Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

LỊCH sử HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG ở tây âu và ý NGHĨA NGHIÊN cứu TRONG THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.31 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU

2

1

Phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình

3

2

Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại

4

Phép biện chứng trong triết học thời kỳ phục hưng và cận
3

đại ở tây âu

10

4

Phép biện chứng trong triết học duy tâm cổ điển Đức

13



5

Sự tất yếu ra đời, phát triển phép biện chứng duy vật

16

6

Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lịch sử hình thành,
phát triển phép biện chứng

KẾT LUẬN

21
25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

26

1


PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG
TÂY TRƯỚC MÁC VÀ SỰ TẤT YẾU RA ĐỜI, PHÁT
TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu

hình. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có
lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng, phép
biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định vị trí của
mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và
toàn diện nhất.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng, chỉ khi nào con người nắm
vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc
phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải
tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng, triệt để.
Ngược lại, quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với
lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi
trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành
và phát triển của phép biện chứng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng được đặt ra như một nhu cầu cần thiết và tất yếu.
Tiến trình cải cách nền kinh tế và đổi mới mọi mặt đời sống xã hội ở nước
ta hiện nay, hơn lúc nào hết cần phải quán triệt tư duy biện chứng triệt để dựa
trên lập trường duy vật vững vàng. Lý luận về phép biện chứng duy vật nói
riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là kim chỉ nam
đưa cách mạng nước ta giành được thắng lợi trên con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển thành phép biện chứng duy vật là một quá
2


trình lâu dài và phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các trình độ
phát triển cao thấp khác nhau. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, chỉ đề cập
những nét cơ bản nhất của sự hình thành, phát triển phép biện chứng trong lịch
sử triết học Tây Âu, trên cơ sở đó thấy được sự ra đời, phát triển của phép biện
chứng duy vật là một tất yếu khách quan.
I. phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình

Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong tư duy. Phương pháp
biện chứng là phương pháp tư duy triết học xem xét thế giới trong mối liên hệ
phổ biến, trong sự vận động và phát triển vô cùng với tư duy mềm dẻo, linh
hoạt. Trái lại, phương pháp siêu hình là phương pháp tư duy triết học xem xét
thế giới trong trạng thái cô lập, phiến diện với tư duy cứng nhắc. Lịch sử đấu
tranh giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình luôn gắn liền với cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc
đẩy tư duy triết học phát triển và hoàn thiện dần với sự thắng lợi của tư duy
biện chứng duy vật.
Hạn chế của phương pháp siêu hình thể hiện ở chỗ chỉ thấy những sự việc
cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của
sự vật mà không rhấy sự ra đời và biến đổi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh
của sự vật mà không thấy trạng thái động của nó. Quan điểm biện chứng đã khắc
phục được những hạn chế của phương pháp siêu hình, bằng cách xem xét các sự
vật trong mối liên hệ qua lại với nhau, không chỉ thấy sự tồn tại mà còn rhấy cả
sự hình thành, phát triển và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh
mà còn thấy cả trạng thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật.
Tuy nhiên, Ăngghen cũng khẳng định rằng thế giới quan siêu hình là điều
không thể tránh khỏi và sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn
nhất định trong lịch sử phát triển của nhận thức khoa học – giai đoạn nghiên
cứu các chi tiết của bức tranh toàn cảnh về thế giới tự nhiên. Muốn nhận thức
được các chi tiết ấy, người ta buộc phải tách chúng ra khỏi những mối liên hệ
3


tự nhiên, lịch sử của chúng để nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính
của chúng, theo nguyên nhân, kết quả riêng của chúng. Thời kỳ này kéo dài từ
cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX, việc nghiên cứu tiến từ giai đoạn sưu tập
sang giai đoạn chỉnh lý, nghiên cứu về các quá trình phát sinh, phát triển của sự

vật, hiện tượng thì phương pháp siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu của
nhận thức khoa học. Cuộc khủng hoảng Vật lý học cuối thế kỷ XIX do ảnh
hưởng của quan niệm siêu hình là một minh chứng cho hạn chế của phương
pháp siêu hình. Những kết quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên, nhất là vật lý
học và sinh học đã đòi hỏi và chứng tỏ rằng cần phải có một cách nhìn biện
chứng về thế giới và khi đó, phép siêu hình đã bị phủ định nhường chỗ cho
phép biện chứng.
Trong lịch sử triết học, phương pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển cao thấp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là thành
quả phát triển cao nhất và khoa học nhất của tư duy biện chứng. Dưới đây, chỉ
nghiên cứu sự hình thành, phát triển phép biện chứng trong tư duy triết học tây
âu từ thời cổ đại đến thời kỳ phục hưng và cận đại, tiếp đó là phép biện chứng
duy tâm trong triết học cổ điển Đức và dẫn đến tất yếu sự ra đời phép biện chứng
duy vật Mácxít. Đó là tiến trình lịch sử hợp qui luật trong tư duy triết học của
nhân loại.
II. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trước CN. Cơ sở
kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất
và người nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời
là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học,... Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ
đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị
của Hy Lạp bấy giờ sôi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước khác
nhau trên Địa Trung Hải, sự tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức
muôn vẻ của nhân dân các nước, sự quan sát các hiện tượng tự nhiên một cách
trực tiếp như một khối duy nhất và lòng mong muốn giải thích chúng một cách
4


khoa học đã góp phần quy định và làm phát triển thế giới quan duy vật và biện
chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm hiểu các tư tưởng biện chứng nổi

bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại diện tiêu biểu sau đây:
Talét (625- 547 tr.CN), thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học
duy vật và biện chứng tự phát. Ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản
nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ
lại biến thành nước. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó
sinh ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và mất đi. Toàn bộ thế giới là một
chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nền tảng là
nước. Tuy nhiên, các quan điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở
mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính. Ông chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan
niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ khi ông cho rằng thế giới đầy rẫy
những vị thần linh.
Anaximăngđrơ (610- 546 tr.CN), Ông là người Hy Lạp đầu tiên nghiên
cứu nghiêm túc vấn đề phát sinh và phát triển của các loài động vật. Theo ông,
động vật phát sinh dưới nước và sau nhiều năm biến hoá thì một số giống loài
dần thích nghi với đời sống trên cạn, phát triển và hoàn thiện dần; con người
hình thành từ sự biến hoá của cá. Phỏng đoán của ông còn chưa có căn cứ khoa
học song đã manh nha thể hiện yếu tố biện chứng về sự phát triển của các
giống loài động vật. Khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học,
Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng
vật chất đơn nhất, vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà người ta không
thể trực quan thấy được. Nếu so với Talét thì Anaximăngđrơ có bước tiến xa
hơn trong sự khái quát trừu tượng về phạm trù vật chất.
Hêraclít (544- 483 tr.CN), theo đánh giá của các nhà kinh điển MácLênin, Hêraclít là người sáng lập ra phép biện chứng, hơn nữa, ông là người
xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật. Phép biện chứng của
Hêraclít chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học,
nhưng hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập
5


dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Các tư tưởng biện

chứng của ông thể hiện trên các điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít,
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại.
Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi
sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò
của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi
của những mặt đối lập, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập.
Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển không ngừng của thế
giới do quy luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự
khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ,
học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với
logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng
sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống
triết học khác không có tư tưởng biện chứng nào sâu sắc như vậy. Hêraclít đã
đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy
vật và những yếu tố biện chứng tự phát. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà
triết học cận đại, hiện đại kế thừa và phát triển sau này. Mác và Ăngghen đã
đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết học của Hêraclít, coi ông là đại biểu
xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen cũng
vạch rõ những hạn chế, sai lầm của Hêraclít về mặt chính trị. Đó là tính chất
phản dân chủ, thù địch với nhân dân và ông chủ trương dùng chính quyền để
dập tắt nhanh chóng phong trào dân chủ.
Pácmênít (cuối thế kỷ VI- đầu thế kỷ thứ V tr.CN), khái niệm trung tâm
trong triết học của Pácmênít là tồn tại hết sức trừu tượng song cũng chứa đựng
những yếu tố biện chứng tự phát. Ông cho rằng với cách nhìn cảm tính thì thế
giới vô cùng đa dạng, phong phú, biến đổi không ngừng và vô cùng sinh động.
6



Nhưng bằng con đường cảm tính đơn thuần không thể khám phá ra bản chất
đích thực của thế giới. Chỉ với cách nhìn triết học phù hợp với trí tuệ lý tính
mới khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Ông cho rằng bản chất của
mọi vật trong thế giới là tồn tại. Học thuyết về tồn tại của Pácmênít đánh dấu
một bước tiến mới trong sự phát triển tư tưởng triết học Hy Lạp, mang tính
khái quát cao. Tuy nhiên, hạn chế trong học thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ
ông đã đồng nhất tuyệt đối giữa tư duy và tồn tại và cũng chứa đựng cả những
yếu tố siêu hình vì ông cho rằng tồn tại là bất biến.
Dênông (490- 430 tr.CN), là học trò của Pácmênít. Công lao của ông là
đã đặt ra nhiều vấn đề biện chứng sâu sắc về mối liên hệ giữa tính thống nhất
và tính nhiều vẻ của thế giới, giữa vận động và đứng im, giữa tính gián đoạn
của thời gian và không gian, giữa tính hữu hạn và tính vô hạn, và về sự phức
tạp trong việc thể hiện quá trình vận động biện chứng của sự vật vào tư tưởng,
vào lôgíc của khái niệm. Tuy nhiên, những nghịch lý Apôria của ông chỉ có thể
được giải quyết nếu đứng trên lập trường duy vật biện chứng trong nhận thức
sự vật.
Empêđôcơlơ (khoảng 490- 430 tr.CN), Ông cho rằng nguồn gốc vận
động của mọi sự vật là do sự tác động của hai lực đối lập là Tình yêu và Căm
thù. Quan điểm này là một bước thụt lùi so với Hêraclít, bởi vì triết học
Hêraclít giải thích nguồn gốc vận động của vật chất là do sự xung đột của
những mặt đối lập nội tại của sự vật. Tuy nhiên, Empêđôcơlơ cũng có một số
phỏng đoán thiên tài về sự tiến hoá của giới hữu cơ. Sự giải thích này của ông
tuy còn ngây thơ nhưng đã manh nha hình thành tư tưởng biện chứng về quá
trình tiến hoá của sinh vật theo con đường từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp.
Đêmôcrít (460- 370 tr.CN), là một trong những người đã phát triển
thuyết nguyên tử lên một trình độ mới. Một mặt, ông tán thành lý thuyết tồn tại
duy nhất và bất biến của Pácmênít khi coi các nguyên tử là bất biến; mặt khác,
ông kế thừa quan điểm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật biến đổi không ngừng.

