Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TƯ TƯỞNG về CON NGƯỜI TRONG các TRÀO lưu TRIẾT học ý NGHĨA TRONG PHÁT HUY NHÂN tố CON NGƯỜI ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.42 KB, 21 trang )

1
Tiểu luận
Nội dung: T tởng về con ngời trong các trào lu triết học ý nghĩa và
giá trị hiện thực của nó đối với việc xây dựng và phát huy nhân tố con ngời
ở nớc ta hiện nay.
I. những t tởng cơ bản về con ngời trong các trào lu triết
học.

T tởng về con ngời và giải phóng con ngời là một trong những nội dung cơ
bản mà các trào lu triết học nói chung, triết học Mác nói riêng đều tập trung giải
quyết. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại lịch sử vấn đề đó đợc đặt ra và giải quyết trong
những bối cảnh và nội dung khác nhau tuỳ thuộc vào thế giới quan và nhân sinh
quan của các nhà triết học.
Thời cổ đại, sản xuất cha phát triển, con ngời sống chủ yếu phụ thuộc vào
tự nhiên, săn bắt, hái lợm. Do vậy, mặc dù trong giải quyết những vấn đề thuộc
về bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan có đứng trên lập trờng thế giới
quan duy vật và biện chứng, nhng còn sơ khai, chất phác, nặng về đời sống tâm
linh. Chẳng hạn, các nhà triết học ấn Độ thờng tập trung vào việc lý giải những
vấn đề then chốt nhất - đó là vấn đề bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn gốc
nỗi khổ của con ngời và con đờng, cách thức giải thoát cho con ngời khỏi bể khổ
của cuộc đời. Mục đích, nhiệm vụ của các trờng phái triết học ấn Độ cổ đại là
giải thoát.T tởng này luôn biến đổi và phát triển với đời sống xã hội, từ thời Vêđa
đến Brahman và phát triển trong triết lý Upanisad. Mỗi trờng phái có nôi dung
triết lý, khuynh hớng giáo lý và quan điểm đạo đức nhân tính khác nhau. Song có
thể nói tất cả nh một cuộc hành trình của con ngời tìm kiếm, phát hiện và trở về
với bản chất và lơng tâm của chính mình khi mà con ngời còn vô minh, tham dục
và lãng quên nó. Cách thức và con đờng giải thoát của kinh Vêđa là luôn tôn thờ
và cầu xin sự phù hộ của các đấng thần linh, còn kinh Upanisad là đồng nhất
giữa linh hồn mình với vũ trụ, giữa Atman với Brahman. Trong hệ thống không
chính thống, Jaina chủ trơng tu luyện đạo đức bằng phơng pháp khổ tu, không
sát sinh, không ăn cắp, không nói dối không dâm dục, không tham lam. Đỉnh


cao của t tởng giải thoát trong triết học ấn Độ là ở Phật giáo. Phật giáo coi mọi
sự vật, hiện tợng trong thế giới, kể cả con ngời là do nhân duyên hoà hợp mà
biểu hiện, biến đổi vô thờng. Vì vạn vật vô thờng nên vạn pháp vô ngã. Do vô
minh và lòng tham dục của con ngời mà gây nên những nỗi khổ triền miên. Bởi
vậy, phải tu luyện trí tuệ, thiền định và tu luyện đạo đức theo giới luật để phá bỏ
vô minh, diệt trừ tham dục, để làm cho tâm thanh tịnh, hoà nhập vào cõi Niết
bàn.


2
T tởng giải thoát trong triết học ấn Độ cổ đại thể hiện tính chất nhân bản,
nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, do giải thích cha đúng nguồn gốc của nỗi khổ cho
nên t tởng giải thoát này mới dừng lại ở sự giải phóng con ngời về mặt tinh thần,
tâm lý, đạo đức chứ không phải là biến đổi cách mạng thực sự.
Còn ở Trung Quốc, vào thời điểm này quyền sở hữu tối cao về đất đai
thuộc về tầng lớp địa chủ, chế độ sở hữu t nhân về ruộng đất đã hình thành. Từ
đó, xã hội có sự phân hoá giàu nghèo, sự tranh giành địa vị của các thế lực cát cứ
và đẩy xã hội Trung Quốc cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Điều kiện
ấy làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm kẻ sĩ luôn tranh luận về trật
tự xã hội và đề ra những hình mẫu cho xã hội tơng lai, dẫn tới hình thành các t tởng lớn và các trờng phái triết học khá hoàn chỉnh. Ra đời trên nền tảng hiên
thực ấy, nên đặc trng chủ yếu của triết học Trung Quốc cổ, trung đại là hầu hết
các học thuyết đều có xu hớng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị
- đạo đức của xã hội, với nội dung bao trùm là vấn đề con ngời và xây dựng con
ngời.
Trong t tởng về con ngời, Khổng Tử và Mặc Tử đều cho rằng trời sinh ra
con ngời và muôn vật. Lão Tử khác với Khổng Tử và Mặc Tử ở chỗ ông cho rằng
trớc khi có trời đã có Đạo. Theo ông, trời, đất, ngời, vạn vật đều do Đạo sinh ra.
Trang Tử ngời kế thừa thuyết Lão Tử cho rằng ở mỗi vật đều có cái đức tự sinh tự
hoá ở bên trong. Nh vậy, khi đề cập đến nguồn gốc của con ngời, mặc dù có
những cách tiếp cận khác nhau, nhng nhìn chung các nhà triết học Trung Quốc

cũng không vợt qua khỏi vòng luân lý của đạo và trời.
Khi xác định vị trí, vai trò của con ngời trong mối quan hệ với trời, đất,
con ngời và vạn vật, Lão Tử cho rằng bốn yếu tố đó quan hệ tơng đồng lẫn nhau.
Nhng đối với Nho giáo, con ngời đợc đặt lên vị trí cao nhất. Con ngời do trời
sinh ra nhng sau đó con ngời cùng với trời, đất là ba ngôi tiêu biểu cho tất cả mọi
vật trong thế giới vật chất và tinh thần Trời, đất, Ngời là tam tài.
Khi bàn tới quan hệ giữa trời với ngời, các nhà duy tâm cho rằng có mệnh
trời và mệnh trời chi phối cuộc sống xã hội của con ngời, cuộc đời của mỗi con
ngời. Các triết gia tiến bộ cho rằng trời là gốc của con ngời, họ coi trời với ngời
là một, do đó đa ra chủ trơng thiên nhân hợp nhất. Tuy nhiên, trong quan hệ
với trời, con ngời phải theo trời, con ngời phải lấy phép tắc của trời làm mẫu
mực, coi thiên đạo là nhân đạo, ngời đời ăn ở phải hợp với đạo trời.
Khi bàn tới bản tính con ngời, Khổng Tử cho rằng tính mỗi con ngời là
gần nhau, do tập tành và thói quen mới hoá ra xa nhau. Từ quan điểm này ngời
ta suy luận tranh cãi đa ra nhiều thuyết khác nhau. Mạng Tử cho răng bản tính
con ngời là thiện, còn Tuân Tử cho rằng bản tính con ngời là ác. Cáo Tử cho rằng


