Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận cao học Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.66 KB, 31 trang )

Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
Trong vài thập niên trở lại đây, dịch vụ logistics đã phát triển nhanh
chóng và mang lại những kết quả rất tốt đẹp ở nhiều nước trên thế giới, điển
hình như: Hà Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Mỹ... Dịch vụ logistics là ngành
dịch vụ xuyên suốt quá trình sản xuất, phân phối lưu thông hàng hoá, dịch vụ
trong nền kinh tế. Đây là một công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương
trường. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự
gia tăng của hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, dịch vụ logistics tại Việt
Nam đang có bước phát triển mạnh mẽ và là một trong những ngành có tiềm
năng phát triển rất lớn. Gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Tuy
nhiên cũng sẽ có những khó khăn, thách thức bởi hiện nay quy mô của phần
lớn các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn nhỏ, tiềm lực tài chính yếu
nguồn nhân lực cũng hạn chế nhiều mặt, thiếu kinh nghiệm thương
trường...đồng thời theo cam kết gia nhập WTO, các công ty 100% vốn nước
ngoài sẽ được phép hoạt động tại Việt Nam.Vì vậy, trong thời gian tới trong
ngành dịch vụ logistics ở nước ta sẽ hứa hẹn sự cạnh tranh rất gay gắt.
Đi sâu nghiên cứu vấn đề này, em chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp
phát triển ngành logistics ở Việt Nam”.
Nội dung của bài tiểu luận chủ yếu gồm có 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về các dịch vụ logistics.
Chương II: Thực trạng phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển các dịch vụ logistics ở Việt Nam.
Trong bài viết còn nhiều nội dung chưa được hoàn thiện, em mong rằng
sẽ nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung cho bài tiểu luận được hoàn chỉnh
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1




Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam

NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về các dịch vụ
logistics.
I.

Khái niệm:
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics cũng như dịch vụ
logistics được đưa ra bởi các tổ chức, cá nhân nghiên cứu về lĩnh vực này.
Theo Hội đồng quản trị Logistics của Mỹ (CLM) thì "Quản trị
logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả chi
phí lưu thông, dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất
sản phẩm cùng dòng thông tin tương ứng từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm
tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu của khách hàng".
Dưới góc độ quản trị chuỗi cung ứng, thì logistics là quá trình tối ưu
hoá về vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm
xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ,
đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế
(xem logistics and supply chain management, tác giả Ma Shuo, tài liệu giảng
dạy của World Maritime University, 1999).
Theo ông Nguyễn Hùng, Phó Tổng Giám Đốc Công ty Kho vận miền
Nam (Sotrans): Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát một
cách hiệu quả những luồng lưu thông và khối lượng tồn kho của hàng hóa,
dịch vụ và những thông tin liên quan đến chúng.
Theo quan điểm "5 đúng" thì :"Logistics là quá trình cung cấp đúng
sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù
hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm".Còn theo giáo sư David SimchiLevi (MIT, USD) thì hệ thống Logistics là một nhóm các cách tiếp cận được

sử dụng để liên kết các nhà cung cấp, nhà sản xuất, kho, cửa hàng một cách
hiệu quả để hàng hóa được sản xuất đúng số lượng, đúng địa điểm và đúng

2


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
thời điểm nhằm mục đích giảm thiểu chi phí trên toàn bộ hệ thống đồng thời
đáp ứng được các yêu cầu về mức độ phục vụ".
Theo luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày
14/6/2005 và Nghị định 140/2007NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết
luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics có đưa ra khái
niệm: Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại. Theo đó, thương nhân tổ
chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển,
lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách
hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
II.

Vai trò của các dịch vụ logictis:
Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình sản
xuất kinh doanh, lưu thông, phân phối của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt trong
sản xuất kinh doanh nhập khẩu.
Logistics giữ vai trò cầu nối,là động lực thúc đẩy lưu chuyển hàng hóa
từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu.Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa, dịch
vụ logistics ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở những điểm
sau:
- Logistics có vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa chu trình lưu
chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu, phụ kiện,...

tới sản phẩm cuối đến tay người tiêu dùng.
- Dịch vụ logistics hỗ trợ cho các nhà quản lý ra quyết định chính xác
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dịch vụ logistics cung ứng nguyên vật liệu cho doanh nghiệp,tư vấn
cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh để sản xuất sản phẩm cũng như
tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho doanh nghiệp.Từ đó, nhà quản lý kiểm soát và ra
quyết định chính xác về các vấn đề trên để giảm tối đa chi phí phát sinh , đảm
bảo hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
3


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
-

Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo yếu tố đúng thời
gian và địa điểm ( just in time).
Ở đây không chỉ là giao hàng đến với người tiêu dùng đúng thời gian
và địa điểm mà còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp đúng lúc,
kịp thời,đảm bảo khống chế hàng tồn kho ở mức tối thiểu.Việc đảm bảo đúng
thời gian và địa điểm giúp doanh nghiệp giảm được chi phi không cần thiết
trong sản xuất, dự trữ cũng như phân phối tới tay người tiêu dùng.
Qua các vai trò trên của dịch vụ logistics có thể thấy rằng dịch vụ
logistics có tầm quan trọng rất lớn trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh, lưu thông, phân phối không chỉ của từng doanh nghiệp nói riêng mà
còn của cả nền kinh tế nói chung.Là cầu nối, là động lực thúc đẩy quá trình
sản xuất, lưu chuyển hàng hóa đến nơi tiêu dùng, hiện nay dịch vụ logistics
được các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều.
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ logistics

III.


Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ logistics là tập hợp
những điều kiện, những yếu tố bên ngoài và bên trong có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến việc cung ứng các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chính là các nhân tố sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của các dịch vụ logistics.
Có thể phân các nhân tố ảnh hưởng đến các dịch vụ logistics thành
hai nhóm nhân tố: nhóm các nhân tố bên ngoài và nhóm các nhân tố bên trong
thuộc các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics.
Nhóm các nhân tố bên ngoài.