7


Đêmôcrít đã nêu ra lý thuyết về vũ trụ học. Lý thuyết này được xây dựng trên
cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện
chứng tự phát và có một ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Đêmôcrít
khẳng định: vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh,
phát triển và bị tiêu diệt. Quan điểm của Đêmôcrít về vận động gắn liền với vật
chất là một phỏng đoán có giá trị đặc biệt. Theo ông, vận động của nguyên tử là
vĩnh viễn, và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử ở
bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy nhiên ông đã không lý giải
được nguồn gốc của vận động. Dựa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đã đi
tới quan điểm quyết định luận. Đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân
quả, tính tất nhiên và khách quan của các hiện tượng tự nhiên. Đây là một quan
điểm có giá trị của Đêmôcrít đóng góp cho nền triết học Hy Lạp cổ đại. Về mặt
bản thể luận, Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước
mới. Khác với nhiều nhà triết học trước đó, phủ nhận vai trò của nhận thức cảm
tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã chia nhận thức
thành hai dạng là nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý. Mặc dù triết học
của Đêmôcrít còn mang tính chất thô sơ, chất phác song những đóng góp của
ông về các tư tưởng biện chứng và thế giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận.
Xôcrát (469- 399 tr.CN) và Platôn (427- 347 tr.CN), là hai đại diện tiêu
biểu của hệ thống triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại. Triết học Xôcrát có đóng
góp quan trọng vào việc tạo ra bước tiến mới trong sự phát triển triết học Hy
Lạp cổ đại. Nếu các nhà triết học trước Xôcrát chủ yếu bàn về vấn đề khởi
nguyên của thế giới, về nhận thức luận thì Xôcrát là người đầu tiên đưa đề tài
con người trở thành chủ đề trọng tâm nghiên cứu của triết học phương Tây.
Theo Xôcrát, ý thức về sự vật của những người trong đàm thoại, ngoài những
yếu tố chủ quan còn có nội dung khách quan, có tri thức phổ biến mang tính
tổng quát. Ông cho rằng nếu không hiểu cái chung, cái phổ biến thì người ta

không thể phân biệt được cái thiện - cái ác, cái tốt - cái xấu. Muốn phát hiện ra
cái thiện phổ biến thì phải có phương pháp tìm ra chân lý thông qua các cuộc
8


tranh luận, toạ đàm, luận chiến. Đây chính là yếu tố biện chứng trong triết học
Xôcrát, song nó lại dựa trên lập trường duy tâm vì Xôcrát cho rằng giới tự
nhiên là do thần thánh an bài.
Platôn là học trò của Xôcrát. Các quan điểm triết học của ông chứa đựng
những yếu tố biện chứng. Ông thừa nhận sự vận động của thế giới song đó chỉ
là vận động theo sự điều khiển của ý niệm. Ông chia thế giới thành hai loại:
Thế giới của những ý niệm, là thế giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn,
tuyệt đối và là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính; Thế giới của các
sự vật cảm tính, là thế giới tồn tại không chân thực, thường xuyên biến đổi và
phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm.
Lý luận nhận thức của Platôn cũng chứa đựng những yếu tố biện chứng
thông qua các khái niệm đối lập và phương pháp đối chiếu những mặt đối lập.
Nhưng đó là biện chứng duy tâm - biện chứng của các khái niệm, tách rời hiện
thực, từ bỏ cảm giác, chỉ nhận thức bằng tư duy thuần tuý.
Như vậy, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platôn còn nhiều hạn
chế do chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội đương thời.
Song sự xuất hiện của hệ thống triết học Platôn cùng với phép biện chứng duy
tâm đã để lại dấu ấn trong lịch sử triết học bằng cuộc đấu tranh giữa hai đường
lối triết học Đêmôcrít và Platôn, tạo điều kiện cho tư duy triết học Hy Lạp cổ
đại có cơ hội khám phá và phát triển.
Arixtốt (384- 322 tr.CN), xu hướng duy vật và tư tưởng biện chứng trong
triết học tự nhiên của Arixtốt thể hiện ở việc ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ
sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi, không có bản chất
của sự vật tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và
có quan hệ với các sự vật khác. Ông cho rằng, vận động gắn liền với các vật

thể, với mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận
động là không thể bị tiêu diệt, đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động.
Trong lập luận này, ông đã tiến gần đến quan niệm vận động là tự thân của vật
chất. Song, cuối cùng ông lại rơi vào duy tâm khi cho rằng thần thánh là nguồn
9


gốc của mọi vận động. Tuy nhiên, nếu như trước đây Hêraclít và Đêmôcrít
chưa phân biệt được các hình thức của vận động thì đến Arixtốt là người đầu
tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận động thành sáu dạng khác nhau. Lý
thuyết về vận động của Arixtốt là một thành quả có giá trị cao của khoa học cổ
Hy Lạp. Về lôgíc học, Arixtốt đã cố gắng giải quyết mối quan hệ thống nhất
biện chứng giữa cái chung và cái riêng nhưng ông không giải quyết được vấn
đề chuyển hoá từ cái riêng thành cái chung. Lôgíc học hình thức của Arixtốt
tuy chưa hoàn hảo song ông đã để lại cho nhân loại một môn khoa học về tư
duy. Chính ông đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện
chứng mà không tách rời chúng khỏi hiện thực. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch
sử và là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô Hy Lạp cho nên về bản thể luận triết
học, ông dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nên ông lại rơi
vào phái nhị nguyên luận.
Như vậy,, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh
giữa biện chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Với các thành tựu nổi bật như thuyết
nguyên tử của Đêmôcrít, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát, Platôn và phép
biện chứng chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã bao chứa mầm
mống của tất cả thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện
chứng trong lịch sử triết học nhân loại. Chính vì vậy, Lênin coi phép biện
chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử phép biện
chứng.
III. Phép biện chứng trong triết học thời kỳ phục hưng và cận đại ở Tây