3
bản tính con ngời không thiện cũng không ác. Còn Vơng Sung cho rằng bản tính
con ngời có thiện có ác. Song, nổi bật trong các quan điểm trên là thuyết tính
thiện của Mạnh Tử và thuyết tính ác của Tuân Tử. Mạnh Tử khẳng định bản tính
con ngời vốn là thiện, không một ngời nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện. Ông
còn nói thêm. sự khác nhau giữa con ngời với con vật là ở chỗ trong mỗi con ngời đều có phần quý trọng và phần bỉ tiện, có phần cao đại và phần thấp hèn, bé
nhỏ. Chính phần quý trọng, cao đại mới là tính ngời, mới là cái khác giữa ngời
và cầm thú. ý nghĩa tích cực thuyết tính thiện của Mạnh Tử là ở chỗ biết phát
huy, làm cho phần tốt trong con ngời ngày càng phát triển, còn phần xấu thì ngày
càng thu hẹp lại. Còn Tuân Tử cho rằng tính con ngời, sinh ra là hiếu lợi, thuận
theo tính đó dẫn đến tranh đoạt lẫn nhau nên không có từ nhợng; sinh ra là đố
kỵ, thuận theo tính đó không có lòng trung tín; sinh ra là ham muốn, thuận theo

tính đó thành dâm loạnVì vậy, ông chủ trơng phải có chính sách uốn nắn sửa
lại tính để không làm điều ác. Muốn vậy phải giáo hoá, phải dùng lễ nghĩa, lễ
nhạc để sửa tính ác thành tính thiện, để cái thiện ngày càng đợc tích luỹ tới khi
hoàn hoả. Hai quan điểm trên, tuy có sự khác nhau ở điểm xuất phát nhng thống
nhất với nhau ở chỗ coi trọng sự giáo hoá và đều nhằm hớng con ngời tới cái
thiện.
Vấn đề xây dựng con ngời của các trờng phái triết học Trung Quốc cổ,
trung đại là coi trọng sự nỗ lực của cá nhân, sự quan tâm của gia đình và xã hội.
Đạo gia cho rằng bản tính của nhân loại có khuynh hớng trở về cuộc sống với tự
nhiên. Vì vậy, Lão Tử khuyên mọi ngời phải trừ khử những thái quá, nâng đỡ cái
bất cập, hớng con ngời vào cuộc sống thanh cao, trong sạch, gần gũi với thiên
nhiên, tránh cuộc sống chạy theo nhu cầu vạt chất. Còn Phật giáo khuyên con
ngời ăn ở hiền lành, không sát sinh, không làm hại ngời khác. Nho gia đặt vấn đề
xây dựng con ngời một cách thiết thực hơn. Họ hớng con ngời vào tu thân và
thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất. Tất cả mọi vấn đề điều
lấy đạo đức làm chuẩn. Mục tiêu xây dựng con ngời của Nho gia là giúp con ngời xác định đúng và làm tròn trách nhiệm trong năm mối quan hệ cơ bản (ngũ
luân), đó là: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè. Và Nho gia còn chỉ ra
con đờng phấn đấu trớc hết là phải tu dỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia
đình, góp phần vào việc quản lý đất nớc, sau đó đem lại yên vui cho thiên hạ (Tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Nh vậy, mỗi học thuyết nêu trên đều có mặt
tích cực và hạn chế của nó. Trong đó, t tởng triết học Nho gia về con ngời và việc
xây dựng, tu dỡng con ngời là có tính hợp lý hơn cả. Nó thực sự góp phần to lớn
vào việc củng cố trật tự xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, nhng đồng thời cũng là
một trong những nguyên nhân làm trì trệ xã hội đó.


4
Vợt lên thế giới quan duy tâm, tôn giáo, các nhà triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại mặc dù còn ở trình độ trực quan, chủ nghĩa duy vật còn thô sơ, mộc mạc
và phép biện chứng mang tính tự phát, nhng chứa đựng những mầm mống của

thế giới quan duy vật sau này. Trong đó, t tởng về con ngời có mặt tiến bộ.
Chẳng hạn, Đêmôcrít cho rằng con ngời và linh hồn của con ngời đợc cấu tạo từ
nguyên tử và khoảng không. Con ngời, theo ông là động vật có khả năng học, có
cảm giác, năng động; linh hồn con ngời là tổng thể các nguyên tử và là cơ sở của
mọi hoạt động cũng nh sức sống của con ngời. Đêmôcrít có quan điểm duy vật
về cảm giác. Ông cho rằng, cảm giác dễ chịu là tiêu chuẩn của điều tốt, ngợc lại,
cảm giác khó chịu gây nên sự đau khổ, là tiêu chuẩn của điều xấu. Vì thế, con
ngời tìm những cảm giác dễ chịu và tránh những cảm giác khó chịu, cũng có
nghĩa là con ngời vợt tới điều thiện và tránh điều ác. Đêmôcrít cho rằng sự hoàn
thiện đạo đức là có thể có đợc nhng phải dới sự chỉ đạo của lý trí. Lý trí hớng
con ngời vào mục tiêu đúng đắn. Do vậy phải thờng xuyên trau dồi lý trí và tiếp
thu những quy luật của tự nhiên, quy luật hành động của con ngời. Ông cho rằng
con ngời hành động không đúng là do không hiểu đợc cái đúng. Cho nên, theo
ông, xét cho cùng vấn đề trau dồi đạo đức là vấn đề làm sao cho con ngời đạt đợc
những tri thức cần thiết. Tuy nhiên, điều hạn chế của ông là không chỉ ra đợc tiêu
chuẩn của đúng và không đúng, tốt và xấuĐây là chỗ trống mà chủ nghĩa duy
tâm thờng tấn công. Arixtốt không trực tiếp bàn đến vấn đề con ngời, mà chỉ tập
trung đề cập về đạo đức con ngời. Ông cho rằng không phải hy vọng vào Thợng
đế áp đặt để có ngời công dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện ra nhu
cầu trên trái đất, phát triển những quyền lợi chính trị, khoa học mới tạo nên đợc
con ngời hoàn thiện trong quan hệ đạo đức. Ông coi đạo đức có liên quan mật
thiết với chính trị. Arixtốt xác định cái gì phục vụ đợc cho nhà nớc và củng cố
trật tự đang tồn tại, cái đó là phẩm hạnh. Để có đợc phẩm hạnh, con ngời phải
thông qua hoạt động thực tiễn. Trong đạo đức của Arixtốt, phạm trù chính nghĩa
đứng ở vị trí trung tâm. Ông cho rằng con ngời chỉ có thể đạt đợc chính nghĩa
trong quan hệ với ngời khác, cho nên trong thực hành chính nghĩa, con ngời tự
thể hiện mình trớc hết nh một thực thể chính trị, xã hội. Hạnh phúc của con ngời
là điều thiện, luôn gắn với nhận thức, ớc vọng và sự tiến bộ. Êpiquya đem triết
học giải phóng tinh thần con ngời và đối lập với tôn giáo. Ông cho rằng những
yêu cầu, quyền lợi và khát vọng của con ngời phản ánh bản chất con ngời. Do

vậy, nhiệm vụ của đạo đức là dạy cho con ngời biết lựa chọn những thích thú một
cách khôn ngoan, biết thoả mãn những mong ớc tất yếu, tránh xa những mong ớc
vô nghĩa và phản tự hiên. Học thuyết của ông chống lạị tôn giáo, chống lại nỗi sợ
hãi về cái chết. Theo ông, sự anh minh giúp con ngời thoát khỏi sự sợ hãi, thoát


