Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

HỌC THUYẾT NHÂN lễ, CHÍNH DANH của KHỔNG tử và ẢNH HƯỞNG của nó TRONG xây DỰNG GIA ĐÌNH ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.09 KB, 17 trang )

1

Học Thuyết nhân lễ chính danh của khổng tử
và sự ảnh hởng trong xây dựng gia đình văn hoá
ở nớc ta hiện nay.
Mở đầu
Khổng tử sinh năm 551, mất 479 trớc công nguyên, tên là khổng Khâu,
tự là Trọng Ni; ông là ngời nớc Lỗ- nơi bảo tồn đợc nhiều di sản văn hoá cũ
của nhà Chu. Thời đại của ông là thời đại vơng đạo suy vi, bá đạo trị vì, lễ
nhạc của nhà Chu bị đảo lộn. Với hoài bão chính trị của mình, ông đã xây
dựng học thuyết Nhân lễ chính danh nhằm góp phần lập lại kỷ cơng,
lễ nhạc của nhà Chu, giải quyết những vấn đề xã hội những vấn đề cấp
bách đặt ra trong thời đại ông đang sống. Do sự chi phối mang tính quyết định
của điều kiện xã hội lịch sử, sự hạn chế của bản thân Khổng Tử, nên bên cạnh
những cống hiến to lớn còn tồn tại một số hạn chế nhất định của học thuyết
này, những hạn chế ấy đã bộc lộ ngay cả khi đợc áp dụng vào trong xã hội của
thời đại Khổng Tử, cũng nh trong thời đại mới thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Bởi vậy, chúng ta cần biết bóc tách, kế
thừa và lọc bỏ những gì trong học thuyết này để nghiên cứu, vận dụng vào xây
dựng gia đình văn hoá mới ở nớc ta hiện nay.
1. Những t tởng cơ bản về Nhân lễ chính danh trong triết
học chính trị xã hội của Khổng Tử.
Nhà triết gia nổi tiếng - Khổng Tử của Trung Quốc thời kỳ cổ đại đã có
những đóng góp đáng kể trong những quan niệm của ông về thế giới, ông đã
nêu lên những t tởng về trời, đạo trời, mệnh trời, nhiều khi ông đã coi trời là
giới tự nhiên, nh quy luật vận hành của tự nhiên, muôn vật luôn tự vận động
không ngừng Thiên hà ngôn tại? Tứ thời hành yên, bách vật sinh yên, nghĩa
là trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh ra). Nhng có lẽ
cống hiến lớn hơn cả của Khổng Tử là ở t tởng triết học chính trị xã hội của
ông, mà trong đó tiêu biểu nhất, trung tâm nhất là học thuyết về Nhân lễ
chính danh.


Nhân lễ chính danh tuy là ba phạm trù khác nhau, nhng giữa
chúng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, nếu tách rời nhau sẽ không
chỉ làm hạn chế tác dụng của nhau mà còn làm cho chúng không thể tồn tại,
không có giá trị gì trong cuộc sống; bởi vì trong nhân đã có lễ và chính danh,
cũng nh trong lễ đã có nhân và chính danh, và đơng nhiên trong chính danh


2

cũng đã có nhân và lễ. Song, không phải vị trí vai trò của ba phạm trù ấy nh
nhau, mà phạm trù nhân luôn đợc xem là cốt lõi, là hạt nhân bao trùm toàn
bộ học thuyết chính trị của ông.
Nhân trong t tởng triết học của Khổng Tử không phải là cái bất biến,
chật hẹp, mà là một nội dung có sự biến hoá linh hoạt, tuỳ vào từng điều
kiện hoàn cảnh cụ thể để nội dung của nhân biểu hiện ra, do đó nhân còn luôn
hàm chứa nhiều vấn đề rất sâu sắc. Theo ông, nhân là đức tính toàn thiện, là
cái gốc đạo đức của con ngời, là lòng yêu thơng con ngời, giúp đỡ mọi ngời.
Nên đã có lần học trò của ông (Phàn Trì) hỏi thầy, thế nào là nhân, ông trả lời
Thơng ngời (ái nhân) là nhân, Kỷ sở bất dục, vật thi nhân nghĩa là điều gì
mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho ngời khác; ông còn nói,
Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân nghĩa là mình muốn lập
thân thì cũng giúp ngời khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp ngời khác thành đạt ấy là nhân. T tởng ái nhân của Khổng Tử rõ ràng là thời đại
nào cũng rất cần, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
nay. Nếu nh ở thời đại Khổng Tử do xã hội loạn lạc, do tồn tại chế độ áp bức
bóc lột, nên t tởng ái nhân là một t tởng tiến bộ và cần thiết, thì ngày nay
không kể là xã hội loạn lạc hay áp bức bóc lột t tởng ái nhân ấy vẫn rất cần
thiết, thậm chí còn là vấn đề bức thiết khi trong xã hội đang có không ít ngời
trà đạp lên nhân phẩm, coi thờng tính mạng ngời khác, đối xử với nhau trên cơ
sở giá trị của đồng tiền, trong nhiều mối quan hệ xã hội hiện nay đã và đang
có xu hớng tiền hoá, thậm chí ngay cả trong quan hệ huyết thống, gia đình,

dòng họ.v.v. Có lẽ vì thế mà ngay từ xa xa Khổng Tử đã nhận thức đợc mối
quan hệ giữa gia đình và xã hội, nên ông đã cho rằng ái nhân là phải biết lấy
hiếu đễ làm gốc, muốn có quan hệ xã hội tốt thì phải có các quan hệ huyết
thống tốt. Trong luận ngữ học nhi ông đã viết Quân tử tử tế với ngời thân, tất
dân hứng khởi làm điều nhân nghĩa là cẩn thận nhớ tới ngời thân xa dời, thì
dân đức đầy đặn. T tởng ái nhân của Khổng Tử đợc xuất phát từ nguyện vọng
điều chỉnh có tinh phổ biến của quan hệ giữa con ngời với con ngời, của quan
hệ đạo đức có tính chất giai tầng. Từ đó dẫn tới t tởng Vi chính dĩ đức, tức là
làm chính sự phải lấy đạo đức làm nền tảng, phải biết Sát thân thành nhân
(bỏ thân bé nhỏ để đạt đợc nhân lớn. Để có ái nhân tốt thì không đợc phân biệt
đẳng cấp, sang hèn mà phải luôn yêu thơng lẫn nhau ái hữu sai đẳng, phải
có ôn, cung, nhợng, khoan, tín, mẫn, huệ nghĩa là phải ôn hoà, cung kính,
nhờng nhịn, khoan dung, tín cẩn, cần cù và ra ơnNhng, trong t tởng về nhân