Âu
Trước khi bước sang thế kỷ XV- XVI ở Tây Âu là thời đại phục hưng,
lịch sử triết học đã trải qua thời kỳ trung cổ với sự thống trị của tư tưởng thần
học. Do đó, chủ nghĩa kinh viện trở thành nét chủ đạo của triết học Tây Âu thời
trung cổ. Trong giai đoạn này, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm được biến tướng thành cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm của
10


phái Duy danh và Duy thực. Có thể nói đây là bước lùi tạm thời trong lịch sử
phát triển tư duy triết học nói chung và tư duy biện chứng nói riêng, song vẫn
chứa đựng những nhân tố cho sự phát triển mới của triết học trong thời đại
phục hưng.
1. Phép biện chứng trong triết học thời kỳ phục hưng
Trong thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật được khôi phục và biến đổi cùng
với sự biến đổi của khoa học tự nhiên và dựa vào những thành tựu của khoa
học tự nhiên để tiến hành cuộc đấu tranh chống thế giới quan thần học. Nhiều
học thuyết triết học thời kỳ này đã phục hồi phép biện chứng tự phát thời cổ đại
và khái quát thành những thành tựu của khoa học tự nhiên tiên tiến. Một số tư
tưởng biện chứng nổi bật của thời kỳ này được thể hiện trong triết học của
Kudan và Brunô.
Kudan (1401- 1464), tư tưởng biện chứng được thể hiện qua học thuyết
về sự phù hợp của các mặt đối lập. Song, lập trường triết học của ông lại không
thoát khỏi tính chất duy tâm thần bí khi cho rằng Thượng đế là sự thống nhất
giữa các mặt đối lập. Kudan cũng đã nêu lên tính tương đối của nhận thức con
người, mặc dù còn hạn chế song nó đã đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng
về quá trình nhận thức cho triết học về sau.
Brunô (1548- 1600), Brunô có vai trò quan trọng trong sự phát triển phép
biện chứng. Ông nêu ra tư tưởng biện chứng về sự phù hợp của các mặt đối lập
trong sự thống nhất vô tận của vũ trụ. Theo ông, trong giới tự nhiên, mọi cái

đều có liên hệ với nhau và đều vận động. Cái này mất đi thì cái khác ra đời,
không chỉ là sự vận động mà còn là sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập, ví dụ
như, tình yêu chuyển thành căm thù và ngược lại; hay thuốc độc cũng chữa
được bệnh. Về mặt nhận thức luận, Brunô đã đưa ra quan niệm biện chứng
trong việc nhận thức giới tự nhiên. Ông cho rằng ai muốn nhận thức những bí
mật của giới tự nhiên thì hãy xem xét cái tối thiểu và cái tối đa của những mâu
thuẫn và những mặt đối lập. Mặc dù có những tư tưởng tiến bộ nhưng thế giới
quan triết học của Brunô vẫn chịu ảnh hưởng tư tưởng triết học sai lầm của
11


Arixtốt, coi vật chất đầu tiên là hoàn toàn thụ động, phải nhờ đến tính năng
động của hình dạng thì nó mới có tính năng động.
2.Phép biện chứng trong triết học thời kỳ cận đại
Triết học thời kỳ này gắn chặt với các thành tựu của khoa học tự nhiên.
Nếu như triết học cổ đại dựa trên cơ sở quan sát và các phỏng đoán thiên tài thì
thời kỳ này triết học lại dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát
các thành tựu của khoa học tự nhiên và được chứng minh bằng khoa học tự
nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên thời kỳ này cũng đồng thời là nhà triết học.
Tuy nhiên, triết học Tây Âu thời cận đại lại rơi vào siêu hình, máy móc. Các
nhà khoa học thời kỳ này đi sâu vào từng lĩnh vực riêng biệt để nhận thức. Điều
này cho phép nhận thức sâu sắc về tự nhiên song lại tạo ra một thói quen xem
xét tự nhiên trong trạng thái cô lập, tĩnh tại của nó. Từ đó làm xuất hiện sự
thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Tuy nhiên một số học thuyết triết
học thời kỳ này vẫn chứa đựng những quan điểm biện chứng sâu sắc, với các
đại biểu như Phrăngxi Bêcơn, Barút Xpinôda, Rơnê Đêcáctơ.
Phrăngxi Bêcơn (1561- 1626), về cơ bản, P.Bêcơn là một nhà duy vật,
ông thừa nhận thế giới là sự kết hợp những biến đổi khác nhau của vật chất và
đã có vật chất thì nó luôn vận động, biến đổi. Ông đưa ra 19 hình thức vận
động, trong đó có một hình thức đặc biệt là đứng im. Tuy bàn về sự vận động

song ông lại quy vận động thành các hình thức vận động cơ học, vì vậy,
P.Bêcơn chưa thoát khỏi quan điểm của một nhà duy vật siêu hình. Tuy nhiên,
cống hiến mới của ông là đã coi đứng im là một hình thức vận động và coi vận
động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Về nhận thức luận, P. Bêcơn có đóng
góp lớn về phép quy nạp trong nhận thức, song ông lại đề cao nhận thức kinh
nghiệm. Vì vậy, nhìn tổng thể nhãn quan triết học của ông vẫn mang tính chất
siêu hình.
Xpinôda (1632- 1677), Xpinôda là một nhà tư tưởng duy vật xuất sắc của
Hà Lan. Triết học của ông chứa đựng một số yếu tố biện chứng, thể hiện qua
nguyên lý Causasui (nguyên nhân tự nó). Trong đó, ông cho rằng quan hệ giữa
12