5
khỏi những d luận giả dối, đem lại cho con ngời niềm tin chân lý, gợi cho con
ngời lòng dũng cảm. Sự anh minh còn làm cho con ngời ôn hoà, đem lại cho con
ngời công lý. Do vậy, sự ôn hoà là cái gốc, là nền tảng của cuộc sống hạnh phúc.
Hêraclít là ngời giải quyết một cách duy vật vấn đề linh hồn con ngời Ông cho
rằng linh hồn của con ngời là do lửa tạo thành Tuy nhiên, theo ông ngoài lửa ra,
linh hồn còn có chỗ ẩm ớt, cho nên mới sinh ra ngời tốt, ngời xấu. ở ngời nào
càng nhiều yếu tố lửa bao nhiêu thì anh ta càng tốt bấy nhiêu vì tâm hồn anh ta
khô ráo. Và ông còn nhấn mạnh, hạnh phúc con ngời không phải là sự hởng lạc
đơn thuần về thể xác mà là ở việc biết suy nghĩ, nói và hành động tuân theo giới
tự nhiên. Prôtago là nhân vật tiêu biểu của phái nguỵ biện, nhng ông có quan
điểm về con ngời khá nổi tiếng Con ngời là thớc đo tất thảy mọi vật. Luận
điểm này rất đề cao vai trò, vị trí của con ngời trong thế giới hiện thực. Theo
ông, chính cái lợi cho con ngời là chuẩn mực để đánh giá và phán xét mọi cái, kể
cả tri thức và các chuẩn mực đạo đức. Song, hạn chế của ông là ở chỗ cha nhận
thấy nền tảng khách quan của chân lý và các chuẩn mực đạo đức. Có những cái
lợi đối với ngời này nhng lại có hại đối với ngời khác. Bản thân ông cũng cha
hiểu đợc cái lợi của con ngời theo nghĩa rộng, cha hiểu đợc nó ở quy mô xã hội,
nhng những quan niệm trên của Prôtago mang nhiều ý nghĩa tích cực, là đỉnh
cao của t tởng đề cao con ngời, coi con ngời là trung tâm của mọi vấn đề trong
triết học cổ đại Hy Lạp.
Nhìn chung quan niệm về con ngời, việc xây dựng và phát huy nhân tố
con ngời trong thời kỳ cổ đại còn đơn sơ, mộc mạc, chứa đựng nhiều yếu tố duy
tâm, tôn giáo, con ngời vn sống trong thế giới tối tăm, hà khắc, cha có điều

kiện phát triển cá nhân.
Bớc sang thời trung cổ, là thời kỳ hình thành và phát triển phơng thức sản
xuất phong kiến. Trong xã hôi phong kiến, trình độ sản xuất còn thấp kém, chủ
yếu là sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc, khép kín. Giai cấp địa chủ nắm quyền tổ
chức, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm. Đạo cơ đốc đóng vai trò là hệ t tởng của xã hôi. Giáo lý của nó đợc coi nh nguyên lý chính trị của xã hội phong
kiến, trong đó kinh thánh đợc xem là luật lệ, nhà trơng trong tay thầy tu, giáo hội
độc quyền chi phối văn hoá. Thời kỳ này, triết học phát triển yếu ớt và có sự thụt
lùi so với thời kỳ cổ đại. Triết học chủ yếu phục vụ tôn giáo và chịu sự kìm kẹp
của t tởng thần học. Từ đó triết học kinh viện ra đời và trở thành đầy tớ của thần
học. Do vậy, t tởng về con ngời có nhiều điểm hạn chế, chủ yếu là nằm dới cái
vỏ bộc của thần thánh.Con ngời vừa chịu sự bóc lột của các lãnh chúa và chịu sự
mê muội của tôn giáo. Họ coi con ngời nh là một sinh vật thụ động, chỉ biết thờ
phụng chúa, khát khao hạnh phúc mơ hồ, viển vông trong tuyệt vọng. Ôguýxtanh


6
cho rằng, trên tràn thế nơi con ngời và loài ngời đang sống, vơng quốc của
điều ác là nhà nớc, vơng quốc của Thợng đế là nhà thờ. Ông là ngời luôn bảo vệ
sự bất bình đẳng xã hội và cho rằng Thợng đế có quyền ban thởng cho ngời này
đợc sớng và bắt ngời kia phải khổ. Do vậy, ông khuyên ngời nghèo chỉ nên yêu
cái không lấy đợc, không nên yêu của cải, chỉ nên yêu Thợng đế, vì cuộc sống
những năm tháng ở trần gian là tạm bợ, là quỷ sứ, còn thiên đàng mới là hạnh
phúc. Tômát Đacanh lại ca ngợi chế độ bất bình đẳng và trật tự đẳng cấp trong
xã hội. Ông cho rằng chính quyền của vua chúa là do Thợng đế sáng tạo ra. Dân
phải phục tùng vua, vua phải phục tùng Giáo hoàng La Mã. Nh vậy cao hơn hết
là quyền lực của Thợng đế. Bêcơn là ngời dũng cảm lên án những tội lỗi của bọn
giáo sĩ và bọn phong kiến áp bức, chống lại Giáo hoàng, bênh vực quyền lợi của
nhân dân lao động. Vì những t tởng tiến bộ ấy, ông ta đã bị nhà nớc phong kiến
và Giáo hội truy nã, bị cầm tù trong nhà tù của tu viện.
Về phơng diện đạo đức, trên cơ sở xem xét con ngời một cách duy tâm

thần bí, nên các nhà triết học lúc bấy giờ coi đạo đức nh là phơng tiện để thực
hiện những mệnh lệnh của tôn giáo, đạo đức học gắn với thần học. Tuy nhiên, t tởng về đạo đức của các nhà triết học thời trung cổ cũng có những nhân tố hợp lý
của nó, đó là có thiên hớng bàn về lý tính, tiến lên phía trớc trong thái độ thừa
nhận những tiêu chuẩn ở bên ngoài cá nhân, phân biệt cái thiện và cái ác. Mặt
khác, nhân tố hợp lý còn đợc thể hiện ở chỗ có xu hớng nghiện cứu đạo đức nh là
một hệ thống nguyên tắc khách quan, ớc định trớc và có ý nghĩa chung. Song, do
đạo đức gắn với thần học nên nó sa vào chủ nghĩa duy tâm khách quan, đồng
nhất tính khách quan đạo đức với tính thần thánh. Thợng đế là nguyên tắc tối cao
của đạo đức. ý chí của Thợng đế là hiện thân của sự tốt lành, của cái thiện và là
cội nguồn của hạnh phúc.
Đến thời kỳ phục hng và cận đại, là thời kỳ phơng thức sản xuất t bản chủ
nghĩa đợc hình thành, xác lập và trở thành phơng thức sản xuất thống trị. Sự phát
triển của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát
triển và tạo ra thị trờng hàng hoá rộng lớn, phá vở toàn bộ nền kinh tế phong
kiến có tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc, khép kín. Chủ nghĩa kinh viện và thần
học bị đánh đổ; các giá trị về con ngời và nền văn hoá Hy Lạp cổ đại đợc khôi
phục và phát triển; con ngời đợc giải phóng khỏi sự mê muội của tôn giáo, có
điều kiện phát triển mạnh mẽ cá nhân. Đây là thời kỳ mà các nhà sử học gọi là
thời kỳ phát hiện ra con ngời trong thế giới và cả thế giới trong con ngời. Cùng
với sự xuất hiện chế độ t hữu về t liệu sản xuất, chủ nghĩa cá nhân đợc hình
thành và phát triển, từng bớc đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh cho việc
giải phóng con ngời khỏi những xiềng xích của chủ nghĩa phong kiến và giáo


