Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Ảnh Hưởng Của Tư Tưởng Nho Giáo Trong Đời Sống Xã Hội Việt Nam Hiện Nay Tới Việc Hình Thành Tư Tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa Và Giải Pháp Khắc Phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.41 KB, 25 trang )



TIỂU LUẬN

Đề tài:
Ảnh Hưởng Của Tư Tưởng Nho Giáo Trong Đời Sống Xã Hội
Việt Nam Hiện Nay Tới Việc Hình Thành Tư Tưởng Xã Hội
Chủ Nghĩa Và Giải Pháp Khắc Phục

TP.HCM – 2016


MỤC LỤC
TP.HCM – 2016.......................................................................................................1
A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1
I. Lý Do Chọn Đề Tài......................................................................................................................1
I. Khái Quát Về Nho Giáo................................................................................................................2
I.1. Nho giáo là gì?.......................................................................................................................2
II. Các Quan Điểm Về Nho Gia.......................................................................................................4
II.1. Quan điểm về bản chất con người........................................................................................4

A. LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý Do Chọn Đề Tài
Nho giáo là một trong những hệ tư tưởng lớn trên thế giới và nó đã đi sâu vào
văn hóa của nhiều nước đặc biệt là các nước thuộc khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
“Đạo” theo nho giáo là quy luật chuyển biến, tiến hóa của trời đất, muôn vật. Đối với
con người, đạo là con đường đúng đắn để noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh,
tốt đẹp. Đạo của con người, theo con đường của nho gia là phải phù hợp với tính của
con người lập lên. Chính vì vậy, Nho giáo tác động mạnh mẽ đến nếp sống, thói
quen, suy nghĩ của con người và tác động vào các khu vực khác của đời sống xã hội
cũng như đối với xã hội đặc biệt là ở Việt Nam.


Trong thời kỳ phong kiến ở nước ta nho giáo đã từng rất phát triển và đã trở thành
quốc giáo, và nho giáo đã đi sâu vào xã hội Việt Nam cho dù sau này có rất nhiều hệ
tư tưởng mới co du nhập vào Việt Nam nhưng vẫn không làm mờ được sự ảnh hưởng
sâu săc của nho giáo.


Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ Nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác
– Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận. Nhưng do có sự ăn sâu của nho giáo
trong xã hội vì vậy ở nước ta xã hội chủ nghĩa vẫn có những ảnh hưởng nhất định
trên từng lĩnh vực. Vì vậy, việc nghiên cứu những tác động của nho giáo đến xã hội
Việt Nam trong sự hình thành tư tưởng xã hội chủ nghĩa là hết sức cần thiết để vận
dụng một cách tốt nhất tư tưởng chủ nghĩa xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước.
II. Mục Đích
Nắm được sự ảnh hưởng của nho giáo đến xã hội Việt Nam và trong sự hình thành
tư tưởng xã hội chủ nghĩa
III. Mục Tiêu
Tìm hiểu các quan điểm của nho giáo và sự ảnh hưởng của nho giáo đến xã hội
Việt Nam, việc hình thành tư tưởng chủ nghĩa xã hội.

B. NỘI DUNG
I. Khái Quát Về Nho Giáo
I.1. Nho giáo là gì?
Khoảng xấp xỉ 3000 nghìn năm trước đây, trung hoa đã có sự phân hóa xã hội khá
mạnh mẽ. Lúc đầu từ vài nghìn lãnh địa, quân sự thôn tính lẫn nhau mà dần còn bảy
nước. trong xu hướng ấy, người ta mong có hình thức tổ chức để bình định thiên hạ.
Nền tảng lý luận cho sự kiện này được rút ra từ thực tế lịch sử, những gì phù hợp và
là điểm nổi trội của quá khứ được các trí thức đương thời đúc kết lại thành chuẩn
mực cho mọi xử thế của xã hội. Nho giá dần hình thành.
Nhưng phải tới tận thời khổng tử, dưới sự tổng kết, san định lại của các ông học trò
thì cơ sở lý luận của nho giáo bước đầu mới thực sự hoàn chỉnh. Nhìn chung hệ triết

học này khởi đầu nặng về yếu tố nhân sinh quan, nhằm mục đích tổ chức xã hội, bình
thiên hạ. Yếu tố vũ trụ quan ít được quan tâm.


