Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

GIÁ TRỊ của PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật, ý NGHĨA lý LUẬN và THỰC TIỄN đối với CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.93 KB, 20 trang )

Giá trị của phép biện chứng duy vật đối với lí
luận và thực tiển cách mạng việt nam
Cách đây tròn 90 năm, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng mời Nga
thành công(7/11/1917). Đây là cuộc cách mạng có ý nghĩa thời đại, là sản
phẩm tất yếu của việc giải quyết các mâu thuẫn thời đại đầu thế kỷ xx, của
quy luật vận động và phát triển khách quan của lịch sử nhân loại, đánh dấu sự
thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện
thực, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới.Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực, sinh động ở một nớc,
nở rộng ra một loạt nớc ở Châu Âu, Châu á, Mỹ la-tinh và phát triển thành hệ
thống là chỗ dựa và là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của cách mạng
thế giới. Từ đây, triết học Mác-Lênin đợc truyền bá một cách rộng rãi và thuận
lợi, có ảnh hởng sâu rộng trong quần chúng và trên mọi mặt của đời sống xã
hội. Với t cách là một bộ phận hợp thành, đồng thời là cơ sở lý luận chung của
chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tảng và kim chỉ nam cho hành động của các Đảng
cộng sản, triết học Mác-Lênin đóng vai trò quan trọng không thể thiếu đợc
trong sự phát triển của thực tiển xây dựng xã hội mới với những thành tựu to
lớn không thể phủ nhận đợc. Triết học Mác-Lênin không chỉ trang bị thế giới
quan và phơng pháp luận khoa học mà còn góp phần tích cực vào việc trau dồi
năng lực t duy lý luận cho chủ thể xây dựng xã hội mới, xã hội- xãhội chủ
nghĩa. Song, thực tế lịch sử cũng chứng minh rằng, bất cứ hành động cách
mạng nào,nếu xa rời nhữmg quan điểm và nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin thì phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng nh phong trào
cách mạng thế giới sớm hay muộn gì cũng sẽ phải trả giá.
Từ những năm 90 đến nay, Chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào
thoái trào. Cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nớc Đông Âu
và Liên Xô, Các thế lực phản động quốc tế đang dùng mọi thủ đoạn để xoá bỏ
vai trò chủ nghĩa Mác-Lênin, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của các nớc xã hội chủ nghĩa còn lại càng trở nên cấp bách. Nhng, sự sụp đổ
của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô vừa qua do nhiều
nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhng chủ yếu là do sai lầm chủ


quan của các Đảng cộng sản và những ngời đứng đầu Đảng, Nhà nớc. Họ đã
mắc phải sai lầm nghiêm trọng là xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin, để cho chủ nghĩa cơ hội, xét lại lũng đoạn về chính trị. Từ
đó dẫn đến những sai lầm về đờng lối chính trị, mất cảnh giác, thủ tiêu đấu
tranh giai cấp, buông lỏng chuyên chính vô sản, hạ thấp vai trò lãnh đạo của


2
Đảng cộng sản, Làm cho chủ nghĩa xã hội từng bớc chuyển hoá theo con đờng
t bản chủ nghĩa. Đối với Đảng ta, kiên trì, vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một. Trung thành với chủ nghĩa
Mác-Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nớc
ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, đã tạo ra vũ
khí tinh thần sắc bén cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
Quốc,xây dựng đất nớc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay,cũng đợc đánh dấu bằng sự phát triển nh vũ bảo của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển rất mạnh mẽ. Cách mạng
khoa học- kỷ thuật và công nghệ đã tạo nên sự phát triển thần kỳ về mọi mặt
trong đời sống xã hội của nhiều quốc gia. Chủ nghĩa T bản nhờ kế thừa đợc
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và sự điều chỉnh, thích nghi với
điều kiện lịch sử mới nên vẫn còn khả năng tồn tại và phát triển. Cùng với nó
là vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang là một hiện thực
khách quan, mang tính phổ biến đã tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới.Từ những thực tế nêu trên đã và đang là
những thử thách khắc nghiệt đối với chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết
học Mác-Lênin nói riêng, mà hạt nhân cơ bản là phép biện chứng duy vật với
chức năng trang bị thế giới quan và phơng pháp luận trong xem xét và cải tạo
thực tiễn. Nghiên cứu bản chất của phép Biện chứng duy vật sẽ giúp chúng ta
có cái nhìn tổng thể, khách quan về sự tồn tại, vận động và phát triển của các

vấn đề mà cuộc sống đang đang đặt ra, trên cơ sở đó cung cấp những giải pháp
khoa học, hữu hiệu cho hoạt động cải tạo hiện thực của con ngời, nhất là các
Đảng cộng sản chân chính phải nắm vững giá trị đích thực của phép biện
chứng duy vật trong đấu tranh cho mục tiêu giải phóng con ngời, giải phóng
nhân loại, đó cũng là yêu cầu cấp thiết của sự phát triển lý luận triết học
mácxít hiện nay.
Có thể khẳng định: Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phơng
pháp luận, là hạt nhân của toàn bộ chủ nghĩa Mác-Lênin. Giá trị, vai trò của
triết học Mác-Lênin trớc hết, đợc thể hiện ở chính hạt nhân của hệ thống đó.
Nghiên cứu đánh giá triết học Mác-Lênin mà tập trung ở phép biện chứng duy
vật không thể tách rời, cô lập với toàn bộ lịch sử t tởng triết học nhân loại, mà
ngợc lại triết học Mác-Lê nin xuất hiện là một tất yếu hợp quy luật, là sự kế
thừa, kết tinh toàn bộ các giá trị tinh hoa của nhân loại đã tạo ra trớc đó. Nó là
hình thức phát triển cao nhất của lịch sử t tởng triết học nhân loại, là đỉnh cao


3
của trí tuệ loài ngời. Việc nghiên cứu, khẳng định và có niềm tin vững chắc
vào bản chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật sẽ giúp những
ngời cộng sản có cơ sở nắm vững bản chất những nguyên lý về thế giới quan
và phơng pháp luận của triết học mácxít, không rơi vào tả khuynh hoặc hữu
khuynh, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, chủ nghĩa xét lại,
nhằm vận dụng sáng tạo lý luận triết học Mác-Lênin vào thực tiển. Đồng thời,
để đáp ứng yêu cầu thực tiển trong thời đại ngày nay. Với ý nghĩa đó, bài tiểu
luận này chỉ nghiên cứu Giá trị của phép biện chứng duy vật, ý nghĩa phơng
pháp luận của nó đối với lí luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay.
I Khái quát lịch sử và nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
trong triết học Mác-Lênin
Nghiên cứu lịch sử phát triển của triết học nhân loại cho ta nhận thức
rằng: chỉ có triết học Mác-Lênin mới luận giải một cách khoa học về sự tồn