7
hội. Đặc biệt bớc sang thời kỳ cận đại, khi khuynh hớng lý tính đợc coi là cơ sở
để cải tạo cuộc sống hiện đại, các nhà triết học khai sáng lấy việc truyền bá tri
thức tốt đẹp một cách rộng rãi cho mọi ngời làm nhiệm vụ chính của mình. Họ
cho rằng, vũ trụ là vật chất, vũ trụ là vô tận, vĩnh hằng, luôn vận động. Con ngời
là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật suy nghĩ nhờ các giác quan. T

tởng con ngời chịu sự quy định của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với
môi trờng và điều kiện sống (Lamêtri). Con ngời là một thực thể thống nhất hữu
cơ của hai mặt thể xác và linh hồn. Cơ thể của con ngời có khả năng cảm giác và
ghi nhớ. Linh hồn của con ngời là tổng thể các hiện tợng tâm lý, có đặc tính vật
chất, không có cơ thể thì linh hồn không là cái gì cả (Điđrô). Con ngời là sản
phẩm của hoàn cảnh, của xã hội nên cần thay đổi hoàn cảnh xã hội, quan hệ
phong kiến (Henvêtiúyt). Bên cạnh đó,các nhà triết học khai sáng còn cho rằng
bản tính của con ngời vốn không ác. Sở dĩ xã hội có cái ác là do sự khiếm khuyết
của các quan hệ xã hội và nền giáo dục không đúng đắn. Con ngời đợc giáo dục
đúng đắn tức là sự khai sáng. Những t tởng duy vật và tiến bộ của các nhà triết
học khai sáng đã phủ định hoàn toàn quan điểm duy tâm, tôn giáo, quan điểm
siêu hình về con ngời. Họ coi ánh sáng tự nhiên của trí tuệ là phơng pháp cơ
bản và độc lập với cuồng tín tôn giáo để nhận thức thế giới, để hoàn thiện xã hội
và đời sống xã hội. Các nhà triết học khai sáng coi đấu tranh vì những quyền lợi
mà thiên nhiên ban tặng cho mình là con ngời tự nhiên. Việc tuyên truyền cho
con ngời tự nhiên đã dẫn đến khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái. Đây thực sự
là t tởng đột phá, cởi trói con ngời khỏi xiềng xích gông cùm của tầng lớp địa
chủ phong kiến và sức mạnh thần quyền tôn giáo; là một nấc thang trong tiến
trình lịch sử phát triển của nhân loại, nó có ý nghĩa cách mạng lịch sử khá sâu
sắc. Tuy nhiên, t tởng này không triệt để, không thoát khỏi những mâu thuẫn cơ
bản vốn có trong lòng xã hội t bản, càng về sau t tởng này càng bộc lộ bản chất
phản động của nó. Bởi vì, do chế định của những điều kiện kinh tế, chính trị ,xã
hội ràng buộc họ; hơn nữa còn do hạn chế của chính bản thân các nhà triết học.
Do vậy, mặc dù thừa nhận tự nhiên, nhng họ lại diễn đạt bằng thần tự nhiên thần
luận, t tởng của họ thoả hiệp với thần quyền tôn giáo.
Kế thừa t tởng về con ngời trong lịch sử triết học nhân loại từ cổ đại đến
cận đại thế kỷ XVII XVIII, triết học cổ điển Đức thừa nhận con ngời là một
chủ thể, đồng thời lại là kết quả của quá trình hoạt động của mình. Mặt khác,
Cantơ và sau này Hêghen đều khẳng định mỗi con ngời là sản phẩm của một thời
đại lịch sử nhất định, do vậy con ngời mang bản chất xã hội. Cantơ cho rằng, với

t cách là chủ thể của thế giới, con ngời luôn tích cực hoạt động cải tạo thế giới.


8
Tuy nhiên. hoạt động thực tiễn ở đây đợc ông hiểu trong giới hạn chính trị xã
hội nhất định, chứ không phải là hoạt động sản xuất vật chất.
Với xuất phát điểm là tinh thần, là ý niệm tuyệt đối, Hêghen coi thế giới
vật chất là con ngời vô cơ, con ngời ở giai đoạn cha hình thành. Còn con ngời
bằng xơng, bằng thịt theo Hêghen là con ngời đã phát triển đầy đủ, là con ngời
trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của nó. Nh vậy, từ điểm
xuất phát của triết học đã xác định, Hêghen đã quy mọi quá trình của hiện thực
về quá trình t duy, quy lịch sử hiện thực về lịch sử t duy, quy hoạt động thực tiễn
của con ngời về quá trình tự ý thức, tự nhận thức. Mặt khác, trong hiện tợng tinh
thần, Hêghen không chỉ coi con ngời là chủ thể nh Cantơ, mà ông còn cho rằng
con ngời là kết quả của chính quá trình hoạt động của mình; t duy và trí tuệ của
con ngời hình thành và phát triển trong chừng mực con ngời nhận thức thế giới; ý
thức con ngời là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con ngời càng phát
triển thì ý thức của nó càng mạng bản chất xã hội. Đây là những t tởng khá tiến
bộ của Hêghen, tiếc rằng nó đợc đặt trên nền tảng duy tâm.
Đối lập với Hêghen, Phoiơbắc coi con ngời là sản phẩm cao nhất của giới
tự nhiên, chứ không phải là nô lệ của Thợng đế hay nô lệ của tinh thần tuyệt đối.
Với quan điểm duy vật này ông đã chống lại quan điểm duy tâm về con ngời và
chống sự tách rời có tính chất nhị nguyên luận về linh hồn và thể xác. Ông khẳng
định, chính con ngời sáng tạo ra thợng đế, chứ không phải thợng đế sáng tạo ra
con ngời nh quan niệm của tôn giáo và thần học đã từng đề cập. Bản chất thần
thánh không là cái gì khác mà chính là bản chất con ngời đợc tinh chế, khách
quan hoá, bởi tôn giáo là sự tha hoá của con ngời về mặt tinh thần. Theo
Phoiơbắc, bản chất tự nhiên của con ngời là luôn hớng tới cái chân, cái thiện, cái
mỹ, nhng trên thực tế những cái đó con ngời không đạt đợc nên họ đã gửi gắm
tất cả những ớc muốn cao đẹp của mình vào hình tợng Thợng đế. Tuy nhiên, do

thế giới quan không triệt để, nên con ngời trong quan niệm của Phoiơbắc là con
ngời chung chung, trừu tợng, con ngời phi lịch sử, phi giai cấp, mang những
thuộc tính sinh học, bẩm sinh. Ông chỉ thấy con ngời tự nhiên, chứ không thấy
con ngời xã hội, và càng không thấy vai trò hoạt động thực tiễn trong nhận thức
và cải tạo thế giới của con ngời.
Nh vậy, trớc những thành tựu của phơng thức sản xuất t bản, các nhà triết
học cổ điển Đức đã đề cao sức mạnh trí tuệ của con ngời, song do ảnh hởng của
phơng pháp siêu hình, sự đề cao ấy tới mức cực đoan. Cantơ và Hêghen đã thần
thánh hoá năng lực của con ngời dẫn đến duy tâm, khẳng định mọi sự vật, hiện tợng trong tự nhiên, xã hội là kết quả hoạt động của con ngời. Phoiơbắc tuy
không đề cao nh vậy, nhng lại hiểu con ngời chỉ theo nghĩa trần tục, bằng xơng,