3

của Khổng Tử lại chứa đựng sự phân biệt giai cấp, điều này vừa làm hạn chế t
tởng ái nhân, vừa làm bó hẹp phạm vi phát triển của nhân, ông cho rằng chỉ
có ngời quân tử (tức giai cấp thống trị) mới có thể đạt đợc đức nhân, còn kẻ
tiểu nhân (tức nhân dân lao động) không thể có đức nhân, ông nói, Quân tử
nhi bất nhân giả hữu hỹ, vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả dã (đạo nhân chỉ là
đạo của ngời quân tử, của giai cấp thống trị, bậc tiểu nhân không có đạo
nhân).
Nhân trong triết học của Khổng Tử còn đợc thể hiện ở t tởng thợng
hiền (tôn trọng ngời hiền tài), đã là ngời hiền tài thì ta phải kính trọng, phải
nhờng nhịn, nếu không nhờng tức là ăn cắp địa vị, ông cho rằng học tập lễ
nhạc trớc, rồi mới làm quan, chính là những kẻ dã nhân (tức dân thờng), làm
quan trớc rồi mới học lễ nhạc chính là ngời quân tử (con cháu quý tộc); nếu
dùng ngời thì ta chọn những ngời học tập lễ nhạc trớc.

T tởng thợng hiền của Khổng Tử đợc nhiều triết gia, nhiều nhà nghiên cứu
về chính trị xã hội sau này tiếp tục phát triển, đến thời đại của C.Mác và
Ph.ăngghen t tởng ấy đợc nâng lên thành t tởng về vị trí, vai trò của cá nhân
lãnh tụ trong phong trào quần chúng.
Nớc ta đang trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phầncàng cần phải có nhiều hiền tài. Hơn nữa, công cuộc đổi mới toàn
diện đất nớc, cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay càng đặt ra yêu cầu
cấp thiết của việc lựa chọn và phát huy vai trò những ngời vừa có đức, vừa có
tài phục vụ cho đất nớc và trên thực tế họ đã và đang đóng góp không nhỏ cho
sự phát triển của xã hội. Nhận thức rõ điều này Đảng ta luôn chăm lo bồi dỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, ngày càng có nhiều chính sách để thu hút
nhân tài, vì hiền tài là nguyên khí quốc gia, quốc gia nào càng có nhiều ngời
hiền tài thì càng có điều kiện phát triển mạnh và ngợc lại. Lẽ đơng nhiên, đã là
ngời vừa có đức, vừa có tài thì từ việc gia đình đến việc xã hội họ luôn tận tụy,
làm hết sức mình, chăm lo xây dựng cho gia đình và xã hội ấy ngày càng phát
triển tốt đẹp.
Trong triết học chính trị xã hội của Khổng Tử nhân còn bao hàm nội
dung lấy hiếu đễ làm gốc, phàm việc gì cũng phải coi trọng chữ hiếu, phải
biết yêu quý, kính trọng cha mẹ, vợ phải trọng chồng. ông cho rằng khi cha
mẹ mất thì đạo làm con phải để tang cha mẹ ba năm mới đợc coi là có hiếu, và


4

có nh thế mới là có nhân. Có lần ông nói với học trò Tử Lộ, ngơi đã quên rồi
sao, cha mẹ mất phải để tang ba năm, ấy mới là ngời có hiếu, nếu chỉ để tang
cha mẹ có một năm thì sao gọi là có hiếu, sao gọi là có nhân. ở nớc ta hiện
nay t tởng này vẫn còn nhiều nơi, nhiều gia đình thực hiện, có nơi cho rằng
sau ba năm cha hoặc mẹ mất mới gọi là hết khó, con cái không phải đeo
băng tang; nếu chồng mất (hoặc vợ mất) thì cũng phải sau ba năm mới đợc đi

lấy ngời khác.
Nhân trong t tởng của nhà triết học Khổng Tử không phải chỉ là yêu thơng ngời khác, mà còn phải biết yêu thơng, quý trọng chính bản thân mình,
phải biết làm cho mọi ngời yêu quý mình, tôn trọng mình. Song, đây không
phải là t tởng đề cao cá nhân, không phải là cá nhân chủ nghĩa, mà thực chất
đây là một đức tính đáng quý, một yêu cầu rất cao để có thể đạt đợc nhân.
Ngày nay, t tởng ấy đợc chúng ta hiểu tôn trọng hay yêu thơng ngời khác
chính là tôn trọng hay yêu thơng bản thân mình, tôn trọng bản thân mình cũng
chính là đã tôn trọng ngời khác. Việc làm cho ngời khác yêu thơng, quý trọng
mình là một yêu cầu đòi hỏi rất cao, mỗi ngời phải bằng chính phẩm chất,
năng lực của bản thân, bằng chính ngôn khẩu(lời nói) và động(việc làm)
để tạo ra uy tín, thu phục ngời khác chứ không phải là dùng thủ đoạn mà tạo
uy tín, vì đó chỉ là thứ uy tín giả của một số kẻ t lợi, tiểu nhân. Do vậy,
Khổng Tử cho rằng Phẩm chất chất phác, tình cảm chân thực là điều kiện cần
thiết để trau dồi đức nhân (mộc cột cận nhân), những ngời thích trau truốt,
hình thức, khéo nói là ít đức nhân (xảo ngôn lệnh sắc, tiểu hỹ nhân) [6, 28].
T tởng này của Khổng Tử nh một thang giá trị trong quá trình xây dựng, thực
hiện các chuẩn mực đạo đức xã hội, nó cần đợc nhân rộng và phát huy vai trò
hơn nữa trong xã hội ta hiện nay.
Theo kết quả nghiên cứu của giáo s Phan Đại Doãn, chữ nhân đợc xuất
hiện 109 lần trong Luận ngữ, trong đó khái quát và yêu cầu cơ bản là khắc
kỷ và ái nhân. Khắc kỷ đợc hiểu là sự ràng buộc bản thân vào lễ, mọi hành
vi đều tuân thủ theo lễ, phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ
vật động (không nhìn điều trái lễ, không nghe điều trái lẽ, không nói điều trái
lễ, không làm điều trái lễ), có nh vậy mới có thể đạt đợc đức nhân, nói cách
khác nếu gọi là nhân mà không gắn với lễ thì không thể là nhân, đã là nhân thì
bao giờ cũng phải quyện chặt với lễ. Do đó, để đạt đợc đức nhân toàn vẹn theo
đạo làm ngời thì phải khắc kỷ phục lễ nhân (phải kìm chế ham lợi của bản


