Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

MỘT số vấn đề TRIẾT học TRONG tác PHẨM bản THẢO KINH tế TRIẾT học năm 1844

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.92 KB, 16 trang )

1

Một số vấn đề triết học trong tác phẩm
bản thảo kinh tế - triết học năm 1844

Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, đợc Mác viết từ tháng 4 đến
tháng 8 năm 1844, ở Pa ri, nó chỉ là những đoạn viết dới dạng bản thảo, đợc C.
Mác sắp xếp thành ba bản thảo. Mục đích của Mác viết tác phẩm này, nh ông
nói là nhằm làm rõ những vấn đề còn đang nghiên cứu. Chính vì vậy khi Mác
còn sống tác phẩm không đợc đem đi xuất bản. sau khi ông mất, lần đầu tiên
đợc in ở Đức năm 1927 với t cách là phần chuẩn bị cho tác phẩm Gia đình
thần thánh, đến năm 1932 mới đợc viện Mác - Lênin trực thuộc Ban chấp
hành Trung ơng Đảng cộng sản Liên xô xuất bản thành sách riêng. Kết cấu
của tác phẩm gồm lời tựa và 11 chơng mục, trong đó có cả ba bộ phận cấu
thành chủ nghĩa Mác đã đợc trình bày: kinh tế chính trị học; chủ nghĩa xã hội
khoa học; và triết học. Sự ra đời của tác phẩm này đã đánh dấu bớc chuyển
quan trọng trong giai đoạn phát triển triết học Mác.
Tác phẩm chủ yếu nghiên cứu các vấn đề kinh tế của xã hội t bản nh
chế độ t hữu, nguồn gốc của chế độ đó, những mâu thuẫn giai cấp nảy sinh
trong phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa. Đặc biệt ở tác phẩm này nổi lên
các phạm trù trung tâm đó là : sự tha hoá của lao động; lao động bị tha hoá; sở
hữu t nhân, trong đó sự tha hoá của lao động là nội dung cốt lõi. Bằng sự phân
tích hàng loạt các vấn đề kinh tế của xã hôi t bản; C.Mác đã phê phán những
quan điểm sai lầm, thiển cận, ảo tởng do sử dụng phơng pháp siêu hình của
các nhà kinh tế học t sản. Trên cơ sở đó ông đã rút ra một số quy luận kinh tế
của chủ nghĩa t bản, làm rõ những vấn đề chính trị xã hội của nó, khẳng định
sự cần thiết phải thủ tiêu chế độ t hữu để giải phóng con ngời. Từ nghiên cứu
những vấn đề kinh tế và chính trị trong xã hôi t bản, C.Mác đã chứng minh
tính nhất thời của nó và vai trò của cách mạng của giai cấp vô sản. Ông đã
nghiên cứu một cách có phê phán những quan điểm của các nhà xã hội chủ
nghĩa không tởng và chứng minh rằng chủ nghĩa cộng sản tất yếu sẽ ra đời


thay thế xã hội t bản.. Chính sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa t bản đã tạo
ra những khả năng, tiền đề vật chất để xoá bỏ nó và ra đời chủ nghĩa cộng sản.
C.Mác đã vạch ra một số đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa cộng sản.
Trong tác phẩm này, C.Mác đã khởi thảo những nguyên lý xuất phát của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những nội dung
triết học cụ thể nh: vấn đề cơ bản của triết học, phép biện chứng, vai trò của


2

lao động, vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại, phát triển con ngời và
xã hội loài ngời, giai cấp và đấu trinh giai cấp, con ngờivấn đề nhân đạo, đợc
C.Mác trình bày rất sâu sắc trong toàn bộ tác phẩm. Do sự bao quát rộng lớn
và sâu sắc của những vấn đề triết học nh vậy, trong phạm vi thu hoạch này chỉ
trình bày về hai vấn đề cụ thể: C.Mác phê phán phép biện chứng của Hêghen;
cách tiếp cận biện chứng của C.Mác về lý giải con ngời và bản chất con ngời
đợc thể hiện ở trong tác phẩm Bản thảo5 kinh tế - triết học năm 1844.
Thứ nhất, C.Mác phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Sự phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen đợc C.Mác trình bày
trong phần cuối của tác phẩm. Về phần chủ định này, C.Mác đã lý giải trong
lời tựa của tác phẩm: chừng cuối cùng của quyển sách này - sự phân tích có
tính chất phê phán phép biện chứng của Hêghen và triết học Hêghen nói
chung - theo tôi là hoàn toàn cần thiết để đối lập với nhà thần học phê phán
hiện đại, vì một công tác nh thế cho đến nay vẫn cha hoàn thành1. Nhà thần
học phê phán hiện đại mà C.Mác nói đến ở đây là B.Bauơ, ngời đã công bố hai
bài nhận xét dài về các tác phẩm, các bài báo và những cuốn sách về vấn đề
ngời Do Thái mà sau này, C.Mác và Ph.Ănghen đã phê phán một sâu sắc và
cặn kẽ trong tác phẩm gia đình thần thánh. Trong tác phẩm này C.Mác chỉ
rõ, tính chất thiếu căn cứ trong nhng phê phán của B.Bauơ nằm ở những tiền
đề triết học xuất phát của ông ta và ở chính thái độ của ông ta đối với những

tiền đề triết học đó, khi nhờ có những phát hiện của những ngời khác mà nảy
sinh ra sự hoài nghi về tính chất đúng đắn của những tiền đề triết học ấy 2.
Những tiền đề triết học xuất phát của B.Bauơ là phép biện chứng nói riêng,
triết học của hêghen nói chung. Do đó mục đích của sự phê phán của C.Mác
đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen là nhằm: Phê phán một cách
triệt để sự phê phán có tính chất phê phán của B.Bauơ; trình bày quan điểm về
vấn đề chúng ta quan hệ nh thế nào với phép biện chứng của Hêghen 3. Sự
phê phán của C.Mác đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen đợc thực
hiện qua một số nhận xét về phép biện chứng của Hêghen nói chung, về sự
trình bày phép biện chứng trong hiện tợng học và lôgíc học, về quan hệ
của sự vận động phê phán mới đối với Hêghen nói riêng. Trong sự phê phán
của C.Mác đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen cần kể đến vai trò
của những t tởng triết học nhân bản chủ nghĩa, tự nhiên chủ nghĩa của Phoi ơ
1
2
3