9
bằng thịt, nên dẫn đến t duy máy móc, siêu hình. Tuy nhiên, giá trị t tởng về con
ngời trong triết học cổ điển Đức là ở chỗ nó khẳng định t duy, ý thức chỉ phát
triển trong chừng mực con ngời nhận thức và cải tạo thế giới; con ngời vừa là chủ
thể, đồng thời là kết quả hoạt động của một thời đại lịch sử nhất định.
Nh vậy, trải qua gần hai nghìn năm, với nhiều trào lu lịch sử triết học khác
nhau, nhng cha có nhà triết học nào hay trờng phái triết học nào luận giải một
cách đầy đủ và khoa học về vấn đề con ngời.
Các nhà triết học thời cổ đại coi con ngời nh là một tiểu vũ trụ. Quá trình
hình thành và phát triển của mỗi con ngời đợc gắn liền với định mệnh và số
phận. Số phận đó bị quy định bởi ý chí của tạo hoá. Còn trong hệ thống thế giới
quan tôn giáo, con ngời đợc coi nh một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp giữa
tinh thần và thể xác, trong đó thể xác là cái nhất thời, tinh thần mới là cái vĩnh
viễn. Các học thuyết triết học duy tâm lại tuyệt đối hoá hoạt động của đời sống
tinh thần, coi toàn bộ thế giới tinh thần nh một thực thể hoàn chỉnh. Chẳng hạn,
Hêghen cho rằng, con ngời là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, còn Phoiơbắc lại
tuyệt đối hoá mặt sinh học của con ngời, chia cắt con ngời khỏi các quan hệ xã
hội hiện thực, con ngời chỉ là sản phẩm của giới tự nhiên.

Các quan điểm trên đây, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm,
nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con
ngời. Nhìn chung các quan điểm trên đều xem xét con ngời một cách trừu tợng,
tuyệt đối hoá mặt tinh thần hoặc thể xác con ngời, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên
sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con ngời.
Khác với tất cả các quan điểm trên, C. Mác và ăngghen tiếp cận con ngời
từ hiện, đang sống và hoạt động với bàn tay, khối óc của chính họ. Đó là con ngời gắn liền với sản xuất vật chất và các quan hệ xã hội. Chính từ việc xác định
đúng đắn tiền đề của mọi thời đại, lịch sử các ông đã làm nên cuộc cách mạng về
vấn đề con ngời trong triết học. Theo C. Mác và ăngghen, khi nghiên cứu vấn đề
con ngời phải xuất phát từ những con ngời cụ thể, cảm tính, đang tồn tại trong
một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, một môi trờng xã hội với các điều
kiện tự nhiên và các mối quan hệ xã hội phức tạ của nó.
Theo quan điểm triết học Mác, con ngời là một thực thể sinh vật - xã hội,
là sản phẩm cao nhất trong quá trình tiến hoá của tự nhiên và lịch sử xã hội.
Điều đó đợc thể hiện trong tác phẩm Hệ t tởng Đức của C. Mác và ăngghen:
Nh vậy, là sự sản xuất ra đời sống ra đời sống của bản thân mình bằng lao
động, cũng nh ra đời sống ngời khác bằng việc sinh con, đẻ cái biểu hiện
ngay ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là
quan hệ xã hội [26 tr 42]. Nh vây, theo C.Mác, con ngời trớc hết là một động


10
vật, là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài của giới sinh vật nh thuyết tiến hoá của
Đácuyn đã khẳng định. Nhng, khác con vật, con ngời là một động vật có ý thức,
có tính sáng tạo, có lao động, biết sáng tạo và hởng thụ cái đẹp. Con ngời, theo
quan điểm triết học Mác là sự thống nhất giữa hai mặt: mặt sinh học và mặt xã
hội. Mặt sinh học đó là mặt tự nhiên,vật chất, nhục thể sinh vật. Con ngời là sản
phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài của tự nhiên và cũng chịu sự chi phối của các
quy luật sinh học, nh: di truyền, biến dị, sống chết của cơ thểMặt sinh học của
con ngời có những nét chung với động vật cao cấp nhng đã đợc cải tạo nhờ mặt

xã hội. Còn mặt xã hội, đó là thế giới tinh thần, ý thức, các hoạt động, lao động,
sáng tạomà ở con vật không thể có. Con ngời chỉ tồn tại với t cách ngời khi
sống trong xã hội, có quan hệ với nhau, có hoạt động xã hội cho mình và đồng
loại, chịu sự tác động của quy luật xã hội. Mỗi con ngời sinh ra đều sống và đợc
nuôi dỡng trong một xã hội nhất định, nên con ngời bị quy định bởi thời đại, xã
hội mà mình đang sống. Vì vậy, bản thân xã hội sản xuất ra con ngời với tính
cách là con ngời nh thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hôi nh thế [27 tr 169]
và chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có đợc những phơng tiện để có thể phát
triển toàn diện những năng khiếu của mình [28 tr 108]. Xã hội là xã hội của
con ngời, do con ngời và vì con ngời. Điều đó có nghĩa, thông qua các quan hệ
xã hội, nh: quan hệ sản xuất, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia
đình, con ngời mới tồn tại, phát triển, hoàn thiện và thể hiện đợc chính mình.
Không có con ngời thì không có bất kỳ một sự phát triển nào và xã hội
phát triển đến đâu thì con ngời cũng phát triển đến đó. Sự phát triển của con ngời
là thớc đo sự phát triển của xã hội. Con ngời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển xã hội. Do đó, để phát triển con ngời cần phải phát triển xã hội và
ngợc lại, để phát triển xã hội cần phải phát triển con ngời, đó là mối quan hệ
biện chứng của quá trình phát triển lịch sử xã hội.
Khẳng định con ngời trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, nhng C.
Mác và ăngghen đã nhấn mạnh quan hệ xã hội của con ngời là quan hệ bản
chất. Trong Luận cơng về Phoiơbắc C.Mác viết: Bản chất con ngời không phải
là một cái gì trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội [29 tr 11]. Qua luận
đề này Mác muốn nói rằng, không có con ngời trừu tợng, thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con ngời luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Bản chất con ngời
không phải cái trừu tợng, mà là hiện thực, không phải là cái vốn có, có sẵn trong
mỗi cá thể riêng biệt mà là tổng hoà toàn bộ các quan hệ xã hội hiện thực của
nó; không phải là cái tự nhiên - sinh học mà là lịch sử - xã hội.