Chỉ trừ khổng tử, Kinh Dịch được hội nhập vào hệ thống giáo lý này, nho giáo mới
đây trở lên đầy đủ hơn. Đương nhiên, cũng như các hệ triết học khác, Nho giáo
không phải lúc nào cũng là chuẩn mực ổn định, mà luôn luôn được chỉnh lý và bổ
sung để thích hợp với điều kiện xã hội mới. vì thế mà có Hán nho, Tống nho... Nhưng
suy cho cùng nho giáo vẫn phải dựa vào nền tảng của Tứ Thư, Ngũ Kinh.
- Tứ thư: Bốn bộ sách kinh điển là Đại Học, Trung Dung, Luật Ngữ và Mạnh Tử.
+ Đại Học: Sách dạy đạo người quân tử, gồm hai phần. Một phần chép lời khổng tử,
một phần chép lời tăng tử. Nội dung có thể toám gọn là tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Đồng thời người quân tử phải cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm.
+Trung Dung: phải ăn ở đúng mực, không thái quá, không bất cập. phải giữ được trí
để biết rõ sự lý, nhân để theo điều thiện, dũng, để kiên trì vượt khó mà hành thiện.
+Luận ngữ: Ghi lời răn dạy học trò của Khổng Tử bằng những lời đối thoại giữ
Khổng Tử với các triết gia chính trị gia đương thời. Sách này dạy đạo làm quân tử
một cách thực tiễn.
+Mạnh tử: sách do Mạnh Tử soạn, kế thừa giáo huấn của Khổng Tử coi vua chúa là
thánh nhân thể theo ý trời mà hành đạo, nên mọi người phải nghe theo. Ý thức Mạnh
tử ít nhiều có tính điều hoà: coi bản chất con người là tết, kẻ cầm quyền quý tộc phải
biết tự chế để xã hội ổn định. Mạnh Tử đưa ra một số quan điểm tiến bộ: với thuyết
nhân chính, thuyết dân vi quý, quân vi khinh. Ông nói: “Không có quân tử ai trị dân,
không có tiểu nhân, ai nuôi quân tử”.
- Ngũ kinh:
+ Kinh thế: gồm những bài ca dao dân ca và nhạc chương nơi triều miếu, do Khổng
Tử sưu tầm tuyển chọn.
+Kinh thật: Do Khổng Tử sưu tấm nội dung ghi về phép tắc, mưu kế, lời dạy dỗ, lời
truyên bảo, lời răn tướng sĩ, mệnh lệnh của các vua Từ Nghiêu, Thuẫn tới Đông Chu.
+ Kinh dịch: Sách ghi chép về sự hình thành ra vũ trụ và thế giới nhân sinh thông qua

quy luật vấn động thường hằng của vũ trụ, cũng bàn tới thuật tưởng số dùng trong bói
toán.
+ Kinh lễ: ghi chép các lễ nghi từ trong gia đình tới xã hội, triều đình.


+ Kinh Xuân thu: Thực chất là sử nước Lỗ do Khổng Tử ghi chép công việc từ đời
Lỗ An Công tới Lỗ Ai Công (từ năm 722 tới 481 trước công nguyên).
Từ nền tảng tứ thư ngũ kinh các nhà nho đem trí lực của mình ra giúp đời trị nước.
Đạo trị quốc này cũng định hình trên nền tảng tam Cương, Ngũ Thường, Ngũ Luân,
Tứ Đức.
Đạo nho đã một thời dài là hệ tư tưởng chính thống của Trung Quốc, nó ảnh hưởng
mạnh mẽ tới các nước xung quanh, trong đó có Việt Nam. Ngày nay vai trò của nó
đang được nhiều nhà nghiên cứu của nhiều nước quan tâm, vì tác dụng của nó vẫn
còn rõ nét trong thực tại.
II. Các Quan Điểm Về Nho Gia
II.1. Quan điểm về bản chất con người
- Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính có sẵn và bất biến của con người. Đức
Khổng Tử và Mạnh Tử đều quan niệm bản tính con người ta sinh ra vốn thiện.
Bản tính "Thiện" ở đây là tập hợp các giá trị chính trị, đạo đức của con người.
Vậy "Thiện" là gì? Thiện là rộng lượng, những đức tính có sẵn mang tính chân thiện
mỹ như: Người ta ai cũng có lòng nhân ái, yêu thương con người (đức Nhân), ai
cũng có lòng biết ơn trong quan hệ (đức Nghĩa), ai cũng biết liêm sỉ, ai cũng có lòng
cung kính, tôn trọng bề trên, nhường kẻ dưới (đức Lễ), ai cũng hiểu và biết làm điều
thiện, biết xử lý công việc bằng kiến thức, lý trí của mình (đức Trí), ai cũng có sự tin
tưởng vào nhau (đức Tín).
* Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là năm giá trị đạo đức lớn của con người.
Ngũ thường là có sẵn và bất biến trong mỗi con người.
- Nhân: Xuất phát từ quan niệm cho rằng bản tính của con người là thiện, Khổng Tử
đã xây dựng phạm trù "Nhân" với tư cách là phạm trù trung tâm trong triết học của
ông. Theo ông, một triều đại muốn thái bình thịnh trị thì người cầm quyền phải có

đức Nhân, một xã hội muốn hoà mục thì phải có nhiều người theo về điều Nhân.
Chữ Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người và
những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Người có đức
nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ: "cung, khoan, tín, mẫn, tuệ". Cung


thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người tin cậy, mẫn thì có
công, huệ thì đủ khiến được người. Người có đức nhân phải là người "trước làm điều
khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch kết quả".
Theo Khổng Tử, người muốn đạt được đức nhân phải là người có "Trí" và "Dũng".
Nhờ có Trí, con người mới có sự sáng suốt minh mẫn để hiểu biết được đạo lý, xét
đoán được sự việc, phân biệt được phải - trái, thiện - ác, để trau dồi đạo đức và hành
động hợp "thiên lý ". Người có Dũng ở đây theo Khổng Tử không phải là kẻ ỷ vào
sức mạnh, vì lợi mà suy nghĩ và hành động bất chấp đạo lý. Người nhân có Dũng
phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể hành động một
cách thanh cao khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn nạn. Người nhân
có Dũng mới tự chủ được mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa.
Với Khổng Tử, đạo sống của con người là phải "Trung dung, trung thứ", nghĩa là
sống đúng với mình và sống phải với người, thương mình như thương người, việc gì
mình không muốn chớ đem cho người, mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập
thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt.
Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân là cái gốc đạo đức của con người, thì theo ông,
để trở thành một con người hoàn thiện, một điều kiện tất yếu khác là phải "hiểu biết
mệnh trời" để sống "thuận mệnh". Ông viết: "Không biết mệnh trời thì không lấy gì
làm quân tử", nhưng ông kêu gọi mọi người trước hết phải tìm sức mạnh vươn lên ở
trong chính bản thân mỗi người, đừng trông chờ vào trời đất quỷ thần: "Đạo người
chưa biết thì làm sao biết được đạo quỷ thần". Con người phải chú trọng vào sự nỗ
lực học tập, làm việc tận tâm, tận lực, còn việc thành bại như thế nào, lúc đó mới tại ý
trời.
Tuy nhiên trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con