C.Mác và Ăngghen. Toàn tập, t42. Nxb chính trị quốc gia, HN. 2000,tr 69
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr69
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr217


3

bắc cũng nh sự phê phán của Phoi ơ bắc đối với phép biện chứng của Hêghen.
Vì điểm Phoi ơ bắc phê phán cũng là điểm mà C.Mác tập trung phê phán đối
với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. đó là, Hêghen đã coi sự vận động
của lịch sử vừa cha phải là lịch sử hiện thực của con ngời với tính cách là chủ
thể đã đợc giả định, mà đó chỉ là hành vi sinh đẻ, lịch sử xuất hiện của con ngời dới hình thức trừu tợng lôgíc, t biện.
Trớc hết về hình thức trừu tợng lôgíc, t biện của sự vận động lịch sử

trong phép biện chứng của Hêghen, C.Mác đánh giá cao sự phê phán của Phoi
ơ bắc đối với vấn đề này. theo C.Mác, Phoi ơ bắc đã chỉ ra và chứng minh
rằng, phép biện chứng của Hêghen xuất phát từ sự tha hoá, từ thực thể, từ sự
trừu tợng tuyệt đối và cố định, nghĩa là xuất phát từ tôn giáo và thần học. Vì
vậy, phép biện chứng của tính phủ định với tính cách nguyên lý thúc đẩy và
sản sinh là sự biểu hiện sự vĩ đại của hiện tợng học, và kết quả cuối cùng là
ở chỗ, Hêghen xem xét sự sản sinh của con ngời nh là một qúa trình mà rốt
cuộc, trở thành một kết cấu t biện, duy tâm trong triết học của ông. Hêghen đã
đồng nhất cái kết quả phủ định của phủ định với cái khẳng định tuyệt đối, xem
nó là biểu hiện của tri thức tuyệt đối - cái kết thúc của sự tự vận động trong
lôgíc học đợc bắt đầu từ t tởng t biện thuần tuý. Vì vậy ở Hêghen, khi phép
biện chứng có tính phủ định đợc triển khai từ tôn giáo và thần học thì sẽ dẫn
đến kết quả khôi phục tôn giáo và thần học dới một hình thức tồn tại khác mà
thôi. Cả Phoi ơ bắc và C.Mác đều phê phán cái khẳng định tuyệt đối ấy - cái
khẳng định tự chứng minh bản thân bằng tồn tại của mình mà không kể đến
mặt đối lập của nó bao hàm trong bản thân nó. Theo C.Mác, do Hêghen chỉ
coi phủ định của phủ định từ phía khẳng định nằm trong phủ định của phủ
định, là cái khẳng định chân thật và duy nhất của mọi tồn tại, cho nên ông ta
chỉ tìm thấy biểu hiện trừu tợng lôgíc, t biện của sự vận động của lịch sử. Hơn
nữa, trong phép biện chứng của Hêghen phủ định của phủ định, tức là cái
khẳng định tuyệt đối, không phải là sự khẳng định bản chất chân chính thông
qua sự phủ định bản chất h ảo, mà là sự khẳng định bản chất h ảo hoặc đã bị
tha hoá khỏi mình trong sự phủ định bản chất h ảo, hoặc là sự phủ định bản
chất h ảo ấy với tính cách là bản chất có tính đối tợng, ở bên ngoài con ngời và
không phụ thuộc vào con ngời và là sự chuyển hoá của bản chất đó thành chủ
thể4, nên tất yếu kết quả thu đợc là phép biện chứng của t tởng thuần tuý.
4

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr238.



4

Do vậy, với việc chỉ ra cái thực chất trong hình thức trừu tợng lôgíc, t biện của
sự vận động lịch sử và thực chất sự phê phán tôn giáo và thần học trong phép
biện chứng của Hêghen, C.Mác đã làm rõ tính chất thiếu căn cứ, không có cơ
sở trong những phê phán của B.Bauơ. Qua đó, cho thấy sự phê phán của
C.Mác đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, hoàn toàn đối lập với sự
phê phán của B.Bauơ (nếu có) đối với phép biện chứng này. Bởi vì, B.Bauơ
không ý thức rõ ràng về việc thực hiện sự phê phán đó và một khi phải thực
hiện sự phê phán đó khi mà sự xuất hiện những phát hiện của Phoi ơ bắc, thì
B.Bauơ chỉ làm việc đó một cách hình thức và bề ngoài. Còn bên trong,
B.Bauơ bí ẩn ngấm ngần, nham hiểm và hoài nghi, chống lại sự phê phán của
Phoi ơ bắc đối với phép biện chứng của Hêghen5.
Còn về phía C.Mác, ông khẳng định rằng, đã đến lúc cần thiết phải có
sự phê phán đối với phép biện chứng của Hêghen và triết học Đức nói chung,
phải phân rõ ranh giới một cách có phê phán với phép biện chứng của Hêghen,
C.Mác đã thực hiện sự phê phán đó một cách nghiêm túc. Bên cạch việc chỉ ra
và phê phán những hạn chế và tính phiến diện trong phép biện chứng duy tâm
của Hêghen, C.Mác cũng chỉ ra và khẳng định những giá trị chân chính trong
phép biện chứng đó. Đó là những nhận định của C.Mác về phép biện chứng
có tính chất phủ định với tính cách là nguyên lý thúc đẩy và sản sinh của
Hêghen, t tởng về sự tớc bỏ của Hêghen mà trong đó, sự phủ định và giữ lại,
tức là sự khẳng định kết hợp với nhau, có vai trò độc đáo trong sự vận động
của lịch sử. Xem xét hệ thống của Hêghen bắt đầu từ hiện tợng học với t
cách nguồn gốc và bí mật thật sự của triết học Hêghen, C.Mác chỉ ra bên cạnh
những hình thức trừu tợng lôgíc, t biện của sự vận động lịch sử trong phép
biện chứng của Hêghen còn tiềm ẩn hình thức phê phán của sự vận động ấy.
Hiện tợng học là sự phê phán bị che dấu, cha rõ ràng với bản thân nó, mang
một hình thức thần bí, nhng trong đó vẫn có dới hình thức che dấu tất cả

những yếu tố của sự phê phán, những yếu tố này đợc chuẩn bị và hoàn thiện
thờng là dới hình thức vợt lên trên quan điểm của Hêghen. Căn nguyên của
hình thức phê phán đó là ở tính tất yếu của tính phủ định nằm trong phủ định
của phủ định nh là hành vi chân thực duy nhất, đó là hành vi từ hiện thực của
mọi tồn tại, mặc dù ở Hêghen lôgíc tự vận động của tinh thần.