tại, vận động và phát triển của thế giới tự nhiên, xã hội và t duy. Nó giải đáp
kịp thời những vấn đề bức xúc mà t tởng tiên tiến của loài ngời đặt ra, đồng
thời soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, giúp giải phóng
con ngời thoát khỏi áp bức bóc lột. Triết học Mác-Lênin không chỉ giải đáp
các nhiệm vụ của lịch sử nhân loại bằng khái quát triết học mà còn hiện thực
hoá các t tởng đó bằng thực tiễn cách mạng, hay nói cách khác: triết học MácLênin là sự thống nhất hữu cơ giữa giải thích thế giới và cải tạo thế giới, thống
nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học.
Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phơng pháp luận duy nhất
cho phép con ngời nhận thức đầy đủ, đúng đắn toàn bộ thế giới trong sự tồn
tại, vận động và phát triển. Sự ra đời của triết học Mác- Lênin là một kết quả
hợp quy luật, là sự thống nhất hữu cơ giữa những tiền đề khách quan và nhân
tố chủ quan. Là một hệ thống triết học trong đó có sự thống nhất giữa thế giới
quan duy vật triệt để và phơng pháp luận biện chứng khoa học. Chính những
điều này đã làm cho triết học Mác-Lênin khắc phục đợc những hạn chế so với
các hệ thống triết học trớc đó, trở thành một hệ thống triết học cách mạng và
hoàn bị để khám phá thế giới tự nhiên, xã hội và t duy con ngời.
Nói tới Triết học là nói tới hệ thống quan điểm chung nhất của con ngời
về thế giới và vai trò của con ngời trong thế giới ấy. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào
lập trờng thế giới quan và phơng pháp luận, sự chế ớc của điều kiện xã hộilịch sử và yếu tố chủ quan mà mỗi trờng phái triết học có những quan điểm
khác nhau và đối lập nhau. Triết học Mác-Lênin là sự hội tụ đầy đủ những giá
trị tinh hoa trong t tởng triết học nhân loại, chính vì vậy nó là cơ sở lý luận


4
duy nhất cho phép nhận thức thế giới. Với một hệ thống những nguyên lý, quy
luật, phạm trù mang tính khái quát cao, cho đến nay nó vẫn còn nguyên giá
trị. Trong triết học Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống
nhất chặt chẽ với nhau: chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng;
còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất đó đã làm cho
triết học Mác-Lênin trở thành thế giới quan và phơng pháp luận thật sự khoa

học trong nhận thức và thực tiển hiện nay vì sự tiến bộ của xã hội. Vì vậy việc
nghiên cứu giá trị hiện thực cách mạng khoa học phép biện chứng duy vật có ý
nghĩa hết sức quan trọng nhằm xây dựng thế giới quan duy vật triệt để và hệ
phơng pháp khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vào giữa thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo
những hạt nhân hợp lý trong lịch sử t tởng triết học nhân loại; mà trực tiếp
là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và đặt nó trên nền tảng duy vật. Phép
biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phơng pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với lôgíc biện chứng. Sự ra đời
của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phơng pháp t duy trớc
đó; làphơng pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản
ánh của chúng trong t tởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng,trong
sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng 1. Phép
biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con ngời tính tự giác cao trong
mọi hoạt động. Mỗi luận điển của phép biện chứng là kết quả của sự nghiên
cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng nh lịch sử xã hội loài ngời. Nhờ vậy, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khắc phục đợc những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự
phát thời cổ đại cũng nh những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách
quan thời cận đại, làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học,
thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan
điểm thực tiển, ở sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép
biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở tính thực tiển-cách mạng của
nó.
Thứ nhất: Bằng việc đa quan điểm thực tiển vào hoạt động nhận thức,
đặc biệt việc thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục đợc
hạn chế của chủ nghĩa duy vật trớc đó để giải quyết thoả đáng vấn đề cơ bản
của triết học. ở đây, trong khi khẳng định vai trò quyết định của các yếu tố vật
chất, các nhà duy vật biện chứng đã không loại trừ việc các lĩnh vực t tởng,
1


C.Mác&Ph.Ăngghen:toàn tập,Nxb CTQG,H2004,t20.tr38.


5
đến lợt chúng, lại có tác động ngợc lại, nhng là tác động cấp hai lên những
điều kiện vật chất ấy2.
Thứ hai : Sự thống hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện
chứng. Bằng việc kế thừa những t tởng hợp lý của các học thuyết trớc đó, với
việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đuơng thời, C.Mác và
Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu
phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên chủ nghĩa
duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với
phép biện chứng. Sự thống nhất này đem lại cho con ngời một quan niện hoàn
toàn mới về thế giới.
Thứ ba : Quan niện duy vật triệt để. V.I.Lênin nhận định rằng: Trong
khi nhận thức sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đa học
thuyết đó tới chổ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chổ nhận thức giới tự
nhiên đến chổ nhận thức xã hội loài ngời.3.
Thứ t : Tính thực tiển- cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng trớc
hết thể hiện ở:
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã đợc giai cấp vô sản tiếp nhận nh một công
cụ định hớng cho hành động, nh vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại. Công cụ định hớng này, vũ khí
lý luận này đã tạo nên bớc chuyển biến về chất của phong trào công nhân từ
trình độ tự phát lên trình độ tự giác. C.Mác và Ăngghen nhận định: giống nh
chủ nghĩa duy vật biện chứng thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình,
giai cấp vô sản cũng thấy chủ nghĩa duy biện chứng là vũ khí tinh thần của
mình.4. Với hệ thống nguyên lý, lý luận phản ánh chân thực quy luật vận
động phát triển của thế giới, nó có quan hệ mật thiết gắn bó với khoa học tự

nhiên, dựa vào khoa học tự nhiên, đây chính là cơ sở bảo đảm cho sức sống
bền vững của triết học Mác-Lênin. Trong quá trình phát triển, ở mỗi giai đoạn
lịch sử triết học Mác-Lênin lại đợc bổ sung những khái quát mới từ những
thành tựu khoa học. Đồng thời triết học Mác-Lênin còn là lý luận của giai cấp
vô sản, vạch ra con đờng đấu tranh cho sự thắng lợi của CNCS, do vậy nó đã
trở thành vũ khí tinh thần có giá trị quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại
các trờng phái phản động và khắc phục những hạn chế của t tởng phản khoa
học, cũng nh chứng minh xu hớng vận động tất yếu của xã hội loài ngời. Bằng
2
3

C.Mác&Ăngghen:toàn tập, Nxb-CTQG,H1997,t37.tr603

V.I.Lênin:toàn tập,Nxb,tiến bộ,Mcv,1980,t23,tr53.
C.Mác&Ăngghen:toàn tập,Nxb CTQG
4