5


thân, tuân theo các quy định của xã hội, đấy mới là nhân). Với Khổng Tử,
cuộc sống, chí hớng, lý tởng, tu dỡng là khát vọng tinh thần, một ngời có lý tởng, có chí hớng mà lấy ăn kém, mặc xấu, làm xấu hổ, nhục nhã thì ông
không thèm bàn đến sĩ chí vu đạo nhi xỉ ố thực giả, vị túc dữ nghĩa dã (luận
ngữ , lý nhân), ngay bản thân ông cũng sống rất giản dị, dồn tất cả cho cuộc
sống và hoạt động tinh thần; chính vì thế nên quan niệm khắc kỷ phục lễ
nhân của ông không phải là cấm dục, tiết dục nh quan niệm của Phật giáo,
càng không phải là diệt dục, mà theo ông cái lợi nào hợp với đạo lý hợp
nghĩa chi lợi, cái lợi nào là chính đáng và xứng đáng đợc hởng thì vẫn đợc hởng thụ, thậm chí ông còn cho rằng cái đáng đợc hởng mà không biết hởng
thụ cũng là xỉ nhục, bên cạnh đó ông cũng kịch liệt lên án những kẻ cố
giành lấy những cái lợi không chính đáng, trái với đạo lý bất nghĩa chi lợi;
ông nói, không đáng phú quý mà hởng phú quý thì là xỉ nhục, đáng phú quý
mà không hởng đợc thì cũng là xỉ nhục.
Cùng với những t tởng tiến bộ về nhân, Khổng Tử còn đa ra t tởng về lễ,
theo ông lễ là toàn bộ những nghi lễ, nghi thức, phong tục tập quán, chuẩn
mực, quy tắc, quy chế, kỷ cơng, thể chế pháp luật của nhà nớc, tôn ti, trật tự
của cuộc sống (nh sinh, tang, tử, hôn, tế lễ, triều sinh, luật lệ, hình pháp, từ
hành vi, ngôn ngữ đến trang phục, nhà cửa) cũng nh trong quan hệ giữa con
ngời với con ngời, ai ở phận nào (danh) thì đợc dùng lễ ở phận ấy, tuỳ vào tính
chất công việc khác nhau mà dùng những lễ khác nhau. Nội dung lễ mà
Khổng Tử muốn nói đến là những điển lễ, những quy phạm đạo đức thời Tây
Chu; lễ đợc hiểu nh là cơ sở của một xã hội có tổ chức, đảm bảo cho sự phân
định trên dới rõ ràng, nh là một đức bên trong ngũ thờng, là sự thực hành đúng
giáo huấn kỷ cơng theo t tởng của Nho giáo. Đã là một con ngời thì bất cứ ai
cũng phải học lễ, biết lễ và có lễ, nếu không thì sẽ là phi lễ, mà đã phạm phi lễ
thì không đợc nhìn, không đợc nghe, không đợc nói, không đợc làm; đồng
thời khi đã phi lễ, mất lễ thì cùng không thể đạt đợc đức nhân, vì theo Khổng
Tử ngời biết sửa mình, hành động theo điều lễ mời là ngời có đức nhân khắc
kỷ phục lễ vi nhân và ông luôn khuyên mọi ngời nên làm đúng theo lễ. Lễ
trong t tởng của Khổng Tử luôn hoà quyện với nhân, trong mối quan hệ biện

chứng này lễ bao giờ cũng đợc coi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của
nhân, còn nhân luôn là nội dung sâu sắc, phong phú ẩn chứa trong lễ. Nh vậy,
nếu cho rằng có nhân mà phi lễ thì cha đợc coi là có nhân, cha phải là con ngời toàn thiện và đã là có nhân thì không thể không có lễ. Bởi điều này nên theo


6

Khổng Tử để là ngời thực sự có đức nhân là một đòi hỏi rất cao, mẫu ngời lý tởng của Nho gia là đức nhân, đại nhân, con ngời phải thực sự đạt đến chuẩn
mực nhân, vì thế mà ngay cả đến vua Nghiêu, vua Thuấn, thậm chí cả bản
thân ông cũng chỉ có từng lúc mới đạt đợc nhân. Mối quan hệ này vừa là kết
quả, vừa là cơ sở để tạo nên các quy định, các quan hệ khác nhau trong xã hội
Trung Quốc thời Khổng Tử nh: Tam cơng (Quân Thần, Phụ Tử, Phu
Phụ), ngũ thờng (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), ngũ luân (Quân Thần, Phụ Tử,
Phu Phụ, Huynh - Đệ, Bằng Hữu)
T tởng về lễ của Khổng Tử còn đợc phát triển, mở rộng bởi những nội
dung mới; quá trình áp dụng t tởng về lễ trong xã hội thời nhà Chu đã đợc ông
phát triển từ lễ thuần tuý là hình thức thể hiện của hành vi và ý thức tôn giáo
có tính chất tín điều lên thành lễ với t cách là một phạm trù có ý nghĩa xã hội
và nhân văn sâu sắc. Ông khẳng định, lễ là một nội dung thuộc về phạm trù
văn hoá, lễ phải là cái có sau bản tính tự nhiên của con ngời (ở đây ông cha
thấy đợc sự ảnh hởng to lớn của điều kiện kinh tế-xã hội đến lễ), ông ví lễ nh
bức tranh vẽ trên nền trắng(Hội sự hậu tố Luận ngữ, Bát dật). Bản tính tự
nhiên của con ngời, theo ông phải là hiếu đễ, tức là con cái phải hiếu thảo
với cha mẹ, kính thuận với anh em và ngời lớn tuổi. T tởng này của ông đợc
học trò Hữu Nhợc làm rõ hơn: Những ngời có lòng hiếu thảo với cha mẹ, kính
yêu hoà thuận với anh em và ngời lớn tuổi, ít ai có t tởng phạm thợng, mà đã
không có t tởng phạm thợng thì không thể có t tởng phản loạn-tức giữ đợc lễ.
Xuất phát từ luận điểm này Khổng Tử cho rằng hiếu đễ là cái gốc của điều
nhân, ông luôn yêu cầu các học trò của mình trớc hết phải có lòng hiếu thảo
với cha mẹ, kính thuận với anh em và ngời lớn tuổi, cẩn trọng trong mọi việc

làm, trung thực trong lời nói, có lòng yêu thơng mọi ngời, hay gần ngời có đức
nhân, những ai thực hiện đợc các yêu cầu đó thì ông mới dậy tiếp học lễ, học
văn. Nâng lên cao độ t tởng hiếu đễ ấy, Khổng Tử cho rằng trong xã hội còn
có vua nên phải thờ phụng nhà vua, từ những phép tắc trong gia đình phải đợc
nâng lên và vận dụng vào trong việ xây dựng thể chế, nghi thức và tổ chức bộ
máy cai trị đất nớc của thần dân. Bên cạnh đó, ông còn rất coi trọng thái độ
thành kính, trung thực trong quá trình thực hiện lễ, trong Luận ngữ, Bát dật
ông viết Vi lễ bất kính, c tang bất ai, ngô hà dĩ quan chi tai nghĩa là tuyệt
giao với hạng ngời có thái độ bất kính khi thực hiện lễ, không có lòng thành
thơng xót khi c tang. Trong khi trả lời Tử Du về đạo hiếu ông nói: Ngày nay
ngời ta gọi nuôi nấng săn sóc cha mẹ là thờ cha mẹ, nhng đối với chó và ngựa