thực thể và dạng thức là sự thống nhất giữa cái chung và cái đơn nhất, giữa cái
duy nhất và cái đa dạng. Tư tưởng này đã đi gần tới quan điểm về mối liên hệ
phổ biến và sự ràng buộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong giới tự
nhiên. Về nhận thức luận, ông cho rằng con người có khả năng nhận thức thế
giới song ông lại rơi vào quan điểm siêu hình khi cường điệu hoá nhận thức
kinh nghiệm, hạ thấp vai trò của tư duy trừu tượng và khái quát khoa học.
Đêcáctơ (1596- 1650), Ông là đại biểu xuất sắc nhất của triết học Pháp
thế kỷ XVII. Đêcáctơ cho rằng không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền
với vật thể, vận động là không thể bị tiêu diệt, nó luôn luôn gắn liền với các vật
thể, vật thể luôn vận động, chuyển đổi vị trí, tức là vận động trong không gian.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này khoa học chưa phát triển đến trình độ cho phép
phát hiện ra các hình thức vận động khác nhau của vật chất cho nên Đêcáctơ
hiểu vận động của vật chất chỉ là vận động cơ giới hay chuyển dịch vị trí trong
không gian. Về nhận thức luận, Đêcáctơ đã tách rời hai giai đoạn cảm tính và lý
tính của nhận thức nên ông vẫn là một nhà duy vật siêu hình.
Như vậy, ngay cả trong giai đoạn phương pháp tư duy siêu hình giữ vị trí
thống trị thì trong các học thuyết triết học vẫn xuất hiện những yếu tố biện

chứng sâu sắc. Do sự kìm hãm của phương pháp siêu hình từ khoa học tự nhiên
chuyển sang triết học, phép biện chứng chưa có cơ hội để phát triển mạnh mẽ
trong thời kỳ phục hưng và cận đại, song đây là bước chuẩn bị cho phép biện
chứng duy tâm cổ điển Đức ra đời.
IV. Phép biện chứng trong triết học duy tâm cổ điển Đức
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trước sự đòi hỏi của sự phát triển
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên
đã phát triển đạt đến trình độ cao. Phương pháp tư duy siêu hình đã bộc lộ
những hạn chế và bất lực trong việc giải quyết các vấn đề về tự nhiên và xã
hội. Triết học cổ điển Đức ra đời đem lại cái nhìn mới về bản chất các hiện
tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của các tri thức
triết học trong thời kỳ này đòi hỏi phải có phép biện chứng với tư cách là một
13


phương pháp lý giải các vấn đề cấp bách của triết học, và hơn thế nâng nó lên
một bước mới. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức bắt đầu được hình thành
ở Cantơ và phát triển đến đỉnh cao ở Hêghen. Triết học cổ điển Đức đã xây
dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên
và xã hội. Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ của Cantơ cũng như việc phát
hiện ra các quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng trong triết học
của Hêghen, làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học đã thực sự
mang ý nghĩa cách mạng trong triết học.
1. Phép biện chứng của Imanuen Cantơ (1724- 1804)
Cantơ được đánh giá là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Ông
là tác giả của hai phát minh quan trọng về khoa học tự nhiên. Phát minh thứ
nhất là, giả thuyết về sự hình thành vũ trụ từ những hạt bụi vật chất dưới tác
dụng của các lực hút và lực đẩy của vật chất; phát minh thứ hai là, giả thuyết về
sự lên xuống của thủy triều dưới tác động của mặt trăng và trái đất. Vào thời kỳ

đó, khi mà quan niệm siêu hình đang thống trị trong tư duy khoa học tự nhiên
và triết học thì phát minh lý thuyết của Cantơ có một ý nghĩa tiến bộ vượt thời
đại. Ý nghĩa lớn lao của hai phát minh này thể hiện ở chỗ, nó xuất phát từ chính
bản thân những tính chất của vật chất để giải thích giới tự nhiên mà không cần
cầu viện đến một thứ lực lượng thần bí siêu tự nhiên nào. Hơn nữa, hai phát
minh này còn đem lại một quan điểm có tính chất biện chứng về giới tự nhiên.
Nó cho thấy giới tự nhiên tác động qua lại lẫn nhau và vận động chuyển hoá
không ngừng. Về nhận thức luận, Cantơ đưa ra phạm trù “vật tự nó” là cái nằm
ngoài khả năng nhận thức của con người và tư duy khoa học. Có thể nói, Cantơ
vẫn đứng trên lập trường của tư duy siêu hình để giải quyết vấn đề khả năng
nhận thức của con người, ông chưa thể giải quyết được mối quan hệ biện chứng
giữa bản chất và hiện tượng của tồn tại.
2. Phép biện chứng của Hêghen (1770- 1831)
Hêghen là một nhà biện chứng lỗi lạc. Ông là người xây dựng nên phép
14


biện chứng một cách có hệ thống trên lập trường duy tâm khách quan. Triết học
của ông là một tiền đề lý luận trực tiếp của triết học Mácxít.
Hêghen đã có công lao trong việc phê phán tư duy siêu hình, và ông là
người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một
quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Ông
khẳng định phép biện chứng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và
mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực; cái biện chứng là linh hồn của mọi
nhận thức khoa học. Như vậy theo Hêghen, hiện thực không phải là tồn tại nói
chung, mà là tồn tại trong tính tất yếu của nó, đó là hiện thực trong sự phát
triển. Những luận điểm về phép biện chứng của triết học Hêghen được thể hiện
rõ nhất và sâu sắc nhất trong lôgíc học. Biện chứng của khái niệm trong khoa
học lôgíc bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Những khái niệm không những
khác nhau mà còn có mối liên hệ với nhau; và mỗi khái niệm đều phải trải qua

một quá trình phát triển được thực hiện trên cơ sở của ba nguyên tắc:
Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển
hoá về lượng sẽ dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại.
Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với
tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển.
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này, Hêghen đã giải quyết một cách biện
chứng mối liên hệ chuyển hoá giữa bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện
thực, nguyên nhân và kết quả.
Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển
diễn ra theo hình thức xoáy ốc. Khi lý giải nguyên tắc này, Hêghen đã giải
quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lôgíc
và lịch sử.
Trong tác phẩm “Triết học tự nhiên”, Hêghen đã nêu lên những tư tưởng
biện chứng tài tình về sự thống nhất của vật chất và vận động; về tính chất mâu
thuẫn của những phạm trù không gian, thời gian và vận động; về sự phụ thuộc
của những đặc tính hoá học vào những thay đổi về lượng...
15