6
hệ thống lý luận tiến bộ, cách mạng và khoa học, đây chính là giá trị văn hoá
tinh thần to lớn của giai cấp vô sản và nhân loại.
Bản chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật còn thể hiện
ở chỗ nó luận giải mục đích, con đờng đi tới giải phóng con ngời, vì con ngời,
lấy sự phát triển toàn diện của con ngời làm thớc đo chung cho sự phát triển
của xã hội. Nh Mác chỉ ra rằng: ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát
triển xã hội là phát triển con ngời toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá
con ngời, giải phóng con ngời, loại trừ ra khỏi cuộc sống con ngời mọi sự tha
hóa, để con ngời đợc sống với cuộc sống đích thực con ngời và bớc quan trọng
nhất trên con đờng đó là giải phóng con ngời về mặt xã hội. Điều đó cho thấy

rằng trong quan niệm của Mác, thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã
hội loài ngời là vì con ngời, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho con ngời,
phát triển toàn diện và giải phóng con ngời. Nói theo Ăng ghen là đa con ngời
từ vơng quốc của tất yếu sang vơng quốc của tự do, làm cho con ngời cuối
cùng là ngời chủ của tồn tại xã hội, cũng đồng thời trở thành những ngời chủ
tự nhiên, ngời chủ của bản thân mình, trở thành ngời tự do. Đó cũng chính là
quá trình mà nhân loại tự tạo ra những điều kiện, những khả năng cho chính
mình đem lại sự phát triển toàn diện tự do, hài hoà cho mỗi ngời trong cộng
đồng nhân loại, tạo cho con ngời năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của mình.
Triết học Mác-Lênin mà linh hồn là phép biện chứng duy vật đã đề cao những
vấn đề quan trọng nhất, quyết định nhất về cải tạo thế giới hiện thực, giải
phóng con ngời khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột, chính điều này đã làm cho
triết học Mác-Lênin có giá trị nhân đạo và nhân văn cao cả.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn
đóng vai trò cải tạo thế giới. Bất kỳ một học thuyết triết học nào cũng không
trực tiếp làm thay đổi thế giới, mà thông qua tri thức về thế giới, con ngời hình
thành mục đích, phơng hớng, biện pháp chỉ đạo hoạt động vào thế giới. Bất
kỳ học thuyết triết học nào cũng phải giải thích thế giới, song để thực hiện đợc
vai trò cải tạo thế giới, học thuyết phải phản ánh đúng thế giới, phảI định hớng
hoạt động cho con ngời phù hợp với quy liật, phải đợc quần chúng nhân dân
tin và hành động theo. Nội dung và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng
đáp ứng đợc yêu cầu này. Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện
chứng thể hiện ở mối quan hệ mật thiết với hoạt động thực tiển của quần
chúng nhân dân, với cuộc đấu tranh giai cấp vô sản trên mọi lĩnh vực. Bản
chất cách mạng, khoa học của phép biện chứng duy vật còn đợc thể hiện ở sự
thống nhất giữa giải thích thế giới và cải tạo thế giới. Việc đa thực tiễn vào


7
triết học là bớc ngoặt cách mạng trong triết học Mác, trong Luận cơng về

Phoiơbắc, Mác viết: Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới5.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái
mới. Ph.Ăngghen cho rằng không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng
cả. Trên mọi sự vật và trong mọi sự vật đều mang dấu ấn của sự suy tàn tất yếu
bởi không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và tiêu
vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp đến cao.6
Tính cách mạng sâu sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua
việc nó phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận động và phát triển;
qua đó, qúa trình xoá bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ hơn
là tất yếu.
Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn
thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hớng cho con ngời
trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật không
chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể, mà nó còn kết
tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển t tởng triết học của nhân loại.
Nội dung của phép biện chứng duy vật đợc trình bày một cách có hệ thống,
chặt chẻ gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể
hoá các nguyên lý trên. Nghiên cứu và làm sáng tỏ các nguyên lý, các phạm
trù, quy luật cơ bản đó là nhiệm vụ của phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen
nhấn mạnhVậy là từ trong lịch sử của giới tự nhiên và lịch sử của xã hội loài
ngời mà ngời ta đã rút ra đợc các quy luật của biện chứng. Những quy luật
không phải là cái gì khác ngoài những quy luật chung nhất của hai giai đoạn
phát triển lịch sử ấy cũng nh là bản thân t duy7
Tính cách mạng và tính khoa học của phép biện chứng duy vật thống
nhất chặt chẽ với nhau bởi vì phép biện chứng là học thuyết về sự phát triển,
dới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về
tính tơng đối của nhận thức của con ngời, nhận thức này phản ánh vật chất
luôn luôn phát triển không ngừng8. phép biện chứng duy vật về bản chất có

tính phê phán và cách mạng. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng phép biện
chứng duy vật không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra
tính chất quá độ của mọi sự vật và trong mọi sự vật, và đối với nó không có gì
C.Mác-Ăngghen,TT,t3,NxbCTQG,H1994,tr12
C.Mác&Ăngghen:toàn tập,Nxb CTQG, H2004,t21,tr394.
7 C.Mác&Ph.Ăngghen:toàn tập, Nxb-CTQG,H2004,t20,tr348
8 V.I.Lênin:toàn tập,Nxb.tb,Mcv,2005,t23.tr53
5
6


8
tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự tiến triển vô cùng vô tận từ thấp
đến cao9. Bản chất cách mạng của phép biện chứng duy vật thể hiện ở chỗ,
trong khi đa quan niệm về tính hợp lý của cái hiện tồn thì đồng thời cũng bao
hàm trong nó quan niệm về sự diệt vong tất yếu của cái hịên tồn đó. Với bản
chất cách mạng sâu sắc và triệt để, đợc thể hiện trong các nguyên lý, các cặp
phạm trù và các quy luật của mình, phép biện chứng đã vạch ra biện chứng
của quá trình phát triển, với nội dung và hình thức hết sức phong phú. Nó là cơ
sở phơng pháp luận để chỉ đạo chủ thể xác định phơng pháp cách mạng khoa
học và đúng đắn.
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng
để khái quát bức tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới (tự
nhiên, xã hội và t duy). Tính chất vô tận của thế giới, cũng nh tính chất có hạn
của mỗi sự vật, hiện tợng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích đợc trong mối
liên hệ phổ biến và đợc quy định bằng nhiều mối liên hệ gó hình, vai trò khác
nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến con ngời rút ra đợc những quan
điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiển. Nghĩa
là, trong họat động nhận thức và hoạt động thực tiển, không nên tuyệt đối hoá
mối liên hệ nào và cũng không nên tách rời mối liên hệ này khỏi các mối liên

hệ khác; bởi trên thực tế, các mối liên hệ còn phải đợc nghiên cứu cụ thể trong
sự biến đổi và phát triển của chúng. Đó là phải xem xét toàn diện các mối liên
hệ; trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra đợc những mối liên hệ bản chất,
chủ yếu để hiểu thấu bản chất của sự vật; từ bản chất của sự vật phải quay lại
hiểu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở liên kết các mối liên hệ bản chất, chủ yếu với
tất cả các mối liên hệ khác của sự vật để bảo đảm tính đồng bộ khi giải quyết
các vấn đề của đời sống. Quan điểm toàn diện, đối lập với mọi suy nghĩ và
hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ảnh đặc trng biện chứng phổ quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là một trờng
hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tợng chuyển
hoá sang chất mới, cao hơn phức tạp hơn; làm cho cơ cấu tổ chức, phơng thức
vận động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển có tính
khác quan, phổ biến,đa dạng, mọi sự vật hiện tợng luôn vận động, biến đổi
không ngừng và về phơng diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của thế
giới có xu hớng phát triển. Vì vậy quán triệt quan điểm phát triển là nguyên
tắc chung trong chỉ đạo hành động và suy nghĩ của con ngời. Đó là phải xem
9

C.Mác&Ph.Ăngghen:toàn tập,Nxb-CTQG,H2004,t20,tr364.


