Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Làng bản cổ truyền của dân tộc tày ở huyện võ nhai thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 64 trang )

1

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

TRẦN VĂN QUYỀN

TRẦN VĂN QUYỀN

LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA DÂN TỘC TÀY
LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA DÂN TỘC TÀY

Ở HUYỆN VÕ NHAI THÁI NGUYÊN

Ở HUYỆN VÕ NHAI THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN

THÁI NGUYÊN - NĂM 2010



THÁI NGUYÊN - NĂM 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3

4

Lêi c¶m ¬n

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................................................................................................... 1

Tác giả luận văn xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới người hướng dẫn

1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................................................................................................... 6

khoa học là PGS. TS Đàm Thị Uyên. Người đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................................................................................... 8

trong suốt thời gian qua để tác giả hoàn thành luận văn.


3. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài. .....................10

Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử-

3.1. Mục đích ................................................................................................................................................................................................10

Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, đặc biệt là thầy giáo - nhà dân tộc

3.2. Đối tượng nghiên cứu. ....................................................................................................................................................11

học Hoàng Hoa Toàn. Người đã đóng góp những ý kiến rất quý báu và bổ ích

3.3. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................................................................................11

cho tác giả trong qua trình tiến hành luận văn.

3.4. Nội dung nghiên cứu của đề tài .......................................................................................................................11

Tác giả cũng xin cảm ơn Thư viện trường Đại học sư phạm Thái

4. Nguồn tư liệu ...............................................................................................................................................................................................12

Nguyên, Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các phòng ban

5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................................................................................12

chuyên môn của huyện Võ Nhai; Sở Văn hoá thông tin tỉnh Thái Nguyên;

6. Đóng góp của đề tài ..........................................................................................................................................................................12


Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam, … đã góp phần cung cấp thông tin
giúp tác giả hoàn thành luận văn.

7. Cấu trúc của đề tài ..............................................................................................................................................................................13
CHƢƠNG 1 ......................................................................................................................................................................................................................15

Cuối cùng tác giả xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp, là anh Nông Ngọc

KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN ................................................................15

Toản giáo viên trường THPT Võ Nhai, anh Nông Ngọc Châu bí thư đoàn xã

1.1. Lịch sử hành chính huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ...................................................15

Vũ Chấn cùng đông đảo bạn bè và đặc biệt là gia đình, người thân đã quan

1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ........................................................................................................................16

tâm, động viên và giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận

1.2.1. Vị trí địa lý...................................................................................................................................................................................16
1.2.2. Điều kiện tự nhiên ...........................................................................................................................................................17

văn này.

1.3. Khái quát về kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai .....................................................................21
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2010.
Tác giả


1.4. Dân cư và các dân tộc trên địa bàn huyện .............................................................................................23
1.4.1. Dân cư .................................................................................................................................................................................................23
1.4.2. Các dân tộc ở Võ Nhai .............................................................................................................................................25

TRẦN VĂN QUYỀN

CHƢƠNG 2 ......................................................................................................................................................................................................................29
LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA NGƢỜI TÀY ..............................................................................................................29
Ở HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN ................................................................................................................29

2.1. Tên gọi và không gian sinh tồn ...............................................................................................................................29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5

6

2.1.1. Tên gọi và nguồn gốc tên gọi của làng bản ...........................................................................29

PHẦN MỞ ĐẦU

2.1.2. Không gian sinh tồn......................................................................................................................................................37
2.2. Cơ cấu tổ chức ....................................................................................................................................................................................56


1. Lý do chọn đề tài

2.2.1. Các tổ chức quản trị ......................................................................................................................................................56

Lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ

2.2.2. Tổ chức dòng họ .................................................................................................................................................................62

với nhau. Đó là mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng” trong triết học.

2.2.3. Các tổ chức có tính chất xã hội ..................................................................................................................66

Nghiên cứu lịch sử một địa phương, một tộc người sẽ góp phần quan trọng

2.2.4. Kiến trúc công cộng và các hoạt động cộng đồng ......................................................70

làm sáng tỏ bức tranh vốn đã rất phong phú và phức tạp của lịch sử dân tộc.

2.3. Những đặc trưng và vai trò của làng bản trong lịch sử ....................................................79

Việc nghiên cứu cơ cấu tổ chức của làng xã cổ truyền là chiếc chìa khoá

2.3.1. Tính chất đặc trưng của làng bản cổ truyền của người Tày ở Võ Nhai ....79

để tìm hiểu và lý giải tất cả sự phong, phú rộng lớn và bao quát của vấn đề

2.3.2 Vai trò của làng bản ........................................................................................................................................................80

làng xã. Làng xã trong tiến trình lịch sử Việt Nam có vai trò hết sức to lớn mà


CHƢƠNG 3 ......................................................................................................................................................................................................................85

chúng ta không thể phủ nhận. Nghiên cứu làng xã, chúng ta sẽ làm sáng tỏ

NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA LÀNG BẢN NGƢỜI TÀY Ở VÕ NHAI...................................................85

nhiều vấn đề của lịch sử dân tộc cũng như những truyền thống, phẩm chất của

TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NAY ..................................................................................................85

con người Việt Nam nói chung.

3.1. Nguyên nhân biến đổi .............................................................................................................................................................85

Vấn đề nghiên cứu làng xã cổ truyền Việt Nam càng trở nên bức thiết và

3.2. Diễn biến và những biểu hiện ....................................................................................................................................86

có ý nghĩa hơn khi hiện nay vấn đề: Nông nghiệp – nông dân – nông thôn

3.2.1. Những biến đổi về không gian sinh tồn .......................................................................................86

ngày càng nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Đảng đề

3.2.2. Những biến đổi trong nền kinh tế ..........................................................................................................94

ra mục tiêu là phải đẩy mạnh công cuộc hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,

3.2.3. Sự biến đổi trong cơ cấu tổ chức .............................................................................................................99


đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Loại bỏ những gì,

3.3. Một vài kiến nghị .......................................................................................................................................................................104

giữ lại và phát huy những gì là vấn đề có tính nguyên tắc trong công cuộc xây

PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................................................................................................................107

dựng nông thôn mới hiện nay. Điều đó chỉ có thể được thực hiện khi chúng ta

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................................................................113

có những hiểu biết sâu sắc qua sự nghiên cứu nghiêm túc về làng xã cổ

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

truyền.

109

.............................................

PHỤ LỤC ẢNH .................................................................................................................................................................................................115

Tầm quan trọng rất lớn của vấn đề về cả lý luận và thực tiễn là như vậy
nhưng những nghiên cứu về làng xã Việt Nam hiện nay mới chỉ là bước đầu,
còn đơn sơ và chưa đáp ứng được nhu cầu nhận thức cũng như thực tiễn. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khoá X ngày 5/8/2008 đã chỉ ra “Nhận thức về vị trí, vai trò của nông


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7

8

nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

một cách có hệ thống, các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông

Do tầm quan trọng và rộng lớn của vấn đề mà đề tài làng xã Việt Nam

dân, nông thôn; cơ chế chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ,

nói chung đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học

thiếu tính đột phá, một số chủ trương chính sách không hợp lý, thiếu tính khả

ở cả trong và ngoài nước trong những giai đoạn gần đây.


thi nhưng chậm điều chỉnh, bổ sung kịp thời…”

Tuy nhiên, trong lịch sử, nhất là thời kỳ phong kiến và trước đó, vấn đề

Trong bối cảnh đó, việc đi sâu nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức của

làng xã rất ít được “đoái hoài” đến. Lịch sử trong giai đoạn đó chỉ là lịch sử

chúng ta về vấn đề làng xã Việt Nam cổ truyền và hiện đại có ý nghĩa rất lớn

của giai cấp thống trị và của những nhân vật kiệt xuất. các nhà sử học phong

trước khi đưa ra và thực hiện có hiệu quả những chính sách phát triển nông

kiến rất ít khi có những ghi chép về nông thôn, làng xã. Chúng ta chỉ có thể

nghiệp - nông thôn – nông dân.

góp nhặt được những ghi chép ít ỏi về làng xã trong một số bộ sử và địa chí

Nghiên cứu những vấn đề làng bản cổ truyền của các dân tộc thiểu số

thời phong kiến nước ta như: Đại Việt thông sử, Dư địa chí, Đại Nam thực

cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng vì đồng bào các dân tộc thiểu số

lục, Đại Nam nhất thống chí, Đồng khách dư địa chí,… Trong đó, tác phẩm

là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam.


“Vũ trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ là có giá trị tư liệu hơn cả.

Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, đồng bào các dân tộc

Từ thế kỷ thứ XVI – XVII trở đi, làng việt là đối tượng điều tra nghiên

nơi đây đã có những đóng góp rất lớn cho cách mạng trong lịch sử. Đến nay,

cứu của các thương nhân và giáo sĩ phương Tây. Mục đích lớn nhất của họ là

điều kiện kinh tế vật chất và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc

phục vụ cho công cuộc xâm lược và đô hộ Việt Nam. Vì vậy, những nghiên

trong Huyện còn ở mức thấp. Trong các dân tộc thiểu số ở đây, người Tày có

cứu đó chưa được hệ thống và khách quan. Tất nhiên, đây cũng là nguồn tư

số lượng lớn nhất và có quá trình định cư lâu dài nhất.

liệu không thể bỏ qua trong quá trình nghiên cứu làng xã cổ truyền.

Việc nghiên cứu làng bản cổ truyền của người Tày sẽ góp một phần rất

Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, việc nghiên cứu làng Việt được mở

quan trọng vào việc tái hiện lại bức tranh toàn cảnh về lịch sử xây dựng và

rộng hơn trước. Một số tác giả người Pháp đã có những tác phẩm chuyên


phát triển của vùng đất Võ Nhai. Kết quả nghiên cứu còn góp thêm cơ sở

khảo về làng Việt. Nhưng, cách nhìn nhận và lý giải của họ vẫn không được

khoa học cho chính quyền địa phương các cấp trong việc đề ra và thực hiện

khách quan. Lúc này đã có một số tác giả người Việt tham gia nghiên cứu,

những chính sách và biện pháp đúng đắn nhằm nâng cao đời sống vật chất và

tiêu biểu nhất là Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục, Nguyễn Văn Huyên

văn hoá cũng như nhằm bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của

với một số chuyên khảo bằng tiếng Pháp.

người Tày nói riêng và nhân dân các dân tộc trong huyện Võ Nhai nói chung.

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong vùng kiểm soát của

Xuất phát từ bối cảnh và lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề

thực dân Pháp và sau đó là chính quyền Ngụy Sài Gòn, ở miền Nam có một

“Làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên”

số tác phẩm tiêu biểu như: Kinh tế làng xã Việt Nam của Vũ Quốc Thúc (Hà

làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.


Nội, 1951). Làng xã Việt Nam của Toan Ánh (Sài Gòn, 1968).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

10

Cuốn sách đầu tiên nghiên cứu làng xã Việt Nam theo quan điểm macxit

đề đại đoàn kết dân tộc. Tất cả những chính sách về dân tộc thiểu số của Đảng

là cuốn “Vấn đề dân cày” của Qua Ninh và Vân Đình (tức Trường Chinh và

ta đều xoay quanh 3 nguyên tắc: Đoàn kết, Bình đẳng, Tương trợ, nhằm làm

Võ Nguyên Giáp) do Đức Cường xuất bản năm 1937. Vấn đề làng xã chỉ thực

sao từng bước vững chắc nâng cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của

sự được giới sử học Việt Nam ở miền Bắc đặc biệt quan tâm nghiên cứu kể từ

đồng bào, làm sao cho miền núi tiến kịp miền xuôi. Đồng bào các dân tộc


sau Cải cách ruộng đất và phong trào tập thể hoá ở nông thôn. Trong đó, cuốn

thiểu số tiến kịp với trình độ phát triển của người Kinh. Vì vậy, việc nghiên

sách nghiên cứu về làng xã Việt được coi là cơ bản và sâu sắc nhất tính đến

cứu làng bản của người dân tộc thiểu số cũng có ý nghĩa quan trọng không

trước đổi mới là cuốn “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ” của

kém vấn đề làng xã cổ truyền của người Việt.

tác giả Trần Từ, (Hà Nội 1984).