11
Bản chất con ngời là tổng hoà các quan hệ xã hội. Do vậy, nếu tách khỏi
đời sống xã hội, khỏi môi trờng văn hoá xã hội, con ngời không thể hình thành
và phát triển bản chất của mình đợc. Con ngời chỉ tồn tại thực sự, với t cách ngời
khi đặt trong các mối quan hệ xã hội và tham gia các quan hệ xã hội. Hệ thống
các quan hệ tham gia quy định bản chất xã hội của con ngời bao gồm: Quan hệ
kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, khoa học; quan hệ cá
nhân, nhóm, giai cấp, cộng đồng; quan hệ gia đình, làng xóm, dân tộcTrong
đó, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất vật chất đóng vai trò chi phối, quyết định
bản chất con ngời. Vì vậy, để con ngời có thể phát triển toàn diện và đợc giải
phóng triệt để, biện pháp khoa học nhất, cách mạng nhất là phải phát triển lực lợng sản xuất. Chỉ khi lực lợng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì
mới có đầy đủ điều kiện để phát triển, giải phóng con ngời toàn diện. C.Mác nói:
Không phải chỉ một phơng pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn
là một phơng pháp duy nhất để sản xuất ra những con ngời phát triển toàn diện
[30 tr 688].
C. Mác và ăngghen còn khẳng định, bản chất con ngời không phải cái có
sẵn, bất biến mà nó luôn vận động, phát triển theo sự vận động, biến đổi của các
quan hệ xã hội. Bởi vì, các quan hệ xã hội hiện thực tạo nên bản chất con ngời
không có sẵn, bất biến và không phải hình thành một lần là xong, mà có quá
trình hình thành, biển đổi, phụ thuộc quá trình hình thành, biến đổi các quan hệ
kinh tế ở mỗi quốc gia, dân tộc, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong xã
hội có giai cấp, quan hệ xã hội có tính giai cấp, nên bản chất con ngời đợc biểu
hiện tập trung ở tính giai cấp. Do đó, muốn thay đổi bản chất con ngời, cải tạo
con ngời phải thay đổi, cải tạo những quan hệ xã hội.
Không chỉ dừng lại ở việc xác định nguồn gốc, bản chất con ngời, mà C.
Mác và ăngghen còn đề cập đến quyền con ngời. Tuy nhiên, lòng khát khao tự
do, bình đẳng, bác ái; ớc mơ về một xã hội không có bóc lột và lao động cỡng
bức và không có cảnh nghèo khổ là đặc điểm chung của nhiều t tởng về nhân
quyền xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Nhng chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra đời

quyền con ngời mới đợc luận giải trên cơ sở khoa học. Theo C. Mác và ăngghen
quyền con ngời là nhân quyền của từng cá nhân con ngời. Trong từng thời đại
lịch sử cụ thể, quyền con ngời gắn bó chặt chẽ với những quan hệ xã hội, đặc
biệt là quan hệ sản xuất thống trị. Không có quyền con ngời chung chung, trừu tợng, siêu hình, phi giai cấp, phi dân tộc và phi nhân loại nh một số nhà t tởng đã
từng quan niệm. Mỗi con ngời bao giờ cũng tòn tại thực, họ sống và hoạt động
trong một thời đại lịch sử nhất định, một môi trờng xã hội nhất định. Vì vậy,
quyền con ngời là quyền của mỗi con ngời cụ thể, quyền đó do thể chế chính trị


12
của tng quốc gia, dân tộc, thời đại mà nó đang sống quy định. thiên nhiên
không sinh ra một bên là những ngời chủ tiền và chủ hàng hoá, còn bên kia là
những ngời chỉ làm chủ độc có sức lao động của mình. Quan hệ ấy không phải là
một quan hệ lịch sử tự nhiên, mà cũng không phải là một quan hệ chung cho
tất cả các thời kỳ lịch sử [31 tr 254]. Mỗi quốc gia, dân tộc, trong một thời
đại lịch sử nhất định, sẽ có những quy định cụ thể về quyền con ngời riêng. Sự
phát triển của xã hội thể hiện thông qua quyền con ngời sống trong xã hội đó.
Song, điều đáng lu ý ở đây là C. Mác và ăngghen xuất phát từ quyền tự do cá
nhân để nghiên cứu về quyền con ngời, việc bảo đảm và phát huy quyền tự do
của mỗi ngời nh là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi ngời
trong xã hội. Do vậy, vấn đề bảo đảm và phát triển quyền con ngời ở mỗi cá
nhân có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó khai thác, huy động đợc động lực ở
mỗi con ngời trong xã hội. Tất nhiên, nói đến cá nhân là nói tổng thể nhu cầu và
quan hệ xã hội của mỗi cá nhân nh một nhân cách. Vì vậy, mọi nhu cầu về quyền
của cá nhân chỉ có thể đợc coi là hợp lý và đợc thoả mãn khi nó đặt trong quan
hệ với ngời khác, với cộng đồng. Chỉ có trong một cộng đồng, cá nhân mới có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, và do đó mới có tự do cá nhân.
Bên cạnh quyền con ngời, C. Mác và ăngghen còn đề cập đến quyền công
dân. Theo các ông, hai khái niệm này tuy nội hàm có khác nhau, nhng thống
nhất với nhau. Trong đó, quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền

cá nhân con ngời, với t cách là thành viên xã hội công dân, còn quyền con ngời là những đặc quyền chỉ có con ngời mới có, với t cách là con ngời, là thành
viên của xã hội loài ngời. Sự phân biệt này không những có ý nghĩa về mặt lý
luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc bảo vệ quyền con ngời ở mỗi
quốc gia. Khẳng định quyền con ngời, C. Mác và ăngghen đồng thời cũng
khẳng định nghĩa vụ của con ngời. Mỗi ngời đều có quyền hởng thụ và cống
hiến. Hai quyền này luôn đi đôi với nhau. Nghĩa vụ của con ngời là phải đòi
quyền con ngời, quyền công dân không những cho mình mà còn cho bất kỳ ngời
nào. Đồng thời, mỗi con ngời đều phải có trách nhiệm đấu tranh, xây dựng và
phát triển xã hội, tạo điều kiện thực hiện hoá quyền con ngời, quyền công dân.
Nh vậy, t tởng của C. Mác và ăngghen về vấn đề con ngời, giải phóng và
phát triển con ngời đã có sự thay đổi căn bản về chất so với các nhà triết học trớc
đó. Các ông không chỉ phê phán, đa ra những điểm hạn chế của các trào lu triết
học trong lịch sử, mà còn khẳng định nguồn gốc, bản chất con ngời trên quan
điểm duy vật lịch sử; không chỉ tìm ra con đờng, cách thức giải phóng con ngời
một cách triệt để, mà còn đa ra các giải pháp phát triển con ngời toàn diện.


13
II. ý nghĩa và giá trị hiện thực của nó đối với việc xây dựng và
phát huy nhân tố con ngời ở nớc ta hiện nay.

Nghiên cứu t tởng về con ngời trong các trào lu triết học nói chung, quan
điểm triết học Mác nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong giáo dục và đào tạo. Đây là cơ sở khoa học
cho quan điểm xem xét con ngời phải xuất phát từ tính hiện thực và toàn diện;
khắc phục tính trừu tợng, chung chung xa rời thực tiễn và duy tâm, siêu hình.
Đồng thời, đây còn là cơ sở để quán triệt quan điểm, đờng lối của Đảng ta về con
ngời và phát huy nhân tố con ngời trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Vận dụng t tởng và quan điểm của các nhà triết học trớc Mác nói chung và