9
xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó, phải t duy năng
động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức đợc cái mới và ủng hộ cái mới.
Đi liền với những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là
những quy luật cơ bản phản ảnh cái bản chất trong sự vận động của vũ trụ. Nó
là những mối liên hệ quy định bản chất của sự vật, hiện tợng cho nên là mối
liên hệ tất yếu chi phối sự phát triển của sự vật hiện tợng. Quy luật mang tính
ổn định, tồn tại khách quan và phổ biến. Song tính phổ biến của các quy luật

lại không giống nhau, có những quy luật riêng biệt, quy luật đặc thù,Phép
biẹn chứng duy vật chỉ nghiên cứu những quy luật phổ biến nhất gọi là những
quy luật cơ bản. Đồng thời, mỗi quy luật cơ bản đó lại nói lên một mặt khác
nhau của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tợng.
Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lợng dẫn tới những biến đổi
về chất và ngợc lại chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tợng. khi nghiên cứu quy luật này, là cơ sở nhận thức đầy đủ cả mặt lợng và
mặt chất của nó. Nắm đợc nội dung quy luật này, trong hoạt động thực tiển
phải dựa trên việc hiểu đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay
đổi(chất và lợng) để hoạt động có hiệu quả. Tránh nôn nóng, đốt cháy giai
đoạn tích luỹ về lợng; đồng thời tránh t tởng tuyệt đối hoá sự thay đổi về lợng,
không kịp thời chuyển những thay đổi về lợng sang những thay đổi về chất, từ
những thay đổi mang tính tiến hoá sang những thay đổi mang tính cách mạng
và ngợc lại không biết sử dụng chất mới để thúc đẩy lợng tiép tục phát triển.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, đây là hạt nhân của
phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển,
phản ảnh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Quy luật
này có ý nghĩa phơng pháp luật to lớn trong việc phát hiện và phân tích mâu
thuẫn của sự vật cũng nh tìm ra con đờng đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn
nhằm thúc đẩy sự vật phát triển. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn
diện các mặt đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó.
PhảI phân biệt đợc các loại mâu thuẫn để giải quyết kịp thời đa sự vật phát
triển tiến lên. Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn để tìm
ra phơng thức, phơng tiện và lực luợng có khả năng gỉai quyết mâu thuẫn và tổ
chức giải quyết mâu thuẫn một cách triệt để.
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hớng vận động phát triển
của sự vật, hiện tợng; tính tất yếu của sự ra đời cái mới và mối liên hệ giữa cái
mới và cái cũ. Quy luật này có một ý nghĩa phơng pháp luận to lớn trong quá
trình thay thế cái cũ bằng cái mới, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc



10
hậu. Do đó, cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái củ. Trong công tác,
chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tởng vào tơng lai
phát triển của cái mới,mặc dù lúc đầu nó còn yếu ớt, ít ỏi, phải ra sức bồi dỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ. Trong khi đấu
tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, biết giữ lấy những gì là tích cực,
có giá trị của cái cũ, biết cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới.
Vừa phải chống thái độ h vô chủ nghĩa trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá
quá khứ, vừa phải chống thái độ bảo thủ, kh kh giữ lại những gì đã lỗi thời
cản trở bớc tiến của lịch sử.
Ba quy luật trên thống nhất hữu cơ với nhau, phản ánh sự tác động qua
lại của những mặt quan trọng nhất trong sự liên hệ và vận động phát triển của
sự vật hiện tợng. Cùng với ba quy luật cơ bản, phép biện chứng duy vật còn có
hệ thống các phạm trù, đó là những khái niệm chung nhất phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, bản chất của sự vật hiện tợng
về phơng diện nào đó của hiện thực. Ngoài tính khách quan, các phạm trù còn
mạng tính biện chứng, chúng luôn có sự liên hệ chằng chịt với nhau, trong
những điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Những phạm trù có tính liên hệ trực tiếp với nhau đợc xếp thành những
cặp đôi, gọi là những cặp phạm trù cơ bản hay những quy luật không cơ bản
của phép biện chứng duy vật. Những cặp phạm trù quen thuộc trong phép biện
chứng duy vật là: phạm trù cái riêng và cái chung; nguyên nhân và kết quả; tất
nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức; bản chất và hiện tợng; khả năng
và hiện thực.Nh vậy, phép biện chứng duy vật là một hệ thống hoàn chỉnh bao
gồm nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có một vai trò nhất định nhng có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trong đó quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
giữ vai trò quan trọng nhất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Lênin
viết: Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập, nh thế là nắm đợc hạt nhân của phép biện
chứng, nhng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển 10.
Có thể thấy vai trò hạt nhân của quy luật mâu thuẫn ở chỗ nó cho phép ta nắm

đợc bản chất của sự vật, chỉ rõ nguồn gốc, động lực của sự phát triển, là chìa
khoá cho phép đi sâu tìm hiểu toàn bộ phép biện chứng duy vật. Phạm trù mâu
thuẫn xuyên suốt toàn bộ hệ thống quy luật của phép biện chứng, đó là : mâu
thuẫn lợng - chất; mâu thuẫn phủ định - khẳng định; chung - riêng; nguyên
nhân - kết quả,Với quan điểm hệ thống, đòi hỏi khi tiếp cận và áp dụng phép
biện chứng trong xem xét và giải quyết các vấn đề đặt ra phải thấy đợc vai trò
10