1.

1.1. Yếu tố chính trị, pháp luật.
Trong kinh doanh hiện đai, các yếu tố chính trị, pháp luật ngày càng
có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước hiện nay là nền kinh tế phổ biến trên
thế giới. Chính trị có ổn định thì sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong
4


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
hoạt động kinh doanh của mình. Các yếu tố cơ bản thuộc môi trường chính
trị, pháp luật là:
- Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
- Sự cân bằng của các chính sách của Nhà nước.
- Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội.
- Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật...
1.2. Yếu tố kinh tế.

Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến kết quả và hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cung ứng
dịch vụ logistics nói riêng. Các yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics và các dịch vụ logistics là: Tốc độ tăng
trưởng của GDP; lãi suất tiền vay, tiền gửi ngân hàng; tỷ lệ lạm phát; tỷ giá
hối đoái; mức độ thất nghiệp; cán cân thanh toán; chính sách tài chính, tín
dụng; kiểm soát về giá cả, tiền lương tối thiểu; tiềm năng phát triển và gia
tăng đầu tư...
1.3. Yếu tố công nghệ.
Trong thời đại khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão, việc áp dụng
các tiến bộ này vào sản xuất kinh doanh làm cho hiệu quả ngày càng cao hơn.
Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics nghiên cứu và áp dụng các tiến
bộ khoa học công nghệ không những cho chính doanh nghiệp mình mà còn
nhằm thực hiện dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự
phát triển của thương mại điện tử đã đưa các doanh nghiệp tiên tiến đến việc
ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó đã
làm cho chất lượng dịch vụ logistics của các doanh nghiệp cung ứng tăng lên
rõ rệt và sẽ mang lại sức cạnh tranh cao cho các doanh nghiệp có ứng dụng
dịch vụ mới vào kinh doanh.
1.4. Yếu tố cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên.
Đối với sự phát triển của các dịch vụ logistics thì yếu tố cơ sở hạ tầng
và điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống
5


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
giao thông vận tải ( đường, phương tiện, bến bãi...), hệ thống thông tin, hệ
thống bến cảng nhà kho, điện nước...hệ thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện
thuận lợi cho phát triển dịch vụ logistics, đặc biệt là dịch vụ vận tải. Điều kiện
tự nhiên là yếu tố cần được các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đặc

biệt quan tâm. Bởi các yếu tố như nắng, mưa, hạn hán, lụt, dịch bệnh...ảnh
hưởng trực tiếp đến việc cung ứng dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ vận tải đường
biển vì nếu điều kiện không thuận thì sẽ không thực hiện được dịch vụ này,
thậm chí còn gây thiệt hại lớn bởi rủi ro trong vận tải biển là rất cao. Bên cạnh
đó cũng phải kể đến ảnh hưởng của sự khan hiếm của các nguyên,nhiên vật
liệu, sự gia tăng của chi phí năng lượng...
1.5. Sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ logistics.
Cạnh tranh trong ngành dịch vụ logistics càng gay gắt thì loại hình dịch
vụ logistics càng phong phú, chất lượng dịch vụ logistics càng được nâng cao.
1.6. Yếu tố khách hàng
Khách hàng chiếm vị trí trung tâm trong mọi hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp. Khách hàng của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
logistics chủ yếu là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có nhu cầu sử
dụng dịch vụ logistics lớn thì ngành dịch vụ logistics mới phát triển được.
2.Nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
2.1. Tiềm lực doanh nghiệp.
Tiềm lực doanh nghiệp thể hiên ở nhiều mặt: qui mô của doanh
nghiệp; cơ sở vật chất kĩ thuật; cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo; tài năng,
trình độ chuyên môn và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo; trình độ
tay nghề, sự thành thạo kỹ thuật, nghiệp vụ của lao động; tiềm lực tài chính,
khả năng huy động vốn...
2.2. Hệ thống thông tin
Doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống thu thập thông tin về các yếu tố
thuộc môi trường vĩ mô, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nguồn hàng...Đối với
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì yếu tố thông tin là quan
6


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
trọng.Thu thập được thông tin thiết thực, kịp thời giúp doanh nghiệp nắm bắt

được nhiều cơ hội tốt trong kinh doanh. Cũng từ đó có các quyết định, các
chính sách và chiến lược kinh doanh thích hợp.
2.3. Nghiên cứu và phát triển
Việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển tuy chi phí tốn kém song hoạt
động nay đem lại kết quả ngoạn mục nhất. Nó giúp doanh nghiệp: đổi mới, đa
dạng hoá và phát triển các loại hình dịch vụ logistics;hiện đại hoá dây chuyền
công nghệ và phương thức cung ứng dịch vụ cho khách hàng; nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ cho lao động...Các doanh nghiệp cần nắm vững
được tầm quan trọng của yếu tố này để đầu tư thích đáng và thu được thành
công trong hoạt động kinh doanh của mình.
Như vây, qua nghiên cứu tổng thể các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, chúng ta cũng thấy
được ảnh hưởng của các nhân tố này đến sự phát triển của các dịch vụ
logistics. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics càng phát triển thì
các dịch vụ logistics cũng ngày càng phát triển.

7


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam

Chương II:
Thực trạng phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam
I.