triết học Mác nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân
tố con ngời đối với sự nghiệp cách mạng, Ngời nói: Vì lợi ích mời năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng ngời, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trớc hết
cần có những con ngời xã hội chủ nghĩa, còn cố Thủ tớng Phạm Văn Đồng thì
cho rằng Cuộc chiến đấu và chiến thắng của con ngời Việt Nam trong sự nghiệp
chống Mỹ cứu nớc cũng nh trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chung
quy lại là thắng lợi của con ngời.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc
hơn vai trò nhân tố con ngời đối với sự phát triển của xã hội. ngay trong bản
chính cơng vắn tắt đầu tiên năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: mục đích tiến hành cách mạng là để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến, giải phóng dân tộc, giải phóng những ngời cần lao khỏi ách áp
bức, bóc lột. Và cơng lĩnh còn xác định đi tới xã hội cộng sản là điều kiện thực
tế để thực hiện đợc sự giải phóng ấy. Tại Đại hội III, Đảng ta xác định con ngời
là vốn quý nhất, đến Đại hội IV, Đảng ta đã đa ra luận điểm con ngời mới
con ngời làm chủ tập thể. Đây là sự vận dụng sáng tạo và cụ thể hoá quan điểm
về quyền con ngời và quyền công dân của triết học Mác. Đại hội V, Đảng ta
tiếp tục phát triển luận điểm con ngời mới, đồng thời nhấn mạnh lòng nhân ái là
truyền thống đặc trng của nhân dân ta. Đến Đại hội VI, Đảng ta khẳng định vai
trò quan trọng của nhân tố con ngời trong toàn bộ sự phát triển kinh tế xã hội.
Đặc biệt, tại Đại hội VII, cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đợc thông qua, trong đó, vấn đề con ngời đợc Đảng ta đặt vào
vị trí trung tâm của chiến lợc phát triển kinh tế xã hội. Cơng lĩnh xác định:
Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con ngời Việt Nam.
Hội nghị lần thứ T Ban chấp hành Trung ơng(khoá VII), nhận thức về vai trò
nhân tố con ngời của Đảng ta đợc nâng lên một tầm cao mới. Đảng ta cho rằng:


14
Sự phát triển con ngời quyết định mọi sự phát triển nh sự phát triển xã hội, phát

triển kinh tế, phát triển văn hoá. Và cũng tại Hội nghị này, đồng chí Tổng Bí
th Đỗ Mời đã nói: Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa
quyết định của nhân tố con ngời, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải
vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của quốc gia. Đây chính là sự cụ thể hoá
sâu sắc t tởng con ngời lịch sử, con ngời xã hội trong triết học Mác vào điều kiện
cụ thể ở Việt Nam. Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: phát triển đất nớc
theo hớng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nớc ta thành một
nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nớc
mạnh, xã hội công bằng, văn minh [4 tr 80]. T tởng đó không chỉ thể hiện ớc
mơ, khao khát, nguyện vọng chính đáng bao đời nay của dân tộc ta, mà hơn thế
nữa nó hoàn toàn phù hợp với xu thế và quy luật phát triển của thời đại. Đối với
nớc ta là nớc nông nghiệp lạc hậu, do vậy, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá chính là thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, là con đờng tất yếu để đa nớc ta ra khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nớc
trong khu vực. Đồng thời, đây còn là cơ sở vật chất tốt nhất để nớc ta có điều
kiện giải phóng triệt để và phát triển con ngời một cách toàn diện. Đây là công
việc vô cùng khó khăn, gian khổ, thành công của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó vấn đề con ngời đóng vai trò quyết định. Trên nền tảng t duy đó, Đại
hội xác định: Nâng cao dân trí, bồi dỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
ngời Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá [5 tr 21]. Một trong những quan điểm của đại hội là Lấy việc
phát huy nguồn lực con ngời làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững.
Đến Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm cơ bản về
con ngời và phát huy vai trò nhân tố con ngời trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc. Đại hội xác định, con ngời vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của phát triển kinh tế xã hội.

Xác định con ngời là động lực phát triển kinh tế xã hội, Đại hội chỉ rõ:
Nguồn lực con ngời yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng kinh tế
nhanh và bền vững [8 tr 108, 109] và Đại hội còn khẳng định động lực chủ
yếu: Động lực chủ yếu để phát triển đất nớc là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực


15
của các thành phần kinh tế, của xã hội [9 tr 86]. Đại hội cũng chỉ rõ, nguồn
lực hàng đầu là năng lực trí tuệ: Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của ngời Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá [10
tr 91].
Xác định con ngời là mục tiêu của phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở
nhất quán những nội dung cụ thể đợc trình bày trong Nghị quyết Trung ơng 5
khoá VIII, Đại hội IX xác định: Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con ngời Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, t tởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất,
năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng
nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã
hội, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nớc, ý
chí tự lực, tự cờng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [11 tr 114].
Nh vậy, trên cơ sở nhất quán với những nội dung cụ thể đợc trình bày
trong Nghị quyết Trung ơng 5 khoá VIII, Đại hội IX nêu lên một cách khái quát
về mô hình con ngời Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó Đại hội bổ sung, làm
rõ thêm về con ngời phát triển toàn diện, có yếu tố mới nh: trí tuệ, thể chất, năng
lực sáng tạo, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, ý chí tự lực tự
cờng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhất quán với quan điểm của các kỳ đại hội, nhất là quan điểm của Đại
hội IX, trên cơ sở tổng kết thực tiễn qua 20 năm đổi mới đất nớc và những bài
học của các nớc xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tại Đại hội X, Đảng ta đa ra

những đặc trng cơ bản của mô hình xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là:
một xã hội dân giàu, nớc mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân lao
động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất; có nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con ngời đợc giải phóng khỏi áp bức,
bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện [21 tr
68]. Với các tiêu chí này, chúng ta có thể nhận thấy rằng, con ngời tức toàn
thể nhân dân, dân tộc, hiện diện nh mục đích chủ yếu, nh yêu cầu trung tâm, có
ý nghĩa quyết định. Các đặc trng này đã thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo quan
điểm về vai trò của con ngời trong triết học Mác của Đảng ta một cách sâu sắc
và chặt chẽ trên tất cả các lĩnh vực, để từng bớc thực hiện mục tiêu giải phóng
con ngời toàn diện.


16
Trên cơ sở nhất quán với các quan điểm của các kỳ Đại hội, nhất là Đại
hội VIII, Đại hội IX đa ra các giải pháp cơ bản để phát huy vai trò nhân tố con
ngời trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, đó là:
Thứ nhất, Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện để phát
huy nguồn lực con ngời yếu tố cơ bản để phát triển xã hội; tăng trởng kinh tế
nhanh và bền vững [12 tr 108, 109].
Thứ hai, Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc [13 tr 112].
Thứ ba, Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộcMọi
hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con ngời Việt Nam phát triển toàn diện [14
tr 114].
Thứ t, Giải quyết các vấn đề xã hộithực hiện công bằng trong phân phối
tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất tăng năng suất lao động xã hội,

khuyến khích nhân dân làm giàu hợp phápgiải quyết việc làm, chăm lo cải
thiện điều kiện làm việc, mở rộng hệ thống bảo hiểm và an ninh xã hội; xây
dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với ngời lao động thất nghiệp; cải
cách cơ bản chế độ tiền lơng cán bộ công chức theo hớng tiền tệ hoá đầy đủ tiền
lơng; thực hiện chơng trình xoá đói giảm nghèo; thực hiện đồng bộ chính sách
bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân [15 tr 104].
Trên nền tảng định hớng của Đại hội IX, Đại hội X, Đảng ta đa ra các
quan điểm chỉ đạo mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn đất nớc hiện nay, bao
gồm:
Một là, Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái
mới [22 tr 71].
Hai là, Phải gắn tăng trởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn
diện con ngời, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc
làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm
nghèo.Từng bớc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng [23 tr 178,
179].
Ba là, Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
chất lợng cao [24 tr 95].
Là lực lợng chính trị, lực lợng cách mạng tin cậy của Đảng, Nhà nớc và
nhân dân, lực lợng vũ trang nhân nói chung, quân đội nhân dân nói riêng phải đợc xây dựng ngày càng thiện chiến và hiện đại cả về chính trị và quân sự, cả về