người vốn có bản tính thiện thì Tuân Tử đưa ra lý luận bản tính con người là ác:
"Tính người là ác, thiện là do người làm ra"; nhưng trong quan điểm sai lầm đó cũng
có nhân tố hợp lý như: hành vi đạo đức của con người là do thói quen mà thành,
phẩm chất con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và kết quả của sự học tập,
giáo dục lâu ngày mà nên, từ đó ông cho rằng có thể giáo dục, cải hoá con người từ


ác thành thiện được. Nếu ra sức tu dưỡng đạo đức thì bất cứ người nào cũng đều có
thể đạt được địa vị "người quân tử".
Tuân Tử đề cao khả năng và vai trò của con người. Ông khẳng định trời không thể
quyết định được vận mệnh của con người. Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con
người làm ra chứ không phải tại trời. Nếu ý chí của con người hành động thuận theo
trật tự của giới tự nhiên thì sẽ được hạnh phúc, trái lại thì sẽ gặp hoạ. Tiến lên một
bước nữa, ông đề ra học thuyết con người có thể cải tạo được tự nhiên. Ông cho rằng
con người không thể chờ đợi tự nhiên ban phát một cách bị động mà phải vận dụng
tài trí, khả năng của mình, dựa vào quy luật của tự nhiên mà sáng tạo ra những của
cải, sản vật để phục vụ cho đời sống con người.
=> Như vậy: Nho giáo thể hiện là một học thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn thấy
nét đẹp của con người và rất tin tưởng vào con người, tin tưởng vào khả năng giáo
dục con người.
II.2. Quan điểm về xã hội học
Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã hội bởi vì
khi giải quyết những vấn đề xã hội, Nho giáo không xuất phát từ việc phân tích cơ sở
kinh tế của xã hội như triết học Mác, mà xuất phát từ những quan hệ chính trị - đạo
đức, coi đó là quan hệ nền tảng của đời sống xã hội. Nho giáo quy tất cả những quan
hệ xã hội về quan hệ chính trị - đạo đức.
Nho giáo khái quát những quan hệ chính trị - đạo đức ấy vào ba mối quan hệ rường
cột, gọi là tam cương, bao gồm:
- Quan hệ vua – tôi (1)
- Quan hệ cha – con (2)

- Quan hệ chồng - vợ (3)
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc quan hệ gia
đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo đặc biệt quan tâm
tới những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình.
Quan hệ gia đình ở đây mang tính chất tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn trước
hết thể hiện ở chỗ có giữ vững được ba quan hệ ấy hay không.


Xã hội là tam cương - tam cương là quốc gia. Nêu chỉ có một cương thay đổi thì
phá vỡ cấu trúc “tam cương” tất yếu xã hội tất sẽ bị loạn.
II.3. Quan điểm về giáo dục.
Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý tưởng cao nhất
của đức Khổng Tử cũng như các tác giả sau này của Nho giáo là xây dựng một xã hội
"Đại đồng".
Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên nền tảng
của một nền sản xuất phát triển cao mà là một xã hội "an hoà", trong đó sự an hoà
được đặt trên nền tảng của sự công bằng xã hội.
Xã hội an hoà ở đây là xã hội bao gồm nhiều quốc gia lớn nhỏ, mạnh yếu khác
nhau, trong đó quốc gia nhỏ yếu thờ phụng quốc gia lớn mạnh và ngược lại, quốc gia
lớn mạnh che chở cho quốc gia nhỏ yếu. Xã hội mà mọi người sống hoà thuận giữa
trong ngoài, trên dưới, trưởng thứ,... trong đó người bề trên vui vẻ mà trị, không ỷ thế
quyền lực; người dưới vui vẻ mà nhận sự trị, không oán hờn. Một xã hội lấy hoà
thuận, khoan thứ làm đầu; không cần có một nền kinh tế phát triển mà chỉ cần công
bằng xã hội.
Khái niệm công bằng của Nho giáo không phải là thứ quan niệm "cào bằng" tiểu
nông mà là công bằng trên cơ sở địa vị xã hội của mỗi cá nhân, mỗi dòng họ.
Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng, xã hội an hoà trên, Nho giáo không
đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một
nền giáo dục. Đức Khổng Tử là người đầu tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn
dân. Có giáo dục và tự giáo dục thì mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn

nhận hành động trong cuộc sống cho đúng.
Theo Khổng Tử: Tại học tri đại là học cho đến mức biến hoá được con người, làm
cho người gần khâm phục, người xa yêu mến; Tại thân dân là sự học phải xuất phát
từ tình yêu thương con người. Bởi vì đạo học là đạo người, chỉ có ai có tình thương
yêu con người thì mới hiểu được lý lẽ của sự học. Tại chi vi chi thiện là học cho đến
hoàn thiện.. Muốn vậy phải đến nơi có sự kiện, sự vật mà tìm hiểu ngọn nguồn của
tạo hoá. Mục đích của sự học là tạo lập ý chí, lý tưởng nhân cách và hoàn thành