Tuy nhiên, do đứng trên lập trường duy tâm khách quan, Hêghen cho
rằng đời sống xã hội và lịch sử diễn ra là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Và một
khi giới tự nhiên và lịch sử nhân loại đã đạt tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ nhất thì
khi đó giới tự nhiên không vận động và phát triển về mặt thời gian mà chỉ vận
động về mặt không gian. Đến đây, những tư tưởng biện chứng của ông lại bị giới
hạn bởi quan điểm siêu hình vì ông cho rằng sự phát triển có tận cùng.
Như vậy, Hêghen đã khái quát một cách sâu sắc và có hệ thống về những
vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng, và cần phải thừa nhận rằng những tư
tưởng biện chứng của ông là những tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Song hệ thống
triết học của ông lại duy tâm, bảo thủ và đi ngược lại sự tiến bộ, cách mạng.
Một đại diện tiêu biểu khác của nền triết học cổ điển Đức là Lútvích

Phơbách. Chủ nghĩa duy vật của Phơbách là một sự phản ứng tất yếu đối với
chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen. Là một nhà duy vật song Phơbách
lại không kế thừa được những tư tưởng biện chứng của Hêghen. Vì vậy,
Phơbách cũng chỉ đạt tới quan niệm duy vật siêu hình, trực quan về giới tự
nhiên còn trong các quan niệm về xã hội và lịch sử, ông vẫn đứng trên lập
trường duy tâm. Tuy nhiên, triết học của Phơbách được coi là “chiếc cầu nối”
từ triết học Hêghen sang triết học Mác và Ăngghen.
V. Sự tất yếu ra đời, phát triển của phép biện chứng duy vật
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
được Mác và Ăngghen sáng lập nên, và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu
thế kỷ XX. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng sự hình thành thế giới quan duy vật
biện chứng của Mác và Ăngghen là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, dựa
trên các tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên.
Tiền đề kinh tế - xã hội: đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển mạnh làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó mà
biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Nhiều phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra song còn mang tính
chất tự phát, cảm tính và thiếu tổ chức. Nó đòi hỏi phải có một vũ khí lý luận
16


sắc bén soi đường cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Chủ
nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển các
giá trị trong các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt phép biện
chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phơbách là một trong những tiền
đề lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên: Ba phát minh lớn của khoa học tự nhiên thời
kỳ này là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết về tế bào và
thuyết tiến hoá của Darwin. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đòi

hỏi phải khái quát về mặt triết học để chỉ ra các mối liên hệ giữa các quá trình
diễn ra trong tự nhiên, trên cơ sở đó nhận thức đúng đắn và toàn diện về bản
chất của các quá trình phát triển đó. Điều này tất yếu dẫn tới sự thay thế thế
giới quan duy tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật.
Chính Mác và Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu
của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
1. Phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Ăngghen
Triết học Mác là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con
người. Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triết học, đó là cho ra đời một hình thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng
duy vật. Nếu như các quan điểm triết học trước Mác mới chỉ dừng lại ở thế giới
quan duy vật siêu hình hay biện chứng duy tâm về xã hội, thì đến giai đoạn
Mác - Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, phép biện chứng được xây
dựng dựa trên lập trường duy vật triệt để về tự nhiên và xã hội. Hơn thế, tính
đúng đắn của khoa học Mácxít luôn được minh chứng bởi các thành tựu vượt
bậc của khoa học thời đại.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là
một quá trình phát triển liên tục không ngừng. Từ cuối năm 1843 đến năm 1848
17


đánh dấu bước chuyển của Mác và Ăngghen từ lập trường của chủ nghĩa duy
tâm sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đánh dấu bước chuyển
đó là tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, lời nói
đầu” vào cuối năm 1843. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật biện
chứng sâu sắc. Cuối năm 1844, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Gia
đình thần thánh”, “Chống Brunô Bauơ và đồng bọn”. Trong đó, lần đầu tiên
Mác và Ăngghen trình bày những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử. Mùa xuân năm 1845, Mác viết tác phẩm “Luận cương về
Phơbách”, qua đó Mác phê phán những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật
Phơbách cũng như những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác nói chung.
Đó là sự phê phán có tính kế thừa của Mác để tiến đến chủ nghĩa duy vật mới là
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Năm 1845 - 1846, Mác và Ăngghen viết chung
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, đánh dấu bước tiến mới của Mác và Ăngghen
trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ăngghen được
viết vào năm 1876 - 1878 là một trong những tác phẩm quan trọng nhất đánh
dấu sự phát triển của triết học Mác. Trong tác phẩm, lần đầu tiên Ăngghen trình
bày hoàn chỉnh thế giới quan Mácxít về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Qua tìm hiểu một số tác phẩm kinh điển của Mác - Ăngghen có thể
thấy rằng, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen
là một quá trình tự đấu tranh gian khổ để từ bỏ lập trường triết học duy tâm
chuyển sang lập trường triết học duy vật biện chứng.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương
pháp. Nó không chỉ khái quát các thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể mà
còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học nhân
loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống, chặt chẽ tính
chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những quy luật
chung nhất của thế giới, bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, khái quát những mối liên hệ phổ biến
18


của thế giới(tự nhiên, xã hội và tư duy). Vì vậy, quán triệt quan điểm toàn diện
là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và suy nghĩ
của con người. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và hành động
phiến diện, chiết trung, siêu hình.
Nguyên lý về phát triển, phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất

của thế giới. Vì vậy, quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung nhất
chỉ đạo mọi hành động và suy nghĩ của con người. Yêu cầu của nguyên tắc này
đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó,
phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo và phải nhận thức được cái mới và
ủng hộ cái mới.
Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật là
sự cụ thể hoá các nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển.
Các cặp phạm trù cái riêng - cái chung; tất nhiên - ngẫu nhiên; bản chấthiện tượng giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được toàn
bộ các mối liện hệ theo một hệ thống nhất định.
Các cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả; khả năng - hiện thực là cơ sở
phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát
triển là một quá trình tự nhiên.
Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây
dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa
dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp
luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện,
phát triển và lịch sử cụ thể.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của
phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển,
phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật.
Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi
về chất và ngược lại phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển là đi từ
19


những biến đổi nhỏ nhặt, dần dần về lượng đến giới hạn của độ thì gây ra sự
biến đổi về chất, thông qua bước nhảy và ngược lại.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến
lên theo hình thức xoáy ốc, thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.

Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa có chọn lọc.
Như vậy, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và
Ăngghen là một tất yếu lịch sử, vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh
cách mạng và kế thừa có phê phán di sản lý luận của loài người, vừa là kết quả
nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ khoa học
kỹ thuật của thời đại đã chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy vật
Mácxít và nâng nó lên thành đỉnh cao của phép biện chứng. Mặc dù vậy, các
nguyên lý của phép biện chứng duy vật cần tiếp tục được thực tiễn kiểm
nghiệm, bổ sung và phát triển. Không ai khác, Lênin và các đảng Mácxít đã
đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử đó bằng việc bảo vệ và phát triển triết học Mác
trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
2. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật
Mácxít
Sau Mác và Ăngghen, Lênin đã đưa sự phát triển của phép biện chứng
duy vật Mácxít lên một tầm cao mới. Trong tác phẩm “Những người bạn dân là
thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao?”, Lênin đã
đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm siêu hình của phái dân tuý trong việc
nhận thức các hiện tượng xã hội để bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy
vật của triết học Mác.
Trong tác phẩm “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán
trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”, Lênin đã phát triển làm phong
phú thêm nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng về mối liên hệ hữu
cơ giữa lý luận và thực tiễn. Cũng trong tác phẩm này, những nguyên lý quan
trọng khác của chủ nghĩa duy vật biện chứng như nguyên lý về mối quan hệ giữa
chủ quan và khách quan, về tính toàn diện, tính lịch sử cụ thể trong nhận thức
20


các hiện tượng của thế giới bên ngoài đã được Lênin phân tích sâu sắc.
“Bút ký triết học” của Lênin là một tác phẩm tiếp tục phát triển phép biện

chứng Mácxít. Trong đó, Lênin phân tích sâu sắc tư tưởng coi phép biện chứng
như là khoa học về sự phát triển. Khi giải quyết vấn đề về nguồn gốc và động
lực của phát triển, Lênin đã chỉ ra hai quan điểm đối lập nhau: quan điểm biện
chứng coi phát triển là sự thống nhất của các mặt đối lập, ngược lại quan điểm
siêu hình coi phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần túy về lượng, là sự
lặp lại. Trong “Bút ký triết học”, Lênin còn đi sâu nghiên cứu các quy luật và
phạm trù của phép biện chứng duy vật, nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép
biện chứng, lôgíc học và lý luận nhận thức cũng như những yếu tố cơ bản của
phép biện chứng.
Tóm lại, chủ nghĩa Lênin là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để
chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Sự phát
triển phép biện chứng của Lênin gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề cách
mạng, phong trào công nhân, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến lược và sách
lược của Đảng cộng sản. Với những cống hiến quý báu vào kho tàng triết học
Mác, có thể nói Lênin đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong việc bảo vệ và phát
triển phép biện chứng duy vật Mácxít.
VI. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu lịch sử hình thành và
phát triển phép biện chứng
Nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát triển phép biện chứng trong triết
học Tây Âu, giúp chúng ta thâu tóm trí tuệ của mối thời đại lịch sử được kết
tinh trong triết học. Đặc biệt, giúp chúng ta thấy rõ sự xuất hiện phép biện
chứng duy vật Mác xít là tất yếu lịch sử, phù hợp với lôgic khách quan của sự
phát triển nhân loại, và sự mở rộng, phát triển triết học Mác xít hiện nay cũng
là một tất yếu lịch sử. Nghiên cứu giá trị của phép biện chứng duy vật, là cơ sở
thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho chúng ta trong nhận thức, xem
xét và giải quyết các vấn đề thực tiễn hiện nay.
Trong xu thế phát triển của kinh tế thế giới hiện nay, nước ta không thể tồn
21