Những nhà dân tộc học hàng đầu ở nước ta như: Nguyễn Văn Huyên, Bế

Từ khi đổi mới đến nay là thời kỳ nở rộ của những công trình nghiên cứu
về làng xã, điều này được biểu hiện ở:

Viết Đẳng, Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, Tấn Quỳnh, Đặng Văn lung,
Hoàng Nam, Phan Hữu Dật, Hoàng Hoa Toàn,… đã dày công nghiên cứu một

- Sự ra đời của rất nhiều những đầu sách, những công trình nghiên cứu
về làng xã Việt Nam của những học giả cả trong và ngoài nước.
- Có khá nhiều chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu như: Nguyễn Từ Chi,
Nguyễn Hải Kế, Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc,…

cách toàn diện về nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Những nghiên cứu của
họ thường miêu tả khái quát văn hoá các tộc người. Trong đó, cơ cấu tổ chức

làng bản của các dân tộc chỉ được họ đề cập đến như một khía cạnh, chưa
phải đi sâu nghiên cứu mang tính chất chuyên đề. Những nghiên cứu về dân

- Ngày càng nhiều những học viên, nghiên cứu sinh ở cả trong và ngoài
nước chọn làng xã là đối tượng học tập, nghiên cứu của họ.

tộc Tày cũng vậy.
Đặc biệt, vấn đề “ Làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở huyện Võ Nhai

Mặc dù có những mục đích và quan niệm không giống nhau nhưng các

tỉnh Thái Nguyên” chưa có ai nghiên cứu và công bố. Chính vì vậy, đề tài

nhà nghiên cứu đã cung cấp thêm những tư liệu mới, đưa ra những nhận định

nghiên cứu của chúng tôi sẽ tập trung làm rõ vấn đề này. Những công trình

mới, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức về làng xã Việt Nam truyền

nghiên cứu của các học giả đi trước sẽ là nguồn tài liệu vô cùng quý giá để

thống và hiện đại. Tuy nhiên, đó mới chỉ được coi là những thành quả bước đầu.

chúng tôi tham khảo, học tập cho việc hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.

Nhưng một thực tế mà khi tìm hiểu chúng tôi thấy, đó là chưa hề có
chuyên đề hay những công trình đi sâu nghiên cứu về cơ cấu tổ chức làng bản

3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích


của các dân tộc thiểu số ở nước ta, trong khi làng xã cổ truyền của người Việt

Qua việc nghiên cứu và phân tích cơ cấu làng bản cổ truyền của người

ở đồng bằng Bắc bộ lại được rất nhiều các học giả quan tâm. Có thể nói đây là

Tày ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, đề tài sẽ góp phần vào việc tái hiện

một mảng tối trong việc nghiên cứu đề tài làng xã cổ truyền.

lại một số hiện tượng lịch sử, văn hoá xã hội, quá trình xây dựng và phát triển

Đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta là bộ phận không thể tách rời

của địa phương này, cũng như lịch sử vốn phong phú, đa dạng và phức tạp

của dân tộc Việt Nam. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn

của tộc người nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên







11

12

Cụ thể hơn, tác giả mong muốn làm phong phú hơn những hiểu biết của
khoa học về bản sắc văn hoá của dân tộc Tày vốn đã có nhiều nét đặc trưng
trong đời sống vật chất, văn hoá tinh thần và tổ chức xã hội.

Nêu lên những nét đặc trưng cổ truyền trong văn hoá làng bản của đồng bào.
4. Nguồn tƣ liệu
Đề tài làng xã cổ truyền nói chung và làng bản cổ truyền của người dân

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhận thức rõ hơn một cơ cấu

tộc thiểu số nói riêng hầu như không được bất kỳ một cuốn chính sử của một

xã hội truyền thống, lâu đời của miền núi nước ta. Qua đó, tác giả đề tài mong

vương triều phong kiến nào đề cập đến. Tuy nhiên, khi tham khảo kỹ một số

muốn đóng góp vào quá trình xây dựng nông thôn mới, làng bản văn hoá ở

bộ sử cũ như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục,… chúng tôi cũng đã

vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và trên địa bàn huyện Võ Nhai, tỉnh

tìm được một số thông tin liên quan nhằm phục vụ cho đề tài của mình.

Thái Nguyên nói riêng trong cuộc sống xã hội hiện đại.


Chúng tôi cũng tiếp cận được với khá nhiều các tác phẩm, tài liệu, kỷ
yếu, đề tài nghiên cứu, các chuyên khảo hoặc có liên quan đến làng xã cổ

3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kết cấu làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Kết cấu tổ chức đó bao gồm các loại hình
tổ chức và các hình thức tập hợp người, các quy chế vận hành của nó. Đề tài
cũng nghiên cứu những ảnh hưởng của kết cấu tổ chức đó lên đời sống vật
chất, tâm lý và truyền thống của người Tày ở nơi đây.

truyền và các dân tộc thiểu số Việt Nam, đặc biệt là về dân tộc Tày.
Hệ thống văn bản về chính sách đối với các dân tộc thiểu số của Đảng,
Nhà nước và các cấp chính quyền cũng rất quan trọng với đề tài này.
Đặc biệt quan trọng hơn cả là tư liệu điền dã, khảo sát thực địa. Ngoài ra
một số hương ước, gia phả, tộc phả và địa bạ cũng được chúng tôi lưu tâm tới
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài luận văn.

3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu quá trình ra đời, phát triển và biến
đổi của làng bản người Tày ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên theo diễn tiến
của lịch sử.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng và kết hợp một số
phương pháp sau đây: Điền dã, miêu thuật, hồi cố, thống kê, so sánh, tự sự

Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu làng bản của dân tộc Tày trên địa

lịch sử, liên ngành,… nhằm làm sao những thông tin có được là chính xác


giới huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ngày nay (tập trung vào các xã phía

nhất và khách quan nhất, chất lượng đề tài tốt nhất trong khả năng có thể.

Bắc, nơi có người Tày cư trú với tỷ lệ cao).

6. Đóng góp của đề tài
Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu về tổ chức làng bản cổ truyền

3.4. Nội dung nghiên cứu của đề tài
Khái quát về huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên: Vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên, dân số, các thành phần dân tộc, lịch sử hành chính của huyện…

của người Tày ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
Đề tài sẽ góp phần nâng cao nhận thức của mọi người về dân tộc Tày nói

Kết cấu tổ chức làng bản của dân tộc Tày, ảnh hưởng của kết cấu đó lên

chung và dân tộc Tày ở địa bàn huyện Võ Nhai nói riêng. Qua đó, kết quả

hoạt động kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần và những truyền thống trong

nghiên cứu của đề tài sẽ góp thêm cơ sở khoa học cho việc thực hiện các

đời sống văn hoá của họ; so sánh với làng Việt truyền thống và một số dân tộc khác.

chính sách của chính quyền địa phương các cấp nhằm nâng cao đời sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






13

14

vật chất cũng như tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số và sự phát triển của
địa phương.
Một đóng góp quan trọng nữa của đề tài là sẽ góp phần tôn tạo, giữ gìn
những giá trị truyền thống trong bản sắc văn hoá của dân tộc Tày ở Võ Nhai,
Thái Nguyên nói riêng và các dân tộc thiểu số trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói
chung. Đề tài ở một mức độ nào đó sẽ nâng cao ý thức tự giác của mỗi người
chúng ta trong việc biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của người Tày cũng như các dân tộc thiểu số khác.
Cuối cùng, đề tài là một nguồn tài liệu tham khảo cho việc học tập và
nghiên cứu lịch sử địa phương, dân tộc học, văn hoá học…
7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được chia làm 3 phần:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung:
+ Chương 1. Khái quát về huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
+ Chương 2. Làng bản của người Tày ở huyện Võ Nhai.
+ Chương 3. Những biến đổi của người Tày ở Võ Nhai từ Cách mạng
tháng Tám đến nay.
- Phần kết luận.

Ngoài ra, đề tài còn có các mục: Tài liệu tham khảo và phụ lục.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




15

16

Ngày 25/2/1948, Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

ký sắc lệnh số 148/SL bỏ các đơn vị hành chính cấp phủ, châu, quận, tổng.
Châu Võ Nhai đổi thành huyện Võ Nhai gồm 17 xã.

1.1. Lịch sử hành chính huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
Do điều kiện không cho phép nên chúng tôi chỉ nghiên cứu làng bản cổ
truyền của dân tộc Tày trên địa bàn thuộc địa giới huyện Võ Nhai ngày nay
nhưng chúng tôi cũng xin phác qua ở đây quá trình hình thành và sự thay đổi
của địa giới hành chính huyện qua các thời kỳ lịch sử.

Ngày 22/12/1949, theo Nghi định số 224/ttg của Thủ tướng Chính phủ,

thôn Sảng Mộc, xã Yên Hân, huyện Bạch Thông, Bắc Kạn được sát nhập vào
xã Nghinh Tường, huyên Võ Nhai.
Ngày 1/6/1985, theo Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, bốn xã: Tân
Long, Hoà Bình, Quang Sơn và Văn Lăng của huyện Võ Nhai được cắt về

Theo các tác giả trong Địa chí Thái Nguyên và nhà sử học Nguyễn Xuân
Minh (chủ biên) trong cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai thì thời thuộc
Đường, vùng đất Võ Nhai có tên là huyện Vũ Lễ, thời Lý, Trần có tên gọi là

huyện Đồng Hỷ.
Ngày 25/10/1990, theo Quyết định số 454/TCCP của Ban Tổ chức Chính
phủ, thị trấn Đình Cả được thành lập [ 19, tr.987].

châu Vạn Nhai. Thời thuộc Minh (đầu thế kỷ XV), châu Vạn Nhai lại đổi tên

Ngày nay, huyện Võ Nhai gồm 14 xã, 01 thị trấn với tổng số 170 xóm và

thành châu Vũ Lễ. Đầu thời nhà Lê (đời Lê Thuận Thiên), châu Vũ Lễ đổi

02 tổ dân phố. 14 xã gồm: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Vũ Chấn, Thượng

thành huyện Võ Nhai, thuộc phủ Phú Bình do phiên thần họ Ma nối đời cai

Nung, Thần Sa, Cúc Đường, Lâu Thựơng, La Hiên, Tràng Xá, Liên Minh,

quản. Đến thời Nguyễn (từ 1802) vẫn theo như thế. Đến năm Minh Mệnh thứ

Phương Giao, Dân Tiến và Bình Long. 01 thị trấn Đình Cả.

16 (1836), huyện Võ Nhai có 8 tổng, gồm 29 xã, trại, cai trị theo chế độ lưu


Như vậy, ta có thể thấy, châu Vạn Nhai, hoặc huyện Võ Nhai trong lịch

quan. Đời Đồng khánh (1886- 1888), huyện Võ Nhai vẫn gồm 8 tổng và 29

sử có địa giới rộng hơn rất nhiều so với ngày nay, bao gồm cả huyện Bắc Sơn,

xã, trại. 8 tổng ở Võ Nhai lúc này gồm: Lâu Thượng, Lâu Hạ, Tràng Xá, Bắc

Lạng Sơn ngày nay và một phần huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

Sơn, Nhất Thể, Quỳnh Sơn, Tân Tri, Vĩnh Yên.

1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Huyện lỵ thời trước đặt ở xã Lâu Thượng, đến đời Đồng Khánh chuyển

1.2.1. Vị trí địa lý
Sách Đại Nam nhất thống chí có chép: Huyện Võ Nhai cách phủ 82 dặm

vào xã Tràng Xá [19, tr. 987, 10, tr. 7].
Năm 1894, thực dân Pháp cắt các tổng Bắc Sơn, Nhất Thế, Quỳnh Sơn,

về phía bắc, đông- tây cách nhau 124 dặm, nam- bắc cách nhau 152 dặm, phía

Tân Lưu, Vĩnh Yên ra khỏi huyện Võ Nhai để lập thành châu Bắc Sơn, thuộc

đông đến địa giới huyện Hữu Lũng tỉnh Bắc Ninh 35 dặm, phía tây đến địa

tỉnh Lạng Sơn. Huyện Võ Nhai được đổi thành châu Võ Nhai gồm 6 tổng:


giới huyện Cảm Hoá 89 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Văn Quảng tỉnh

Lâu Thượng, Tràng Xá, Phương Giao, Cúc Đình, Thương Nung, Văn Lãng

Lạng Sơn 70 dặm [6, tr. 158].

với 22 xã, 1phố, 5 trại. Từ đó đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn
giữ nguyên như thế.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Võ Nhai là một huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên thuộc vùng đặc
biệt khó khăn nằm ở phía đông bắc của tỉnh. Huyện nằm dọc theo quốc lộ 1B



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17

18

từ Thái Nguyên đi Lạng Sơn. Võ Nhai có toạ độ địa lý 21 036 đến 210 56 vĩ độ

vôi. Căn cứ vào địa hình, địa mạo và đất đai, huyện được chia làm 3 tiểu vùng


0

0

Bắc và 105 45 đến 106 17 kinh độ Đông. Phía bắc huyện Võ Nhai giáp

như sau:

huyện Na Rì - Bắc Kạn, phía đông bắc giáp huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn, phía

Tiểu vùng I: Bao gồm các xã, thị trấn dọc Quốc lộ 1B: Thị trấn Đình Cả,

nam giáp huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên và Yên Thế - Bắc Giang, phía tây

các xã La Hiên, Lâu Thượng và Phú Thượng. Đây là vùng thấp nhất của

giáp huyện Đồng Hỷ và Phú Lương - Thái Nguyên. Tổng diện tích tự nhiên

Huyện, có địa hình tương đối bằng phẳng hơn các vùng còn lại, tạo nên bởi

của toàn huyện theo địa giới hành chính là 845.1 km2.

những thung lũng chạy dọc theo quốc lộ 1B, hai bên là hai dãy núi có độ dốc lớn.