nhiệm vụ. Học phải đạt đến: Thành ý - Chánh tâm - Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình
thiên hạ.
Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục, hướng vào việc giáo
dục những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành từ ngàn xưa, được nêu gương
sáng trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho giáo là chỉ dạy làm người nói chung,
không hề đề cập đến khoa học, kinh tế, nghề nghiệp, tức không hướng vào
phương diện kỹ nghệ và kinh tế. Thừa thời gian mới học đến lục nghề. Đây là một
nền giáo dục thiên lệch. Đồng thời , nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên
tắc tự giác:nguyên tắc tự nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
II.4. Quan điểm về quản lý xã hội (trị quốc).
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu nguyên
tắc quản lý xã hội như sau:
- Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân chủ trung ương
tập quyền cao độ). Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào một
người là Hoàng đế. Thời Khổng Tử, để thực hiện chế độ tập quyền, xây dựng chế độ
công hữu về đất đai (đất đai thuộc nhà vua). Đức Khổng Tử rất ca ngợi chế độ kinh
tế "tỉnh điền".
- Nguyên tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản lý xã hội."Chính danh" nghĩa là
mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương vị, địa vị của mình: vua
phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo cha, con phải ra đạo con, chồng
phải ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ... Nếu như mọi người không chính danh thì xã

hội ắt trở nên loạn lạc. Không thể có một xã hội trị bình mà nguyên tắc chính danh bị
vi phạm.
Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa danh và thực. Thực do học, tài và
phận quy định.
- Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị. Đây là nguyên tắc có tính chất
đường lối căn bản của Nho giáo.
+ Văn trị: Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi người
tự giác tuân theo.


+ Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi lễ giao tiếp trong trị
quốc.
+ Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân trạch của hoàng cung tới bốn
phương.
Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc rất khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh
quân biết sử dụng ba loại người: Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và
* Nghệ tinh: Nhà vua muốn trị vì đất nước và muốn có đức nhân phải biết dùng
người và thực hiện ba điều:
+ Kính sự: Chăm lo đến việc công.
+ Như tín: Giữ lòng tin với dân.
+ Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng.
Về đạo Vua - Tôi, Khổng Tử viết: "Vua phải tự mình làm thiện và phải làm trước
thiên hạ để nêu gương và phải chịu khó lo liệu giúp đỡ dân".
Theo ông, nhà cầm quyền phải thực hiện ba điều: "Bảo đảm đủ lương thực cho dân
được no ấm, phải xây dựng được lực lượng binh lực mạnh để đủ bảo vệ dân, phải tạo
lòng tin cậy của dân đối với mình".
Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều kiện trên thì trước hết hãy bỏ binh lực, sau
đó đến bỏ lương thực, nhưng không thể bỏ lòng tin của dân đối với vua, nếu không
thì chính quyền xã tắc sẽ sụp đổ. Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua phải như đối
với cha mẹ mình, phải tỏ lòng trung của mình đối với vua.

Tiếp tục thuyết " Nhân trị" của Khổng Tử, Mạnh Tử đề ra tư tưởng " Nhân chính".
Theo Mạnh Tử, việc chăm dân, trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi và
Mạnh Tử chủ trương một chế độ "bảo dân", trong đó người trị vì phải lo cái lo cho
dân, vui cái vui của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no
đủ, như thế dân không bao giờ bỏ vua.
Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa phải giữ mình khiêm cung, tiết kiệm,
gia huệ cho dân, thu thuế của dân có chừng mực. Đặc biệt Mạnh Tử có quan điểm hết
sức mới mẻ và sâu sắc về nhân quyền. Ông nói: "Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc
thứ vi", vì theo ông, có dân mới có nước, có nước mới có vua. Thậm chí ông cho rằng
dân có khi còn quan trọng hơn vua. Kẻ thống trị nếu không được dân ủng hộ thì chính


quyền sớm muộn cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn ác, không hợp với lòng dân và ý
trời thì sẽ có thể bị truất phế.
- Nguyên tắc 4: Đề cao nguyên lý công bằng xã hội.
Đức Khổng Tử đã nói: "Không lo thiếu mà lo không đều. Không lo nghèo mà lo
dân không yên". Sự không công bằng là đầu mối của loạn xã hội.
Cơ sở công bằng trong tôn giáo:
+ Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng.
+ Theo phái Nho giáo: Công bằng trên cơ sở danh của mình.
=> Tức là công bằng theo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo
chức vụ, địa vị.
III. Quá Trình Nho Giáo Du Nhập Vào Việt Nam
Các nhà nghiên cứu về quá trình du nhập Nho giáo vào VN đều thống nhất một
điểm là Nho giáo được du nhập vào nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc. Có thể chia quá
trình du nhập đó thành 3 giai đoạn.
III.1. Giai đoạn thứ nhất
Vào cuối thời Tây Hán, từ khoảng thế kỷ II TCN đến thế kỷ I SCN. Giai đoạn này
Nho giáo đã được các quan lại và trí thức Hán du nhập vào nước ta, nhưng chưa có
nhiều tài liệu nói về việc du nhập Nho giáo vào VN trong thời kỳ này.