Quá trình phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam.
Logistics được phát minh và ứng dụng đầu tiên không phải trong hoạt
động thương mại mà là lĩnh vực quân sự. Chỉ đến sau chiến tranh thế giới thứ
hai, hoạt động logistics mới thực sự được ứng dụng và triển khai trong lĩnh
vực thương mại. Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics được nghiên cứu và áp

dụng ngày càng nhiều vào sản xuất kinh doanh và mang lại những kết quả cao
trong kinh doanh của các doanh nghiệp trên thế giới tiêu biểu như: Nhật Bản,
Mỹ, Hà Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch...
Những kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới thâm nhập
vào Việt Nam trong những năm gần đây, trước hết và chủ yếu thông qua hoạt
động của các công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một số người được đào
tạo tại nước ngoài.
Ban đầu, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận vận tải
là chủ yếu. Các doanh nghiệp này đều là các doanh nghiệp Nhà nước. Số
lượng các doanh nghiệp trong lĩnh vực này là rất ít. Cho đến Đại hội Đảng
Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII đề ra nghị quyết về cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước, một loạt các doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện chủ
trương cổ phần hóa và có thêm rất nhiều các doanh nghiệp tư nhân hoạt động
trong lĩnh vực này ra đời. Số lượng các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ
giao nhận vận tải ngày càng nhiều ở mọi thành phần kinh tế. Vài năm trở lại
đây, nhiều doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải do ảnh hưởng
xu thế phát triển các công ty dịch vụ logistics trên thế giới đã và đang xâm
nhập vào thị trường Việt Nam đã mở rộng thêm kinh doanh các dịch vụ
logistics đáp ứng nhu cầu cung ứng các dịch vụ logistics đồng thời cũng và
đổi tên thành công ty kinh doanh dịch vụ logistics.Năm 2005, cả nước có
khoảng 500 doanh nghiệp logistics. Năm 2006, cả nước có khoảng 700-800
8


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. Và đến năm 2007, cả nước có gần
1000 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Đến nay, các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam đã và đang cung ứng các dịch vụ
logistics cho khách hàng nhưng chưa hình thành một chuỗi các dịch vụ
logistics. Các dịch vụ cung ứng còn nhỏ lẻ, gián đoạn. Thực tế, ngành dịch vụ

logistics của Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện và vẫn đang ở giai đoạn phôi thai,
chưa thực sự có được dịch vụ logistics của riêng mình, chưa trở thành ngành
dịch vụ theo đúng nghĩa là chuỗi dịch vụ logistics.
Hệ thống các dịch vụ logistics ở Việt Nam.

II.

Dịch vụ logistics bao gồm rất nhiều hoạt động, dựa trên các tiêu thức
khác nhau có thể phân hệ thống dịch vụ logistics như sau:
Theo toàn bộ quá trình cung ứng dịch vụ logistics, các dịch vụ logistics bao

-

gồm:
+ Dịch vụ logistics đầu vào
+ Dịch vụ logistics đầu ra
+ Dịch vụ logistics ngược
Mỗi loại hàng hoá có các dịch vụ logistics tương ứng:

-

+ Dịch vụ logistics cho hàng tiêu dùng có thời hạn sử dụng
ngắn:quần áo, giầy dép, thực phẩm...
+ Logistics cho ngành ôtô
+ Logistics cho ngành hoá chất
+ Logistics cho ngành điện tử.
+ Logistics cho ngành dầu khí...
Theo nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ, dịch vụ logistics được

-


phân thành 3 nhóm:
+ Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp



container;

9


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hoá, bao gồm cả hoạt động kinh



doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải



quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hoá;
Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và



quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hoá trong suốt cả
chuỗi logistics; hoạt động xử lý lại hàng hoá bị khách hàng trả lại, hàng hoá
tồn kho, hàng hoá quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hoá đó; hoạt động

cho thuê và thuê mua container.
+ Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:


Dịch vụ vận tải hàng hoá



Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;



Dịch vụ vận tải hàng không;



Dịch vụ vận tải đường sắt;



Dịch vụ vận tải đường bộ;



Dịch vụ vận tải đường ống;
+ Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:



Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;




Dịch vụ bưu chính;



Dịch vụ thương mại buôn bán;



Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng
lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hoá, phân phối lại và giao hàng.
Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.



- Theo phạm vi hoạt động

III.



Dịch vụ logistics nội địa;



Dịch vụ logistics quốc tế.
Thực trạng phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay.
Do nhận biết dịch vụ logistics là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, có

thể mang lại lợi nhuận siêu ngạch, nên thời gian gần đây, ở Việt Nam, đặc biệt
10


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
ở các thành phố lớn, đã xảy ra hiện tượng" nhà nhà đăng ký kinh doanh dịch
vụ logistics, người người đăng ký kinh doanh logistics". Theo sở Kế hoạch và
Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, trung bình mỗi tuần có một công ty kinh
doanh dịch vụ logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng
dịch vụ logistics. Chính sự đăng ký ồ ạt đã tạo nên ảo tưởng ngành dịch vụ
logistics Việt Nam phát triển nhanh chóng: từ một vài doanh nghiệp giao nhận
quốc doanh vào cuối thế kỷ XX đến cuối năm 2007, cả nước đã có khoảng
gần 1000 công ty kinh doanh dịch vụ logistics, nhưng chỉ có khoảng 800-900
doanh nghiệp thực sự có tham gia hoạt động. Số lượng các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ logistics thì tăng lên nhanh chóng nhưng nếu xét về chất lượng
thì các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn rất nhỏ yếu.
Về cơ cấu thành phần kinh tế, theo ông Nguyễn Thâm- Phó Chủ tịch
Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam, hiện nay ở mọi thành phần kinh tế đều
có các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, trong đó doanh nghiệp nhà
nước chiếm khoảng 20%; công ty TNHH, doanh nghiệp cổ phần chiếm
khoảng 70%; còn 10% là các gia đình, tư nhân làm nhỏ lẻ, tham gia làm từng
phần, từng công đoạn...
Quy mô các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp kinh doanh logistics Việt
Nam ngoại trừ một số doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần tương đối lớn
thì hầu hết đều có qui mô vừa và nhỏ , thậm chí có doanh nghiệp chỉ đăng ký
300-500 triều đồng( tương đương 18.750-31.250 USD), vốn trung bình chỉ
đạt 1,5 tỷ VND.Một số doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá đã nâng
được mức vốn điều lệ lên 5 tỷ VND(312.500 USD), một số thì đi ngược lại
qui luật "tích tụ vốn" và phát triển. Kể cả những doanh nghiệp nhà nước trước
đây đã được đầu tư vốn, trang bị kĩ thuật, đất đai, nhà kho, tài chính và nhân

lực...Chỉ có một số công ty lớn như: Vietrans, Viconship, Vinalines, Vinatrans,
Vinafco, Vinashin, hãng hàng không Việt Nam Airlines,...nhưng cũng chưa có
năng lực đủ mạnh để tham gia hoạt động logistics toàn cầu.