Thị trấn Đình Cả là huyện lỵ, trung tâm kinh tế - xã hội của huyện cách

Tiểu vụng II: gồm 5 xã phía Nam: Tràng Xá, Liên Minh, Phương Giao,

thành phố Thái Nguyên khoảng 40km về phía đông bắc, cách thị trấn Đồng


Dân Tiến và Bình Long. Địa hình đồi núi bát úp, bị chia cắt bởi nhiều khe,

Đăng - Lạng Sơn khoảng 80km về phía tây.

suối, xen kẽ núi đá vôi. Các bãi soi bằng phẳng phù hợp với phát triển cây

Với vị trí như vậy, ta có thể thấy Võ Nhai có một vị trí chiến lược quan

công nghiệp, cây lương thực và chăn nuôi đại gia súc.

trọng trong những thời kỳ có chiến tranh, là nơi dụng binh hiểm yếu “tiến khả

Tiểu vùng III: Vùng núi cao bao gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc,

dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Từ Võ Nhai, người ta có thể dễ dàng qua Thái

Thượng Nung, Vũ Chấn, Thần Sa và Cúc Đường. Diện tích vùng phần lớn bị

Nguyên về Hà Nội, hoặc lên phía bắc qua Lạng Sơn để ra nước ngoài. Ngoài

chiếm bởi những dãy núi đá vôi hùng vĩ, nhiều khe suối, cảnh đẹp tự nhiên.

trục giao thông 1B, ở phía tây và tây nam huyện còn có con đường mòn chay

Vùng này thuận lợi hơn cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc, lâm nghiệp,

từ miền rừng núi Bắc Sơn qua Võ Nhai xuống vùng trung du và về xuôi.

du lịch sinh thái và di tích lịch sử văn hoá.
Với diện tích đất tự nhiên là 845,1 km2, Võ Nhai có 561,27 km2 đất lâm


1.2.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình đất đai: điểm nổi bật của địa hình Võ Nhai là núi cao, dãy

nghiệp, 77,24 km2 đất nông nghiệp, 1,55 km2 đất nuôi trồng thuỷ sản, 22,13

Ngân Sơn chạy từ Bắc Kạn theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và dãy Bắc Sơn

km2 đất phi nông nghiệp và 182,92 km2 đất chưa sử dụng. Có thể thấy dù là

chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Vì vậy, huyện có địa hình phức tạp.

một huyện có diện tích rộng lớn nhất tỉnh Thái Nguyên nhưng tiềm năng đất

Vùng núi dốc và núi đá vôi chiếm 92% diện tích tự nhiện. Núi đá vôi tập

đai ở Võ Nhai không lớn, lại bị chia cắt mạnh. Đất dành cho phát triển đô thị

trung ở phía bắc huyện, còn xuống phía nam, độ cao giảm dần. Phần phía nam

và giao thông trở nên khan hiếm. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân

huyện phổ biến là những núi đất thấp, đặc trưng của vùng trung du.

bố lại dân cư, khu cụm công nghiệp trong tương lai. Đất đai dành cho nông

Toàn huyện có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 100 – 800m,

nghiệp ở Võ Nhai nhìn chung không có độ phì nhiêu lớn và đang bị suy thoái mạnh.


đất sản xuất nông nghiệp phân bố ở độ cao 100 – 450m, nhìn chung những

Dù diện tích đất lâm nghiệp lớn nhưng hiện nay tài nguyên rừng ở Võ

vùng đất bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ, tập

Nhai còn lại rất nghèo, phần lớn là rừng non mới phục hồi, mới trồng, trữ

trung chủ yếu theo các khe suối, dọc các triền và thung lũng của vùng núi đá

lượng còn thấp. Nhưng với sự hỗ trợ của nhà nước và sự tích cực của người
dân, trong tương lai gần, tài nguyên rừng vẫn sẽ trở thành thế mạnh trong phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




19

20

triển kinh tế của Võ Nhai. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao

Chịu ảnh hưởng chế độ mưa vùng núi Bắc bộ, mùa mưa Võ Nhai thường


đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt tại khu vực 6 xã

diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

phía bắc huyện.

Lượng mưa trung bình hàng năm 1.941,5mm và phân bố không đều, chủ yếu

Khoáng sản: Võ Nhai nằm trong tỉnh Thái Nguyên thuộc vùng sinh

tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765mm (chiếm 91% lượng mưa

khoáng Đông Bắc - Việt Nam thuộc vành đai sinh khoáng tây Thái Bình

cả năm). Lượng mưa lớn nhất thường diễn ra vào tháng 8, trung bình khoảng

Dương. Do vậy, huyện có nguồn tài nguyên khá phong phú về chủng loại và

372,2mm [19, tr. 985].

trữ lượng.

Mưa lớn và tập trung gây xói mòn đất, lũ lụt ảnh hưởng tới cây trồng, độ

Kim loại mầu: chì, kẽm tìm thấy ở Thần Sa, vàng cũng tìm thấy ở Thần
Sa nhưng chủ yếu là vàng sa khoáng với hàm lượng thấp.

phì nhiêu của đất và các công trình thuỷ lợi, đặc biệt là ở tiểu khu III và I, nơi
có địa hình phức tạp, độ dốc cao và bị chia cắt nhiều.


Khoáng sản phi kim: Phôtphorit ở La Hiên có trữ lượng được đánh giá
vào loại khá (khoảng 60.000 tấn).

Bên cạnh đó các tháng mùa khô có lượng mưa không đáng kể, lượng bốc
hơi nước lại rất lớn, gây nên tình trạng khô hạn nghiêm trọng cho cây trồng,

Toàn huyện có những dải núi đá kéo dài, chạy dọc huyện, đây là nguồn
cung cấp vật liệu cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng, đá xây dựng, đất
sét,… đặc biệt có sét xi măng ở Cúc Đường có trữ lượng lớn và chất lượng tốt.

nhất là với cây trồng hàng năm.
Nói chung, tuy có phần khắc nghiệt nhưng khí hậu Võ Nhai vẫn tương
đối thuận lợi cho phát triển, sản xuất nông – lâm nghiệp.

Tuy nguồn khoáng sản có trữ lượng lớn nhưng đến nay, việc khai thác

Thuỷ văn: Võ Nhai là huyện miền núi, có địa hình bị chia cắt nhiều bởi

vẫn chưa đáng kể. Tài nguyên khoáng sản vẫn nằm ở dạng tiềm năng là chính.

các dãy núi đá nên huyện có nguồn nước khá phong phú. Ngoài nguồn nước

Nhưng, nguồn tài nguyên này sẽ là một thế mạnh rất lớn của Võ Nhai trong

mặt từ những sông suối còn có những nguồn nước khác từ các hang động

công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nếu được khai thác và sử dụng hợp lý.

trong núi đá vôi hiện đã và đang được sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt. Trên


Khí hậu: Khí hậu Võ Nhai mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi

địa bàn Võ Nhai có hai hệ thống sông nhánh trực thuộc hệ thống sông Cầu và

Bắc bộ chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Võ Nhai nằm trong

sông Thương được phân bố ở hai vùng là phía bắc và phía nam huyện, cung

vùng lạnh nhất của tỉnh Thái Nguyên. Nhiệt độ trung bình năm trên 22,4 độ

cấp hầu hết nước tưới cho diện tích sản xuất nông nghiệp của hai vùng này.

C. Tháng nóng nhất là tháng 7 có nhiệt độ trung bình là 27,8 độ C. Tháng lạnh

Sông Nghinh Tường là sông lớn nhất, chảy qua phía bắc huyện, là nhánh

nhất là tháng 1 có nhiệt độ trung bình là 14,9 độ C. Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối

của sông Cầu, bắt nguồn từ dãy vòng cung Bắc Sơn, có chiều dài 46km và lần

là 3 độ C. Biên độ ngày và đêm là 7 độ C. Chế độ nhiệt và địa hình như trên

lượt chảy qua các xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần Sa và

tạo cho Võ Nhai lợi thế để phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới

đổ ra sông Cầu.

như: hồng, táo, na, cam, quýt, vải, nhãn,…


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21

22

Sông Rong chảy qua phía nam huyện là nhánh của sông Thương, bắt

Các loại cây ăn quả và rau màu ngày càng tăng lên về số giống và diện tích.

nguồn từ xã Phú Thựơng chảy qua thị trấn Đình Cả, Tràng Xá, Dân Tiến,

Cây chè đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong ngành nông nghiệp

Bình Long và chảy vào tỉnh Bắc Giang.

của huyện.

Các nhánh sông suối trên địa bàn phân bố khá đồng đều và có nước

Ngành chăn nuôi của huyện phát triển tương đối ổn định: đàn trâu tăng từ

quanh năm rất thuận lợi sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt. Ngoài ra, trên địa


11.231 con năm 1975 lên 13.113 con năm 2006. Cùng giai đoạn đó đàn lợn

bàn huyện có khá nhiều hồ đập lớn nhỏ khác nhau: 11 hồ chứa nhỏ, 50 phai

tăng từ 10.851 con lên 29.124 con.

đập kiên cố, 12 trạm bơm và 122 kênh mương do nhà nước hỗ trợ và nhân
dân đóng góp xây dựng.

Với diện tích đất tự nhiên lớn và chủ yếu là đồi núi nên nghề rừng từ lâu
vẫn là một thế mạnh của Võ Nhai. Hiện nay, rừng nguyên sinh trên địa bàn

Tuy nhiện những năm gần đây do nạn chặt phá rừng gần như không được

huyện không còn, các loại gỗ quý và thú rừng quý hiếm cũng còn lại không

kiểm soát làm nguồn tài nguyên nước của huyện đang bị suy thoái, lũ lụt xảy

đáng kể nhưng việc phát triển trồng mới và bảo vệ rừng được đặc biệt quan tâm.

ra nhanh và nhiều hơn, có cả lũ ống và lũ quét. Đây là điều đáng lo ngại, biện

Năm 2003, diện tích trồng rừng mới là 456,43 ha, tăng 1,4% so với năm 2002.

pháp cấp bách là phải trồng và bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn để nhằm

Các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp trên địa bàn

điều tiết nguồn nước và lưu lượng chảy.


huyện đang rất được quan tâm khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, sự phát

1.3. Khái quát về kinh tế - xã hội của huyện Võ Nhai

triển đó chưa tương xứng với tiềm năng lớn của huyện này.

Trong thời kỳ diễn ra hai cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhân dân

Nói chung, trong những năm vừa qua, kinh tế Võ Nhai có sự chuyển biến

Võ Nhai với truyền thống yêu nước và cần cù lao động đã đạt được những

tích cực. Năm 2002, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng chiếm 43,6%, nông

thành tựu đáng kể trong sản xuất và đóng góp cho cách mạng. Tuy nhiên, nền

nghiệp còn 38,3%, dịch vụ là 18,1% kinh tế của huyện. Tốc độ tăng trưởng

kinh tế của huyện chậm chuyển biến, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó

bình quân hàng năm cao (≈ 12% năm). Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh (năm 2009

khăn, thiếu thốn.

còn 25,2%).

Bước vào thời kỳ đổi mới, kinh tế Võ Nhai có nhiều chuyển biến tích cực

Những chuyển biến đó là rất đáng khen ngợi với một huyện vùng cao


và nhanh chóng nhưng đến nay trong huyện thành phần kinh tế nông – lâm -

như Võ Nhai. Huyện đang từng bước thoát khỏi những khó khăn, tồn tại và

nghiệp vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong cơ cấu kinh tế.

vươn lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo xu thế chung của cả nước.

Trong nông nghiệp của huyện, nét nổi bật trong những năm gần đây là có
sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ theo hướng phát
triển hàng hoá gắn với thị trường, đa dạng hoá cây trồng. Do vậy, năng suất
và sản lượng đều đạt kết quả cao. Diện tích gieo cấy từ 3981 ha năm 1973

Cùng với kinh tế, văn hoá – xã hội huyện Võ Nhai cũng ngày càng có
những bước phát triển đáng kể trong hầu hết các lĩnh vực.
Đến nay, trên địa bàn huyện 100% xã được phủ sóng phát thanh truyền
hình, trên 70% số hộ có máy thu thanh.

tăng lên 45761 năm 2006. Năng suất từ 20.98 tạ/ha tăng lên 42,79ha năm 2003.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





23

24

Cuộc vận động “ Xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, cơ quan văn

Càng về sau, dân số Võ Nhai càng tăng dần do những đợt di cư của đồng

hoá” phát triển mạnh. Đến năm 2006, toàn huyện có 7569 gia đình văn hoá,

bào Tày, Nùng từ phía bắc xuống. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân

77 xã, bản văn hoá và 47 cơ quan văn hoá" [19, tr.995].