17
kỹ thật và chiến thuậtđảm bảo khả năng sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lợc dới bất kỳ quy mô và hình thức nào, hoàn thành tốt chức năng đội quân chiến
đấu, lao động sản xuất và công tác trong thời kỳ mới.
Trên nền tảng t tởng đó, Đảng ta xác định, Tăng cờng quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thờng xuyên
của Đảng, Nhà nớc và của toàn dân, trong đó quân đội và công an nhân dân là
lực lợng nòng cốt [16 tr 40, 117]. Vì vậy, việc xây dựng quân đội nói chung

và xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng có ý nghiã hết sức quan trọng cả trớc mắt
và lâu dài. Quan điểm đó đợc thể hiện rõ nét qua các kỳ Đại hội.
Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định: Xây dựng quân đội nhân dân chính
quy ngày càng hiện đại có chất lợng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý,
cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức
chiến đấu cao [1 tr 38].
Đến Đại hội VII và Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục xác định: Xây dựng
các lực lợng vũ trang nhân dân có chất lợng ngày càng cao, xây dựng quân đội
nhân dân cách mạng chính quy, từng bớc hiện đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức
và quân số hợp lý, nâng cao chất lợng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu [2 tr
85, 86]
, Xây dựng lực lợng quân đội và công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại [6 tr 119].
Trong văn kiện Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định phơng hớng xây
dựng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bớc
hiện đại. Đồng thời, Đại hội đặt ra một số tiêu chí cơ bản trong xây dựng quân
đội để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình
hình mới, đó là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc, với Đảng và nhân dân; có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ ngày
càng cao; quý trọng và hết lòng phục vụ nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối
sống lành mạnh, giản dị, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang; có năng lực
chỉ huy và tác chiến thắng lợi trong bất cứ tình huống nào; có trình độ sẵn sàng
chiến đấu và sức chiến đấu ngày càng cao, thờng xuyên cảnh giác, kịp thời đập
tan mọi âm mu và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc và an ninh quốc gia, ngăn chặn và đẩy lùi các tội phạm nguy hiểm
và các tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội [17 tr 40,41,118].
Để tăng cờng sức mạnh chiến đấu cho quân đội ta hiện nay, tại Đai hội
VII Đảng ta đa ra giải pháp xây dựng lực lợng dự bị động viên ngày càng hùng
hậu: Nâng cao chất lợng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Xây
dựng lực lợng dự bị động viên hùng hậu đợc huấn luyện và quản lý tốt [3 tr

85, 86]. Đến Đại hội VIII Đảng ta nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng đối với


18
quân đội: Thờng xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cờng sự lãnh đạo của đối
với quân đội và công an [7 tr 120]. Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: tăng cờng sức mạnh chiến đấu của quân đội ta hiện nay là một yêu cầu vừa
cơ bản, vừa cấp thiết. Trớc hết cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
+ Thờng xuyên tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Thờng
xuyên tăng cờng sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội nhân dân và công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an
ninh [18 tr 41, 42, 119].
+ Xây dựng bản lĩnh chính trị, trình độ tổ chức chỉ huy cho cán bộ các
cấp, trớc hết là cán bộ lãnh đạo. Không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học
vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và công tác vận động
nhân dân, phát huy vai trò tiên phong gơng mẫu [19 tr 53, 54], Xây dựng
đội ngũ cán bộ, trớc hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về
chính trị, gơng mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo, gắn bó với nhân dân [20 tr 141].
Nhất quán với các quan điểm trên đây, căn cứ vào yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới đất nớc trong điều kiện mới, trong văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững
mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nớc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh t tởng văn hoá và an ninh xã hội;
duy trì trật tự, kỷ cơng, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nớc,
ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mu, hoạt động chống phá, thù địch,
không để bị động, bất ngờ [25 tr 108, 109].
Trong bối cảnh đất nớc ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn
cầu, nhất là sau khi nớc ta gia nhập tổ chức thơng mại thế giới và đợc bầu là uỷ

viên không thờng trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 20082009), nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vừa có những thuận lợi mới vừa có
những khó khăn, thách thức mới. Trớc tình hình đó,để thực hiện thắng lợi mục
tiêu đặt ra, Đại hội X xác định các nhiệm vụ và giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lợng công tác giáo dục, bồi dỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân, có
nội dung phù hợp với từng đối tợng và đa vào chơng trình chính khoá trong các
nhà trờng theo cấp học, bậc học.
Hai là, Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cờng sức mạnh quốc
phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nớc.


19
Ba là, Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại.
Bốn là, Xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nớc đối với hoạt động quốc phòng, an ninh.
Những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp về quốc phòng và an ninh nói
chung và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ lực lợng vũ trang nói riêng do các
kỳ Đại hội, nhất là Đại hội IX và Đại hội X của Đảng ta đề ra mang nhiều nội
dung và t tởng mới, ngày càng thể hiện rõ nét t duy mới của Đảng ta về nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đó là kết quả biện chứng, tổng hợp từ
những đánh giá tổng quát của Đảng ta về tình hình thế giới, khu vực và đất nớc
trong thế kỷ 20, dự báo tình hình những năm đầu thế kỷ 21. Đặc biệt, những
quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp ấy đợc rút ra trực tiếp từ những đánh giá của
Đảng ta về kết quả 20 năm đổi mới toàn diện đất nớc theo định hớng XHCN vừa
qua, đồng thời dự báo những âm mu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch chống phá cách mạng nớc ta trong những năm tới.
Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh những quan điểm, nhiệm vụ
và giải pháp về quốc phòng và an ninh do các kỳ Đại hội, nhất là Đại hội IX và
Đại hội X đề ra là nghĩa vụ thiêng liêng, là trọng trách nặng nề của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta. Mỗi chúng ta nỗ lực thực hiện đầy đủ những quan

điểm, nhiệm vụ và giải pháp ấy là thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc trong tình hình mới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1986.
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1991.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1991.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1996.
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1996.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1996.
7. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1996.


20
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
9. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
10. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
11. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.

13. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
14. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
15. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
16. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
17. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
18. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
19. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
20. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
21. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2006.
22. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2006.
23. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2006.
24. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2006.
25. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2006.
26. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, năm 1995, tập 3.


21

27. C. M¸c vµ Ph. ¡ngghen: Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi, n¨m 1995, tËp 42.
28. C. M¸c vµ Ph. ¡ngghen: Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi, n¨m 1995, tËp 3.
29. C. M¸c vµ Ph. ¡ngghen: Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi, n¨m 1995, tËp 3.
30. C. M¸c vµ Ph. ¡ngghen: Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi, n¨m 1995, tËp 23.
31. C. M¸c vµ Ph. ¡ngghen: Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi, n¨m 1995, tËp 3.



×