11


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
Về tổ chức bộ máy, do vốn và nhân lực ít nên việc tổ chức bộ máy của
các doanh nghiệp này rất đơn giản, tính chuyên sâu của các doanh nghiệp
trong dịch vụ logistics không có. Hầu hết các doanh nghiệp logistics Việt
Nam chưa có văn phòng đại diện của chính công ty mình đặt tại nước ngoài.
Các thông tin từ nước ngoài, công việc phải giải quyết ở nước ngoài của một
số công ty lớn đều do hệ thống đại lý thực hiện, cung cấp.
Về các lĩnh vực dịch vụ logistics được thực hiện ở các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam có thể thấy rằng: Ở Việt Nam dịch vụ
logistics chưa được các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics cung cấp
đầy đủ như đúng bản chất của nó( một chuỗi các dịch vụ ) mà chỉ mới cung
cấp một số dịch vụ trong chuỗi dịch vụ logistics mà thôi. Các dịch vụ logistics
chủ yếu mà các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam cung
ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hoá, giao nhận hàng hoá,
bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho...còn các dịch vụ khác
trong chuỗi dịch vụ logistics mặc dù cũng có một số doanh nghiệp cung ứng
nhưng số lượng không nhiều và chưa thực sự được quan tâm phát triển.
Trong các dịch vụ logistics chủ yếu được cung ứng bởi các doanh
nghiệp logistics của Việt Nam thì dịch vụ giao nhận vận tải và kinh doanh
kho bãi là phát triển nhất.
- Dịch vụ vận tải giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu.
Ở Việt Nam hiện nay, vận tải giao nhận chủ yếu phát triển trên lĩnh vực
đường biển và đường hàng không, trong đó vận tải đường biển chiếm ưu thế

tuyệt đối hơn cả vì hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu đi bằng đường biển. Tại
các cảng hiện nay, ngoài dịch vụ vận tải giao nhận đơn thuần còn có các dịch
vụ trợ giúp như: lưu kho bảo quản hàng hoá, tái chế, đóng gói, kẻ ký mã hiệu,
thu gom hàng hoá xuất khẩu...Cơ sở vật chất kĩ thuật tại các cảng biển được
tăng cường đặc biệt là hệ thống cầu cảng, trang thiêt bị xếp dỡ và hệ thống
kho bãi... Theo cục hàng hải Việt Nam, năm 2007 là năm hàng hoá thông qua
các cảng biển tăng mạnh nhất trong 10 năm trở lại đây. Cả năm có 88.619 lượt
12


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
tàu biển ra vào cảng với tổng dung tích là 320,176 triệu GT, tăng 18,02% so
với năm 2006. Sản lượng hàng hoá thông qua các cảng biển Việt Nam đạt
181,116 triệu tấn, bằng 117,23% so với năm 2006, trong đó hàng container
đạt 4.489.165 TEUs, tăng 31,24%; hàng khô đạt 79,444 triệu tấn, tăng
17,24%; hàng qua cảnh đạt 17,113 triệu tấn, tăng 16,13%. Đội tàu biển Việt
Nam đã vận tải được 61,350 triệu tấn, tăng gần 20%. Những khu vực kinh tế
trọng điểm, khối lượng hàng hoá tăng rất nhanh như: Hải Phòng tăng 47,3%,
TP. HCM tăng 17,4%...Giai đoạn 2001-2005, khối lượng hàng hoá thông qua
cảng Việt Nam đạt 575.286.000 tấn, trong đó hàng container là 10.452.870
TEUs, hàng lỏng là 170.962.000 tấn, hàng khô là 244.481.000 tấn.
Dịch vụ vận tải hàng hoá bằng đường hàng không cũng tăng mạnh tại
các cửa khẩu Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng...Các mặt hàng được vận
chuyển chủ yếu là mặt hàng có giá trị cao, hàng điện tử, máy vi tính...Mạng
lưới vận tải bằng đường hàng không từ Việt Nam tới các quốc gia ngày càng
được mở rộng tới các nước Châu Âu, Nhật Bản, Úc và New Zeland...
Hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận hàng hoá xuất nhập
khẩu bằng đường sắt, đường ôtô cũng dần được phát triển nhưng với sản
lượng không nhiều và chủ yếu là hàng hóa ra vào Việt Nam từ các nước lân
cận như Trung Quốc, Lào, Campuchia.

- Dịch vụ vận tải giao nhận nội địa và phân phối hàng.
Vận tải giao nhận nội địa ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu là đường
sắt và đường ôtô vì đường sắt và đường ôtô có cơ sở hạ tầng, hệ thống bến bãi
tương đối hoàn chỉnh. Những năm qua, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải được
cải thiện cho nên vận tải giao nhận hàng hoá bằng container nội địa cũng
được phát triển. Ngoài ôtô, ngành đường sắt cũng tổ chức chuyên chở hàng
hoá học tuyến Bắc Nam tạo sự liên kết chặt chẽ các địa phương, các vùng, các
miền trong lưu thông hàng hoá và tích cực tham gia chuyên chở hàng hoá
xuất nhập khẩu. Từ chỗ chưa có toa xe chuyên dụng chở container đến nay xe