Pháp, nhiều hộ gia đình từ các tỉnh miền xuôi tản cư đến sinh sống, cùng tham

Sự nghiệp y tế - giáo dục được đặc biệt quan tâm ở huyện vùng cao này.

gia các hoạt động kháng chiến, sản xuất với nhân dân địa phương và coi đây

Hệ thống trường lớp được mở rộng, xây mới, chất lượng giáo dục được nâng

là quê hương thứ hai của mình. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, theo chủ

lên. Năm 2003, Huyện có trường tiểu học Phú Thượng được công nhận là

trương của Đảng và Chính phủ, huyện Võ Nhai tiếp nhận 11.931 nhân khẩu ở

trường đạt chuẩn quốc gia, có 04 xã được công nhận hoàn thành phổ cập


miền xuôi lên tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá. Những nơi

trung học cơ sở và có 08 lớp dạy nghề.

có đồng bào Kinh từ miền xuôi di cư đến và sinh sống nhiều nhất là thị trấn

Năm 2006, Võ Nhai có 121 cán bộ y tế, trong đó có 35 bác sỹ hoạt động
trong 18 cơ sở y tế gồm 140 giường bệnh.

Đình Cả, xã La Hiên, xã Tràng Xá. Dân số toàn huyện Võ Nhai tính đến thời
điểm cuối năm 2009 là 66.376 người thuộc 8 thành phần dân tộc khác nhau:

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ

Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Chay (Cao Lan, Sán Chí), H’Mông, Mường, Hoa.

vững. Mạng lưới an ninh nhân dân, tổ an ninh thôn xóm được kiện toàn, công

Mật độ dân số trung bình ở huyện Võ Nhai là thấp nhất tỉnh Thái Nguyên với

tác kiểm tra, trấn áp bọn tội phạm được thực hiện tốt.

76,1 người/km2. Nơi có mật độ cao nhất Huyện là Thị trấn Đình Cả và xã La

Nhân dân các dân tộc trong huyện Võ Nhai có truyền thống yêu nước,

Hiên, nơi thấp nhất là xã Sảng Mộc chỉ có 21,2người/km2.

đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất, cần cù, chịu khó trong lao động


Đến năm 2007, dân số trong độ tuổi lao động của Võ Nhai là 35.057

sản xuất. Điều đó cộng với những tiềm năng to lớn về tài nguyên, tự nhiên, về

người chiếm 54,3%. Trong đó, có 30.452 lao động nông nghiệp, lao động phi

truyền thống lịch sử văn hoá là những thế mạnh quan trọng, là cơ sở để huyện

nông nghiệp là 4.605 người (7,14% dân số toàn huyện). Qua đó, ta thấy cơ

phát triển, giầu mạnh đi lên hội nhập cùng xu thế công nghiệp hoá - hiện đại

cấu giữa lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp chênh lệch rất lớn. Chứng

hoá của tỉnh Thái Nguyên và của cả nước.

tỏ nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn huyện chưa

1.4. Dân cƣ và các dân tộc trên địa bàn huyện

phát triển. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá các ngành nghề và dịch
vụ ở Võ Nhai tiến triển chậm. Hơn 80% số lao động trong toàn huyện là lao

1.4.1. Dân cƣ
Những phát hiện của khảo cổ học tại di chỉ Thần Sa đã khẳng định địa

động phổ thông chưa được qua đào tạo. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2007

bàn Võ Nhai là một trong những cái nôi của người nguyên thuỷ. Những người


chỉ đạt 10,87%. Việc tạo công ăn việc làm còn gặp nhiều khó khăn. Thế mạnh

nguyên thuỷ sống bằng nghề săn bắt hái lượm. Trải qua một quá trình lâu dài

của huyện là có dân số trẻ, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn, giá nhân

hàng nghìn năm, dân số tăng lên, nguồn thức ăn cạn dần, họ đi dọc theo các

công rẻ. Đây là ưu điểm của huyện khi kêu gọi đầu tư phát triển các ngành

triền sông, khe suối, mở rộng địa bàn cư trú. Ngược lại, cũng có những bộ

kinh tế trên địa bàn.

phận khác di cư tới sinh sống, trở thành chủ thể của vùng đất này [19, tr.988].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




25

26

Nói chung, dù thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau, phong tục tập


mỏ kẽm ở Bắc Lâu, mỏ chì ở Vũ Chấn… Pháp đã đưa một số lượng đáng kể

quán có nhiều nết khác nhau, trình độ phát triển cũng không đồng đều nhưng

công nhân là người Kinh từ dưới xuôi lên, một phần đáng kể trong số họ đã

do điều kiện tự nhiên ở Võ Nhai có phần khắc nghiệt cũng như do truyền

lưu lại và định cư ở đây. Đến thời kỳ miền Bắc xây dựng Xã hội chủ nghĩa,

thống tương trợ nên nhân dân các dân tộc trong huyện luôn đoàn kết giúp đỡ

thực hiện chính sách khai hoang của Đảng và Nhà nước nhằm mở mang

lẫn nhau trong một cộng đồng thống nhất.

những vùng kinh tế mới, một bộ phận người Kinh đã di cư từ các tỉnh miền
xuôi lên làm ăn và định cư luôn ở nơi này.

1.4.2. Các dân tộc ở Võ Nhai
Dân số và thành phần dân tộc ở huyện Võ Nhai thể hiện qua bảng sau:

Võ Nhai là huyện miền núi cao nhưng ở đây, người Kinh chủ yếu sinh
sống và lập nghiệp ở những vùng đất thấp và bằng phẳng. Đặc biệt là dọc khu

Dân tộc

STT


Số khẩu

Tỷ lệ (%)

Ghi chú

vực quốc lộ 1B. Hoạt động kinh tế của họ cũng đa dạng hơn các dân tộc khác,

01

Kinh

22.993

36,64

ngoài làm nông - lâm nghiệp, họ tham gia chủ yếu vào các hoạt động dịch vụ

02

Tày

13.910

22,16

và thương nghiệp trên địa bàn huyện. Điều đó cộng với những kinh nghiệm

03


Nùng

12.313

19,62

làm ăn phong phú đã làm cho đời sống kinh tế, vật chất của họ phát triển và

04

Dao

8.299

13,22

ổn đinh hơn các dân tộc khác.

05

H’Mông

2.578

4,1

Dân tộc Nùng: Người Nùng ở Võ Nhai gồm ba nhóm: Nùng Cháo,

06


Sán Chay

2.517

4,01

Nùng Inh và Nùng Phàn Slình. Người Nùng ở đây chủ yếu di cư từ Lạng Sơn

07

Sán Dìu

81

0,13

sang và từ mạn Cao Bằng, Bắc Kạn xuống. Họ cư trú nhiều nhất ở các xã Lâu

08

Các dân tộc khác

54

0,12

Hoa, Mường

Thượng, Phú Thượng, La Hiên và các xã phía Nam Huyện. Phong tục tập
quán cũng như kinh tế vật chất của người Nùng có nhiều nét tương đồng với


( Nguồn: số liệu điều tra dân số năm 2004, Phòng Thống kê huyện Võ Nhai).

người Tày. Dân tộc Nùng ở Võ Nhai chủ yếu sống bằng nông – lâm nghiệp và

Dân tộc Kinh: Theo bảng thống kê trên, ta thấy dân tộc Kinh chiếm

chăn nuôi. Hiện nay, có một số gia đình Nùng đã chuyển sang kinh doanh

36,64%, đông nhất trong các dân tộc ở Võ Nhai. Theo số liệu mới thì đến

buôn bán do sống gần đường hoặc các trung tâm dân cư, nhưng ít hộ làm kinh

tháng 2/2010, tỷ lệ người Kinh ở đây còn chiếm 34.17%. Người Kinh ở Võ

doanh chuyên nghiệp, chưa bỏ hẳn được nông – lâm nghiệp.

Nhai cư trú ở hầu hết các xã, thị trấn nhưng tập trung đông nhất là ở thị trấn

Dân tộc Dao: Chiếm tỷ lệ khá lớn ở Võ Nhai với 13.22%. Người Dao ở

Đình Cả, xã Phương Giao, Tràng Xá, La Hiên. Người Kinh có mặt ở Võ Nhai

đây có lịch sử định cư chưa được lâu, họ di cư từ phía Bắc xuống và xa xôi

khá muộn. Sau khi đánh chiếm xong Thái Nguyên, thực dân Pháp thiết lập bộ

hơn, tổ tiên của họ từ phía nam Trung Quốc sang. So với các dân tộc khác thì

máy cai trị và ráo riết tiến hành công cuộc khai thác nơi dây. Võ Nhai là vùng


Người Dao định cư ở những vùng cao hơn thành những bản riêng biệt. Ví dụ

đất khá giàu tài nguyện. Khi tiến hành khai thác những mỏ đồng ở Sảng Mộc,

như: xã Vũ Chấn có 10 bản thì có 5 bản người Tày và 5 bản người Dao biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






27

28

lập. Ở Võ Nhai, người Dao cư trú đông nhất ở các xã Vũ Chấn, Nghinh

có số dân ít hơn nhiều. Riêng các dân tộc Sán Dìu, Hoa, mường đều có số

Tường, Liên Minh. Nói chung, đời sống của đồng bào Dao ở Võ Nhai còn

người dưới 100 (tính đến hết năm 2005). Họ có mặt ở Võ Nhai chủ yếu do

gặp nhiều khó khăn do vấn đề giao thông, tập quán làm ăn của đồng bào vẫn


quan hệ hôn nhân hoặc vừa mới di cư đến.

chưa được cải thiện nhiều.

Có thể nói, Võ Nhai là huyện có nhiều thành phần dân tộc, các dân tộc có

Dân tộc H’Mông: cũng như người Dao, người H’Mông cũng chưa có

nguồn gốc lịch sử khác nhau, phong tục tập quán khác nhau, trình độ không

lịch sử định cư lâu đời tại Võ Nhai. Họ thường cư trú trên những vùng núi

đồng đều, nhưng đồng bào các dân tộc trong huyện luôn gắn bó, đoàn kết,

cao. Cuộc sống dựa chủ yếu vào làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc và khai

tương trợ lẫn nhau trong một cộng đồng thống nhất. Tình trạng xung đột giữa

thác lâm thổ sản. Đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn. Tuy di cư đến muộn

các dân tộc không hề xảy ra. Sách Đồng Khánh dư địa chí chép rằng: “Trong

nhưng họ không tạo ra những sự xáo trộn và sống khá hoà thuận với các dân

huyện, người Kinh, người Thổ (Tày), người Mường sống xen kẽ nhau. Người

tộc khác. Người H’Mông ở Võ Nhai sống chủ yếu ở các xã Dân Tiến, Bình

dân thì quê mùa, tập tục thì thuần phác”.[9, tr.82]. Đó là yếu tố quan trọng


Long và Thượng Nung.

đưa đến sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

Dân tộc Tày: Tính chung trong phạm vi cả nước, người Tày có số dân
đông nhất trong các dân tộc thiểu số, ở Võ Nhai cũng vậy. Dân tộc Tày ở Võ
Nhai tập trung đông nhất ở các xã phía Bắc. Cúc Đường là xã có tỷ lệ người
Tày cao nhất. Cũng như người Kinh và người Nùng, đồng bào Tày thường
chọn những nơi thấp trong thung lũng, gần sông suối, giao thông tương đối
thuận lợi để định cư. Đời sống kinh tế vật chất và kể cả sinh hoạt cộng đồng
của họ có nhiều nét giống với người Kinh. Trình độ thâm canh lúa nước của
họ tương đối cao. Ngoài ra, người Tày cũng tham gia khá tích cực vào hoạt
động thương mại dịch vụ trên địa bàn huyện. Họ cũng nắm bắt khá nhanh và
vận dụng tốt những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Vì vậy đời sống
của họ phát triển và ổn định hơn nhiều dân tộc khác.
Những vấn đề cụ thể về các mặt của đời sống kinh tế - vật chất và văn
hoá tinh thần của dân tộc Tày sẽ được chúng tôi trình bày và phân tích rõ hơn
ở chương 2, trọng tâm của luận văn này.
Ngoài các dân tộc kể trên là có số dân đông hơn cả, ở Võ Nhai còn có
các dân tộc khác như: Sán Chay (Cao Lan và Sán Chí), Sán Dìu, Mường, Hoa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





29

30

CHƢƠNG 2

trong mình nó rất nhiều ý nghĩa hay mang tính thông báo một số thông tin

LÀNG BẢN CỔ TRUYỀN CỦA NGƢỜI TÀY

nhất định. Ý thức được tầm quan trọng đó của địa danh nên trong quá trình đi

Ở HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

điền dã, tìm hiểu và sưu tầm tư liệu, chúng tôi đã rất quan tâm và coi đây là
vấn đề đầu tiên trong việc nghiên cứu làng bản cổ truyền của dân tộc Tày ở

2.1. Tên gọi và không gian sinh tồn

Võ Nhai.
Qua khảo sát và thu thập số liệu từ các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ

2.1.1. Tên gọi và nguồn gốc tên gọi của làng bản
Theo Từ điển tiếng Việt, bản là “đơn vị dân cư nhỏ nhất ở một số vùng
dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam, nó tương đương với làng” [25, tr.30].

ban Nhân dân huyện Võ Nhai, chúng tôi thấy rằng: người Tày có mặt ở hầu
hết các xã, thị trấn trong huyện. Nhưng họ tập trung với tỷ lệ cao nhất ở các