Lê-nin,TT,t29,Nxb-tb Mcv,H1981,tr240


11
chi phối của quy luật mâu thuẫn, đồng thời không xem nhẹ vai trò của các yếu
tố khác.
Nội dung các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật vừa là sự cụ
thể hoá thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Đồng thời
vừa đi sâu phản ánh cái bản chất và nội dung bên trong của quá trình vận
động, phát triển của thế giới vật chất. Còn các cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng duy vật phản ánh tính phong phú muôn vẻ của sự vận động, phát
triển của thế giới vật chất, là sự cụ thể hoá tiếp theo các hình thức phát triển
của sự vật và cụ thể hoá các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nếu
nh những nguyên lý của phép biện chứng duy vật là những luận điểm bao quát
nhất, có tính chất biện chứng chung nhất về thế giới thì các quy luật cơ bản,
các cặp phạm trù đi sâu nghiên cứu từng mối liên hệ bản chất, từng góc cạnh
cụ thể khác nhau của các sự vật hiện tợng đặt trong quá trình vận động, phát
triển không ngừng của thế giới vật chất.
Từ những nội dung đã trình bày trên đây cho ta kết luận rằng: Phép biện
chứng duy vật là một phơng pháp luận triết học với đặc trng cơ bản là xem
xét, luận giải thế giới nh một chỉnh thể của những sự vật hiện tợng luôn liên
hệ và ràng buộc với nhau. Luôn vận động và không ngừng biến đổi. Với t cách

là một phơng pháp luận triết học biện chứng, luận giải, xem xét các sự vật
hiện tợng một cách biện chứng, nó hoàn toàn đối lập với phép siêu hình, chính
vì vậy phép biện chứng duy vật là hình thức cao nhất của t duy khoa học.
Đồng thời phép biện chứng duy vật là sự tổng kết toàn bộ sự phát triển của
triết học và khoa học tự nhiên, là sự khái quát cao quy luật của tự nhiên và thế
giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ là khoa học t duy mà còn là khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển của tự nhiên và xã hội
loài ngời.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một hệ thống lý luận của con ngời
mà nó còn là một hệ thống phơng pháp phổ quát, chung nhất giúp con ngời
trong hoạt động thực tiễn, trong nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan. Hệ
phơng pháp luận chung đó đợc nghiên cứu và rút ra từ những nguyên lý, quy
luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật, trở thành những nguyên tắc chung
nhất chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con ngời. Đó là nguyên tắc khách quan,
toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Quán triệt nguyên tắc này khi xem xét
sự vật hiện tợng phải đặt sự vật trong tổng hoà các mối quan hệ của các mặt,
các thuộc tính của chính sự vật ấy; phải xem xét chúng trong trạng thái vận
động, biến đổi và theo xu hớng chung là phát triển tiến lên. Lênin đã từng


12
khẳng định: Phép biện chứng đòi hỏi ngời ta phải chú ý đến tất cả các mặt
của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó,
chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia 11Bên cạnh đó
phải tìm ra nguyên nhân quan trọng quyết định đến sự vận động của sự vật,
tìm ra nguồn gốc động lực của sự phát triển là giải quyết các mâu thuẫn nảy
sinh tồn tại trong mỗi sự vật. Muốn cải tạo sự vât phải thờng xuyên tăng cờng
sự tích luỹ về lợng, khi có điều kiện tạo nên sự nhảy vọt về chất, chống mọi
biểu hiện chủ quan duy ý chí, nôn nóng đốt cháy giai đoạn trong sự phát triển,
đồng thời chống t tởng bảo thủ trì trệ, khi lợng đã đến giới hạn độ, điểm nút

lại chần chừ do dự không kiên quyết tạo nên sự nhảy vọt về chất. Biểu hiện
trong xã hội là không dám làm cách mạng, không dám cải tổ, đổi mới khi điều
kiện thời cơ đã chín muồi. Nguyên tắc duy vật biện chứng còn chỉ ra phát triển
là một quá trình lâu dài đầy khó khăn, phức tạp với con đờng không bằng
phẳng, đôi khi chấp nhận cả sự tụt lùi tạm thời. Vì vậy vậy phải có thái độ
kiên trì, bình tĩnh tự tin trớc những khó khăn của sự phát triển, xây dựng niềm
tin vào cái mới, cái tiến bộ, quyết tâm củng cố niềm tin, ủng hộ cái mới , tạo
điều kiện để cái mới chiến thắng; kiên quyết ngăn chặn tiến tới loại trừ cái cũ,
cái bảo thủ lạc hậu gây cản trở con đờng phát triển.
Ngày nay khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất không do ai
sinh ra và không bị mất đi. Các sự vật, hiện tợng của tự nhiên, xã hội đều chỉ
là những dạng tồn tại cụ thể khác nhau của vật chất; thế giới thống nhất ở tính
vật chất, luôn vận động biến đổi không ngừng theo những quy luật khách quan
vốn có của nó. Nguồn gốc của mọi sự vận động của thế giới là do đấu tranh
của các mặt đối lập bên trong của nó. Hoàn toàn không thể giải thích đợc sự
tồn tại của thế giới từ những lực lợng bên ngoài một cách thần bí, mà chỉ có
thể xuất phát từ thế giới quan duy vật biện chứng mới nhận thức đợc thế giới
một cách đúng đắn.
Cùng với sự phát triển của khoa học, đặc biệt là những thành tựu khoa
học tự nhiên, sinh học, tin học,con ngời ngày càng khám phá và phát hiện ra
ngày càng nhiều các thuộc tính, các hình thức tồn tại của vật chất. Song có thể
nói rằng tất cả các thành tựu của khoa học hiện đại hiện nay cũng không hề
mâu thuẫn, trái ngợc với những nguyên lý, quy luật, phạm trù mà phép biện
chứng duy vật đã khái quát. Ngay cả sự ra đời, tồn tại và phát triển của xã hội
cũng vậy, không thể có cái nhìn đúng đắn nếu không xuất phát từ nền tảng vật
chất của nó, bản thân xã hội cũng chỉ là một kết cấu vật chất đặc thù. Sự vận
11

Lê-nin,TT, t29,Nxb-tb Mcv,H1981,tr280



13
động, phát triển bao giờ cũng do nguyên nhân vật chất, nguyên nhân kinh tế
với những quy luật cơ bản của nó.
Quá trình tiếp cận, xem xét giá trị của phép biện chứng duy vật cần
khẳng định rõ: Với hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù, phép biện
chứng duy vật là công cụ nhận thức vĩ đại, là cơ sở cách mạng- khoa học chỉ
đạo quá trình nhận thức hiện thực khách quan. Cho dù thế giới có vận động,
biến đổi thế nào đi chăng nữa, dù phong phú thế nào đi chăng nữa thì cũng
đều nằm trong quỹ đạo, phạm vi mà phép biện chứng duy vật đã khái quát.
Với chức năng trang bị thế giới quan và phơng pháp luận khoa học, phép biện
chứng duy vật đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và có vai trò ngày càng tăng
trong thời đại ngày nay. Nó cho phép chúng ta có những kết luận khoa học về
xã hội t bản từ bản chất, xu hớng vận động và sự diệt vong tất yếu của nó.
Đồng thời cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn sự khủng hoảng, tìm ra
nguyên nhân và biện pháp khắc phục sự khủng hoảng của xã hội chủ nghĩa.
Nh vậy ở đây chính là phép biện chứng duy vật đã tạo ra tính cách mạng
bằng cách xuất phát từ vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới.
Xuất phát từ quan điểm duy vật triệt để, triết học Mác-Lênin đã nhận thức
đúng đắn vai trò, vị trí của thực tiễn đối với sự tồn tại, vận động và phát triển
của thế giới, đặc biệt trên lĩnh vực xã hội. Thực tiễn không chỉ là cơ sở động
lực của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá nhận thức mà còn đóng
vai trò quyết định đối với quá trình cải tạo thế giới, cải tạo hiện thực. Trong
triết học Mác-Lê nin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng thì toàn
bộ quá trình nhận thức đều xuất phát từ thực tiễn với mục đích cuối cùng là
chỉ đạo hoạt động cải tạo thực tiễn, chính vì vậy cho đến nay cha có một học
thuyết nào thay thế đợc. Tuy nhiên, khẳng định bản chất cách mạng và khoa
học, chúng ta cũng nhận thức sâu sắc rằng triết học Mác-Lênin nói chung và
phép biện chứng duy vật nói riêng là một hệ thống mở nên chúng ta không coi
nó nh một cáI đó đã xong xuôI hẳn, bât khả xâm phạm mà coi nó luôn cần đợc bổ sung, phát triển trên nền tảng phát triển của hoạt động thực tiễn và hoạt