13


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
chuyên dụng của đường sắt đã đáp ứng yêu cầu vận chuyển container của
khách hàng trên toàn tuyến.
Về phân phối hàng hoá, các doanh nghiệp lớn có thế mạnh trong việc
cung ứng dịch vụ vận chuyển hàng hoá có khối lượng lớn, hàng theo kế
hoạch, hàng siêu trường, siêu trọng thì các doanh nghiệp nhỏ lại có lợi thế
trong cung ứng dịch vụ vận chuyển hàng thông thường như hàng bách hoá,
hàng rời, hàng container có khối lượng nhỏ và đặc biệt là thầu việc phân phối
các sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ trong nội địa cho các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc vận chuyển máy móc, thiết bị, hàng công
trình ra vào các cảng Việt Nam theo yêu cầu của khách hàng.
- Dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì hàng hóa
Khi các doanh nghiệp có nhu cầu thuê dịch vụ phân loại và đóng gói
bao bì thì doanh nghiệp logistics sẽ triển khai thực hiện sao cho tiết kiệm chi
phí cho doanh nghiệp khách hàng. Đối với hàng phi mậu dịch, hàng hội chợ,
triển lãm, hàng có khối lượng nhỏ, nguồn hàng không thường xuyên, hàng
của các văn phòng đại diện hay các cơ quan ngoại giao, sứ quán...các doanh

nghiệp logistics thường sử dụng các nguyên vật liệu phục vụ đóng gói bao bì
bằng những thứ có sẵn trong nước như: giấy, gỗ, bao nylon, nhựa tái chế...dể
giảm chi phí. Đối với hàng mậu dịch có khối lượng lớn, nhu cầu xuất nhập
khẩu thường xuyên, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các khu
công nghiệp, khu chế xuất thường sử dụng trọn gói các dịch vụ logistics do
các doanh nghiệp logistics cung cấp, từ việc đóng gói bao bì, kiểm đếm cho
đến việc làm thủ tục hải quan hàng hoá.
- Dịch vụ kinh doanh kho bãi.
Hệ thống kho bãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics
Việt Nam phần lớn tập trung ở các doanh nghiệp lớn thuộc nhà nước hay các
bộ, còn các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp cổ phần cũng có nhưng
rất nhỏ và hạn chế. Các kho bãi này chủ yếu tập trung ở các cảng biển lớn,
phần còn lại có thể nằm sâu trong đất liền. Các chủ hàng xuất nhập khẩu rất ít
14


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
có kho bãi cho riêng mình để thực hiện lưu trữ hàng hoá, vì vậy thường phải
thuê kho bãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kho bãi. Hệ thống kho
bãi ở các cảng lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng... là phát triển nhất, còn
các cảng khác quy mô kho bãi còn rất khiêm tốn.Theo tạp chí hàng hải Việt
Nam số 10/2007 thì đến hết năm 2006 cả nước đã có tổng diện tích đất dành
cho kho bãi và hoạt động cảng lên tới 14 triệu m2.
Ngoài các dịch vụ điển hình trên, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
logistics còn cung ứng một loạt các dịch vụ khác thuộc chuỗi dịch vụ logistics
như: cung ứng nguyên vật liệu đầu vào; tư vấn quy trình sản xuất, công nghệ
sản xuất, kênh phân phối, xúc tiến bán hàng...; ghi ký mã hiệu, dán
nhãn...nhưng các dịch vụ này chưa được quan tâm phát triển mà mới chỉ là
các dịch vụ đi kèm những dịch vụ chính ở trên mà thôi.
Về thị trường của ngành dịch vụ logistics Việt Nam: Theo đánh giá

của các chuyên gia trong ngành dịch vụ logistics Việt Nam thì ngành dịch vụ
logistics Việt Nam mới giới hạn ở thị trường nội địa, các doanh nghiệp cung
ứng dịch vụ logistics Việt Nam hầu như mới chỉ giới hạn đáp ứng nhu cầu
logistics cho các doanh nghiệp khách hàng trong nước chứ hầu như chưa có
khả năng đáp ứng nhu cầu logistics thế giới. Một số doanh nghiệp logistics
Việt Nam có cung ứng dịch vụ logistics ra thị trường thế giới nhưng đó cũng
chỉ là làm thuê cho các đại lý logistics nước ngoài chứ chưa thực sự tự mình
cung ứng, nếu là tự mình cung ứng thì cũng chỉ sang thị trường Lào,
Campuchia, Trung Quốc chứ chưa vươn được xa hơn.
Mặc dù giá cả dịch vụ logistics của Việt Nam tương đối rẻ hơn so với
một số nước khác, nhưng chất lượng chưa cao và phát triển chưa bền vững.
Cạnh tranh về giá cả của những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ logistics không lành mạnh. Có trường hợp cùng một khách hàng nhưng
mỗi công ty về logistics lại chào với những mức giá khác nhau. Hoạt động
của các doanh nghiệp nhỏ khá manh mún, chụp giựt và hạ giá dịch vụ để lôi

15


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
kéo khách hàng, trong khi chất lượng dịch vụ không rõ ràng, tạo nên tiền lệ
xấu trong hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics.
Theo đánh giá của VIFFAS, trình độ công nghệ logistics của Việt Nam
so với thế giới còn nhiều yếu kém: đa số các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ logistics Việt Nam mới chỉ thực hiện việc mua bán cước tàu biển, cước
máy bay, đại lý khai quan và dịch vụ vận tải, dịch vụ kho bãi. Trong vận tải đa
phương thức vẫn chưa thể kết hợp một cách hiệu quả các phương tiện, chưa tổ
chức tốt các điểm chuyển tải; Trình độ cơ giới hoá trong khâu bốc xếp còn
yếu kém, công tác lưu kho còn lạc hậu so với yêu cầu phát triển logistics toàn
cầu, thủ tục giấy tờ còn rườm rà, chưa áp dụng được thương mại điện tử một

cách hữu hiệu trong quá trình cung ứng các dịch vụ logistics cho khách hàng.
Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn kém xa các
doanh nghiệp logistics thế giới.
Về nhân lực trong ngành dich vụ logistics: Do phát triển nóng nên
nguồn nhân lực cung cấp cho thị trường logistics tại Việt Nam hiện nay trở
nên thiếu hụt trầm trọng bên cạnh đó chất lượng nguồn nhân lực chưa cao.
Theo VIFFAS, hiện chưa có thống kê chính xác toàn bộ số nhân viên
làm việc trong ngành dịch vụ logistics. Nếu chỉ tính riêng các công ty thành
viên Hiệp hội (có đăng ký chính thức), tổng số nhân viên vào khoảng 5000
người. Đây là lực lượng được coi là chuyên nghiệp. Ngoài ra ước tính có
khoảng 4000–5000 người thực hiện dịch vụ giao nhận vận tải bán chuyên
nghiệp hoặc chuyên nghiệp khác nhưng chưa tham gia hiệp hội. Như vậy, ở
Việt Nam có khoảng hơn 10.000 người làm việc trong ngành dịch vụ
logistics. Khoảng 50% số nhân viên này chưa qua đào tạo, số còn lại được
đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu chỉ tính riêng ở trình độ đại học thì
các nhân viên chủ yếu được đào tạo từ Trường Đại học Ngoại thương và
chuyên ngành Ngoại thương, khoa Thương mại-Du lịch, Trường Đại học kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra còn được đào tạo từ Đại học Hàng hải,
Giao thông vận tải...
16