tại biệt lập và đứng ngoài sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Để hoà
nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế khu vực nói riêng, đòi hỏi
chúng ta phải nắm vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng để
nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, trên cơ sở đó đáp
ứng những đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Có thể nói, Lênin là một tấm gương sáng về sự nắm vững và vận dụng tài
tình phép biện chứng duy vật để vạch ra “Chính sách kinh tế mới” với tư cách
là cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế kém phát
triển. Nền văn minh trí tuệ dựa trên nền tảng của các thành tựu khoa học là một
bằng chứng về sự phát triển của xã hội, là một quá trình lịch sử tự nhiên hướng
tới lý tưởng cao đẹp mà học thuyết Mác - Lênin đã vạch ra - lý tưởng xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, hình thức và con đường thực hiện lý tưởng đó không
phải là những công thức có sẵn và bất biến. Nghĩa là, chúng ta phải vận dụng
linh hoạt, mềm dẻo và luôn luôn đổi mới phù hợp với điều kiện quốc tế và điều
kiện của nước ta trong từng giai đoạn cụ thể. Cũng cần thừa nhận một thực tế,
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản với sự hậu thuẫn của các tiến bộ vượt bậc về
khoa học kỹ thuật đang có những ưu thế nhất định, và tạm thời làm dịu đi
những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì vậy, nếu nhận thức về chủ nghĩa xã hội
như một mặt đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa tư bản là một quan niệm không
biện chứng. Biện chứng của sự kết hợp các mặt đối lập là sự triển khai, cụ thể
của sự thống nhất cảu các mặt đối lập. Vì vậy, chúng ta phải biết vận dụng các
khâu trung gian và thực hiện các bước quá độ cho phù hợp. Đó là phương pháp
luận chung về sự kết hợp các mặt đối lập trong sự thống nhất biện chứng.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi phải chủ động,
tự giác phát triển và sử dụng chủ nghĩa tư bản làm khâu trung gian, làm phương
tiện để đi lên chủ nghĩa xã hội. Xuất phát điểm của nước ta là một nền kinh tế
chậm phát triển, vì vậy chúng ta cần thiết phải tận dụng những ưu thế nổi trội
của chủ nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời đấu tranh kiên
22



quyết loại trừ những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản. Tiến trình đổi mới đất
nước ta là một quá trình vừa tuân theo sự phát triển tiến hoá dần về lượng, lại
vừa tranh thủ những bước phát triển cách mạng nhảy vọt về chất, vừa tích luỹ
nội dung lại vừa luôn nhạy bén cải tạo hình thức cho phù hợp, vừa kết hợp
những giá trị truyền thống dân tộc với những tiến bộ của nền văn minh mới.
Quan điểm biện chứng dựa trên lập trường duy vật phải được phát huy triệt để
trong việc giải quyết các vấn đề trên mọi lĩnh vực: kinh tế - chính trị - văn hoá tư tưởng. Quán triệt phép biện chứng duy vật và vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng nước ta là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc đổi mới
thành công và đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Nhất quán với các quan điểm trên đây, căn cứ vào yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới đất nước trong điều kiện mới, trong văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững
mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an
ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị
của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ” [4- tr 108, 109].
Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
toàn cầu, nhất là sau khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới và được
bầu là uỷ viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm
kỳ 2008-2009), nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vừa có những thuận lợi
mới vừa có những khó khăn, thách thức mới.
Những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp về quốc phòng và an ninh nói
chung và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ lực lượng vũ trang nói riêng do
các kỳ Đại hội, nhất là Đại hội IX và Đại hội X của Đảng ta đề ra mang nhiều
nội dung và tư tưởng mới, ngày càng thể hiện rõ nét tư duy mới của Đảng ta về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đó là kết quả biện chứng, tổng

23


hợp từ những đánh giá tổng quát của Đảng ta về tình hình thế giới, khu vực và
đất nước trong thế kỷ XX, dự báo tình hình những năm đầu thế kỷ XXI. Đặc biệt
những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp ấy được rút ra trực tiếp từ những đánh
giá của Đảng ta về kết quả 20 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hớng
XHCN vừa qua, đồng thời dự báo những âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta trong những năm tới.
Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh những quan điểm, nhiệm
vụ và giải pháp về quốc phòng và an ninh do các kỳ Đại hội, nhất là Đại hội IX
và Đại hội X đề ra là nghĩa vụ thiêng liêng, là trọng trách nặng nề của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Mỗi chúng ta nỗ lực thực hiện đầy đủ những
quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp ấy là thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong tình hình mới.

24


KẾT LUẬN
Phép biện chứng đã trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển.
Mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể đánh dấu một bước phát triển của phép biện chứng. Khởi
nguồn là phép biện chứng tự phát cổ đại, sau đó là phép biện chứng duy tâm của
Xôcrát và Platôn và có lúc bị phép siêu hình thế kỷ XVII - XVIII phủ định, rồi đến
phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức và cuối cùng là phép biện chứng
duy vật - giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật
Mácxít ra đời là sự kế thừa hợp quy luật những thành tựu tư tưởng triết học của loài
người và được minh chứng bởi các thành tựu của khoa học đương thời. Mác Ăngghen đã sáng lập ra phép biện chứng duy vật và được Lênin bảo vệ và tiếp tục phát
triển, làm cho nó trở thành phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh sự cần thiết phải nghiên cứu và vận dụng

phép biện chứng duy vật Mácxít vào hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực của con
người. Điều này đặt ra một nhu cầu tất yếu của lịch sử nhân loại là tiếp tục phát triển và
hoàn thiện phép biện chứng duy vật Mácxít cho phù hợp với điều kiện mới. Với tính
chất cách mạng và khoa học của mình, phép biện chứng duy vật đã mở ra một phương
pháp nhận thức thế giới toàn diện nhất và khoa học nhất cho lịch sử nhân loại mãi mãi
về sau.
Trong phạm vi của bài tiểu luận này, mục đích của việc nghiên cứu lịch sử hình
thành và phát triển phép biện chứng không nằm ngoài ý nghĩa thực tiễn của vấn đề.
Tiến trình đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay ngày càng đặt ra nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải nắm vững phép biện chứng duy vật và
mài sắc tư duy biện chứng để xác định phương pháp nhận thức và hành động đúng
đắn. Sự nghiệp cách mạng không phải là một quá trình dễ dàng, thẳng tắp, trơn tru mà
là một quá trình khó khăn, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời. Song với
bản chất cách mạng - khoa học sâu sắc và triệt để của phép biện chứng duy vật cho
phép chúng ta giữ vững niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để chèo lái sự nghiệp cách mạng
25


×