5

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr71.


5

Tiếp theo đó, phê phán quan niệm của Hêghen coi sự vận động của lịch
sử, cha phải là lịch sử hiện thực của con ngời với t cách là chủ thể đã đợc giả
định. Vấn đề này C.Mác đã khẳng định: giống nh mọi cái tự nhiên đều phải
nảy sinh, con ngời cũng có hành vi phát sinh của mình, có lịch sử, nhng lịch
sử đợc phản ánh trong ý thức của con ngời và do đó với tính cách là hành vi
phát sinh, nó là hành vi phát sinh tự tớc bỏ mình một cách có ý thức. Lịch sử
là lịch sử tự nhiên chân chính của con ngời6. Nh vậy có thể nói, mặc dù còn
chịu ảnh hởng phần nào của triết học Hêghen, cũng nh triết học nhân bản chủ
nghĩa và tự nhiên chủ nghĩa của Phoi ơ bắc, nhng sự phê phán của C.Mác đối
với phép biện chứng duy tâm của Hêghen đã cho thấy, ở C.Mác đã hình thành
một quan điểm vừa duy vật, vừa biện chứng về sự vận động của lịch sử con
ngời. Trong sự phê phán của mình, C.Mác bắt đầu từ quan điểm của Hêghen
về bản chất con ngời để từ đó chỉ ra tính phiến diện và duy tâm trong những t
tởng triết học của Hêghen về sự vận động của lịch sử. Bởi vì, trong phép biện
chứng của Hêghen bản chất của đối tợng đợc biểu hiện ra là bản chất t tởng đó
chủ thể bao giờ cũng là ý thức hoặc tự ý thức, hoặc nói đúng hơn, đối tợng
chỉ biểu hiện nh là ý thức trừu tợng7. Do quan niệm về chủ thể nh vậy cho

nên con ngời chỉ biểu hiện nh là tự ý thức, cho nên những hình thức tha hoá
khác nhau (trong đó có cả sự tha hoá của con ngời) đợc biểu hiện trong hiện
tợng học chỉ là những hình thức khác nhau của ý thức và tự ý thức. Vì
Hêghen đã biến con ngời thành con ngời của tự ý thức chứ không phải biến tự
ý thức thành ý thức con ngời, nên ở triết học Hêghen con ngời cha có vai trò
chủ thể hiện thực trong sự vận động lịch sử của chính mình. Mặt khác chủ thể
trong phép biện chứng của Hêghen không đặt trong tơng quan với khách thể.
Cho nên toàn bộ sự vận động ấy là sự đồng nhất của tự ý thức và ý thức. Vì thế
sự vận động của lịch sử trong phép biện chứng của Hêghen chỉ cho thấy hành
vi sinh đẻ, lịch sử xuất hiện con ngời mà thôi, đó cha phải là lịch sử hiện thực
của con ngời. Bên cạnh sự phê phán tính chất phiến diện, duy tâm trong phép
biện chứng của Hêghen, C.Mác còn chú ý nhấn mạnh và đánh giá cao việc
Hêghen dựa trên phép biện chứng của tính phủ định với tính cách là nguyên lý
thúc đẩy và sự sản sinh để xem xét sự tự sản sinh của con ngời nh là một quá
trình, xem xét sự đối tợng hoá nh là sự phân hoá đối tợng, nh là sự tha hoá và
sự tớc bỏ tự tha hoá ấy, do đó ông nắm lấy bản chất của lao động và hiểu con
6
7

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr. 234.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr. 226.


6

ngời đối tợng, con ngời chân chính, vì có tính chất hiện thực, là kết quả của
lao động của bản thân con ngời8. Nhng nh C.Mác đã chỉ rõ, vấn đề là ở chỗ
Hêghen chỉ biết và chỉ thừa nhận một thứ lao động, cụ thể là lao động tinh
thần trừu tợng, hơn nữa Hêghen chỉ nhìn thấy phơng diện khẳng định của lao
động chứ không nhìn thấy phơng diện phủ định, lao động là sự sinh thành vì