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
Cho đến nay, trong tất cả các trường đại học, cao đẳng Việt Nam không
có trường nào có chuyên ngành đào tạo Quản trị Logistics. Một số trường như
Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh cũng
có đưa môn quản trị Logistics vào chương trình giảng dạy nhưng số lượng tiết
học quá ít. Nhân viên làm việc trong các công ty logistics Việt Nam chủ yếu
được đào tạo qua các lớp nghiệp vụ ngắn hạn do VIFFAS, các trung tâm hoặc
công ty tổ chức, phần lớn được đào tạo tại chỗ theo kiểu " nghề dạy nghề".

Mặc dù tiềm lực của các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn yếu
nhưng thời gian qua, các doanh nghiệp này lại thiếu tính liên kết, ngược lại
còn cạnh tranh đấu đá nhau không lành mạnh, giảm giá cước vận tải để lôi
kéo, thu hút khách hàng. Mới chỉ xuất hiện một vài mô hình liên kết như:
Liên kết giữa Eximbank, Bảo Minh và Sotrans; Liên kết giữa Sotrans và
Sowatco; Liên kết giữa Vinalines và Bảo Việt; đặc biệt gần đây nhất vào
tháng 4/2008 là liên kết giữa Vinalines và Vietinbank;…
Hiện tại ở Việt Nam đã có khoảng 25 công ty logistics nước ngoài tham
gia cung ứng dịch vụ logistics. Đây đều là những doanh nghiệp hùng mạnh
với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài chính khổng lồ
với hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch
vụ khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ chức
quản lý cao, đã và đang từng bước xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường
trong nước. Một số doanh nghiệp điển hình như: NYK Logistics, LOGITEM,
APL, Mitsui OSK, Maerk Logistics,...Các doanh nghiệp logistics Việt Nam
thay vì cạnh tranh để giành phần thắng trong "cuộc chiến" phân chia thị phần
với các doanh nghiệp logistics nước ngoài trên thị trường nội địa thì lại chủ
yếu cạnh tranh trong nội bộ, tự mình làm yếu mình.
1.

Ưu – nhược điểm:
Những điểm mạnh

-

Số lượng các doanh nghiệp trong ngành kinh doanh dịch vụ logistics của Việt

IV.

Nam là khá lớn và thuộc mọi thành phần kinh tế. Một khi có sự nhận thức

17


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
đúng đắn và có được kinh nghiệm về kinh doanh dịch vụ logistics thì ngành
dịch vụ này của nước ta sẽ nhanh chóng phát triển và có khả năng chiếm thị
phần lớn trên thị trường nội địa.
-

Có sự am hiểu về địa lý Việt Nam, cũng như các điều kiện tự nhiên, hệ thống
sông ngòi, đường xá...vì thế có khả năng kết hợp, chọn lựa các phương tiện
vận chuyển hợp lý và nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí.

-

Có sự dẫn dắt của một số đầu tàu lớn trong ngành như: Hiệp hội giao nhận
kho vận VIFFAS, Tổng công ty hàng hải Việt Nam VINALINES, Hội chủ tàu
Việt Nam...cung cấp các kinh nghiệm, các kiến thức kinh doanh dịch vụ
logistics...đồng thời bảo vệ các hội viên trước những tranh chấp, bất đồng
trong kinh doanh, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi cho các thành viên khi tham gia
kinh doanh dịch vụ logistics quốc tế.

2.


Những điểm yếu
Các doanh nghiệp logistics Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp sinh sau
đẻ muộn so với nhiều công ty nước ngoài vốn có lịch sử phát triển kinh doanh
vận tải từ lâu đời như APL có kinh nghiệm trên 100 năm, Maersk có kinh
nghiệm gần 100 năm...

Tầm phủ của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam chỉ trong
phạm vi nội địa hoặc một vài quốc gia trong khu vực. Trong khi tầm phủ của
các công ty nước ngoài chẳng hạn APL là gần 100 quốc gia, Maersk là 60
quốc gia...



Phần lớn các doanh nghiệp logistics Việt Nam chỉ tập trung vào khai thác
những mảng nhỏ trong toàn bộ chuỗi cung ứng.



Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn thiếu và yếu. Bên cạnh đó, tại
các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, qui mô doanh nghiệp còn nhỏ,
điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật chưa đáp ứng nhu cầu, đồng vốn và nhân lực
ít ỏi, bộ máy doanh nghiệp còn quá đơn giản, tính chuyên sâu chưa có...



Nguồn nhân lực vừa thiếu vừa yếu, cả nước chưa có trường nào chuyên đào
tạo về logistics. Kiến thức mà nhân viên có được là học từ nước ngoài, một số
18


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
là từ các trường đại học chuyên ngành trong nước với kiến thức ít ỏi và thiếu
cập nhật.


Hạ tầng thông tin còn yếu kém. Mặc dù các doanh nghiệp đã có ý thức trong

việc áp dụng CNTT vào hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn còn kém
xa so với các công ty nước ngoài.



Các doanh nghiệp trong ngành hầu hết hoạt động rời rạc, thiếu hợp tác hỗ trợ
lẫn nhau, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh.