Mỗi bản lại có một tên gọi, nguồn gốc và ý nghĩa rất khác nhau. Các bản


xã sau: Nghinh Tường, Vũ Chấn, Cúc Đường, Sảng Mộc, Thần Sa, Thượng

của người Tày nói chung và người Tày ở Võ Nhai nói riêng cũng giống như

Nung (đều là các xã phía bắc) và xã Phú Thượng. Vì thế chúng tôi chủ yếu

các làng xã người Kinh ở vùng đồng bằng, rất phong phú về hệ thống tên gọi.

thực hiện điền dã ở tại những xã này nhằm làm nổi bật những nét văn hoá Tày

Chỉ tìm hiểu về một tên gọi của một bản nhất định ta cũng có thể hiểu được

đặc trưng còn được bảo tồn trong các làng bản nơi đây. Các tên làng bản Tày

rất nhiều vấn đề như: lịch sử, quá trình hình thành của bản, điều kiện địa lý tự

làm ví dụ minh hoạ cũng sẽ được lấy từ những khu vực này.

nhiên, nghề nghiệp, quan niệm, phong tục,… Các tác giả cuốn: "Tên làng xã

Theo Địa chí Thái Nguyên, phần về huyện Võ Nhai thì:

Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra)", đã định nghĩa

Xã Nghinh Tường gồm 11 xóm bản là : Na Hấu, Bản Nhàu, Thâm Thạo,

tên làng xã của huyện hay một khu vực địa lý, lịch sử văn hoá như sau: là

Bản Trang, Bản Nưa, Bản Rãi, Nà Giàm, Na Lẹng, Bản Cái, Thượng Lương,


tổng thể các tên riêng đặt ra để gọi các đơn vị địa lý tự nhiên hay nhân văn

Hạ Lương.

của khu vực ấy. Đồng thời đó còn là những chứng tích về ngôn ngữ và có thể
cả về văn tự mà cộng đồng đã đặt, đã dùng và lưu lại trên địa bàn cư trú phát
triển của mình. Thời gian định cư càng lâu dài, trình độ sinh hoạt càng cao,
cảnh quan địa lý càng đa dạng, thành phần tộc người càng đông, điều kiện
phát triển thuận lợi… thì tên làng xã càng dồi dào và phức tạp về số lượng,
càng phong phú, sâu sắc về nội dung [21, tr.11].

Xã Sảng Mộc gồm 10 xóm bản: Bản Chương, Nà Ca, Phú Cốc, Khuổi
Mèo, Bản Chấu, Nà Lay, Khuổi Chạo, Tân Lập, Khuổi Uốn, Nghinh Tác.
Xã Vũ Chấn gồm 10 xóm bản: Na Mấy, Đồng Đình, Na Rang, Khe Rạc,
Cao Sơn, Na Đồng, Khe Rịa, Na Cà, Khe Cái, Khèn Nọi.
Xã Thượng Nung gồm 7 xóm bản: Tân Thành, Trung Thành, Lục Thành,
An Thành, Lũng Hoài, Lũng Cà, Lũng Luông.

Như vậy có thể nói, tên gọi của mỗi bản hay một khu vực địa lý là chiếc
chìa khoá đầu tiên để mở ra cánh cửa tìm hiểu tất cả sự phong phú đa dạng
của văn hoá tinh thần cũng như đời sống kinh tế vật chất của bản đó cũng như

Xã Thần Sa gồm 9 xóm bản: Trung Sơn, Kim Sơn, Hạ Sơn Tày, Hạ Sơn
Dao, Xuyên Sơn, Ngọc Sơn 1, Ngọc Sơn 2, Tân Kim, Thượng Kim.
Xã Cúc Đường gồm 5 xóm bản: Tân Sơn, Trường Sơn, Lam Sơn, Bình

của một vùng văn hoá hay một khu vực địa lý. Bản thân những tên gọi mang

Sơn, Mỏ Trì.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






31

32

Xã Phú Thượng gồm 11 xóm bản: Mỏ Gà, Phượng Hoàng, Đồng Mó, Nà
Pheo, Na Phài, Ba Nhất, Cao Biền [19, tr. 987].

càng ít đi, nên nguồn sống chính của họ từ xưa đến nay vẫn là từ cây lúa
nước. Vì vậy, truyền thống trọng nông từ xưa đã tồn tại trong cộng đồng Tày.

Đây đều là tên gọi ngày nay của các xóm bản. Có những tên đã có từ rất

Kinh nghiệm sản xuất của họ cũng khá cao do qúa trình đúc rút kinh nghiệm

lâu đời gắn với lịch sử định cư rất sớm của người Tày nơi đây, nhưng cũng có

lâu dài. Từ truyền thống trọng nông nghiệp, đặc biệt là canh tác lúa nước như

những tên mới xuất hiện cách nay vài chục năm, thậm chí vài năm. Những tên


vậy mà những tên gọi của các bản Tày mang tiến tố “nà” đã ra đời một cách

bản lâu đời thường là những bản độc người Tày cư trú hoặc đa số là người

rất tự nhiên và với tần xuất lớn ở khu vực này.

Tày. Những tên bản này xuất phát từ tiếng Tày, phần lớn mang những tiền tố
như: Nà, Bản, Lũng.

Những tên gọi mang tiền tố “nà” thường là những tên gọi cổ xưa nhất
còn được bảo lưu đến ngày nay. Trong những bản đó, kể cả các cụ cao niên

Trong đó, tên gọi mang tiền tố “nà” ( na) xuất hiện nhiều nhất:

nhất cũng không nhớ nổi rằng tên gọi của bản mình có từ đời nào, chỉ biết

Na Hấu

rằng nghe nó thật thân thuộc như vốn nó đã tồn tại. Những tên gọi đó thật đơn

Nà Giàn

giản nhưng đầy ý nghĩa, gần gũi với đời sống sinh hoạt của đồng bào.

Nà Lẹng

Xã Vũ Chấn có tất cả 10 bản thì có 5 bản Tày và 5 bản Dao phân bố gần

Nà Ca


như biệt lập. Trong 5 bản Tày đó thì có 4 bản có tên gọi mang tiền tố “nà”

Nà Lay

(na): Na Mấy, Na Rang, Na Đồng, Na Cà đều nằm dọc cánh đồng hẹp cành

Na Mấy

con suối có tên là suối Luông. Na Mấy có thể được đọc chệch của từ “nà

Na Rang

vầy” - ruộng cháy. Theo người dân trong bản, nhất là các cụ cao niên nghe

Na Đồng

truyền lại thì họ cũng không biết tên gọi đó có từ bao giờ, “chỉ nghe loáng

Na Cà

thoáng” rằng đã lâu lắm rồi “ hình như” ở khu vực đó đã từng xảy ra hoả hoạn

Nà Pheo

làm cháy những ruộng lúa và những ngôi nhà sàn lợp lá. Hay như bản Na

Na Phài

Rang, có thể được đọc chệch của từ “nà chang” trong tiếng Tày, sở dĩ có tên


Na Kháo.

gọi đó là vì khu vực này được coi là “ruộng ở giữa”. Bản này ngày nay là

Theo tiếng Tày, “nà” có nghĩa là ruộng, đồng.

trung tâm của xã Vũ Chấn.

Điều này cho ta thấy, cuộc sống của đồng bào nơi đây gắn với đồng

Cũng với quy luật đặt tên đó, xã Nghinh Tường có bản Nà Hấu (ruộng tốt)

ruộng. Do có lịch sử định cư khá lâu đời và thường cư trú ở những vùng thấp,

vì bản này có nhiều chân ruộng tốt rất thuận lợi cho cây lúa nước phát triển,...

thung lũng khá bằng phẳng, gần nguồn nước nên người Tày đã biết canh tác

Nhìn rộng ra các khu vực cư trú lâu đời của người Tày ngoài huyện Võ

lúa nước từ rất sớm. Đồng bào nơi đây ít làm nương rẫy do địa hình chủ yếu

Nhai, chúng ta cũng thấy rất nhiều những địa danh làng bản thậm chí xã,

là núi đá vôi hiểm trở, nguồn lâm sản thì ngày càng cạn kiệt do rừng ngày

huyện có tên gọi mang tiền tố “nà”, như các bản: Nà Gà, Nà Đóng, Nà Pế, Nà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






33

34

Luông, Nà Rạc, Nà Ngân, Nà Cốc, Nà Bon, Nà Háng, Nà Lăng,...(ở tỉnh Cao

địa danh sông ngòi thường rất cổ và sông ngòi là những đối tượng địa lý gắn

Bằng). Các huyện như: Nà Hang (Tuyên Quang); Na Rỳ (Bắc Kạn)... Tác giả

liền với cuộc sống hàng ngày của nhân dân trong quá trình sản xuất cũng như

Đàm Nam Điền trong luận văn cử nhân khoa học: Tên làng xã huyện Hoài

sinh hoạt, trong suốt thời gian lịch sử lâu dài của dân tộc, các địa danh này

An, tỉnh Cao Bằng trước năm 1945 đã khảo sát và đưa ra con số thống kê như

cũng lại được bảo lưu khá bền vững, ít bị thay đổi do các biến động của xã

sau: “tên gọi với tiền tố nà (ruộng) có số lượng nhiều nhất: 159/512, chiếm tỷ

hội” [1, tr. 51].


lệ 31,05%"[8].

Các bản Tày ở Võ Nhai cũng hầu hết được tập trung ở những nơi có

Như vậy, tên gọi mang tiền tố “ nà” gắn liền với ruộng đồng của dân tộc

nguồn nước, hầu hết là các dòng suối lớn, nhỏ. Con sông Nghinh Tường (một

Tày đã ra đời từ rất sớm, có thể nói các địa danh này ra đời ngay từ lúc người

nhánh quan trọng của sông Cầu) chảy qua hầu hết các xã phía Bắc Huyện.

Tày biết sống định canh, định cư và biết canh tác ruộng lúa nước. Những tên

Dọc hai bờ sông là những bản người Tày khá đông đúc.

gọi tuy đơn giản, không mang tính khái quát và trừu tượng nhưng đầy ý

Ở xã Sảng Mộc, chúng ta thấy có những tên bản như:

nghĩa. Vì vậy, nó có sức sống dai dẳng và tồn tại đến tận ngày nay. Đó là một

Khuổi Mèo

trong những nét đẹp đặc trưng của đồng bào Tày nơi đây nói riêng và trên

Khuổi Chạo

phạm vi cả nước nơi có dân tộc này sinh sống nói chung. Điều đó cho thấy


Khuổi Uốn

những người Tày tha thiết yêu những ruộng lúa, những cánh đồng và nghề

Điều này cho thấy, nguồn nước có ý nghĩa hết sức quan trọng với đời

nông truyền thống của họ. Họ yêu quý và trân trọng nơi họ cư trú, rộng ra là

sống cũng như hoạt động sản xuất của đồng bào. Không chỉ riêng dân tộc

yêu quê hương, đất nước.

Tày, ở Võ Nhai dân tộc Dao cũng có thói quen đặt tên khu vực cư trú của họ

Cùng với tên các bản mang tiền tố “nà”, chúng ta thấy xuất hiện những
bản có các tên gọi được đặt theo địa lý tự nhiên và phong cảnh sản xuất như
khuổi, lũng...

gắn liền với nguồn nước như: Khe Rạc, Khe Rịa, Khe Cái, Khèn Nọi (xã Vũ
Chấn),...
Với tiền tố “lũng” – thung lũng, ta cũng thấy xuất hiện một số tên bản tại

“Khuổi” theo tiếng Tày có nghĩa là suối, gắn liền với nguồn nước. Chúng

xã Thựơng Nung như: Lũng Hoài (thung lũng trâu).

ta đã biết đồng bào Tày thường chọn địa điểm cư trú, sản xuất gần những

Lũng Cà (thung lũng cỏ tranh).


nguồn nước, nhất như các khe, rãnh, suối, sông để vừa thuận tiện cho sinh

Lũng Luông (thung lũng lớn).

hoạt vừa thuận lợi cho canh tác lúa nước. Từ đó, những tên gọi mang tiến tố

Với vùng núi đá vôi hiển trở như Võ Nhai, nơi định cư và canh tác của

“khuổi” cũng ra đời. Trải qua thời gian những tên gọi đó ăn sâu vào tiềm thức

đồng bào Tày thường là ở những thung lũng khá bằng phẳng, xung quanh là

của họ và được truyền từ thế hệ này qua thế qua thế hệ khác. Những nguồn

những dãy núi. Ở những nơi đó, đồng bào thường làm nhà tựa lưng vào núi,

nước đó theo thời gian có thể thay đổi nhưng những tên gọi đó thì vẫn còn

hướng nhà xoay xuống dưới, thấp hơn thường là những ruộng bậc thang. Vì

mãi. Tác giả Nguyễn Văn Âu trong cuốn “Địa danh Việt Nam” đã nêu: “Các

thế tên gọi mang tiền tố “ lũng” ra đời cũng dễ giải thích.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên







35

36

Cùng với “nà”, “khuổi”, “ lũng” là tên gọi mang tiền tố “ bản”. Những
tên gọi này thường phản ánh đặc trưng nơi cư trú của đồng bào Tày như: vị trí
địa lý, địa hình, phong tục tập quán...