mình của con ngời trong khuôn khổ của sự tha hoá. Theo C.Mác hạn chế đó
đã dẫn đến Hêghen sai lầm đã bày đặt nên một lịch sử có tính chất t biện,
huyền ảo. Lịch sử của nhân loại biến thành lịch sử của tinh thần trừu tợng, sẽ
biến thành lịch sử của tinh thần ở thế giới bên kia của loài ngời. Cho nên đòi
hỏi phải có một tiền đề, đó chính là tinh thần trừu tợng,, do đó sự vận động
của lịch sử con ngời đợc xuất phát từ bản chất tinh thần và dới dạng tinh thần,
dới hình thức tinh thần. Dẫn đến cuối cùng, chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện
của lịch sử của nó sản xuất ra t duy trừu tợng, nghĩa là t duy tuyệt đối, t duy
lôgíc, t biện9. Với một thái độ nghiêm túc, khoa học, khi phê phán phép biện
chứng duy tâm của Hêghen về sự vận động của lịch sử con ngời. Về cơ bản
C.Mác đánh giá cao những t tởng của Hêghen về sự vận động mà tựu trung lại
đó là ở phép biện chứng của tính phủ định. Song C.Mác cũng phê phán một
cách cặn kẽ và triệt để tính chất duy tâm, t biện trừu tợng của Hêghen vè sự
vận động lịch sử của con ngời. Theo C.Mác, chỉ có chủ nghĩa tự nhiên và chủ
nghĩa nhân đạo mà trong đó con ngời đợc coi là một thực thể tự nhiên, mới có
khả năng hiểu đợc hành vi lịch sử của toàn thế giới. Bởi vì, với t cách thực thể
tự nhiên, con ngời có những đói tợng hiện thực, cảm tình làm đối tợng của bản
chất của mình, hoặc con ngời chỉ có biểu hiện đời sống của mình dựa trên
những hiện thực. Nh vậy C.Mác đã tiến xa hơn và khác về chất so với quan
niệm của Phoi ơ bắc về quan niệm con ngời là một thực tể tự nhiên, ở đây
C.Mác đã quan niệm coi con ngời là một thực thể tự nhiên có tính ngời, con
ngời đợc xét cụ thể trong tơng quan với sự vận động của lịch sử, đó là lịch sử
vận động của xã hội hiện thực, đó là lịch sử hoạt động của con ngời theo đuổi
mục đích của bản thân mình, đợc biểu hiện và tự khẳng định trong sự vận
động lịch sử của chính mình. Nói cách khác lịch sử của con ngời là lĩnh vực
con ngời biểu hiện đời sống của mình, do đó lịch sử của con ngời phải là lịch
sử hiện thực, là lịch sử tự nhiên chân chính của con ngời và vận động theo tất
yếu của nó.
8
9


C.Mác và Ănghen. Sđd, tr..234
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr. 224


7

Nh vậy, sự phê phán của C.Mác đối với phép biện chứng duy tâm của
Hêghen đợc tiến hành tơng đối đầy đủ và rất sâu sắc. C.Mác đã chỉ ra rằng,
với quan điểm duy tâm, sự vận động trong triết học Hêghen chỉ là quá trình
vận động của ý niệm tuyệt đối, ý niệm trừu tợng. Sự phủ định của phủ
định trong phép biện chứng ấy chỉ đợc xem xét nh là sự phủ định của các hình
thức trừu tợng, những giai đoạn khác nhau của tinh thần trừu tợng, là sự tớc bỏ
lẫn nhau của các hình thức trong bản thân t duy với t cách là những thực thể
độc lập hoàn toàn tách biệt với hiện thực khách quan. Toàn bộ sự vận động đó,
chỉ là lịch sử của quá trình tự tha hoá của t duy t biện và đợc sản xuất ra trong
phạm vi t duy t biện mà thôi. Do vậy, những hình thức trừu tợng hoá và lối t
duy t biện của Hêghen là sa rời thực tế, cho nên C.Mác đã kiên quyết bác bỏ.
Tuy nhiên, khi phân tích phép biện chứng duy tâm của Hêghen trong tác phẩm
này C.Mác đã chỉ rõ những nhân tố tích cực. Phép biện chứng của tính phủ
định coi nh nguyên lý đang vận động và sản sinh, đó là quá trình sản sinh của
chính bản thân con ngời, thông qua hoạt động lao động của họ. Sự phủ định
trong phép biện chứng của Hêghen đã bao hàm mặt khẳng định, cuộc đấu
tranh giữa mặt khẳng định và phủ định làm cho các khái niệm, những hình
thức của t duy vận động, chuyển hoá. Các khái niệm, những hình thức t duy
không tồn tại cô lập mà đợc Hêghen trình bày nh một chỉnh thể thống nhất có
mối liên hệ chuyển hoá cho nhau. đặc biệt C.Mác đánh giá rất cao quan niệm
biện chứng của Hêghen về sự phát triển của sự tha hoá và sự xoá bỏ tha hoá.
Đối với Phoi ơ bắc, mặc dù đánh giá cao Phoi ơ bắc, nhất là sự phê phán của
ông đối với phép biện chứng của Hêghen, C.Mác cũng chỉ ra những hạn chế

của Phoi ơ bắc. Coi Phơi ơ bắc là ngời đã đánh đổ tận gốc phép biện chứng
và triết học cũ, là nhà t tởng duy nhất mà chúng ta nhận thấy có thái độ
nghiêm túc, phê phán đối với phép biện chứng của Hêghen10; là ngời đã
chứng minh rằng triết học chẳng qua là một hình thái tồn tại khác của sự tha
hoá của bản chất con ngời, xây cơ sở của chủ nghĩa duy vật chân chính và
của khoa học hiện thực, vì Phoi ơ bắc cũng làm cho quan hệ xã hội của con
ngời đối với con ngời trở thành nguyên tắc cơ bản của lý luận 11. Song C.Mác
cũng cho rằng, Phoi ơ bắc đã không đúng khi coi quan hệ giữa con ngời với
con ngời chỉ là sợi dây liên hệ tự nhiên và giải thích khái niệm loài ngời chỉ là
sự thống nhất tự nhiên giữa con ngời và giới tự nhiên. Phê phán quan niệm đó
10
11

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.219.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.135.


8

của Phoi ơ bắc, C.Mác cho rằng, môi trờng xã hội mới là cái đóng vai trò
quyết định đến sự hình thành những mối quan hệ giữa ngời với ngời. Từ quan
niệm đó C.Mác đã chứng minh rằng, trông mong vào một sự cải thiện nào đó
đối với các quan hệ xã hội nh Phoi ơ bắc đã từng hy vọng chỉ là vô ích, khi
những hoàn cảnh quyết định các quan hệ đó, tức là những điều kiện sản xuất
ra đời sống vật chất của con ngời vẫn cha thay đổi. Từ lập trờng duy vật và
trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc quan niệm của Phoi ơ bắc về phép biện chứng
của Hêghen, C.Mác đã chỉ rõ ý nghĩa cách mạng và tính chất bảo thủ của phép
biện chứng của Hêghen, cứu phép biện chứng đó ra khỏi sự ràng buộc của hệ
thống triết học duy tâm, lết hợp phép biện chứng ấy với chủ nghĩa duy vật và
trên cơ sở đó, bớc đầu xây dựng hệ thống triết học duy vật biện chứng cả trong