19


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam

Chương III.
Giải pháp phát triển các dịch vụ logistics ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Để phát triển hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ
logistics ở Việt Nam trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:
1.Tăng cường nhận thức về dịch vụ logistics.
Dịch vụ logistics là một lĩnh vực còn rất mới mẻ đối với các cơ quan
quản lý Nhà nước cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Để có thể
phát triển tốt dịch vụ logistics thì phải tăng cường nhận thức về dịch vụ
logistics cho các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh. Tránh tình trạng hiểu không thấu đáo, sẽ vận dụng sai, không
hiệu quả.Chỉ khi có nhận thức về dịch vụ logistics thì các cơ quan nhà nước
mới có thể quản lý tốt ngành này cũng như tạo các điều kiện thuận lợi cho
ngành phát triển.
Để phục vụ nhu cầu trước mắt nên thành lập nhóm công tác để nghiên
cứu và triển khai dự án lập "Trung tâm Logistics" tại các vùng kinh tế trọng
điểm. Nhóm nghiên cứu gồm cán bộ của Bộ Giao thông vận tải, của VIFFAS,

các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về logistics, các chuyên viên thực tế về
Logistics ( trong và ngoài nước), phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ: Công
thương, Tài chính,Giao thông vận tải,… Tổng cục hải quan, các địa phương,
các doanh nghiệp...
Trên cơ sở các nghiên cứu và khuyến nghị của các nhóm sẽ đề nghị
Chính phủ tháo gỡ, giải quyết những vấn đề vướng mắc để thành lập các
Trung tâm Logistics trên cả nước sao cho hiệu quả. Đồng thời cũng dựa trên
các kết quả nghiên cứu đó mà công bố và phổ biến kiến thức rộng rãi để các
doanh nghiệp và những người quan tâm hiểu và áp dụng loại hình dịch vụ
này.
20


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
2. Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ logistics và ban hành các
chính sách khuyến khích đầu tư phát triển hoạt động logistics.
Ngoài việc xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ logistics, Nhà nước
cần ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ logistics hoạt động có hiệu quả. Nội dung các chính sách theo các hướng
sau:


Khuyến khích việc đầu tư vốn phát triển kết cấu hạ tầng logistics và các
phương tiện vận chuyển, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho các dịch vụ logistics
phát triển.



Có chính sách khuyến khích về thuế đối với các dịch vụ logistics và người
kinh doanh dịch vụ logistics.




Cho phép các doanh nghiệp kinh doanh logistics của Việt Nam liên doanh, liên
kết với các công ty logistics nước ngoài khai thác thị trường trong và ngoài
nước để học hỏi kinh nghiệm phát triển và quản lý dịch vụ logistics, mở rộng
thị trường hoạt động từng bước thâm nhập thị trường logistics quốc tế.
3. Tập trung đầu tư quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng, phương
tiện kĩ thuật đồng bộ, tiên tiến nhằm phục vụ cho phát triển dịch vụ
logistics.
Đối với phát triển dịch vụ logistics thì điều kiện về cơ sở hạ tầng và
phương tiện kĩ thuật là điều kiện tiên quyết.Ở Việt Nam, dịch vụ vận tải và
dịch vụ kho bãi là hai hình thức dịch vụ logistics phổ biến và phát triển nhất.
Vì thế hệ thống cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng và cần thật chú
trọng phát triển cho hợp lý. Để phát triển dịch vụ logistics thì cần làm tốt
công tác quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng: hệ thống đường sá, cầu cống;
nhà ga, bến cảng; kho tàng, bến bãi; phương tiện vận chuyển cũng như các
trang thiết bị phục vụ giao nhận vận chuyển...Đây là những yếu tố không thể
thiếu được trong hoạt động dịch vụ logistics. Tuy nhiên đầu tư phải đồng bộ,
tiên tiến tránh tình trạng không tương thích giữa cơ sở hạ tầng với các

21


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam
phương tiện vận chuyển như một số bất cập trong chuyên chở container vừa
qua (đường cầu không đáp ứng trọng tải và chiều cao của container).
4. Vấn đề quản lý của Nhà nước.
* Nhà nước cần sớm xây dựng một khung pháp lý cho hoạt động
logistics, ban hành các quy định pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển

ngành dịch vụ logistics.
Để có thể phát triển tốt dịch vụ logistics thì sự hỗ trợ về chính sách và
pháp luật có vai trò hết sức quan trọng.
+ Các văn bản pháp luật cho hoạt động logistics.
Ở Việt Nam hoạt động của các dịch vụ logistics đã được điều chỉnh bởi
luật Thương mại Việt Nam năm 2005 với 8 điều ( từ điều 233 đến điều 240)
quy định về dịch vụ logistics. Cần tiếp tục triển khai chi tiết để thực hiện, ra
các văn bản hướng dẫn thực hiện các điều khoản trong luật đã quy định. Giải
thích và cụ thể hoá các nội dung: khái niệm dịch vụ logistics, người kinh
doanh dịch vụ logistics, hợp đồng dịch vụ logistics, thời hạn trách nhiệm , cơ
sở trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh dịch vụ
logistics…để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ logistics.
+ Các văn bản pháp luật cho những lĩnh vực hỗ trợ cho phát triển dịch
vụ logistics như: luật về giao thông vận tải, thương mại điện tử, thủ tục hải
quan…
*Tăng cường thể chế quản lý dịch vụ logistics.
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy việc
tăng cường quản lý dịch vụ logistics của nhà nước là hết sức cần thiết, góp
phần tích cực cho dịch vụ logistics phát triển. Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công
thương… phối hợp thành lập uỷ ban quốc gia về dịch vụ logistics hoặc giao
nhiệm vụ cho một vụ hay cục quản lý về dịch vụ logistics , nói khác đi là phải
có một cơ quan quản lý dịch vụ logistics. Cơ quan quản lý sẽ chịu trách
nhiệm:

22


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam



Hoạch định chính sách và đề xuất các biện pháp phát triển dịch vụ logistics
của Việt Nam trong điều kiện hội nhập.