động nhận thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là giáo điều mà là
kim chỉ nam vho hành động, nó đặt ra những yêu cầu có tính nguyên tắc phơng pháp luận mà từ những nguyên tắc ấy con ngời phải vận dụng sáng tạo
sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
II- Phép biện chứng duy vật đối với thực tiễn cách mạng nớc ta hiện
nay


14
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lảnh đạo,
mục tiêu cao cả của nó là giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân
lao động nói chung khỏi sự bóc lột,áp bức và bất công. Cuộc cách mạng xã
hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ nhờ cải tạo căn bản, mang tính
cách mạng mới có thể thủ tiêu chế độ xã hội cũ, thiết lập chế độ mới, cao hơn.
Chỉ nhờ cách mạng xã hội, các quan hệ sản xuất lỗi thời và những giai cấp đại
diện cho các quan hệ sản xuất đó- các giai cấp phản động cũ- đang cản trở con
đờng tiến bộ xã hội mới bị thủ tiêu. Với ý nghĩa nh vậy,việc nhận thức đúng
đắn và vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào thực tiển cách mạng nớc ta có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng. Do vậy đòi hỏi
mỗi chúng ta hơn lúc nào hết càng phải nắm vững phép biện chứng duy vật,
mài sắc t duy biện chứng để nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình
hình thế giới, để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới trong
giai đoạn hiện nay. Đảng ta luôn khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
và t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho hành động,
vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Những nguyên lý của phép biện chứng duy vật cho phép
Đảng ta kiên định con đờng xã hội chủ nghĩa, bởi đó là con đờng hợp với quy
luật phát triển của xã hội loài ngời. Trong cơng lĩnh xây dựng đất nớc Đảng ta
cũng khẳng định: Lịch sử thế giới đang trải qua những bớc quanh co. Song
loài ngời cuối cùng nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến
hoá của lịch sử.
Phép biện chứng duy vật còn là cơ sở khoa học để toàn Đảng và mọi cán

bộ đảng viên xác định tinh thần lạc quan cách mạng, giữ vững niềm tin vào lý
tởng xã hội xã hội chủ nghĩa, mặc dù hiện nay hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, triết học Mác-Lênin bị các thế
lực thù địch phê phán, nhng bằng cách nhìn khách quan toàn diên Đảng ta tiếp
tục khẳng định con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta : Con đờng đi lên
của nớc ta là phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thợng tầng t bản chủ nghĩa, nhng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt đợc dới chế độ tbản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ để phát triển nhanh lực lợng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đờng12
12

Văn kiẹn ĐHĐ IX,Nxb CTQG,H2001,tr12


15
Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa đó là con đờng
quá độ lâu dài, mâu thuẫn cơ bản của nó là mâu thuẫn giữa xu hớng tự phát
lên chủ nghĩa t bản với xu hớng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải
giải quyết đúng đắn mâu thuẫn này mới đảm bảo yêu cầu của quá trình lịch sử
tự nhiên trong quá trình phát triển cách mạng nớc ta. Trong đó tính chủ động
sáng tạo và tự giác của Đảng và nhà nớc ta giữ vai trò quyết định.
Quá trình giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của cách mạng nớc ta là
quá trình vừa tuân theo những sự phát triển tiến hoá dần dần về lợng, lại vừa
tranh thủ những bớc phát triển cách mạng nhảy vọt về chất; vừa kế thừa tất cả
những mặt hợp lý của chủ nghĩa t bản để phát triển lực lợng sản xuất, lại
phải vừa đấu tranh tích cực để loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính của

chủ nghĩa t bản; vừa biết tích luỹ nội dung, lại vừa phải luôn luôn nhạy bén để
cải tạo hình thức cho phù hợp; vừa kết hợp những giá trị truyền thống của dân
tộc với những tiến bộ của nền văn minh mới. Con đờng quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nớc ta đòi hỏi phải chủ động và tự giác phát triển và sử dụng
chủ nghĩa t bản làm khâu trung gian, làm phơng tiện để đi lên chủ nghĩa xã
hội, nhất là hớng chủ nghĩa t bản vào con đờng t bản nhà nớc. Đó chính là sự
kết hợp tự giác cao mặt đối lập thông qua hàng loạt các khâu trung gian và bớc quá độ.
Cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa hai xu hớng: t bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa đợc cụ thể hoá trong các cuộc đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn khác trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, t tởng ,bởi vì, mâu
thuẫn cơ bản là cơ sở nảy sinh và chi phối các mâu thuẫn khác. Chính các
cuộc đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn cụ thể ấy là quá trình trực tiếp giải
quyết mâu thuẫn cơ bản, là cách thức cụ thể nhằm phát huy tổng hợp những
yếu tố tích cực, tiến bộ của dân tộc và của thời đại, bảo đảm cho công cuộc
đổi mới thành công đa sự nghiệp cách mạng nớc ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Nh vậy, với bản chất cách mạng và khoa học của các nguyên lý, phạm
trù, quy luật của phép biện chứng duy vật đã giúp cho Đảng ta nhìn nhận và
vạch ra con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hoàn toàn đúng đắn. Đa đất
nớc ta thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết
để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, phấn đấu cho
mục tiêu: dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể thành công khi Đảng
ta trung thành và vận dụng đúng đắn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê
nin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng. Trái lại nếu không giữ