tự nhiên và xã hội của mình.
Hai là, cách tiếp cận biện chứng của C.Mác về lý giải con ngời và
bản chất con ngời.
Những quan điểm của C.Mác về con ngời và đặc biệt là về bản chất con
ngời trong bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 là tiền đề, cơ sở để ông
nghiên cứu các vấn đề nh lao động bị tha hoá, chế độ t hữu và việc xoá bỏ nó,
giải phóng con ngời dới chủ nghĩa cộng sảntừ đó hình nên quan niệm duy
vật về lịch sử. Do vậy cần phải có những lập luận, kiến giải khoa học từ cách
tiếp cận biện chứng, điều đó đã đợc C.Mác chỉ ra sự tổng hợp biện chứng của
cái phổ biến, cái đặc thù và cái thống nhất trong lý giải con ngời cũng nh bản
chất của nó. C.Mác xác định con ngời nh là sinh thể vật chất mang tính phổ
biến đối với thế giới bên ngoài, thực hiện hoạt động phổ biến nhằm biến toàn
bộ tự nhiên thành thân thể vô cơ của mình. Quan điểm về tính phổ biến của
con ngời đã đem lại những khả năng mới cho việc nhận thức về sự thống nhất
của con ngời với thế giới bên ngoài. C.Mác đã chỉ ra sự khác biệt của con ngời
với mọi sinh thể khác trong thế giới hiện thực là ở cách thức mà con ngời tiến
hành sản xuất để tồn tại và phát triển, ở việc tiến hành cải tạo tự nhiên bằng
cách vận dụng chính các quy luật của tự nhiên mà nó lĩnh hội đợc. Khi xem
xét con ngời với t cách đó và trong mối quan hệ của nó với tự nhiên, C.Mác đã
chỉ rõ: con ngời hiện thực là con ngời nhục thể đứng trên quả đất để thu
hút vào mình và toả ra từ trong bản thân mình tất cả những lực lợng tự nhiên,
thông qua sự tha hoá của mình mà thiết định những những lực lợng bản chất


9

hiện thực, có tính tơng đối của mình12. tính phổ biến của con ngời còn đợc
C.Mác xét theo một số khía cạnh khác nhau. Về thuật ngữ con ngời phổ
biến đã đợc ông sử dụng theo cả hai nghĩa rộng và nghĩa hẹp: đặc trng về loài
của con ngời làm cho nó khác với mọi lực lợng khác của giới tự nhiên, đặc

biệt là đối với động vật. Theo C.Mác, động vật chỉ là những sinh thể phiến
diện, còn con ngời là một sinh thể đợc xác định với t cách, nhân cách đối lập
với cá nhân bị hạn chế; không phát triển theo những mặt nào đó, mà bằng
cách đối tợng hóa đời sống có tính loài của mình. con ngời nhân đôi mình
một cách hiện thực, một cách tích cực và ngắm nhìn bản thân mình trong
thế giới mình sáng tạo ra13. Cách tiếp cận thực nhất là cách tiếp cận triết học
đại cơng về con ngời, còn cách tiếp cận thứ hai thuộc lý luận xã hội học thuộc
về nhân cách. ở đây, có mối liên hệ biện chứng giữa sự hình thành, phát triển
của con ngời với t cách cá thể, vừa với t cách nhân cách và sự tiến bộ của xã
hội loài ngời, bởi cả trong hai trờng hợp đều có sự tác động của chính quy luật
xã hội. Khi phê phán nhận thức nhân bản học về con ngời của Phoi ơ bắc,
C.Mác đã nhấn mạnh rằng, bản chất phổ biến của con ngời không phải ở chỗ
nó chỉ là chủ thể biết tự ý thức và có cảm súc, mà trớc hết ở chỗ nó là một sinh
thể tự nhiên, toàn vẹn, có tính loài và hoạt động có đối tợng. Chính trong việc
cải biến thế giới đối tợng, trong chuyển hoá cái tự nhiên thành cái xã hội, con
ngời lần đầu tiên và trên thực tế đã khẳng định bản thân mình nh một sinh thể
toàn năng và phổ biến. Năng lực phổ biến của con ngời về sự tái tạo ra toàn bộ
giới tự nhiên đợc C.Mác gắn với cái mà con ngời, trong tiến trình lịch sử của
mình, ngoài năng lực sáng tạo theo kích thớc của bất cứ loài nào, còn có thể
sáng tạo theo các quy luật của cái đẹp14 nữa.
Xem xét con ngời trong sự hoạt động và tồn tại đặc thù của nó, C.Mác
nhận thấy rằng, bản chất con ngời phải đợc tìm trong hoạt động lao động của
nó. Bởi đối với con ngời, đời sống sản xuất chính là đời sống tính loài, nhờ
có sự sản xuất đó, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con ngời) và
thực tại của nó. Theo C.Mác, lao động không chỉ là phơng tiện để sống, mà
là hình thức tự khẳng định của con ngời, trong lao động trong việc cải biến
thế giới vật thể, con ngời lần đầu tiên thực sự khẳng định mình là một sinh vật
có tính loài. Sự xuất hiện của con ngời và sự hình thành bản chất của nó gắn
với sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội. điều đó đợc biểu
12

13
14

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr. 231.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.137.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.137.