7

ngời ta cũng săn sóc nuôi nấng nó. Nếu nh đối với cha mẹ mà không có lòng
kính thì sự chăm sóc đối với cha mẹ có khác gì đối với việc chăm sóc nuôi
nấng chó ngựa? (Luận ngữ, Vi chính). Từ việc cho rằng lễ là một nội dung
thuộc phạm trù văn hoá, Khổng Tử đã nhìn thấy mối quan hệ giữa văn hoá với
bản tính tự nhiên của con ngời, thấy vai trò của chúng trong quá trình điều
chỉnh, ớc thúc bản tính tự nhiên của con ngời-ông gọi là chất. Trong mối
quan hệ đó theo ông thờng là bị rơi vào trạng thái thái quá bất cập của mỗi
con ngời, ông nói cung kính thái quá không hợp với lễ là tự làm khổ nhọc
thân mình, cẩn thận quá lễ thành ra nhút nhát, dũng cảm quá lễ sinh ra loạn
nghịch, ngay thẳng quá lễ thành ra thô thiển quê mùa. Nếu Chất (tức tự
nhiên, nội dung) mà lấn lớt Văn (tức văn hoá, hình thức) thì thành ra thô
lậu, nếu Văn trội vợt Chất thì thành ra giáo điều, hời hợt; ngời quân tử phải
làm sao cho Văn Chất đều nhau cùng rực rỡ đua sắc (Chất thắng Văn tắc
dã, Văn thắng chất tắc sử, Văn Chất bân bân, nhiên hậu quân tử) (Luận
ngữ, ung dã).

Ngày nay những cống hiến trong t tởng về lễ của Khổng Tử vẫn còn có
nhiều giá trị to lớn trong xây dựng xã hội mới, con ngời mới cũng nh gia đình
văn hoá mới ở nớc ta. Nếu cách đây hàng ngàn năm ông đã nói đến quan hệ
hiếu đễ trong gia đình, thì nay t tởng ấy vẫn đang là một vấn đề cấp thiết, nổi
cộm trong xã hội ta, khi một số luân lý xã hội bị đảo lộn, đạo đức xã hội bị
xuống cấp, quan hệ trong nội gia đình đang đợc đặt lên bàn cân của vật chất
(tiền của)Nếu chúng ta biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, chúng ta sẽ
có thể xây dựng đợc một xã hội tốt đẹp, xây dựng đợc những con ngời giàu
lòng nhân ái, vị tha, những gia đình văn hoá mang đậm màu sắc của dân tộc
Việt Nam.
Trong học thuyết chính trị xã hội của mình, Khổng Tử không chỉ bàn
đến nhân và lễ, mặc dù đó là những biểu hiện không thể thiếu của mỗi một
con ngời, mà ông còn nêu lên t tởng chính danh. Theo ông, chính danh là phải
làm mọi việc cho ngay thẳng, trong xã hội mỗi ngời đều có địa vị, bổn phận
(danh) nhất định, nên ngời có chính danh phải là ngời luôn làm tròn bổn phận,
nghĩa vụ, công việc của mình; từ trên xuống dới, từ vua đến tôi, từ cha đến
con, từ chồng đến vợphải phân minh rõ ràng, mỗi ngời sống làm sao phải
cho xứng với từng cơng vị ấy, Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử nghĩa là
vua phải xứng cho đạo làm vua, cha phải xứng là ngời làm cha, con phải xứng


8

đúng đạo làm con, nếu không làm đợc nh vậy thì cũng không thể đạt đợc đức
nhân. Chúng ta đều thấy điều quan trọng trong cuộc sống không phải là hữu
danh vô thực, mà phải là từ cái thực ấy làm nổi lên cái danh, đó mới là cái
đáng quý, đó mới là ngời sống đúng chính danh. Trong xã hội ta hiện nay
đang không ít kẻ hữu danh vô thực, có ngời dựa vào chỗ này, chỗ kia để cố tạo
ra cái danh cho mình, còn thực chất trình độ, năng lực và phẩm chất rất yếu
kém. Những con ngời đó chúng ta cần phải lên án, đấu tranh để cho những ngời có tài, có đức thực sự đợc đứng vào vị trí ấy, hàng ngũ ấy để họ cống hiến

nhiều hơn cho xã hội và cho sự nghiệp dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh ở nớc ta đợc tốt hơn. Khổng Tử cũng nhấn mạnh muốn trị
nớc trớc tiên phải sửa mình cho chính danh, vì
nếu danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc
không thành, việc không thành thì lễ nhạc không hng thịnh, lễ nhạc không hng thịnh thì hình phạt không đúng, hình phạt không đúng thì dân không biết
đặt tay làm, đặt chân đứng vào đâu. Để đạt đợc chính danh, ông đã đề cao t tởng nhân trị, ông mong muốn vừa bằng giáo hoá, vừa bằng sự nỗ lực của bản
thân mỗi cá nhân mà con ngời có thể đạt đợc điều nhân, có thể tự sửa mình
cho hợp với lễ, và nh vậy cũng tự bản thân họ ắt sẽ đạt đợc chính danh. Đây là
một mong ớc chính đáng, tốt đẹp, một t tởng nhân từ, trọng hiền của ông,
nhng chỉ tiếc rằng trong xã hội loạn lạc ấy không thể dùng lễ trị, đức trị, nhân
trị mà phải dùng biện pháp mạnh- đó là pháp trị mới có thể làm ổn định xã
hội. Bên cạnh t tởng nhân trị, ông cũng nh phái nho gia còn chủ trơng tu
thân theo ngũ luân, ngũ thờng để thực hiện chính danh. Trong ngũ luân ông
rất coi trọng ba mối quan hệ cơ bản đợc coi là mối quan hệ rờng cột gọi là
tam cơng (quan hệ vua tôi, cha con , chồng vợ). Trong quá trình tu thân phải
tuân thủ nguyên tắc: Quân nhân thần trung, phụ từ tử hiếu, phu nghĩa
phụ thính, huynh lơng - đệ đễ và bằng hữu phải thành tín; phải rèn luyện theo
năm phẩm chất của con ngời: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Vì vậy, để đạt đợc đức
nhân con ngời nhất thiết phải chính danh, phải có trí và dũng. Theo ông khi
con ngời mà có đức nhân thì chẳng việc gì lo buồn, cóc đức trí thì chẳng bao
giờ sai lầm, có đức dũng thì chẳng bao giờ kinh sợ, con ngời có thể có trí hoặc
có dũng mà không nhân, nhng không thể có nhân mà thiếu trí và dũng. Trí là
sự hiểu biết điều hay lẽ phải, là cơ sở để nhận thức đúng đắn và có hành vi
phải đạo trong các mối quan hệ xã hội. Muốn có trí thì phải học, đặc biệt là tự
học, học suốt đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi. Từ đó trí sẽ