16
vững lập trờng, không nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, xa rời
những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật thì sẽ mắc sai lầm,
chệch hớng xã họi chủ nghĩaNhận thức đúng đắn bản chất của phép biên

chứng duy vật là một trong những bảo đảm về t tởng, đờng lối đúng đắn tận
dụng thời cơ, thuận lợi để tiến lên, đẩy lùi nguy cơ đa cách mạng Việt Nam
tiến vững chắc trên con đờngyax hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta lựa chọn.
Để khắc phục những biểu hiện lệch lạc, trong quá trình giáo dục lý luận
Mác-Lênin, đồng thời tăng cờng truyền thụ lý tởng xã hội chủ nghĩa, niềm tin
cộng sản cho cán bộ đảng viên và nhân dân hiện nay, một trong những yêu cầu
cấp bách là phải trang bị cho các thế hệ kiến thức khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và t duy. Đó là
những nguyên lý, quy luật, phạm trù, khái niệm của triết học Mác-Lênin, bởi
đây là cơ sở khoa học để khẳng định tính đúng đắn xu thế phát triển khách
quan của nhân loại và chủ nghĩa xã hội. Thế giới quan triết học Mác-Lênin
phải giữ vai trò chủ đạo trong định hớng quan điểm chính trị, t tởng trong đời
sống tinh thần của nhân dân ta, giúp cho cán bộ đảng viên và nhân dân nhận
thức đúng đắn và lý giải có cơ sở khoa học, xây dựng niềm tin lý tởng ở chủ
nghĩa xã hội, tin vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, khẳng định sự tất
thắng của chủ nghĩa xã hội.
III- ý nghĩa phơng pháp luận của phép biện chứng duy vật trong
lĩnh vực quân sự
Đối với hoạt động thực tiễn quân sự, phép biện chứng duy vật cũng cung
cấp nguyên tắc, phơng pháp luận khoa học và cách mạng trong thực tiễn hoạt
động quân sự, đó là nguyên tắc: khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát
triển.
Lĩnh vực quân sự căn bản khác với các hiện tợng khác của đời sống xã
hội. Bản chất của chiến tranh, tính đặc thù của nó và những điều kiện trong đó
chiến tranh đợc tiến hành quy định hình thức biểu hiện đặc biệt của những quy
luật và phạm trù của phép biện chứng trong lĩnh vực quân sự. Phép biện chứng
cũng đợc thể hiện cụ thể hoá khi phân tích những cuộc chiến tranh của các
thời đại khác nhau và khi nghiên cứu từng hiện tợng riêng biệt của một cuộc
chiến tranh nào đó. Sẽ là sai lầm nếu gán ghép một cách máy móc những biểu

hiện của những quy luật và phạm trù của phép biện chứng trong lĩnh vực quân
sự của thời thời kỳ chiến tranh giữ nớc vào tình huống điều kiện chiến tranh
hiện nay. Chẳng hạn, lấy phạm trù khả năng và quy luật chuyển hoá từ những


17
thay đổi về lợng đến những thay đổi về chất để lý giải. Trớc kia khả năng dành
thắng lợi đối với một kẻ địch mạnh trong một thời gian ngắn trong nhiều trờng
hợp đã bị hạn chế rõ rệt do tính năng của vũ khí lúc bấy giờ và do những đặc
điểm của chiến trờng cùng với nhiều lý do khác. Ngày nay lại khác, việc sử
dụng ồ ạt vũ khí tên lửa và hàng loạt những vũ khí tối tân khác (nh Mỹ đã sử
dụng ở I Rắc, Nam T, Apganitstan) thúc đẩy khả năng rút ngắn chiến tranh,
rút ngắn rất nhiều thời gian đánh bại đối phơng và gây ảnh hởng quyết định
đến những biểu hiện của quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lợng thành
những thay đổi về chất trong chiến tranh.
Trong chiến tranh hiện đại hiện nay, nếu cuộc chiến tranh do chủ nghĩa
đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ tiến hành thì tất cả những quá trình chiến
tranh xảy ra sẽ nhanh hơn rất nhiều so với bất cứ cuộc chiến tranh nào của quá
khứ. Vì vậy, không đợc tính đến khả năng dần dần tăng cờng lực lợng để tấn
công, đánh trả. Trong điều kiện mà chỉ với những đòn tấn công bằng những vũ
khí hiện đại nhất đầu tiên đã đủ sức quyết định đến tiến trình và kết cục đụng
độ quân sự nh ở I Rắc, Nam T, Apganitstan,Thực tiễn đã chứng minh, sự tác
động của quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lợng thành những thay đổi
về chất, thay đổi cả thời gian cũng nh quy mô và kết quả cuối cùng. Đây chính
là đặc điểm quan trọng nhất của sự biểu hiện quy luật ấy. ý nghĩa của nhân tố
bất ngờ sẽ hết sức lớn và do đó quân đội phải thờng xuyên sẵn sàng chiến đấu
cao, hết sức đề cao cảnh giác để kịp thời thay đổi cả về lợng và chất trong tất
cả các lĩnh vực xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở nớc ta hiện nay. Đối với
ngời cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quán triệt trong thực tiễn luận
điểm nói trên có tầm quan trọng đặc biệt thiết thực và to lớn. Muốn làm rõ

biểu hiện đặc thù của những quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật
trong lĩnh vực quân sự hiện đại, cần hiểu biết sâu sắc những vấn đề chiến
tranh và xây dựng quân đội, làm việc một cách tích cực, chủ động, tự giác, vận
dụng một cách sáng tạo thế giới quan, phơng pháp luận của phép biện chứng
duy vật vào trong thực tiễn lĩnh vực quân sự.
Nghiên cứu lĩnh vực quân sự một cách biện chứng có nghĩa là xem xét tất
cả các mặt của nó trong sự phát triển và vận động thờng xuyên, trong tổng thể
những mối liên hệ đa dạng của nó. Bởi vì, lĩnh vực quân sự, nh bất kỳ quá
trình nào khác, đợc hoàn thiện trên cơ sở tất cả những quy luật đợc phản ánh
và đợc khái quát trong những luận điểm của phép biện chứng duy vật, cho nên
khi nghiên cứu các hiện tợng và quá trình của nó, cần tính toán đến các tác
động không phải của một mà là tất cả các quy luật và phạm trù của phép biện


18
chứng duy vật. Phơng pháp biện chứng cũng đòi hỏi nghiên cứu triệt để các
mặt bản chất của lĩnh vực quân sự, đi từ cái đã biết đến cái cha biết, từ biết cha sâu đến biết sâu, đến nhận thức đầy đủ toàn bộ các mối liên hệ qua lại và
mạng tính quy định lẫn nhau. Trong đó cần phát hiện tính quy luật của sự phát
sinh và phát triển các hiện tợng chiến tranh và xây dựng quân đội ta hiện nay.
Những hiện tợng của chiến tranh và của việc xây dựng quân đội luôn vận
động, biến đổi và phát triển. Do đó trong lĩnh vực quân sự, những biến đổi về
lợng và chất dẫn tới phủ định cái cũ và xuất hiện cái mới thờng đợc diễn ra
trên cơ sở của cuộc đấu tranh của các khuynh hớng đối lập. Sự phủ định biện
chứng, trớc hết, đó là một quá trình giải quyết mâu thuẫn bên trong, là sự thủ
tiêu một mặt đối lập và sự ra đời của một sự vật, của một hiện tợng mới về
chất với những mặt đối lập riêng của nó. Cái mới không sinh ra từ trớc, nó ra
đời và phát triển đến một lúc nào đó từ trong cái cũ, trong cuộc đấu tranh với
cũ. Và do đó trong những hiện tợng của chiến tranh và xây dựng quân đội, cái
mới chỉ có thể đợc xác lập trong điều kiện nếu xoá bỏ đợc cái lỗi thời, thủ tiêu
đợc tất cả những cái gì ngăn cản sự phát triển. Không có sự phủ định cái cũ đã