Sử cũ cho biết, ở thế kỷ I có Trương Trọng (người Giao Chỉ) chăm học, ứng đáp
giỏi được cử làm Kế Lại ở Nhật Nam và sau được cử làm Thái thú quận Kim Thành
(TQ). Ở thế kỷ II có Lý Tiến (người Giao Chỉ), thông hiểu kinh truyện, được bổ giữ
chức Công Tào ở quận, rồi Hăng Kỵ Đô uý, Thái thú quận Linh Lăng (Trung Quốc)
và đến khoảng năm 184-189 được cử giữ chức Thứ sử Giao Châu. Những thông tin
này chứng tỏ Nho giáo phải được du nhập vào nước ta từ thời Tây Hán, chí ít là từ
khi Âu Lạc cùng với Nam Việt được sát nhập vào nhà Hán năm 111 TCN. Sử Trung
Quốc cũng ghi lại rằng, vào đầu công nguyên, hai Thái thú Giao Chỉ và Cửu Chân
là Tích Quang và Nhâm Diên đã “dựng học hiệu dạy lễ nghĩa” ở Giao Châu. Tuy
nhiên, giai đoạn này việc du nhập Nho giáo vào nước ta vẫn chưa được tiến hành một
cách bài bản, kết quả chưa cao.
III.2. Giai đoạn thứ hai


Khoảng từ thế kỷ II đến thế kỷ V. Thời kỳ này Nho giáo được truyền vào VN
thông qua tầng lớp quan lại Hán và các Nho sĩ chạy xuống Giao Châu để lánh nạn.
Qúa trình truyền bá Nho giáo được đẩy mạnh từ khi Sĩ Nhiếp được cử làm Thái thú
Giao Chỉ.
Sĩ Nhiếp đã cho mở trường dạy chữ Hán và Nho giáo. Nhiều sĩ phu TQ đến nương
nhờ Sĩ Nhiếp cũng tích cực mở trường dạy học. Do đó, kể từ giai đoạn này, việc học
Nho ở nước ta mới tương đối phổ biến. Sĩ Nhiếp vì thế được người Giao Châu tôn là
“Nam Giao học tổ”. Sự truyền bá Nho giáo thời kỳ này chủ yếu ở mặt lễ nghĩa và
giáo dục.
Đặc biệt, từ thế kỷ III đến thế kỷ V, chế độ sĩ tộc thịnh hành ở Trung Quốc, tôn ti
trật tự đựơc đề cao, do đó, ở Việt Nam lễ giáo cũng được coi trọng. Thế kỷ III có Lý
Cầm và Bốc Long, đỗ hiếu liêm và mậu tài đã được cử làm quan ở Trung Quốc. Tuy
nhiên, Giai đoạn này Nho giáo đã gặp phải sự chống đối khá quyết liệt của người
Việt, tiêu biểu là 5 cuộc tranh luận lớn giữa Nho và Phật ở giai đoạn này.
III.3. Giai đoạn thứ ba
Bắt đầu từ thế kỷ VI đến thế kỷ IX. Nhà Đường mở khoa thi Nho học và cho phép

sĩ tử người Việt tham gia dự thi, chủ trương này càng khuyến khích việc học Nho ở
nước ta.
Thế kỷ VII có hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục, người quận
Cửu Chân đều đỗ Tiến sĩ, và được bổ làm quan to ở Trung Quốc. Sĩ tử người Việt dư
thi đông đến mức nhà Đường phải đưa ra quy định hạn chế số lượng sĩ tử người An
Nam: dự thi Tiến sĩ không được quá 8 người, thi Minh kinh không được quá 10
người. Tuy nhiên, có nhiều người Việt theo học Nho giáo nhưng không tham gia dự
thi, hoặc dự thi đỗ đạt nhưng không chịu làm quan cho phương Bắc mà tích cực gia
nhập hàng ngũ khởi nghĩa chống Bắc thuộc.
Hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi nho
giáo và nó chỉ chấm dứt hoàn toàn khi chế độ phòng kiến hoàn toàn sụp đổ và nước ta
bước sang một trang sử mới.
IV. Ảnh Hưởng Nho Giáo Đến Việt Nam Và Hình Thành Tư Tưởng Xã Hội Chủ
Nghĩa


IV.1. Ảnh hưởng tích cực đến xã hội Việt Nam và hình thành tư tưởng xã hội Chủ
nghĩa
Con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng tuân theo chủ nghĩa Mác
Lênin. Tuy nhiên để phù hợp với xã hội Việt Nam từ một nước phong kiến, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kết tinh và kế thừa những giá trị tư tưởng của các hệ tư tưởng khác
đặc biệt là nho giáo.
a) Trong chính trị
Nho giáo có nhiệm vụ thiết lập được kỷ cương và trật tự xã hội. Nho giáo với các
tư tưởng chính trị - đạo đức như "Chính danh", "Nhân trị", "Nhân Chính" luôn luôn là
bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử Việt nam không chỉ trong thời kỳ
phong kiến mà cả trong tư tưởng hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xã hội chủ nghĩa luôn coi trọng việc xây dựng một nhà nước và đảm bảo sự lãnh
đạo tập trung của nhà nước. Nhưng nhà nước hoạt động phục vụ mục đích của nhân
dân, lấy dân làm gốc. Tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong quan điểm trị quốc của

các nhà Nho xưa, nổi bật nhất là trong quan điểm trị quốc của Nguyễn Trãi một nhà
nho nổi tiếng trong xã hội phong kiến Việt Nam. Nho giáo xã hội phong kiến có câu
“Việc yên nghĩa cốt ở muôn dân” thì quan điểm của Đảng ta là “Lấy dân làm gốc’Tư
tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ sở tinh thần
yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung quân” gắn
liền với “Ái quốc”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con tiêu biểu của dân tộc Việt Nam,
đã kế thừa và phát huy những giá trị tinh tuý nhất của Nho giáo trong cuộc đời cách
mạng của mình, đưa dân tộc đi lên con đường phát triển mới của thời đại. Chữ Trung
trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn toàn: Không phải “Trung với Vua”
mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội dung được mở rộng đến vô cùng đó là
“Hiếu với dân”, chứ không còn hạn hẹp như khái niệm của Nho giáo xưa kia. Và
‘Trung” “Hiếu’ cũng là quan điểm xuyên suốt của Đảng trên con đường xã hội chủ
nghĩa từ buổi đầu sơ khai đến hiện tại.
b) Về đạo đức - xã hội