Đề xuất việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho dịch vụ logistics.



Nghiên cứu và đề xuất các qui định pháp luật điều chỉnh hoạt động logistics
cũng như các vấn đề giao dịch trong dịch vụ logistics.



Nghiên cứu và đề xuất ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là thương mại điện
tử và công nghệ truyền dữ liệu áp dụng trong hoạt động logistics.



Xét đăng ký và cấp phép cho người kinh doanh dịch vụ logistics.
- Giúp đỡ và hỗ trợ việc thành lập và phát triển các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ logistics.
- Phối hợp với các tổ chức trong khu vực và thế giới trong việc phát
triển dịch vụ logistics.
5. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics.
Nhân lực cho ngành dịch vụ logistics là một nhân tố vô cùng quan
trọng quyết định sự phát triển của dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay.
Với thực trạng nguồn nhân lực cho dịch vụ logistics vừa thiếu vừa yếu
như phân tích ở trên thì phát triển nguồn nhân lực là vấn đề bức thiết. Để có
nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của dịch vụ logistics thì cần triển

khai các biện pháp sau:



Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho dịch vụ logistics. Chiến
lược này nằm trong chiến lược phát triển ngành dịch vụ logistics nói chung.



Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương… phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo nghiên cứu đưa dịch vụ logistics vào chương trình giảng dạy tại các khoa
quản trị kinh doanh của các trường đại học, hoặc thành lập các trường đào tạo
nghề kinh doanh dịch vụ logistics.



Nội dung đào tạo cần tập trung vào nội dung logistics, tổ chức vận hành chuỗi
dịch vụ logistics và quản lý sự vận động của chuỗi logistics cũng như các quy
định pháp lý lien quan tới hoạt động logistics.

23


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam


Hình thức đào tạo có thể áp dụng nhiều hình thức như đào tạo trong nước
hoặc hợp tác với nước ngoài trong đào tạo, tổ chức các hội thảo trao đổi kinh
nghiệm và học tập kinh nghiệm của các nước ngoài hay khảo sát thực tế




Tìm kiếm các nguồn tài trợ trong nước và quốc tế cho các chương trình đào
tạo ngắn hạn trong và ngoài nước.
6. Vấn đề liên kết và phát huy vai trò của các hiệp hội Logistics ở
Việt Nam.
Chính phủ cần có các chính sách và biện pháp hướng dẫn, thúc đẩy sự
liên kết các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics để có những doanh
nghiệp có đủ quy mô, điều kiện cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại
trong khu vực và trên thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay, liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ
logistics có rất nhiều hiệp hội: Hiệp hội chủ tàu Việt Nam, Hiệp hội cảng
biển Việt Nam, Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội bảo hiểm, Hiệp
hội giao nhận kho vận Việt Nam. Thời gian qua, các hiệp hội đã hoạt động
tích bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong kinh doanh.
Để phát huy vai trò của mình trong việc phát triển ngành dịch vụ
logistics, các hiệp hội cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:



Thiết lập các thủ tục và các tiêu chuẩn kinh doanh của các hội viên, trên cơ
sở đó đảm bảo chất lượng của người kinh doanh dịch vụ logistics.



Đại diện lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp trong các quan hệ kinh
doanh trong và ngoài nước. Làm cầu nối giữa nhà nước và doanh nghiệp
trong việc đề ra các chính sách trong việc quy hoạch và phát triển ngành nghề.




Tư vấn cho các doanh nghiệp về luật pháp quốc tế, thông tin thị trường, mở
rộng khách hàng và bảo vệ lợi ích của hội viên khi gặp rào cản hay tranh chấp
thương mại quốc tế.



Xử lí tốt việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các hội viên, điều hoà quyền
lợi giữa các hội viên, trên cơ sở đó đề xuất với chính phủ thoả thuận ban hành
giá cả dịch vụ để tạo sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
24


Thực trạng và giải pháp phát triển ngành logistics ở Việt Nam


Tham gia ý kiến vào các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động của các
doanh nghiệp từ khi soạn thảo để đảm bảo tính khả thi của pháp luật.



Tư vấn cho các cơ quan nhà nước về biện pháp và chính sách quản lý và phát
triển dịch vụ logistics.
7. Giải pháp đối với người cung ứng dịch vụ logistics.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics phát triển thì các dịch
vụ logistics mới phát triển được. Để phát triển dịch vụ logistics thì không chỉ
có các chính sách và hệ thống pháp luật từ phía Nhà nước mà bản thân các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này cũng phải có các giải pháp để phát
triển. Các giải pháp của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics cần tập
trung vào một số vấn đề sau:

*Đầu tư và xây dựng hợp lý có hiệu quả hệ thống cơ sở vật chất kĩ
thuật của doanh nghiệp.
Bên cạnh các hệ thống cơ sở hạ tầng mà nhà nước đầu tư xây dựng thì
đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics cũng phải trang bị và
đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật cho doanh nghiệp mình.
Các kho bãi cần được đặt ở những địa điểm thuận lợi; tiện cho việc lưu
thông hàng hoá bằng các phương thức vận tải, và nên xây dựng ở những nơi
khô ráo để đảm bảo an toàn cho hàng hoá trong những điều kiện khí hậu.
Cần xây dựng những kho trung tâm có sức chứa lớn ở một số điểm vận
tải chính như các cảng, các sân bay quốc tế lớn để phục vụ việc lưu trữ, tập
kết hàng, chờ xuất khẩu hoặc nhập hàng, chờ phân phối đi các tỉnh thành và
các khu công nghiệp.
Doanh nghiệp mua sắm phương tiện vận chuyển sao cho hợp lý cả về
lượng, loại hình phương tiện cũng như chất lượng phương tiện.Tuỳ vào loại
hình dịch vụ và sản phẩm doanh nghiệp nhận chuyên chở mà các doanh
nghiệp nên chọn loại phương tiện vận chuyển nào cho hiệu quả: tàu, ôtô tải,
container…

25


×