9

giúp con ngời có đủ khả năng xét đoán mọi việc để hành động đúng với lễ,

biết mình phải làm gì để cho chính danh. Dũng là đức bên trong nói lên tinh
thần hăng hái, gan dạ, giám hy sinh, quyết tâm khắc phục khó khăn, dũng
biểu hiện sức mạnh và ý chí thực hiện mục đích của mỗi con ngời. Dũng sẽ trở
thành động cơ bên trong thúc đẩy con ngời giám nghĩ, giám làm, giám vợt qua
mọi khó khăn nguy hiểm, mọi thử thách chông gai không sợ ảnh hởng đến
tính mạng cũng là để đạt đợc chính danh, đạt đợc đức nhân. Do đó, nhân lễ
chính danh luôn hoà quyện vào nhau, chúng là một thể thống nhất không
tách rời trong mỗi một con ngời, nếu ta tách chúng ra khỏi nhau thì sẽ không
còn là nhân, lễ hay chính danh một cách trọn vẹn, và nh vậy cũng sẽ không
thể có con ngời toàn thiện đợc.
Nhân lễ chính danh là các phạm trù cơ bản trong học thuyết triết
học về chính trị xã hội của Khổng Tử, mỗi phạm trù chứa đựng những nội
dung nhất định, chúng vừa nằm trong nhau, vừa là của riêng nhau nhng không
tách rời nhau, sự linh hoạt, mềm dẻo của ba phạm trù ấy đã nói lên một mẫu
ngời lý tởng theo quan điểm của Nho gia nói chung, quan niệm của Khổng Tử
nói riêng. Sự biến hoá đến khôn lờng của các phạm trù này sẽ giúp chúng ta
nghiên cứu, vận dụng rộng rãi, phù hợp vào quá trình cải tạo và xây dựng xã
hội. Bởi suy cho cùng, mục đích của học thuyết này là nhằm xây dựng một xã
hội theo hớng thiện, luôn đề cao tình hữu ái, một xã hội bình yên, mọi ngời tự
giác làm theo bổn phận của mình. Đây cũng chính là những gì mà Khổng Tử
và phái Nho gia đã cố gắng làm trong những năm trớc của thời kỳ cổ đại
Trung Quốc.
Nhìn chung, t tởng của Khổng Tử về nhân lễ chính danh có nhiều
điểm hợp lý, có nhiều đóng góp cho t tởng triết học về chính trị xã hội của
nhân loại, nhiều nội dung mang giá trị nhân văn, vĩnh hẵng nh:T tởng ái
nhân, nhân, lễ, nghĩa, trí, tínTrong thời đại ngày nay, khi cách mạng khoa
học kỹ thuật và công nghệ đang ngày càng đi sâu vào từng ngõ ngách, vào
mọi lĩnh vực của cuộc sống, thúc đẩy xã hội phát triển mạnh về mọi mặt, thì
nó cũng đang làm cho tình ngời khô khan hơn; một số tập đoàn t bản tận dụng
thành tựu đó để sản xuất hàng loạt vũ khí giết ngời hiện đại, nhiều tổ chức

phản động, lu vong ra sức tìm cách chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, tình cảm
giữa con ngời với con ngờit tởng nhân lễ chính danh của Khổng Tử


10

càng tỏ rõ vai trò to lớn của mình trong quá trình phát triển chung của toàn xã
hội.
Tuy nhiên, trong t tởng của học thuyết này vẫn còn một vài hạn chế nhất
định, nh t tởng nhân của ông còn mang tính giai cấp, ông quả quyết rằng ngời
quân tử mà phạm vào điều bất nhân còn có thể có, chứ cha từng thấy kẻ tiểu
nhân mà làm đợc điều nhân (Luận ngữ, hiến văn), nghĩa là chỉ ngời quân tử
mới có thể làm đợc và trở thành đức nhân, còn kẻ tiểu nhân thì không bao giờ
có đợc đức nhân. Do bị ớc thúc bởi lễ để quy về chính danh, nên trên thực tế
nhân không vợt ra khỏi đợc lễ. T tởng về lễ còn một só nội dung mang tính
chất hà khắc, áp đặt, bảo thủ. T tởng về chính danh cha dám nói lên sự vận
động, phát triển của nó trong quần chúng nhân dân, nhất là giai cấp nông dân,
những ngời dân lao động. Từ đây đặt ra cho những ngời nghiên cứu phải biết
gạn đục khơi trong, biết chắt lọc và kế thừa những t tởng tiến bộ, phù hợp để
vận dụng vào thực tiễn đạt hiệu quả cao.
Nớc ta, trong những năm gần đây thành tựu to lớn của thời kỳ đổi mới đã
và đang làm rạng rỡ bộ mặt toàn xã hội, nền kinh tế phát triển mạnh, tổng sản
phẩm quốc dân tăng, thu hút đầu t từ nớc ngoài ngày càng mạnh, tình hình
chính trị- xã hội ổn định, đời sống nhân dân đợc cải thiện rõ rệt, văn hoá xã
hội có bớc phát triển nhất định, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá, xây dựng tổ - ấp - khu phố văn hoá, xây dựng gia đình văn hoá
đang thu đợc những thắng lợi ban đầu. Song, nớc ta đang còn tồn tại không ít
vấn đề xã hội bức xúc cần phải giải quyết, nh nạn tham nhũng, các tệ nạn xã
hội ngày càng có chiều hớng gia tăng, ảnh hởng đến thuần phong mỹ tục, đến
truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Namcần phải có nhiều giải

pháp đồng bộ cùng giải quyết.