Trong xã hội ngày nay những quan điểm về đạo đức của nho giáo vẫn được coi
trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì mọi người ,mọi người vì
mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ôngbà, cha mẹ mẫu mực
con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội như “ Lá lành
đùm lá rách”… Đó chính là biểu hiện tốt đẹp của chữ Nhân trong cả phạm vi rộng và
hẹp của xã hội ngày nay.
Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị phải có
đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa,Trí, Tín,Dũng…”.
Cùng với Nhân, Trí , Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa
con người góp phần ổn định và phát triển xã hội. Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà
nhã có tác dụng di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng tâm người ta tới cái
chân, thiện, mỹ do sự ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc.

=> Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Người cai trị, người quân tử
phải là người có một vốn văn hoá toàn diện.
Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức,
Hồng và Chuyên. Hồ chủ tịch dạy. Người có tài mà không có đức là người vô dụng.
Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Đối với người cán bộ, người
lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở thành con người toàn diện phải thực sự gương
mẫu về mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải cần kiệm liêm chính, phải chí công vô tư,
xứng đáng là đầy nhân dân.
Không chỉ vậy nho giáo còn coi trọng việc tu thân tích đức nó cũng được thể hiện
rất rõ trong truyền thống của người Việt ta từ xưa tới nay đó là tinh thần ‘tương thân
tương ái”. Hồ chủ tịch cũng luôn luôn dăn dạy rằng phải nêu cao tinh thần tương thân
tương ái ngay cả trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bởi nếu không có tình
thương yêu con người thương yêu nguồn cuội thì không thể đoàn kết với nhau trên
con đường đấu tranh bảo vệ đất nước, đưa nước ta từ nông nghiệp lạc hậu đi lên theo
con đường chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó nho giáo còn coi xã hội luôn luôn có sự công bằng, mọi người phải
sống hòa thuận với nhau nó là tiền đề cho việc xây dựng một xã hội “Công bằng dan


chủ văn minh” trong xã hội hiện đại và cũng là một trong những mục tiêu quan trọng
trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
c) Về giáo dục.
Nho giáo luôn coi việc học là hàng đầu cũng như tư tưởng của Hồ Chí Minh trong
giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay
từ những năm sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đãcó một tầm nhìn
rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Ngưới thấu hiểu vai trò
của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước.
Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố
độc lập 4/10/1945 Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn
thất học.

Người khuyên bảo thầy trò ngành giáo dục “Dù khó khăn gian khổ đến đâu, cũng
phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”…
Suốt cuộc đời mình lúc nào Người cũng hết mực chăm lo thế hệ tương lai của đất
nước.Trước lúc phải đi xa, Bác vẫn không quên dặn dò chu đáo trong di chúc như
sau:
+ Bồi dưỡng cách mạng đời sau là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Đảng phải
chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ để họ trở thành…vừa hồng vừa
chuyên…
+ Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong
những mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm.
+ Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ học
bổng, quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên nghèo
hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người hiền tài trong xã hội
ngày nay.
“ Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc,từng quốc gia,mà còn
luôn luôn mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm
chí đúng cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã hội.


Như vậy có thể thấy rõ nho giáo có ảnh hưởng rất nhiều đến những quan điểm và
tư tưởng của Đảng ta về giáo dục trên con đường đi lên xã hội chủ nghĩa và thời kỳ
hội nhập hiện nay. Đảng và Bác Hồ luôn luôn coi giáo dục là mục tiêu hàng đầu và
quan trọng nhất để tìm ra “hiền tài” phát riển đất nước.
d) Về giá trị con người.
Nho giáo luôn luôn coi con người vốn sinh ra đã thiện, việc hình thành nhân cách
của con người phụ thuộc rất nhiều vào môi trường cũng như giáo dục. Cũng giống
nho giáo xã hội Việt Nam cũng như những tư tưởng của xã hội chủ nghĩa đều nhắm
mục đích tôn trọng, đề cao giá trị của con người.
Theo Nho giáo, sự hoàn thiện con người vừa là kết quả, vừa là điều kiện, nguyên