10

hiện trớc hết ở sự phát sinh và phát triển của nền sản xuất xã hội, cái mà dẫn
đến sự thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội: C.Mác viết lịch sử của công
nghiệp và sự tồn tại có tính chất đối tợng đã hình thành của công nghiệp là
quyển sách đã mở ra những lực lợng bản chất của con ngời là tâm lý con ngời
bày ra trớc mắt chúng ta một cách cảm tính mà từ trớc tới nay ngời ta xem xét
nó không gắn nó với bản chất của con ngời15. Tính đặc thù của con ngời và
bản chất của nó còn đợc thể hiện nếu con ngời là một cá nhân đặc thù nào đó
và chính tính đặc thù của nó làm nó thành ra một cá nhân và một thực thể xã
hội cá thể hiện thực, thì trong mức độ nh thế, nó cũng là một tổng thể,cũng
giống nh trong hiện thực nó tồn tại, một mặt nh là sự trực quan tồn tại xã hội
và sự hởng thụ tồn tại ấy một cách hiện thực, và mặt khác, nh tổng thể biểu
hiện sinh hoạt của con ngời16. Tính cá nhân của con ngời, đặc điểm độc đáo
của nó đợc biểu hiện trong sự thống nhất hữu cơ và trong tính chỉnh thể của
quá trình phát triển toàn bộ những năng lực nà nhu cầu thông qua các hình
thức đối tợng, các phơng thức và phơng tiện văn hoá - đó là lao động, ngôn
ngữ, tập quán hiểu biết, sáng tạo nghệ thuậtnhững hình thức đó lại mang nội
dung xã hội của bản chất con ngời. C.Mác viết tiếp: con ngời chiếm hữu bản
chất toàn diện, nghĩa là nh một con ngời toàn vẹn. Mối quan hệ có tính chất
ngời của con ngời với thế giới - thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ, t duy, tức quan, cảm
giác, mong muốn, hoạt động, yêutrong quan hệ đối tợng của nó hoặc trong

quan hệ của nó với đối tợng đều là sự chiếm hữu đối tợng17.Quan điểm đó
của C.Mác cho thấy hiện thực của con ngời cũng hết sức muôn vẻ nh những sự
quy định của bản chất con ngời và hoạt động của con ngời, là chìa khoá để
hiểu đúng sự phát triển cá nhân và lịch sử của con ngời. Đồng thời vạch ra phơng hớng giải quyết đúng đắn vấn đề mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu
tố xã hội trong sự phát triển của con ngời. C.Mác nhấn mạnh rằng, cá nhân là
thực thể xã hội cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó - ngay cả nếu nó
không biểu hiện dới hình thức trực tiếp của biểu hiện sinh hoạt tập thể, đợc
thực hiện cùng với những ngời khác- là biểu hiện và sự khẳng định của sinh
hoạt xã hội18. Nh vậy, hoạt động của con ngời biểu hiện dới hình thức gián
tiếp - đối tợng hoặc ngôn ngữ - sẽ tạo ra điều kiện và phơng tiên giao tiếp - đối
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.177.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.171-172.
17 C.Mác và Ănghen. Sđd, tr172-173.
18 C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.171.
15
16


11

tợng hoặc ngôn ngữ - sẽ tạo ra điều kiện và phơng tiện giao tiếp cho con ngời
phát triển với t cách là một thực thể xã hội.
Tính chất đặc thù của bản chất con ngời đợc biểu hiện ở tơng quan giữa
hai yếu tố trong một sự thống nhất biện chứng. Khi khẳng định con ngời là
một sinh vật có tính loài và trong tính hiện thực ấy bản chất con ngời biểu hiện
tổng hoà tất cả các quan hệ xã hội, điều đó không hề mâu thuẫn với sự tồn tại
của con ngời với t cách là một cá thể tự nhiên - sinh học. Quan điểm của
C.Mác về tính loài và bản chất xã hội của con ngời là cái nhìn biện chứng về
mối quan hệ qua lại giữa bản chất và hiện tợng; các nhân tố về xã hội căn bản
mang tính chi phối, quyết định đối với các nhân tố tự nhiên sinh học với tính

cách là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của con ngời. Quan niệm đó
của C.Mác về bản chất xã hội của con ngời đã cho thấy vai trò của hoạt động
sống của con ngời, đồng thời cũng chỉ ra những đặc thù quan trọng vè bản tính
sinh học của nó. ý nghĩa to lớn của các yếu tố tự nhiên - sinh học đối với sự
tồn tại và phát triển của con ngời khi sử dụng khái niệm bản tính con ngời,
C.Mác đã bổ sung cho nó quan niệm về tổng hoà các nhu cầu và bản năng.
Con ngời là thực thể tự nhiên với tính cách là thực thể tự nhiên sống, là thực
thể tự nhiên hoạt động. Với tính cách là một thực thể xã hội, con ngời theo
C.Mác, không đối lập với hình thức tồn tại sinh học tự nhiên của mình, bởi
hình thức này là tiền đề cho sự tồn tại ngời với tính cách thực thể xã hội. Cho
nên nói bản chất con ngời của tự nhiên, hoặc bản chất tự nhiên của con ngời
đợc biểu hiện nh thế nào không giản đơn chỉ là tính đến đặc điểm sinh học của
con ngời trong quá trình phân tích mặt xã hội.
Khi phê phán phép biện chứng và triết học của Hêghen nói chung,
C.Mác đã vạch ra mối quan hệ biện chứng của cái sinh học và cái xã hội trong
con ngời. Theo C.Mác phép biện chứng đó nằm trong sự gián tiếp hoá và quá
trình cái sinh học đợc cải tạo bởi cái xã hội, bởi những đối tợng có tính chất
ngời không phải là những đối tợng tự nhiên dới hình thức nh những đối tợng
này trực tiếp có sẵn trong tự nhiên19. sự cải tạo cái sinh học tự nhiên bởi cái
xã hội là cơ sở, là cơ chế hiện thực hoá hoạt động của con ngời một cách đặc
biệt, trớc hết là lao động sản xuất nhằm tạo ra các hình thức sinh học xã hội
của sự tồn tại và phát triển của con ngời. Điều này đã đợc C.Mác chỉ ra trong
phần nghiên cứu về lao động bị tha hoá nh sau: việc tạo một cách thực tiễn
19

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.234.