2. Một số ảnh hởng của học thuyết nhân lễ chính danh đến quá trình
xây dựng gia đình văn hoá ở nớc ta hiện nay.
Gia đình là tế bào của xã hội, chăm lo xây dựng gia đình văn hoá tốt là
cơ sở, nền tảng xây dựng nền văn hoá tiến bộ cho toàn xã hội. Đảng ta đã xác
định trong chiến lợc phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 -2010 là làm
cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân c, từng gia đình, từng ngời, hoàn thiện


11

hệ giá trị mới của con ngời Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài ngời, tăng sức đề kháng chống văn
hoá đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân [4, 213], khuyến khích các tổ
chức, cá nhân, hộ gia đình, đoàn thể tham gia hoạt động văn hoá [5, 214].
Quá trình xây dựng gia đình văn hoá ở nớc ta hiện nay vừa tuân thủ theo định
hớng của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vừa chịu ảnh hởng sâu
sắc của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nớc ta, trong đó có ảnh
hởng không nhỏ của t tởng Nho giáo, đặc biệt là t tởng về nhân lễ chính
danh của Khổng Tử.
Khái niệm gia đình văn hoá do Bộ văn hoá kết hợp với Trung ơng Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam nêu ra ngày 12-5-1975, đợc hiểu nh là một mục
tiêu để phấn đấu xây dựng gia đình ở nớc ta. Gia đình văn hoá cũng đợc coi là
một kiểu gia đình mới khác với kiểu gia đình truyền thống, khác với kiểu gia
đình cũ trong các chế độ xã hội phong kiến, thực dân; bởi vì trong gia đình
hiện nay ngoài những yếu tố truyền thống đã đợc chọn lọc, kế thừa và phát
huy còn có những yếu tố mới của thời đại mới, nhất là những yếu tố mới nảy
sinh từ trong công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay.Trong một gia đình

hiện nay phần lớn là kiểu gia đình hai hoặc ba thế hệ, trong đó thờng có ông
bà, cha mẹ và con cháu; kiểu gia đình này khá phổ biến ở vùng nông thôn Việt
Nam. Vì vậy, quá trình xây dựng gia đình văn hoá chúng ta cần chú ý đặc
điểm gia đình ở các vùng miền, cũng nh sự ảnh hởng của điều kiện bên ngoài
đến từng kiểu gia đình ấy.
Do điều kiện lịch sử xã hội từng thời kỳ khác nhau, nên việc xây dựng
gia đình văn hoá ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể cũng không giống nhau, tiêu chí
xây dựng khác nhau, sự ảnh hởng của các yếu tố đến quá trình xây dựng cũng
khác nhau, nhng trong giai đoạn hiện nay nói đến xây dựng gia đình văn hoá
là phải nói đến gia đình có đời sống kinh tế, vật chất ổn định, phát triển; có
đời sống văn hoá, tinh thần phong phú, lành mạnh; có các thành viên trong gia
đình luôn hoà thuận, dân chủ, vợ chồng bình đẳng, con cháu yêu quý và kính
trọng ông bà, cha mẹ, còn cha mẹ, ông bà phải yêu thơng và có trách nhiệm
với con cháu, biết kính trên nhờng dới, trong gia đình luôn có tôn ti trật tự, có
kỷ cơng nề nếp; mọi thành viên trong gia đình phải tuân thủ đúng pháp luật,
thực hiện tốt các nghĩa vụ công dân, có tinh thần tơng trợ cộng đồng tốt.[1,


12

14] Những t tởng về xây dựng gia đình văn hoá ấy ít nhiều ta thấy có sự ảnh hởng nhất định của Nho giáo, đặc biệt là t tởng của Khổng Tử về nhân lễ
chính danh. Nói cách khác, t tởng về nhân lễ chính danh của Khổng Tử
có giá trị rất lớn trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá ở nớc ta hiện nay.
Nh vậy xây dựng gia đình văn hoá là phải xây dựng gia đình có sự phát
triển cả về vật chất lẫn tinh thần, mọi ngời trong gia đình đó phải thực sự hoà
thuận, có tinh thần dân chủ, cởi mở, đoàn kết, yêu thơng và có trách nhiệm
chăm sóc lẫn nhau, bầu không khí trong gia đình luôn vui vẻ, đầm ấm, tôn
thờ, kính trọng tổ tiên, xây dựng các quy chuẩn riêng phù hợp với từng thời
đại lịch sử cụ thể, với nền văn hoá chung mà xã hội đang xây dựng.
ở nớc ta ngay từ thế kỷ XIV, các gia đình Việt Nam đã chịu ảnh hởng

ngày càng sâu đậm của t tởng Nho giáo nói chung, t tởng về nhân lễ
chính danh của Khổng Tử nói riêng, tín ngỡng thờ cúng tổ tiên vốn đã là nét
truyền thống lâu đời của dân tộc, của các gia đình ngời Việt, đến nay đợc Nho
hoá càng trở thành mối dây tinh thần liên kết, gắn bó mọi ngời trong gia đình
với nhau, tục lệ này đợc rải đều ra cả năm, nhất là những ngày giỗ mọi thành
viên dù có đi làm ở xa nhng cũng nhớ về hội tụ để bày tỏ lòng thành kính,
không quên cội nguồn, gốc rễ của mình. Ngày nay trong mọi gia đình ngời
Việt vẫn duy trì đều phong tục thờ cúng tổ tiên, mỗi gia đình thờng có một nơi
thờ tự đợc bố trí ở chỗ trang nghiêm nhất, sạch đẹp nhất. Ngày cúng giỗ tổ
tiên thực sự là ngày lễ (ngày hội tụ) của gia đình và họ hàng gần xa. Những
nghi thức lễ bái càng làm tăng thêm tinh thần tông tộc, thắt chặt thêm mối dây
huyết thống vừa có ý nghĩa tởng niệm ngời xa, vừa có ý nghĩa giáo dục đạo
hiếu uống nớc nhớ nguồn trong mỗi gia đình. Những năm gần đây, tình hình
kinh tế ổn định và phát triển, thu nhập của đại đa số nhân dân đợc nâng lên,
đời sống ngày một khá hơn, nên không ít các gia đình đã và đang thể hiện
lòng thành tín, nhớ tới cội nguồn bằng việc tu sửa nhà thờ, xây cất mồ mả.v.v.
Nếu lọc bỏ những hạn chế (lãng phí, ganh đuacủa các gia đình) trong lĩnh
vực này chúng ta sẽ thấy giá trị văn hoá của đời sống gia đình ở trong đó.
Hiếu vốn là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống, đợc hình thành
từ rất xa xa và gắn liền với phong tục, tín ngỡng, thờ cúng tổ tiên, từ khi có
ảnh hởng t tởng nhân lễ chính danh của Khổng Tử đã phát triển lên với
nhiều nét mới đặc sắc, thậm chí nó còn phát triển vợt ra ngoài phạm vi gia
đình trở thành luân lý xã hội. Việc kính trọng ngời cao tuổi, kính trọng ông