nhân của sự hoàn thiện xã hội. Nếu gạt sang một bên những điều kiện lịch sử, xã hội
thì phải chăng Nho giáo đã sớm nhận ra vai trò của con người đối với sự ổn định và
phát triển xã hội. Kinh tế, văn hóa ổn định phát triển xét cho cùng là do con người, vì
con người.
Nhịp độ phát triển kinh tế thời kỳ ở một số nước Nhật Bản, Hàn Quốc... bắt nguồn
từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu nhất, có ý nghĩa quyết định
nhất là sự quan tâm đặc biệt tới việc đào tạo con người tới sự ổn định chính trị, xã
hội.
Trong các văn kiện của Đảng ta cũng đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề này. Bởi vì,
không có sự ổn định về chính trị và xã hội, không quan tâm đào tạo, hoàn thiện con
người về các mặt đức, trí, thể , mỹ thì không thể phát triển kinh tế, không thể tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tất nhiên đến lượt nó, việc thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ trở thành động lực trong việc hoàn thiện,
hiện đại con người, xã hội; chính trị, xã hội sẽ có cơ sở bền vững hơn. ở nước ta,
Nho giáo cũng khẳng định vai trò nhân nghĩa trong cuộc sống con người. Khổng
Tử nói : “Thà ăn cơm thừa, uống nước lã, có cánh tay gối đầu mà lấy làm vui, chứ
không do bất nghĩa mà được giàu sang, thì sự giàu sang ấy coi như đám mây nổi”.
Sau khi đã khẳng định vai trò nhân nghĩa trong cuộc sống con người. Khổng Tử cổ
vũ việc làm giàu khi nước có “Đạo”, nghĩa là được phát triển lành mạnh có thể làm
giàu một cách chính đáng, không làm giàu được cũng là một điều đáng xấu hổ.


Với cách mạng ngày nay cũng khẳng định và vận động nhân dân làm giàu, dân có
giàu thì nước mới mạnh, nhưng phải làm giàu một cách chính đáng và phải biết kết
hợp giữa quyền lợi cá nhân phù hợp với quyền lợi của tập thể, của Tổ quốc. Đảng và
Bác Hồ luôn coi trọng việc giữ gìn giá trị nhân cách của con người mặc dù xã hội có
phát triển kinh tế có phát triển nhưng không mất đi nhân cách.
IV.2. Ảnh hưởng tiêu cực của nho giáo đến xã hội Việt Nam và việc hình thành tư
tưởng xã hội Chủ nghĩa
Nho giáo tuy có ảnh hưởng rất nhiều đến xã hội Việt Nam và ảnh hưởng nhiều đến

con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên nó cũng có những tác động tiêu
cực làm cản trở sự phát triển hoặc gây ảnh hưởng xấu cần loại bỏ. Ngày nay, đất
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường phát triển tất yếu
của cách mạng Việt Nam, vì vậy cần chỉ rõ được những tác động tiêu cực của nho
giáo.
Nho giáo và tính bảo thủ của nó ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, thể hiện nghiêm
trọng ở các điểm sau: Chủ nghĩa quan liêu trong giới cầm quyền, chủ nghĩa bình quân
trong nông dân, chủ nghĩa giáo điều trong giới trí thức.
Trái ngược với điều này Việt Nam nông dân và công nhân mới chiếm số đông
trong xã hội và mục đích của xã hội chủ nghĩa là vì mục đích của toàn bộ các tầng lớp
của xã hội nhưng do giai cấp công – nông cầm quyền. Việc khắc phục những bệnh
này, cần phải có thời gian và những biện pháp tích cực.
a) Đối với kinh tế, chính trị
Với tư tưởng "Trọng nông ức thương", Nho giáo từng kìm hãm công nghiệp và
kinh tế hàng hóa phát triển, về mặt sản xuất, Nho giáo coi thường khoa học kỹ thuật;
về mặt phân phối nó khuyến khích chủ nghĩa bình quân. Kinh tế Việt Nam không thể
đổi mới và phát triển nếu không gạt bỏ được sự cản trở đó của Nho giáo. Dưới chế độ
phong kiến, ở nước ta đã có quan hệ tiền tệ và trao đổi hàng hóa ở mức độ nhất định.
Nhưng với đặc điểm bảo trì lâu dài của các làng xã, quan hệ hàng hóa tiền tệ đã
không phát triển được.
Thêm vào đó, các quan điểm bảo thủ, khép kín "trọng nông ức thương" đã kìm
hãm sự phát triển có tính chất tự nhiên của sản xuất xã hội. Sau cách mạng dân tộc


dân chủ nhân dân, nước ta vẫn chưa có nền sản xuất hàng hóa, nền kinh tế vẫn trong
tình trạng tự cấp tự túc là chủ yếu. Đó chính là thách thức cơ bản đối với dân tộc ta
khi bước vào con đường phát triển hiện đại văn minh.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp cùng những chính sách xã hội kèm
theo nó đã là một trong những nguyên nhân cơ bản đưa nước ta tới khủng hoảng trầm
trọng. Thực tiễn đã giúp Đảng ta nhận thức sâu hơn về CNXH, về con đường đi lên