lỗi thời thì cái mới không đợc xác lập và củng cố. Đó là quy luật biện chứng
của sự phát triển của hiện thực xung quanh. Nh Mác đã viết khẳng định:
không có một lĩnh vực nào có thể có sự phát triển mà không phủ định những
hình thức tồn tại cũ của mình.
Trong xây dựng quân đội, xuất phát từ nhận thức sâu sắc bản chất cách
mạng và khoa học của phép biện chứng duy vật, Đảng ta khẳng định nó là thế
giới quan, phơng pháp luận triết học duy nhất, đúng đắn và khoa học trong
quá trình nhận thức và là cơ sở đề ra các chủ trơng, giải pháp xây dựng quân
đội. Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định phải: Xây dựng quân đội nhân dân
và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ văn hoá kiến thức ngày càng cao 13.
Mục tiêu xây dựng: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đối với quân
đội ta là một quá trình lâu dài và khó khăn, quá trình xây dựng phải gắn với sự
vận động và phát triển của nền kinh tế của đất nớc ta, với tiềm lực quân sự của
quốc gia, khả năng đầu t cho quốc phòng. Trong quân đội lại gắn với quá trình
tinh giảm, điều chỉnh quân số sao cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới, với
khả năng tự sản xuất, tự cung cấp một phần trang thiết bị vũ khí, kỹ thuật;
đồng thời phải giáo dục nâng cao mặt bằng trí tuệ cho đội ngũ cán bộ, chiến
sĩ.
13

Văn kiện ĐHĐ IX, Nxb CTQG,H2001,tr40


19
Quá trình xây dựng quân đội cần phải kiên trì tích luỹ về lợng để tạo điều
kịên nhảy vọt về chất. Chống mọi biểu hiện nóng vội, chủ quan, không xem
xét tình hình cụ thể, đốt cháy giai đoạn, đòi hỏi chính quy, hiện đại ngay.
Đồng thời cũng chống t tởng bảo thủ trì trệ, chậm đổi mới nâng cao trình độ,
coi trọng cái cũ và không thấy đợc sự phát triển của cái mới, cái tiến bộ, kết

quả là không tạo đợc sự nhảy vọt về chất.
Phép biện chứng duy vật cũng đòi hỏi phê phán những quan điểm duy
tâm, siêu hình trong xây dựng quân đội, không tuân theo quan điểm lịch sử, cụ
thể và phát triển, mà trái lại xây dựng một cách cắt xén, phiến diện, không
thống nhất đồng bộ, đề cao mặt này, hạ thấp mặt kia trong xây dựng và kết
quả là không tạo nên sức mạnh tổng hợp cho quân đội, không tạo nên sự phát
triển về chất của quân đội.
Tóm lại: Từ bản chất cách mạng và khoa học của phép biện chứng duy
vật, nó trang bị cho chúng ta thế giới quan, phơng pháp luận khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài ngời và của t duy. Đồng thời phép biện chứng duy vật cũng có ý nghĩa phơng pháp luận sâu sắc trong lĩnh vực quân sự nói chung và trong việc xây
dựng quân đội ta nói riêng. Từ bản chất của phép biện chứng duy vật giúp
chúng ta có nhận thức đúng đắn và nhất trí cao với các chủ trơng, biện pháp
của Đảng, nhà nớc ta về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bớc hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
mới.
Những ý nghĩa to lớn và giá trị bền vững của phép biện chứng duy vật
trong nhận thức và cải tạo thế giới là những di sản giá trị văn hoá tinh thần
mang bản chất cách mạng, khoa học. Nó đã và đang mãi mãi có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc đối với lịch sử phát triển của xã hội loài ngời, nó đã
vợt ra ngoài giới hạn một giai cấp, một quốc gia dân tộc để trở thành tài sản
tinh thần vô giá của nhân loại, trở thành công cụ vĩ đại của nhận thức khoa
học, cải tạo thế giới.
Những t tởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác về phép BCDV đến nay vẫn
còn nguyên giá trị và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc đổi mới ở nớc
ta hiện nay. Trớc hết, nó là công cụ để nhận thức đúng quá trình đổi mới, là cơ
sở phơng pháp luận để Đảng ta có cơ sở khoa học xác định phơng pháp cách
mạng đúng đắn, đó là tất yếu phải thực hiện nền kinh tế thị trờng theo định h-



20
ớng xã hội chủ nghĩa, phải chủ động tham gia hội nhập với nền kinh tế thế
giới và khu vực trên cơ sở hợp tác hai bên cùng có lợi...
Đối với những ngời cộng sản thì phép biện chứng duy vật trở thành công
cụ quan trọng bậc nhất không thể thiếu của nhận thức và hành động để cải tạo
thế giới và cải tạo chính bản thân mình, là cơ sở khoa học để xây dựng tinh
thần lạc quan cách mạng, giữ vững niềm tin vào mục tiêu lý tởng, con đờng đã
lựa chọn. Đồng thời còn là cơ sở để nhận thức đúng đắn những biến đổi mau
lẹ, sâu sắc của tình hình thế giới nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của sự
nghiệp đổi mới ở nớc ta hiện nay. Mặt khác, phép biện chứng duy vật còn là
vũ khí lí luận khoa học, cung cấp cho chúng ta phơng pháp đấu tranh chống
lại các quan điểm cơ hội, xét lại, phản động của các thế lực thù địch, bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác, đờng lối quan điểm của Đảng và t tởng Hồ Chí
Minh.
Việc bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung,
phép biện chứng duy vật nói riêng vừa là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn vừa là
vấn đề mang tính quy luật sống còn mà lịch sử hình thành và phát triển của
học thuyết Mác đã kiểm chứng. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô, Đông Âu và 20 năm đổi mới trên đất nớc ta đã cho thấy: lúc nào xa rời
hoặc vận dụng máy móc những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và
t tởng Hồ Chí Minh, không tuân theo những nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật thì tất yếu phải trả giá, thậm chí diễn ra cả sự đổ vỡ, khủng hoảng, thất
bại.
Trong thời đại ngày nay, các quan điểm, t tởng của Mác, Ăng-ghen về
phép biện chứng duy vật vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với chúng ta
trong xem xét, đánh giá các vấn đề diễn ra trong tự nhiên, xã hội và cả trong t
duy. Chúng ta cần phải kiên định, nắm vững phép biện chứng duy vật để lý
giải, nhận thức các vấn đề mới nảy sinh và tiếp tục nghiên cứu, phát triển, vận
dụng sáng tạo những lý luận, quan điểm của phép biện chứng duy vật của

Mác, Ăng-ghen vào tất các các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh - quốc phòng,...góp phần đa sự nghiệp đổi mới theo định hớng xã hội chủ
nghĩa trên đất nớc ta ngày càng phát triển, đạt những thành tựu mới vững chắc
hơn.



×