13

bà, cha mẹ, anh em, những ngời có công sinh thành và dỡng dục là nét đẹp của
đạo hiếu dân tộc ta. Do đó, quá trình xây dựng gia đình văn hoá mới ở nớc ta
hiện nay cần phát huy, phát triển nội dung này. T tởng hiếu đễ của Khổng Tử

vừa nh một tiêu chí, vừa nh những lời nhắc nhở mọi ngời trong gia đình không
bao giờ đợc lãng quên hay xem nhẹ. Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác
nhau đã và đang dẫn đến tình trạng một số gia đình có con, cháu ăn chơi, đua
đòi, bất nghĩa, bất hiếu, chẳng những không phụng dỡng đợc ông bà, cha mẹ
mà còn lăng mạ, bỏ lơi hoặc anh em, con cháu chia nhau chăm sóc theo kiểu
bị bắt buộc phải nuôi. Để đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá ở
nớc ta hiện nay, chúng ta cần tích cực đấu tranh, lên án những hành vi bất hiếu
ấy, tăng cờng công tác giáo dục của mọi gia đình và toàn xã hội.
T tởng về nhân lễ chính danh của Khổng Tử cho chúng ta thấy các
thành viên trong mỗi gia đình phải luôn có trách nhiệm lẫn nhau, ngời trên
phải làm gơng, dạy dỗ chỉ bảo cho ngời dới. Con cái nếu có lỗi thì cha mẹ
phải trách cứ, em có lỗi thì anh chị phải chỉ bảo nghiêm khắc trên nền tảng
tình cảm ruột thịt, chân thành chứ không đợc chèn ép, áp đặt các em. Tình
cảm chân thành cùng với thái độ nghiêm khắc trong gia đình của mỗi ngời sẽ
là cơ sở giúp cho mọi thành viên hớng đến lựa chọn và noi theo giá trị của cái
chân thiện mỹ. Mỗi ngời trong gia đình cần phải hiểu và làm tròn bổn
phận của mình, ông bà phải giữ đúng mực là những ngời lớn tuổi trong gia
đình, từ lời nói đến hành động, từ việc sinh hoạt đến giải quyết các mối quan
hệ hàng ngày; cha mẹ cũng vậy, ngoài ra còn phải làm tròn đợc vai trò là trụ
cột vững chắc trong gia đình; còn con cháu, anh em thì phải giữ đúng đạo hiếu
là con, là anh em nh chân với tay, chị ngã em nâng.
T tởng ái nhân của Khổng Tử đợc hoà quyện với truyền thống thơng ngời nh thể thơng thân của dân tộc Việt Nam, làm tăng thêm tinh thần nhân
văn, nhân nghĩa, thong yêu giống nòi của ngời Việt, ảnh hởng sâu sắc đến tình
cảm máu mủ, ruột thịt không gì chia cắt của các thành viên trong mỗi gia đình
ngời Việt Nam. Tình cảm, tình yêu, tình nghĩa vọ chồng, cha mẹ với con cái
luôn đợc đặt lên hàng đầu, họ sống tất cả vì nhau; nên đã là vợ chồng ai cũng
biết và tự bảo nhau thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn, cùng nhau
gánh vác công việc gia đình, lo toan mọi bề để mong sao cho các con của
mình có cuộc sống hạnh phúc. Tình yêu thơng con ngời trong xã hội nói
chung vốn đã không thể mang ra cân đong, đo đếm đợc, thì trong gia đình tình



14

yêu thơng ấy còn sâu nặng hơn bội phần, không có cái gì đo đợc, sánh đợc.
Trong gia đình tất cả các thành viên quan hệ với nhau hoàn toàn trên cơ sở
tình cảm, tình yêu thơng lẫn nhau, họ coi nhẹ vật chất trong các mối quan hệ
ấy, họ thờng sống quen với câu ca ngời làm ra của chứ của không làm ra ngời, trong quan hệ làng xóm là bà con vì tình vì
nghĩa chứ không phải vì đĩa xôi đầy. Thực tế cho thấy, nhiều gia đình còn rất
nghèo khó, nhng nhờ có tình yêu thơng ấy mà họ đã vợt qua tất cả, họ đã vơn
lên và thành đạt trong cuộc sống. Nhng cũng cần phải lên án khi ở trong xã hội
ta hiện nay còn một số gia đình quá coi nặng về vật chất, làm phai nhạt, thậm
chí đánh mất đi tình cảm yêu thơng đó, mọi ngời trong gia đình đòi phân chia
tài sản, khi bố mẹ về già cần sự chăm sóc của các con thì con cái cũng lại
chia ra phần trách nhiệm, hoặc gia đình nào bố mẹ có nguồn thu cao thì lại
tranh giành nhau chăm sóc để lấy của hồi môn.v.v. Những hành vi đó đã
và đang làm kìm hãm phong trào xây dựng gia đình văn hoá của nớc ta hiện
nay.
T tởng nhân lễ chính danh của Khổng Tử còn toát lên đức tính cần
cù, siêng năng, chịu khó của con ngời; đức tính này không chỉ cần cho xã hội,
mà còn rất cần cho mỗi gia đình, sự kết hợp tốt đức tính này với các phẩm
chất khác của mỗi ngời sẽ làm tăng thêm của cải vật chất cho gia đình và xã
hội. Ngời phụ nữ nhất thiết phải thực hiện đợc công, dung, ngôn, hạnh, phải
luôn biết lấy chữ công làm đầu. Đấng nam nhi phải làm đợc và giám làm
những công việc nặng nhọc, khó khăn. Vợ chồng, con cái hoà thuận cùng tích
cực làm ăn, cùng nhau chăm lo xây dựng, phát triển kinh tế gia đình, tích cực
tham gia vào phong trào xoá đói giảm nghèo, xây dựng gia đình có ông bà,
cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo. Đặc biệt, những gia đình có thu nhập
thấp, đời sống còn nhiều khó khăn, nếu ngại việc, lời biếng, sợ khó, ngại khổ,
thích ăn ngon, mặc đẹp, thích nhà cao cửa rộng mà không chịu tìm việc làm

thì chẳng những ớc muốn ấy không bao giờ đạt đợc, mà còn ngày càng nghèo
đi, khó khăn càng khó khăn thêm, không khí trong gia đình ắt sẽ nặng nề, tình
cảm con ngời trong đó cũng dễ bị sứt mẻ và nh vậy sẽ không thể xây dựng đợc
gia đình văn hoá.
Xã hội muốn bình yên, thịnh trị thì phải có (lễ) các quy định, chuẩn mực
hay luật pháp, gia đình muốn hiền hoà phát triển thì phải có tôn ti trật tự, phải
có những quy định riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình. Mọi