Ngày nay ở Võ Nhai, những xóm bản Tày còn mang rất nhiều tên mới,
thường nhũng tên này có yếu tố Hán Việt.
Tân Sơn.

Bản Nhàu

Trường Sơn.

Bản Trang

Lam Sơn.

Bản Nưa

Bình Sơn.

Bản Rãi


Trung Sơn.

Bản Cái

Kim Sơn.

Bản Chương

Hạ Sơn.

Bản Chấu

Xuyên Sơn.

Cùng với những tên gọi mang các tiền tố đã nêu trên, những tên gọi

Ngọc Sơn.

mang tiền tố “bản” cũng đã có từ lâu đời, gắn bó với quá trình đấu tranh với

Phượng Hoàng.

thiên nhiên, định cư và phát triển của đồng bào.

Tân Thành.

Những tên gọi bản không phổ biến ta cũng thấy khá nhiều ở vùng dân tộc

Trung Thành.


Tày Võ Nhai, điển hình và có từ lâu đời nhất là những tên bản như: Mỏ Gà

Lục Thành.

(xã Phú Thượng), Bản Cúc, Bản Nhò (xã Cúc Đường)... Những tên gọi này

An Thành

theo các cụ cao niên ở địa phương thì có nguồn gốc khác nhau, đôi khi khá

……………

thú vị. Ví dụ: Bản Cúc là bản Tày gốc lâu đời nhất tại xã Cúc Đường gắn với

Đây đều là những tên gọi mới xuất hiện cách nay chỉ khoảng vài chục

tên đình Cúc nổi tiếng một thời gian dài. Sau này khi có sự di cư của người

năm. Những bản Tày gốc do sự phát triển dân số, chia tách bản, sự di cư của

H’Mông, người Kinh đến đây cộng với sự gia tăng dân số đã dẫn đến sự chia

các dân tộc khác mới đến thường không duy trì được những tên cũ. Trường

tách và xác lập thêm những xóm bản mới, những tên cổ như Bản Cúc, Bản

hợp bản Cúc đã nêu trên là một ví dụ. Nhân dân nơi đây còn lưu truyền câu

Nhò không còn nữa. Ở xã Phú Thượng có một địa danh nổi tiếng nữa là Mỏ


nói: “Nhất thôn, nhất xã, nhất đình môn”- một thôn, một xã, một đình.

Gà (suối Mỏ Gà, đình Mỏ Gà và xóm Mỏ Gà). Tên Mỏ Gà ra đời một cách

Những tên gọi ngày nay ở Cúc Đường có từ khi người H’Mông, người Dao và

khá hy hữu. Nhân dân nơi đây truyền nhau rằng từ xa xưa lắm rồi có một trận

một số dân tộc khác di cư đến cộng với sự phát trển dân số nội tại đã buộc

mưa rất lớn và một trận lũ lịch sử đã xảy ra. Tại một miệng hang của khe đá

chính quyền địa phương phải chia tách, thành lập các bản mơi nhằm thuận lợi

nơi nước lũ tuôn ra ào ào và có trôi ra theo rất nhiều lồng gà không biết nguồn

cho công tác quản lý hành chính. Có thể nói, những tên mới này mang tính

gốc từ đâu. Địa danh Mỏ Gà xuất hiện từ đó và tồn tại đến tận ngày nay.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




37


38

“hiện đại” và trừu tượng hoá hơn nhưng thường nó vẫn xuất phát từ cách đặt
tên gắn liền với địa lý, điều kiện tự nhiên,… của xóm bản đó.

Vậy nói đến “không gian sinh tồn” của một cộng đồng dân cư là chúng ta
xét đến vị trí địa lý, cảnh quan tổng thể, khung cảnh sản xuất, kết cấu hình

Trong quá trình điền dã thực đia, chúng tôi không thể có điều kiện đến và

thể, những hoạt động kinh tế của dân cư,… trong tổ chức dân cư đó. Không

điều tra tất cả các địa danh có người Tày sinh sống ở Võ Nhai, thông tin cũng

gian sinh tồn của người Tày nói chung và người Tày ở Võ Nhai nói riêng có

chưa được đầy đủ. Vì vậy, những tên xóm bản được lấy làm ví dụ ở trên, một

những đặc trưng nhất định.

vài trong số đó có thể là những bản của người Nùng, Dao, H’Mông. Nhưng
dù sao, các xã phía Bắc huyện Võ Nhai cũng có đa số người Tày sinh sống.
Nền văn hoá Tày bao trùm toàn bộ khu vực này.

2.1.2.1. Vị trí địa lý và địa vực của bản Tày
Các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về nguồn gốc của dân tộc Tày ở Việt
Nam đều thống nhất rằng tổ tiên của họ là cư dân bản địa. Họ là một bộ phận

Như vậy, qua việc tìm hiểu dù chỉ ở mức độ sơ lược những tên gọi của


dân cư thuộc cộng đồng Bách Việt đông đảo. Cùng với các nhóm trong cộng

các bản người Tày, chúng ta cũng đã thấy ẩn trong đó những vấn đề rất đáng

đồng Bách Việt, người Tày từ rất sớm đã biết canh tác ruộng lúa nước. Đối

quan tâm và rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu tổng quát thiết chế của làng

với họ nguồn nước là sự sống còn. Gần nguồn nước là tiêu chí đầu tiên trong

bản người Tày, kể cả trong quá khứ lẫn hiện tại. Tình yêu của cư dân Tày đối

việc chọn đất dựng bản của người Tày.

vơi khu vực cư trú của họ, rộng ra là với quê hương đất nước được thể hiện

Người Tày ở Võ Nhai thường tụ cư ở những vùng giáp ranh giữa rừng và

ngay trong cách đặt tên nhưng làng bản, dù đơn giản nhưng trong đó là cả sự

ruộng, gần đó thường có những con suối hay sông nhỏ chảy qua. Nguồn nước

gửi gắm và một niềm tin mãnh liệt. Phần lớn những tên gọi đã có từ rất lâu

từ sông, suối không những được dùng cho sinh hoạt, ăn uống, tắm giặt mà

đời đó tồn tại dai dẳng và có tính bảo lưu rõ rệt. Chúng đã thân thiết và trở

quan trọng hơn cả nó là yếu tố tiên quyết trong việc canh tác cây lúa nước.


nên gần gũi với họ từ lâu đời. Đó là một nét đẹp trong nền văn hoá Tày phong

Theo tư liệu qua điền dã, chúng tôi thấy được, dọc những con suối ở Võ Nhai,

phú đa dạng và giàu bản sắc.

đặc biệt là sông Nghinh Tường là san sát các bản của người Tày. Ví dụ dọc

2.1.2. Không gian sinh tồn

con suối có tên là suối Luông thuộc xã Vũ Chấn thì lần lượt là các bản: Na

“Làng bản trước hết đó là không gian sinh tồn được phân định và được

Mấy, Na Rang, Na Đồng, Na Cà.

các cộng đồng làng bản khác thừa nhận. Trong không gian sinh tồn đó có đất

Cũng như nhiều dân tộc thiểu số khác ở phía Bắc, làng bản của người

đai để lập bản làng với những ngôi nhà được cất dựng theo những quy cách

Tày thường được toạ lạc trên những khu đất cao, tựa lưng vào núi, hướng

riêng, có đất canh tác gồm ruộng nương hoặc nương rẫy, những khoảnh rừng

xuống thung lũng hoặc nơi thoáng đãng, thấp hơn là những cánh đồng cạnh

dự phòng, rừng cấm, rừng đầu nguồn nơi con người có thể săn bắt, hái


những con suối lớn, nhỏ. Khu vực cư trú của đồng bào thường không tách

lượm…có đất đai để làm nghĩa địa, có bãi chăn thả gia súc, có dòng suối để

khỏi khu vực sản xuất. Nhà, ruộng, nương thường liền kề nhau. Điều này có

phục vụ sản xuất và sinh hoạt, để đánh bắt cá….” [4, tr. 227].

khác so với các dân tộc có truyền thống đốt nương làm rẫy. Khu cư trú của họ
thường cách xa nương rẫy nhằm tránh nguy cơ hoả hoạn khi đốt nương.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




39

40

Người Tày thuộc một trong những dân tộc đã sống định cư từ lâu đời.

biến cố lịch sử xảy ra trong lịch sử ở khu vực vùng này như: Cuộc kháng

Các làng bản của họ thường cố định, chỉ chọn một lần. Ngoài yếu tố gần


chiến chống Tống thế kỷ XI và Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nhà

nguồn nước là tiêu chí đầu tiên để chọn đất dựng bản, đồng bào còn quan tâm

Minh thế ký XV. Người Tày nằm trong những những nhóm cư dân đầu tiên

đến nhiều yếu tố khác khi chọn nơi định cư. Địa hình dựng bản, dựng nhà cửa

khai phá vùng đất này. Các bản Tày cũng ra đời sớm cùng với quá trình định

của họ thường là những thung lũng tương đối bằng phẳng nhưng vẫn đảm bảo

cư của dân tộc này ở Võ Nhai. Tuy nhiên lúc đó quy mô mỗi bản là rất nhỏ,

sự cao ráo, thoáng đãng. Xung quanh hoặc không xa nơi cư trú phải có đất

thường là dưới 10 nóc nhà, cá biệt chỉ có 02- 03 nhà một bản. Những bản trên

canh tác làm ruộng, làm nương. Người Tày là những cư dân sống ở vùng

30 nhà đã được coi là lớn. Đến đầu thế kỷ thứ XX, quy mô các bản Tày vẫn

thấp. Chúng ta không thấy ở đâu những làng bản người Tày đặt treo leo trên

chưa được cải thiện nhiều. Ví dụ: bản Trường Sơn (xã Cúc Đường) ngày nay

những vùng rẻo cao. Điều này là một truyền thống khác biệt so với dân tộc

nằm ở trung tâm xã, dân cư đông đúc nhưng vào những năm 1930 - 1940 (lúc


H’Mông, Dao và một số dân tộc ít người khác. Cây lúa nước đã tồn tại gắn

đó có tên là bản Cúc), bản chỉ có 05 hộ Tày gốc. Theo lời kể của cụ Nông

liền với quá trình phát triển của dân tộc Tày. Ngoài ra yếu tố phong thuỷ và

Tiến Hỷ - 87 tuổi thì họ Nông định cư đầu tiên ở đây, đến nay đã được

tôn giáo cũng được đồng bào để ý tới trong việc chọn đất lập bản làng, dựng nhà.

khoảng trên dưới 10 đời. Cả một vùng thuộc xã Cúc Đường ngày nay trước

Mỗi bản Tày cũng như nhiều dân tộc khác sống ở vùng núi thường có địa

năm 1945 chỉ có người Tày cư trú với 02 bản là bản Cúc và bản Nhò, mỗi bản

vực cư trú riêng bao gồm đất ở, đất canh tác, rừng rú, sông suối, bãi chăn thả

chưa đến 10 nóc nhà. Xóm Mỏ Gà (trước có tên là Làng Hang), xã Phú

gia súc…Ranh giới giữa các bản thường được xác định tương đối theo đường

Thựơng vào năm 1937 cũng chỉ có khoảng 07 – 08 nhà, Bản Na Đồng - xã Vũ

phân thuỷ, eo núi, sông suối hoặc đường xá. Từ đời này qua đời khác các thế

Chấn ngày nay là bản đông nhất xã với hơn 80 hộ dân tộc Tày, nhưng trước

hệ cư dân truyền cho nhau biết về cương vực của làng bản mình. Mọi người


năm 1945 bàn này cũng chỉ có 08 – 09 hộ dân.

dân trong làng vì thế mà nhận rõ ranh giới phân định bản mình với các bản

Điều này không chỉ có ở Võ Nhai mà tại những địa phương có tỷ lệ rất

xung quanh. Trước kia, người Tày thường ít khi sống xen cư với các dân tộc

cao dân tộc Tày sinh sống như Lạng Sơn, Cao Bằng theo số liệu thống kê còn

khác, các bản thường ở những khu biệt lập cách xa nhau. Vì vậy ý thức về

giữ được “thì những bản nhỏ nhất chỉ có 02 hoặc 03 nhà, những bản trên 30

ranh giới của người dân trong bản được thể hiện rõ ràng. Đối với họ, đó là của

nhà đã được coi là những bản lớn. Tài liệu thống kê 16 xã của Châu Cao Lộc

chung, cùng có quyền lợi được ở, được canh tác, săn bắn và cùng có nghĩa vụ

- Lạng Sơn vào năm 1938 cho thấy trong 117 thôn bản thì có 10 bản, tức

bảo vệ. Ý thức về một địa vực cư trú góp phần hình thành nên ý thức về dân

8,5% trên 30 nhà và 15 bản, tức 12,8% dưới 5 nhà. Cá biệt có điểm cư trú chỉ

tộc, về cộng đồng chung, một cộng đồng dân cư có tổ chức ổn định.

có 01 nhà” [23, tr.152 - 153]. Ngoài ra các dân tộc ít người khác ở Việt Nam


2.1.2.2. Quy mô của các làng bản Tày ở Võ Nhai

trong những bản làng truyền thống của họ cũng thường chỉ có dưới 10 hộ gia đình.