12


ra thế giới vật thể, việc cải tạo thế giới tự nhiên vô cơ là sự khẳng định của con
ngời với t cách là một sinh vật có tính loài có ý thức, nghĩa là một sinh vật đối
sử với loài nh với bản chất của chính mình, hoặc đối sử với bản thân mình nh
một sinh vật có tính loàicho nên, chính trong việc cải biến thế giới vật thể,
con ngời lần đầu tiên thực sự khẳng định mình là một sinh vật có tính loài. Sự
sản xuất đó là đời sống có tính loài tích cực của con ngời20. T tởng này đợc
C.Mác tiếp tục phát triển và luận chứng khi nói đến đặc thù về lao động của
con ngời. Nh vậy có thể nói, ngay từ đầu, C.Mác đã gắn bản chất con ngời với
hoạt động lao động, với sản xuất của con ngời. Cách tiếp cận này, khi xem xét
quá trình gián tiếp hoá và cải tạo cái tự nhiên sinh học bởi cái xã hội thì đó
chính là cách thức hiểu của C.Mác về biện chứng của sản xuất và tiêu dùng,
nghĩa là cái này biểu hiện nh là phơng tiện của cái kia, cái này gián tiếp qua
cái kia và ngợc lại. Đơng nhiên sự phụ thuộc lẫn nhau đó giữa cái sinh học và
cái xã hội trong con ngời, cũng giống nh sản xuất với tiêu dùng, không thể
xem là ngang bằng. Vấn đề giữa sản xuất và tiêu dùng có mối liên hệ hữu cơ
với phơng thức sản xuất, cụ thể với sở hữu - mục đích của C.Mác là làm rõ
mối liên hệ xã hội của con ngời và qua đó, làm rõ bản chất con ngời. Khác với
quan điểm của những ngời theo chủ nghĩa cộng sản bình quân, những ngời
chủ trơng lấy của cải của ngời giầu chia đều cho ngời nghèo trong khi vẫn duy
trì sự tồn tại của chế độ t hữu, C.Mác phản đối sự tồn tại của chế độ t hữu, bởi
vi trong quan niệm của ông, chế độ t hữu đã làm cho chúng ta ngu xuẩn và
phiến diện đến nỗi một số đối tợng nào đó chỉ là của chúng ta khi chúng ta có
nó, nghĩa là khi nó tồn tại với chúng ta nh t bản hoặc khi chúng ta trực tiếp
chiếm hữu nó, ăn nó, uống nó, mặc vào ta khi chúng ta tiêu dùng nó21. Liên
quan đến sở hữu là vấn đề lao động bị tha hoá. Khi xem xét tha hoá nh là sự
chiếm hữu bởi một số ít ngời về lực lợng, t liệu và thành quả lao động của ngời khác, C.Mác đã giải thích sự tha hoá nh là quan hệ xã hội, quan hệ sở hữu.
Việc phân tích lao động bị tha hoá đã cho phép C.Mác vạch ra ý nghĩa của
tiền lơng. Sự tha hoá của lao động là ở chỗ, lao động là cái gì đó bên ngoài
đối với ngời công nhân, không thuộc bản chất của anh ta; trong lao động của
anh ta, anh ta không khẳng định mình mà phủ định mình, không cảm thấy

minh sung sớng, mà cảm thấy mình khổ sở, không phát huy một cách tự do
nghị lực thể chất và tinh thần của mình, mà làm kiệt quệ thân thể của mình và
20
21

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.136-137.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.173.


13

phá hoại tinh thần của mìnhDo đó, lao động của anh ta không phải là tự
nguyện mà là bắt buộc, đó là lao động cỡng bức. Đó không phải là sự thoả
mãn nhu cầu lao động, mà chỉ là một phơng tiện để thoả mãn những nhu cầu
khác, ch không phải nhu cầu lao động22. Về thực chất, mục tiêu của lao động
là thoả mãn nhu cầu về tiền lơng. chính vì vậy, trong xã hội t bản - xã hội mà
nền sản xuất dựa trên quan hệ sở hữu t nhân, lao động trở thành nô lệ của
tiền lơng. Nhiệm cách mạng đặt ra cho loài ngời là phải thủ tiêu chế độ t hữu.
Để thực hiện đợc nhiệm vụ này, không còn cách nào khác là phải lật đổ chế độ
t bản chủ nghĩa bằng cách tiến hành cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa
cộng sản.
Nh vậy có thể nói, trong bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, khi
xuất phát từ lập trờng triết học mới, C.Mác đã đi đến một quan niệm đúng
đắn rằng, con ngời là một sinh thể vật chất phổ biến, nằm trong các quan hệ
phổ biến với thế giới bên ngoài, thực hiện nhng hoạt động phổ biến về sự
tồn tại phát triển của chính mình, của xã hội loài ngời. Vơi cách tiếp cận
mới để lý giải về con ngời và bản chất của nó, tất yếu vào năm 1845 C.Mác
đa ra luận điểm nổi tiếng Bản chất con ngời không phải là một cái trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội 23, trong luận cơng về Phoi ơ
bắc. tuy còn những hạn chế nhất định, nhng tác phẩm bản thảo kinh tế triết học năm 1844 ra đời có ý nghĩa to lớn. Trớc hết tác phẩm đã khởi

thảo những quan điểm cơ bản của một thế quan mới, đánh dấu sự chuyển
biến hoàn toàn của C.Mác từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản,
từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng.
C.Mác đã nghiên cứu một cách có phê phán những quan điểm của các
nhà kinh tế học cổ điển, các xã hội chủ nghĩa không tởng, quan điểm triết
học của Hêghen, Phoi ơ bắc và đã kiểm chứng những quan điểm của họ
trong thực tiễn xã hội, từ đó thấy đợc những hạn chế cũng nh những đóng
góp ở các học thuyết của những vị tiền bối, đồng thời hình thành nên thế
giới quan mới, thế giới quan duy vật biện chứng của mình. Trong tác phẩm
C.Mác đã khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy lịch sử. Những t tởng thiên tài đó là một trong
những dấu ấn quan trọng nhất trong giai đoạn hình thành triết học Mác.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.132-133.
C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.376.

