất là ở vùng
nông thôn, Nguyễn Tuân đã hướng sự chú ý của mình vào các làng nằm trong vành
đai phía bắc thị xã Bắc Ninh, lập ra chi hội Vạn - Yên - Hà, gồm 7 người vào cuối
tháng 7-1927. Chi hội do Đàm Đức Hòa (sinh năm 1908 - tiểu thương) làm Bí thư
và gồm có Đỗ Hữu Thành, Đặng Văn Đắc (Yên Ninh); Đặng Văn Thâm, Đặng Văn
Giám, Trần Văn Phú (Vạn Phúc); Trịnh Quang Liễn (Thổ Hà).

Như vậy, phương pháp gây dựng cơ sở phát triển, phong trào cách mạng của Ngô
Gia Tự, Nguyễn Tuân đều bắt đầu từ nơi mình sinh ra, đã quen thung thổ và tính
cách con người. Họ chú trọng đến thành phần công - nông, tuy hầu hết đều xuất
thân từ gia đình khá giả. Số hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là thanh
niên, học sinh chiếm số lượng cao nhất.
Do những đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng trong tỉnh và các điều kiện
để thành lập Tỉnh hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đủ, tháng 7-1927, Tỉnh
hội Bắc Ninh được thành lập gồm 3 người (Nguyễn Tuân - Bí thư, Ngô Gia Tự và
Nguyễn Hữu Căn) 4), đảm nhận cả việc gây dựng cơ sở và phong trào cách mạng ở
Bắc Giang.
Cùng với thời điểm này, thông qua Nguyễn Quốc Uy, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên Bắc Kỳ đã cử Dương Hạc Đính phát triển chi hội Phật Tích
(Nguyễn Thị Minh - Bí thư, Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Thủy và Nguyễn Văn
Tụ). Chi hội Hoài Bão (Nguyễn Duy Bình - Bí thư, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn
Văn Dị, Lê Hữu Đông, Nguyễn Duy Đạt, Nguyễn Quang Đản, Nguyễn Đăng Kỳ).
Chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1927, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã xuất hiện 6
chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, với khoảng 40 hội viên có mặt ở thị xã
Bắc Ninh, huyện Tiên Du, huyện Võ Giàng và phủ Từ Sơn. Các cán bộ cốt cán như
Ngô Gia Tự, Nguyễn Tuân, Nguyễn Hữu Căn, Nguyễn Quốc Uy và Dương Hạc
Đính đã lăn lộn với phong trào để ươm trồng và phát triển các hạt giống cách mạng
ở vùng đất giàu truyền thống yêu nước và văn hiến.
Sang năm 1928, một trong những nhiệm vụ cấp bách và cần kíp của Tỉnh hội Bắc
Ninh là phải xây dựng bằng được cơ sở ở phủ Lạng Thương - trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa của tỉnh Bắc Giang. Thực hiện nghị quyết trên, Nguyễn Trọng
Ngọc và Nguyễn Hữu Căn đã kết nạp được một số hội viên, lập ra chi hội phủ Lạng
Thương do Trịnh Hữu Chiêm làm Bí thư và Uỷ viên gồm có Trịnh Thị Uyển, Trịnh
Thị Nhu (em gái Trịnh Hữu Chiêm - quê ở Thọ Xương), Dương Văn Phái (quê ở
Nội Hoàng - Yên Dũng trọ học ở Châu Xuyên), Khổng Văn Quỳ, quê ở Châu
Xuyên, Nguyễn Văn Mẫn quê ở thành Tiền Môn - phủ Lạng Thương. Kỳ bộ Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kỳ quyết định thành lập Tỉnh hội Việt Nam

Cách mạng Thanh niên Bắc Ninh - Bắc Giang do Ngô Gia Tự làm Bí thư, đặt trụ sở
tại xóm Giầu (gia đình Nguyễn Tuân - Thị Cầu), trạm giao liên tại Niềm Thắng
(nhà của Hồ Ngọc Lân).


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×