Người Tày đã có mặt ở Việt Bắc nói chung và ở Võ Nhai nói riêng hàng

Quy mô lớn hay nhỏ của mỗi bản Tày thường do mức độ ít hay nhiều của

ngàn năm. Các tài liệu đã chững minh họ tham gia tích cực vào các sự kiện,

ruộng đất canh tác quyết định. Những thung lũng lớn và tương đối bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






41

42

phẳng cạnh sông suối thường có một hoặc vài bản đông đúc cùng định cư.

nhỏ cũng thường chỉ có 02 - 03 dòng họ trở lên, cũng có bản lớn trên dưới 10


Những bản tại đó, dân cư sống tập trung và quây quần hơn, bởi đó là những

họ. Trong bản thường có một hoặc vài dòng họ có số nhân khẩu đông hơn, có

địa điểm tụ cư lý tưởng của người Tày. Những nơi có điều kiện khó khăn hơn

vị thế và tiếng nói có trọng lượng hơn so với các dòng họ khác. Những họ đó

về địa hình, diện tích đất canh tác ít, đất lại không màu mỡ thường quy mô

thường là những cư dân đầu tiên của bản, có công khai phá, lập bản làng.

của mỗi bản rất nhỏ, có vài gia đình. Những gia đình trong bản lại sống rải rác

Thường thì những phần ruộng tốt thuộc về họ và đương nhiên, các chức vị

thành vài xóm. Có khi mỗi gia đình ở một quả đồi hay một khe núi riêng biệt.

quan trọng trong bản do người của họ giữ. Ví dụ: bản Na Đồng (Xã Vũ Chấn)

Trong quá trình định cư và khai phá đất đai của người Tày ở nơi đây, xu

theo thống kê có tới gần 10 họ khác nhau, có số hộ và nhân khẩu đông hơn cả,

hướng tách lập thành những bản mới liên tục diễn ra. Một hoặc hai gia đình,

lần lượt là các họ Hoàng, Ma, Lý, Nguyễn. Họ Hoàng và họ Ma đã định cư ở

có khi cả một dòng họ với mong muốn tìm đến định cư ở những nơi có điều


bản này lâu đời nhất. Xóm Mỏ Gà (xã Phú Thượng) có họ Hoàng, họ Nông là

kiện tự nhiên thuận lợi hơn cho sinh sống, làm ăn, lâu dần những nơi đó trở

những họ lớn đã định cư rất lâu đời ở đây. Một bộ phận người Tày trong đó

thành bản mới với tên gọi riêng. Quá trình định cư, khai phá, dân số tăng cộng

có họ Lành đã di cư từ Lộc Bình, Bình Gia (tỉnh Lạng Sơn) đến đây do phải

thêm những thành phần cư dân khác di cư đến làm cho những bản nhỏ này

chạy Nhật vào những năm 40 - Thế kỷ XX. Dân tộc Nùng và Kinh chuyển

ngày càng có quy mô lớn dần. Điều này diễn ra liên tục trong quá trình phát

đến đã làm cho dân số và số họ trong bản tăng lên đáng kể. Bản Trường Sơn

triển của dân tộc Tày ở Võ Nhai nói riêng và dân tộc Tày trên toàn lãnh thổ

(xã Cúc Đường) cũng có gần 10 họ. Họ Hoàng, Nông, Nguyễn, Lương định

Việt Nam nói chung.

cư ở đây lâu nhất, có số hộ đông nhất.

Đó là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến việc hình thành những bản mới.

Trong quá trình sưu tầm tư liệu điền dã, tuy không thể đến hết các bản


Ở người Tày hầu như không có hiện tượng cả bản cùng nhau chuyển hẳn đi

Tày ở Võ Nhai do điều kiện, nhưng chúng tôi thấy rằng không thể tìm thấy ở

một nơi định cư khác, bởi truyền thống định canh, định cư đã có từ rất lâu đời

Võ Nhai bản nào của người Tày chỉ có duy nhất một dòng họ. Điều này theo

ở dân tộc có cuộc sống gắn liền với cây lúa nước này. Như đã ví dụ ở trên, xã

suy luận logíc là có thể có nơi như chúng tôi trình bày ở trên thì sự thành lập

Cúc Đường ngày nay có tất cả 05 xóm bản nhưng giai đoạn đầu thế kỷ XX

những bản mới bắt đầu 01 - 02 gia đình hoặc cả một dòng họ có nhu cầu tìm

chỉ có 02 bản Tày gốc là bản Cúc và bản Nhò. Những cư dân ở các bản mới

đất định cư và canh tác ở một nơi thuận lợi hơn chỗ cũ của họ. Những bản

hầu hết có nguồn gốc từ hai bản này cùng với số cư dân các dân tộc khác di

mới đó hoàn toàn có thể chỉ có một họ trong một thời gian nhất định. Điều

cư đến.

này chúng ta thấy điển hình ở Bản Chu, xã Hùng Sơn, huyện Tràng Định,

Bản người Tày phổ biến được cấu thành từ những gia đình phụ quyền
thuộc các dòng họ khác nhau “Cộng đồng bản là một xã nông thôn độc lập,


Lạng Sơn vốn chỉ có một dòng họ Nguyễn lên đây khai phá định cư
[23,tr.157].

lấy đơn vị nhà làm nền tảng” [23, tr.152]. Là một xã nông thôn nên quan hệ

Những bản có nhiều dòng họ thường là bản lớn, có số nhân khẩu đông và

láng giềng là quan hệ chủ đạo trong mỗi bản. Mỗi bản Tày dù quy mô lớn hay

đã được lập từ rất lâu. Ngược lại, những bản có một đến hai họ là những bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






43

44

nhỏ hơn hoặc bản mới thành lập. Từ những năm giữa thế kỷ XX trở lại đây,

Như đã trình bày, các bản làng người Tày thường ở vùng thấp, gần

trong mỗi bản Tày,số họ và số nhân khẩu tăng lên nhanh chóng. Người Tày


nguồn nước và đường giao thông chính có thể chạy qua giữa các bản hoặc

trong lịch sử không có thói quen sống xen cư với các dân tộc khác, trừ với

cạnh đó. Nếu đi dọc theo con đường từ La Hiên lên xã Nghinh Tường, chúng

người Nùng do cùng nguồn gốc và có rất nhiều nét tương đồng, nhưng khi có

ta sẽ đi qua rất nhiều làng bản Tày và hai bên ven đường dọc thung lũng cũng

các dân tộc khác di cư đến thì họ cũng rất hoà thuận với dân tộc này. Người

vậy. Những bản này thường có lịch sử khá lâu đời.

Kinh từ dưới xuôi lên với hình thức làm con nuôi, lên theo chính sách khai

Mỗi xóm trong bản thường có vài gia đình. Những xóm này được nối với

hoang của Đảng; Người H’Mông, người Dao từ Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà

nhau và nối với đường giao thông chính bằng những con đường đất, đường đá

Giang xuống được người Tày nhượng đất đai và hoà vào cộng đồng Tày nơi

do đồng bào tự làm. Điều kiện giao thông từ xưa đến nay tại vùng này còn rất

đây. Văn hoá giữa các dân tộc có sự giao lưu, bổ trợ nhưng văn hoá Tày

khó khăn.


truyền thống vẫn được bảo lưu cơ bản trong các dòng họ Tày gốc và trong
những bản mà người Tày đã định cư từ trước.

Làng bản người Tày trong truyền thống thường dựa lưng vào núi, mặt
hướng ra thung lũng, cánh đồng. Các ngôi nhà trong bản thường theo một

2.1.2.3. Kết cấu hình thể của làng bản

hàng lối nhất định. Hướng nhà có điều chỉnh chút ít dựa vào tuổi của gia chủ.

Vùng cư trú của người Tày ở Võ Nhai không có những cánh đồng lớn,

Đây là nguyên tắc truyền thống trong việc dựng nhà của người Tày. Người ta

những thung lũng cũng không rộng. Vì vậy các bàn Tày nơi đây thường phân

tránh những ngọn núi có hình thù quái dị đứng trước bản, những con sông,

bố rải rác. Mỗi bản cũng thường chia ra làm vài chòm xóm nhỏ, phân bố

suối đâm thẳng vào bản.

tương đối biệt lập nhưng đều hướng ra cánh đồng hoặc đường giao thông.

Ở người Tày khu vực cư trú và canh tác không biệt lập với nhau mà tuỳ

Điều này rất khác so với làng Việt ở Đồng bằng Bắc bộ. Cổng làng là yếu tố

thuộc vào yếu tố tự nhiên. Người ta không quan niệm đâu là khu vực để làm


rất đặc trưng ở làng Việt thì không có ở bản Tày và các dân tộc thiểu số khác.

nhà và đâu là khu vực để riêng làm ruộng nương, chăn thả,...

Điều kiện tự nhiên, địa hình ở đây khác xa so với đồng bằng.

2.1.2.4. Hoạt động kinh tế truyền thống

Giữa các bản với nhau và giữa các xóm trong một bản được phân định

Môi trường sinh thái tự nhiên trong không gian sinh tồn với ba yếu tố

bởi những yếu tố địa lý tự nhiên như: quả núi, con suối, cánh đồng...thậm chí

quan trọng nhất là nước, đất và rừng có ảnh hưởng quyết định đến định hướng

những ranh giới đó chỉ tồn tại trong ý thức của dân bản. Các làng bản người

kinh tế của đồng bào Tày ở Võ Nhai. Nghành kinh tế quan trọng nhất của họ

Tày ở Võ Nhai không có luỹ tre xanh hay những hàng cây, những yếu tố nhân

từ xưa đến nay là canh tác lúa nước. Kết quả của mỗi vụ lúa là nguồn sống

tạo bao bọc. Làng bản ở đây cũng không được bố trí theo tính chất phòng thủ

chính của họ. Ngoài cây lúa nước, đồng bào cũng rất chú trọng việc làm

như một số bản Tày vùng giáp biên của Cao Bằng, Lạng Sơn hay như các dân


nương rẫy, làm vườn với đa dạng các loại rau quả. Kinh tế tự nhiên cũng có

tộc vùng Thượng ở Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến. Đây là những bản

vai trò quan trọng. Ngoài ra, họ còn có những ngành kinh tế phụ trợ khác như:

làng mở, người ta không rào giậu xung quanh bản làng.

chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, đánh cá,... Đặc điểm nổi bật nhất trong nền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




45

46

kinh tế của người Tày Võ Nhai đó là mang nặng tính tự cung, tự cấp, thương

thúc, làm cỏ nhiều lần. Nước trong ruộng luôn được giữ ở mức độ thuận lợi

mại dịch vụ kém phát triển.


nhất cho cây lúa phát triển.
Để đảm bảo cho việc thâm canh lúa nước ở những địa bàn thung lũng,

Về trồng trọt:
Dân tộc Tày là một trong những nhóm cư dân thuộc nền văn hoá thung

người Tày ở Võ Nhai cũng như ở đồng bào Tày ở các khu vực khác từ xa xưa

lũng, cư trú ở vùng thấp, họ là những cư dân trồng trọt. Địa bàn Võ Nhai

đã rất quan tâm chú ý đến việc làm thuỷ lợi. Đặc biệt, hệ thống dẫn thuỷ nhập

không có những cánh đồng bằng phẳng rộng lớn mà chủ yếu là những thung

điền cổ truyền với mương, phai, cọn nước khá hoàn thiện. Phai là những chiếc

lũng hẹp, dài được bao bọc bởi những núi đá vôi dựng đứng. Đồng bào đã dày

đập ngắn, nước từ sông suối đi qua một hệ thống mương máng rồi chảy vào

công khai phá, cải tạo. Những thung lũng dọc sông, suối ở đây đã tạo thành

ruộng. Phai thường được làm ở đầu nguồn nước của cánh đồng. Nguyên liệu

những mảnh ruộng nước tương đối mầu mỡ thuận lợi cho cây lúa nước phát

để đắp phai chủ yếu từ tự nhiên: cây, que, dây rừng, đất,... vì thế tuổi thọ của

triển. Vì sinh sống ở vùng núi nên các loại ruộng của đồng bào khá đa dạng


những phai là không lớn, thường qua một mùa mưa lũ là đồng bào lại phải gia

gồm: ruộng nước, ruộng cạn chờ mưa, ruộng lầy thụt. Dù là ruộng tốt hay xấu

cố, có khi làm lại. Xưa kia công việc làm mương phai được coi là việc chung

trước đây đồng bào chỉ trồng một vụ lúa, cùng lắm là thêm một vụ hoa mầu

của bản. Mỗi nhà cử ra một hai người mang theo dụng cụ và góp nguyên liệu

một năm. Vài chục năm trở lại đây, ở những chân ruộng tốt nhất đồng bào

để đắp phai, làm mương máng. Hệ thống phai, mương ngày nay ở vùng này

mới cấy hai vụ lúa.