15

ngời quan hệ, ứng xử với nhau theo đúng bề bậc, có trên có dới, c xử theo
đúng đạo lý. Hiện nay t tởng tam cơng, ngũ thờng, ngũ luân vẫn chiếm vị trí
quan trọng trong cuộc sống của các gia đình ngời Việt, vẫn đóng vai trò là
khuôn mẫu, chế ớc hành vi của từng thành viên trong gia đình; tuy nhiên sự
ảnh của nó rất khác nhau và không nguyên nghĩa nh thời kỳ Khổng Tử, hay
nh ở Trung Quốc. Những t tởng ấy một mặt đã bị Việt hoá, mặt khác do sự
biến đổi của điều kiện xã hội lịch sử nên một số nội dung không còn phù hợp,
cần phải thay đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu xây dựng gia đình văn hoá ở nớc ta trong tình hình hiện nay. Nh việc ngời chồng không may chết sớm, thì
ngời vợ vẫn có thể đợc đi lấy chồng lần hai, không bắt buộc phải ở vậy nuôi
con nh quan điểm phu tử tòng tử trong triết học chính trị xã hội của Khổng
Tử. Cha mẹ mất vẫn để tang ba năm, nhng nếu cới gả con cái thì có nơi chỉ đợi
cho qua một năm. Trớc sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trờng, của
thời kỳ mở rộng hội nhập và hợp tác quốc tế, phẩm chất đạo đức con ngời của
một bộ phận nhân dân đang xuống cấp, hiện tợng coi thờng luân lý xã hội,
xem nhẹ kỷ cơng phép nớc, phá vỡ khuôn phép gia đình khá phổ biến, đang là
trở lực đáng lo ngại trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân
c, xây dựng gia đình văn hoá trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Vì vậy,
chúng ta tiếp tục vận dụng t tởng về nhân lễ chính danh của Khổng Tử
vào xây dựng gia đình văn hoá ở nớc ta hiện nay là việc nên làm, cần làm.

Hiện nay các tệ nạn xã hội đang có chiều hớng gia tăng, làm ảnh hởng
không nhỏ đến thuần phong mỹ tục, đến lối sống của mỗi ngời, mỗi gia đình
cũng nh toàn xã hội, làm đảo lộn sự bình yên, hạnh phúc của nhiều gia đình.
Thậm chí trong số đó có không ít gia đình khá giả, quan chức, hoặc gia đình
có địa vị, có uy tín trong xã hội. Kiểu mang mặc, trang điểmđang bị Tây
hóa, ngoại lai; cách c xử với ngời xung quanh, lối sống đua đòi, trụy lạc,
thực dụng, mất nhân tínhđang có xu hớng làm mất dần những nét đẹp truyền
thống của dân tộc bốn ngàn năm văn hiến. Cảnh chia ly của những ngời thân,
cảnh tù tội của những thành viên trong gia đình do không giữ đợc đức nhân, vi
phạm vào lễ nhạc, không thực hiện đợc chính danh, mà phạm vào nhiều tội lỗi
nh tham nhũng, đánh, giết nhau, đua xe trái phép.v.v. Những thực trạng đó
đang kìm hãm chặng đờng xây dựng gia đình văn hoá ở nớc ta. Theo nhận
định của phó giáo s Nguyễn Tài Th; Chỉ từ mấy thập kỷ nay, ở Việt Nam mới
xuất hiện danh từ bụi đời. Nhng bụi đời vốn là từ bụi nhà mà ra. Do đó,
việc giải quyết bụi đời cần phải đồng thời, nếu không muốn nói là bắt đầu từ


16

việc giải quyết bụi nhà. Vả lại, giải quyết bụi nhà khó, phức tạp và dai
dẳng hơn nhiều.[7, 42]. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần tăng cờng hơn nữa
công tác giáo dục, tuyên truyền vận động thực hiện nếp sống văn hoá, lối sống
có văn hoá tới mọi ngời, mọi tổ chức, mọi cơ quan, đơn vị, tạo ra môi trờng
văn hoá lành mạnh ở mọi lúc, mọi nơi.
Nh vậy, nghiên cứu t tởng về nhân lễ chính danh của Khổng Tử
chúng ta không chỉ thấy rõ giá trị của nó trong xã hội Trung Quốc cổ đại trớc
đây, mà còn thấy rõ vai trò không nhỏ của nó trong quá trình xây dựng xã hội
mới, xây dựng gia đình văn hoá ở nớc ta hiện nay. Nếu biết vận dụng linh
hoạt, sáng tạo t tởng ấy vào quá trình xây dựng gia đình văn hoá, thì sẽ thành
công và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn

hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nớc ta.

Kết luận
Học thuyết về nhân lễ chính danh của Khổng Tử có nội dung vừa
sâu sắc, phong phú, vừa mang tính biến hoá, linh hoạt; mục đích của học
thuyết là nhằm góp phần xây dựng một xã hội nhân ái, nhân văn, êm đềm, nên
đều có thể vận dụng vào quá trình xây dựng của mọi chế độ xã hội. Tuy còn
một số hạn chế nhất định, còn một số nội dung không phù hợp với sự phát
triển của thực tiễn lịch sử hiện nay, nhng nhìn chung đây là những t tởng tiến
bộ không chỉ thời kỳ Khổng Tử, mà ngay cả thời đại mới hiện nay. Do đó,
bằng phơng pháp gạn đục khơi trong, vừa phê phán, vừa kế thừa có chọn lọc
những t tởng này, chúng ta sẽ có cơ sở, điều kiện để xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc[2, 126], phát huy đợc vai trò, trách nhiệm
của gia đình trong việc xây dựng và bồi dỡng các thành viên của mình có lối
sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi ngời và là tế bào lành
mạnh của xã hội[3, 116], từ đó thúc đẩy phong trào xây dựng gia đình văn
hoá cũng nh xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nớc ta
hiện nay./.


17

Tài liệu tham khảo
1. Bộ văn hoá thông tin, Hỏi đáp về xây dựng làng văn hoá, gia đình văn
hoá, tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống, Nxb CTQG, Hà nội. 1999.
2. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb CTQG, H.2001.
3. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, H.2001.
4. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb CTQG, H.2006.
5. Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG, H.2006.
6. Nguyễn Hữu Vui, lịch sử triết học , Nxb CTQG, H. 1995.
7. Nguyễn Tài Th, ảnh hởng của các hệ t tởng tôn giáo đối với con ngời
Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, H.1997.



×