22
23


14

Trong tác phẩm, C.Mác đã nghiên cứu một cách có phê phán những quan
điểm, học thuyết của các bậc tiền bối, đó là mẫu mực về phơng pháp, phê
phán một cách khoa học những t tởng, quan điểm trớc đó. C.Mác đã vạch rõ
nguồn gốc, nội dung các học thuyết, những điểm hạn chế, đồng thời ông
cũng kế thừa những hạt nhân hợp lý, phát triển những điểm tiến bộ đó lên
một trình độ mới khác hẳn về chất, đã đợc thực tiễn kiểm nghiệm.
Mặc dù tác phẩm vẫn còn dới dạng bản thảo, là một trong những
tác phẩm ra đời trong giai đoạn hình thành, cho nên có những quan điểm
cha thật chín muồi, đó cũng là lý do để các học giả t sản xuyên tạc chủ

nghĩa Mác. Nhng những t tởng duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đợc
trình bày trong tác phẩm là căn cứ đề bác bỏ những quan điểm phản diện
đó, mặt khác nó còn là cơ sở lý luận, phơng pháp luận cho cuộc đấu tranh
t tởng hiện nay. Đối với những ngời nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin,
đây là một trong những tác phẩm đặc biệt quan trọng giúp mọi ngời hiểu
đợc quá trình hình thành triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói
chung. Nhất là đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép
biện chứng duy vật là hết sức to lớn. Có thể nói thiếu nó, không thể đánh
giá đợc đầy đủ mối liên hệ mang tính cội nguồn và kế thừa giữa Hêghen
và C.Mác và cũng không thể thấy hết đợc tầm vóc của bớc nhảy vọt mà
C.Mác đã thực hiện trong lĩnh vực nghiên cứu con ngời. Đặc biệt là cách
tiếp cận biện chứng qua sự lý giải con ngời và bản chất của nó, điều đó
đợc thể hiện: Thứ nhất,cách tiếp cận của C.Mác đã đem lại quan niệm
duy vật biện chứng về con ngời, theo C.Mác con ngời có nguồn gốc (tự
nhiên và xã hội, lao động mà hình thành con ngời); Thứ hai, C.Mác phân
biệt rõ hoạt động của con ngời và hoạt động của con vật, C.Mác đã chỉ rõ
quá trình hình thành bản chất con ngời và vai trò của lao động trong quá
trình sáng tạo ra bản thân con ngời. Bởi vì bản chất của lao động là sáng
tạo ra thế giới đối tợng, cải tạo tự nhiên và trong quá trình cải tạo thế
giới đối tợng ấy, con ngời mới tách khỏi giới động vật, mới thực sự chứng
minh đợc sự tồn tại của mình với t cách là con ngời, tìm ra phơng thức
tồn tại cho mình; Thứ ba, C.Mác đã chỉ ra bản chất con ngời có sự thống
nhất biện chứng giữa nhân tố tự nhiên sinh học và nhân tố xã hội, điều đó
cho thấy vai trò ý nghĩa của các hoạt động sống của con ng ời và chỉ ra
bản tính sinh học của nó. Điều đó cho phép khắc phục sự thiên lệnh thái


15

quá trong các quan điểm của xã hội học tầm thờng và thuyết sinh học xã

hội. Đồng thời xác định một cách biện chứng, khoa học khuynh hớng tìm
tòi những triển vọng của con ngời nh một thực thể sinh học - xã hội trong
sự phát triển cá nhân và lịch sử của nó, giúp chúng ta giải quyết vấn đề
về mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong sự phát triển
của con ngời; Thứ t, C.Mác xác định bản chất con ngời trên cơ sở xây
dựng những luận cứ lý luận về tiến trình phát triển của nhân loại, với
những thành tựu mang tính cách mạng trong các khoa học xã hội, tr ớc
hết là triết học. Nhận thức duy vật biện chứng về lịch sử, trên thực tế là
sự phủ định ảo tởng của chủ nghĩa nhân bản triết học và nhằm xây dựng
một chế độ xã hội mang tính nhân văn sâu sắc. chỉ ra cho giai cấp vô sản
nhận thức đúng về mình, chính là lực lợng giữ vai trò quyết định trong
cuộc đấu tranh chống mọi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa t bản để giải
phóng con ngời với t cách là một thực thể xã hội ra khỏi sự bần cùng hoá
của nó. C.Mác đã tiến một bớc xa và cao hơn khi nghiên cứu chức năng
hiện thực của con ngời nh một sản phẩm của các quan hệ xã hội - lịch sử
nhất định, đồng thời vạch ra đờng lối và phơng pháp cụ thể cho sự nghiệp
giải phóng con ngời trong tiến trình phát triển của cách mạng vô sản;
Thứ năm, trong tác phẩm này còn một vấn đề hết sức quan trọng, cũng
xuất phát từ cách tiếp cận biện chứng và từ những hiểu biết sâu sắc về
bản chất con ngời, C.Mác đã nêu ra lời tiên đoán của ông về tơng lai phát
triển của khoa học. Ông viết: về sau khoa học tự nhiên bao hàm trong
nó khoa học về con ngời cũng nh khoa học về con ngời bao hàm trong nó
khoa học tự nhiên, đó sẽ là một khoa học 24. Lời tiên đoán đó của C.Mác
đã lần đầu tiên đợc kiểm nghiệm và chứng minh bằng thực tiễn phát triển
của khoa học và công nghệ.
Đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, C.Mác đã tiến hành
phê phán một cách khách quan khoa học, học thuyết của Hêghen về mâu
thuẫn và sự phát triển, phân tích phê phán quan niệm của Hêghen về tha
hoá. Từ đó C.Mác rút ra kết luận là phải phân tích biện chứng của sự vật
chứ không phải biện chứng của khái niệm nh Hêghen đã làm. C.Mác đã chỉ

rõ ý nghĩa cách mạng và tính chất bảo thủ trong phép biện chứng của
Hêghen. Nh vậy, để đánh giá đúng về giá trị của những t tởng triết học này,
24

C.Mác và Ănghen. Sđd, tr.175.


16

cần phải xét chúng trong cả quá trình hình thành và phát triển triết học
Mác. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để nhằm phản bác mọi luận
điểm xuyên tạc chủ nghĩa Mác và triết học Mác của chủ nghĩa cơ hội, xét
lại hiện đại trong thời đại ngày nay.



×