phần lớn chưa được đầu tư kiên cố hoá nên mọi quy trình gần như vẫn được

Trong việc trồng cấy lúa nước, người Tày có truyền thống làm đất rất kỹ.

thực hiện theo lối cũ. Tại những chân ruộng cao hơn bề mặt đường chảy, lại ở

Trước khi cấy, ruộng được cày bừa rất nhiều lần. Làm như vậy, theo đồng bào

cạnh suối, đồng bào dùng “cọn” (guồng xe nước) để đưa nước lên ruộng. Cọn

là để cho đỡ cỏ dại, lúa tốt và quan trọng hơn cả là cày bừa thật kỹ thì ruộng

hình bánh xe, đường kính từ 2-5m tuỳ theo độ cao của ruộng và độ sâu của


mới giữ được nước cho cây lúa phát triển. Công cụ làm đất của đồng bào gần

nước. Cọn là một trong những điển hình trong việc lợi dụng sức nước, làm

giống những công cụ làm đất của người Kinh.

chủ địa hình canh tác của đồng bào. Ngày nay, tại các bản Tày ở Võ Nhai

Ruộng cấy đã vậy, ruộng mạ còn được làm kỹ hơn nhiều. Ruộng làm mạ

người ta vẫn thấy lác đác những cọn nước.

thường được chọn là những chân ruộng ở cao, dễ thoát nước, vậy mạ mới dễ

Nói chung việc canh tác lúa nước của đồng bào ở đây gặp nhiều khó

nhổ. Theo kinh nghiệm “khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen” nên ruộng làm mạ

khăn vất vả hơn nhiều so với vùng đồng bằng nhưng nó cũng cho thấy sự sáng

thường được dùng cố định qua nhiều vụ. Sau khi cày vỡ, họ dọn bờ, bón lót

tạo cũng như tình yêu đặc biệt của đồng bào cho những ruộng lúa của họ.

phân chuồng, thêm phân xanh, cày bừa thêm nhiều lần cho đất thật nhuyễn,
tháo sạch nước sau đó dùng cày san phẳng, đánh thành luống rồi gieo mạ.

Ngoài lúa nước, người Tày ở Võ Nhai cũng phát nương làm rẫy. Vùng
cư trú chủ yếu của đồng bào Tày là vùng núi đá vôi, với những vách đá dựng


Quá trình chăm sóc lúa của đồng bào từ lúc mới còn là cây mạ cho đến

đứng, ít núi đất nên đồng bào ở đây cũng có không nhiều nương rẫy. Canh tác

lúc được thu hoạch diễn ra với nhiều công đoạn cẩn thận như: bón lót, bón

nương rẫy của đồng bào tuân theo một quy trình nghiêm ngặt: phát đốt, làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






47

48

đất, trồng tỉa, làm cỏ, chăm bón, thu hoạch. Theo kinh nghiệm chọn đất

vợ, làm nhà” được coi là ba việc quan trọng nhất trong cả cuộc đời người đàn

nương của đồng bào thì loại nương tốt nhất là được khai phá từ rừng già, có

ông dân tộc Tày. Con trâu có ý nghĩa quan trọng lớn lao đối với họ như vậy

mầu cây lá xanh thẫm. Đối với nương mới phát trong 2, 3 năm đầu đồng bào


nên việc chọn trâu được đồng bào rất quan tâm. Ở các bản Tày, trâu chủ yếu

thường trồng lúa vì còn tốt, sau đó chuyển sang các loại hoa mầu khác như:

được thả rông vào rừng, ở đồng ruộng sau khi thu hoạch. Trước kia có bản có

Ngô, khoai, săn, đỗ... sau khi canh tác vài năm thấy bạc mầu họ thường chủ

luật tục quy định khu rừng riêng dành cho chăn thả trâu, bò. Việc chăn thả

động bỏ hoang một vài năm rồi mới khai thác lại. Quy trình khai thác theo chế

trâu chủ yếu do người già, phụ nữ, trẻ em đảm trách. Sáng họ lùa đàn trầu vào

độ này vừa tận dụng được quỹ đất, giữ được rừng, chống được xói mòn.

rừng, tối lại đón về, có khi trâu tự về. Có nơi người ta để mặc trâu trong rừng

Những nương mới, đồng bào không phải bón phân mà sau khi đốt đợi mưa

cả tháng, chỉ thỉnh thoảng vào chăm nom. Trâu được lùa về chủ yếu được

xuống là chọc lỗ, tra hạt bởi vì đây là những mảnh nương có độ dày mùn cao,

nhốt dưới gầm sàn. Ngày nay thì chuồng trâu đã được đồng bào làm ra một

đất rất tốt. Những nương cũ họ phải cuốc hoặc cày lần lượt và phải có phân

khu biệt lập do nhận thức về vệ sinh và tập quán đã thay đổi.


bón do đất bị xói mòn, bạc mầu. Người Tày ở Võ Nhai còn canh tác một loại

Các loại gia súc, gia cầm cũng được đồng bào chăn nuôi chủ yếu theo

nương rất đặc biệt gọi là nương hốc đá (“rầy thin”). Loại này canh tác rất khó

hình thức thả. Lợn, gà, ngan, vịt, dê đều được thả rông tự kiếm thức ăn. Buổi

nhưng có thể làm được lâu dài do có đá che chắn, không bị xói mòn, giữ ẩm

tối chúng mới được cho ăn thêm bằng các loại nông sản như: cám, gạo, ngô,

tốt. Hiện nay, những mảnh nương, rẫy gắn với núi đá, đồng bào đã chuyển

sắn... Tập quán nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm sàn của đồng bào trước đây

sang trồng một số cây ăn quả dài ngày, tiêu biểu là cây na.

chủ yếu nhằm tránh thú dữ.

Từ xưa, phần lớn các gia đình Tày đều có vườn nhưng có thể nói kinh tế

Có thể nói, chăn thả tự nhiên là một ngành kinh tế phụ gia đình trong các

vườn chưa có vị trí đáng kể đối với họ. Vườn thường hẹp, không bằng phẳng.

bản Tày truyền thống ở Võ Nhai. Các gia đình có khá đa dạng các loại vật

Trong vườn, người Tày thường trồng đủ các loại rau quả, gia vị, nhằm phục


nuôi nhưng mục đích chính vẫn là nhằm tận dụng các loại phụ phẩm nông

vụ cho nhu cầu của gia đình. Điều này thể hiện rõ tính chất tự cung, tự cấp

nghiệp và phục vụ cho nhu cầu của gia đình, làng bản là chính, năng suất và

trong kinh tế của đồng bào.

lợi nhuận thấp.

Chăn nuôi:

Tiểu thủ công nghiệp:

Với tính chất của nền kinh tế truyền thống là tự nhiên, tự cung tự cấp nên

Khi mà thương nghiệp và trao đổi ở vùng này chưa phát triển thì đồng

đồng bào Tày có đa dạng các ngành nghề kinh tế. Chăn nuôi là bộ phận khá

bào buộc phải tự sản xuất ra hầu hết các sản phẩm thủ công để phục vụ cho

quan trọng, tập quán truyền thống của đồng bào trong chăn nuôi là chăn thả.

cuộc sống của chính họ. Đó là lý do để cho các nghề thủ công truyền thống

Các loại vật nuôi cũng khá đa dạng đủ cả gia súc, gia cầm. Nhưng nhiều nhất

phát triển khá đầy đủ và đa dạng trong các làng bản người Tày. Ở người Tày


vẫn là trâu, lợn, gà, vịt và thả cá ruộng. Vì là cư dân gắn với đồng ruộng nên

Võ Nhai những nghề thủ công không thể thiếu đối với họ là: đan lát, dệt, mộc,

đồng bào rất coi trọng con trâu vì “con trâu là đầu sức kéo”. “Tậu trâu, lấy

chế biến một số nông lâm sản (nấu nượu, làm đậu, ép mía đường, ép dầu thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






49

50

vật),... Các sản phẩm thủ công này chỉ được sản xuất nhỏ, lẻ theo quy mô gia

phải đi bộ cả chục cây số, leo ngược dốc mới đến được chợ. Vì vậy, đi chợ

đình, chưa được coi là hàng hoá. Ở Võ Nhai chưa thấy có làng bản Tày nào

phải mất đến 2-3 ngày và đôi khi phải ngủ trọ nhà người quen. Dù khó khăn


mà người dân sống bằng thủ công nghiệp là chính.

vất vả như vậy mỗi khi đi chợ đồng bào coi là một thú vui rất lớn và nó đã trở

Kinh tế tự nhiên:

thành một nét văn hoá. Tại những buổi chợ phiên đó người ta không chỉ trao

Sống ở vùng cao, gắn với những cánh rừng và sông suối nên kinh tế tự

đổi buôn bán mà còn có dịp được gặp gỡ, giao lưu với những người đồng bào của

nhiện từ lâu đã là một mảng kinh tế không thể thiếu và có vai trò quan trọng
trong việc cải thiện đời sống thường nhật của đồng bào.

mình và với những dân tộc khác. Nam nữ coi đây là dịp tốt để tìm hiểu nhau.
Ở những buổi chợ phiên đó, đồng bào thường mang bán những thứ nông

Trong đời sống kinh tế truyền thống của đồng bào: săn bắn, hái lượm,

lâm thổ sản, gia súc do mình làm ra và mua về những nhu yếu phẩm như:

chiếm đoạt các sản vật sẵn có trong tự nhiện để sinh sống là hoạt động không

mắm muối, dầu đèn và rất nhiều thứ hàng tiêu dùng khác. Những thứ hàng

thể thiếu. Các loại muông thú, rau, củ, quả sẵn có trong rừng là nguồn cung

này là của những tiểu thương người Kinh gồng gánh từ dưới xuôi lên. Hàng


cấp thực phẩm cho các bữa ăn, dược liệu để chữa bệnh. Không những thế,

hoá được tính theo đơn vị đo lường trong vùng: gà, vịt tính con, rau tính mớ,

việc đánh bẫy, săn bắn còn có ý nghĩa ngăn chặn sự phá hoại của muông thú,

củi tính bó, thóc gạo tính bằng ống... Việc dùng cân kilô cũng đã khá phổ

bảo vệ mùa màng. Hoạt động chiếm đoạt tự nhiên của họ diễn ra quanh năm.

biến. Tiền đã được dùng làm đơn vị trao đổi, tuy nhiên hiện tượng vật đổi vật

Có hai hình thức săn: săn cá nhân và săn tập thể. Vũ khí săn là súng kíp,

cũng vẫn còn.

dao, lao, tên nỏ, và các loại cạm bẫy. Dụng cụ đánh bắt cá gồm có: Chài lưới,

Từ năm 1985 khi chợ Cúc Đường được thành lập thì việc buôn bán và

câu, đó, ... Săn bắn là công việc của đàn ông, còn hái lượm các loại rau, củ,

trao đổi hàng hoá của đồng bào dân tộc Tày cũng như các dân tộc khác tại 6

quả trong rừng là công việc của phụ nữ. Công việc này diễn ra quanh năm

xã phía Bắc Võ Nhai đã dễ dàng hơn nhiều. Ngày nay, tại mỗi xóm bản đều

nhưng họ đều tranh thủ khi nông nhàn. Vào mùa xuân – hè, kiếm các loại rau,


có một vài cửa hàng tạp hoá bán đủ các loại nhu yếu phẩm phục vụ cho nhu

măng, nấm, mộc nhĩ. Mùa thu – đông thì các loại củ, quả sẵn có trong rừng là

cầu của bà con. Chợ Nghinh Tường cũng được lên kế hoạch xây dựng sẽ là

nguồn cung cấp thực phẩm cho các bữa ăn, dược liệu để chữa bệnh.

điều kiện tốt cho thương mại nợi đây.
Nói chung kinh tế truyền thống của người Tày ở Võ Nhai lấy cây lúa

Trao đổi buôn bán:
Ở Võ Nhai người Tày cư trú nhiều tại 6 xã phía Bắc nơi mà điều kiện

nước và hoạt động sản xuất nông nghiệp làm trung tâm. Ngoài ra kinh tế tự

giao thông gặp quá nhiều khó khăn, bị ngăn cách bởi những dãy núi song

nhiên có vai trò đáng kể và vẫn luôn được duy trì. Tiểu thủ công nghiệp của

song và dựng đứng. Đó là một thiệt thòi lớn và hạn chế sự giao lưu kinh tế,

đồng bào cũng chưa có thế mạnh, chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu nội tại. Trao

trao đổi buôn bán của đồng bào nơi đây.

đổi buôn bán gặp rất nhiều khó khăn do địa hình. Ngày nay, tình hình kinh tế

Trước năm 1985 cả 6 xã phía Bắc đều không có chợ. Đồng bào phải đi


của đồng bào đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, việc đầu tư cho hệ

chợ huyện tận Đình Cả hoặc chí ít cũng phải ra La Hiên thì mới có chợ. Họ

thống giao thông trong vùng là việc cần làm ngay.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






×