CNXH, vai trò tác dụng của sự phát triển và sử dụng các yếu tố, các khâu trung gian
quá độ lên CNXH theo kiểu quá độ gián tiếp mà Lênin đã vạch ra. Nhận thức mới
đưa đến chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Đó cũng chính là nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế - nhiệm vụ trọng tâm của
công cuộc đổi mới hiện nay. Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải khắc phục tình trạng chia
cắt, khép kín, trì trệ của sản xuất và lưu thông, nhưng do ảnh hưởng của tư tưởng cũ tư tưởng "trọng nông ức thương" cùng với tư tưởng cục bộ bản vị (địa phương chủ
nghĩa), nhiều địa phương vẫn còn xu hướng biệt lập khép kín trong quá trình thực
hiện các mục tiêu kinh tế, không chú ý đến tính chỉnh thể thống nhất, đến yêu cầu
phát triển chung của đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ tự cân đối các mặt của sản xuất và sinh hoạt của địa phương
không có nghĩa là thực hiện tự cung tự cấp, từ bỏ giao lưu kinh tế giữa các vùng, các
địa phương. Do không nhận thức đúng yêu cầu trên, do ảnh hưởng của tư tưởng cũ,
cộng với những khó khăn về giao thông, về nguồn vốn, một số địa phương không đưa
hàng hóa ra khỏi địa phương mình. Cách làm đó về thực chất là tự cung tự cấp trên
bình diện rộng. Vô hình chung dẫn đến hạn chế sự phát triển của sản xuất hàng hóa,
làm nghèo nàn đời sống xã hội.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN đòi hỏi
phải khắc phục tư tưởng "Trọng nông ức thương" còn tồn tại trong một bộ phận cán
bộ và nhân dân, xây dựng các chương trình kinh tế - xã hội mang tính thống nhất, xóa
bỏ tình trạng phân tán, tự cung, tự cấp. Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta
còn chịu phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong lĩnh vực phân phối.


Chúng ta biết rằng đặc điểm kinh tế nổi bật của xã hội Việt Nam truyền thống là
sản xuất nhỏ, đặc biệt là sản xuất nhỏ trong nông nghiệp. Tính chất sản xuất nhỏ và
tâm lý người tiểu nông in dấu ấn sâu sắc lên mọi mặt của xã hội Việt Nam cổ truyền
và còn ảnh hưởng đến ngày nay.
Nói đến sản xuất nhỏ ở Việt Nam chủ yếu là nói đến sản xuất nhỏ trong nông
nghiệp với đặc trưng phổ biến là: quyền tư hữu của người tiểu nông với ruộng đất là

cơ sở của nền sản xuất xã hội, ruộng đất bị phân chia manh mún, nông cụ ít và thô sơ
thiếu sự hợp tác và phân công lao động; nền sản xuất có tính bảo thủ cao, tổ chức sản
xuất hàng hóa thấp kém, đời sống vật chất và tinh thần của người dân gựp nhiều khó
khăn và chậm được cải thiện. Nền sản xuất nhỏ tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam
cùng với ảnh của tư tưởng Nho giáo đã tạo nên tâm lý cục bộ, bản vị, địa phương.
Chế độ ruộng công trong điều kiện làng xã Việt Nam đã làm nảy sinh tư tưởng
bình quân về nghĩa vụ và quyền lợi. Khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH,
tư tưởng bình quân đã trở thành lực cản lớn trong quá trình phát triển kinh tế cũng
như các mặt khác của đời sống xã hội.
Cách làm kinh tế theo giờ hành chính một cách máy móc ở các hợp tác xã nông
nghiệp, các nông trường quốc doanh của miền Bắc trước đây với hình thức phân phối
bình quân đã dẫn đến tình trạng người lao động thờ ơ với công việc và kết quả lao
động của mình. Tâm lý ỷ lại vào tập thể, dựa dẫm, cung cách lao động "được chăng
hay chớ", "cơm vua ngày trời", "đi làm theo kẻng, ăn chia theo định xuất", "chân
ngoài dài hơn chân trong" trở thành căn bệnh ngày càng trầm trọng.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán lâu
dài chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các hình thức phân
phối trong thời kỳ này cũng rất đa dạng: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn
đầu tư, phân phối thông qua phúc lợi tập thể...
Tuy nhiên, tình trạng bình quân trong phân phối vẫn còn tồn tại, biểu hiện rõ nét
nhất ở khối hành chính sự nghiệp. Tiền lương nhìn chung chưa đảm bảo tái sản xuất
sức lao động, chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với
sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao.


Ngoài ra nho giáo rất coi trọng chữ tình trong gia đình điều này dẫn đến một thực
trạng “một người làm quan cả họ được nhờ” ảnh hưởng rất xấu, bởi có những nhân
tài thực sự nhưng không có cơ hội cống hiến cho xã hội, cản trở sự hội nhập đi lên
theo tâm niệm của Hồ chủ tịch.
b) Về xã hội

Trong xã hội nho giáo rất coi trọng tầng lớp nho gia, tức là tầng lớp trí thức. Vì họ
là những con người có học vấn có tài nên nắm giữ tiếng nói quan trọng trong xã hội.
Tuy nhiên ở Việt Nam đặc biệt là trong thời kỳ nước ta mới bước đầu đi theo con
đường xã hôi chủ nghĩa thì tầng lớp trí thức chỉ chiếm một số ít trong xã hội. Đặc biệt
mục tiêu của xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là giai cấp
cầm quyền. Điều này có ảnh hưởng rất nhiều đến xã hội nước ta.
Hiện tại nước ta đang xảy ra thực trạng “thầy nhiều hơn thợ” việc coi trong quá trí
thức dẫn đến thực trạng “chuộng bằng cấp” hiện nay. Đào tạo nhiều nhưng không
hiệu quả và dẫn đến thừa, dẫn đến thất nghiệp.
c) Giá trị con người, đặc biệt là người phụ nữ
Bên cạnh những tác động tích cực của nho giáo về việc tu dưỡng đạo đức hình
thành nhân cách con người thì nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân tiềm
ẩn dẫ đến tình trạng bất bình đẳng ở Việt Nam, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ
không được coi trọng .
Theo nho giáo thì người phụ nữ phải theo những tiêu trí là “công dung ngôn hạnh”
và trong xã hội nho giáo thì ngườ phụ nữ không có tiếng nói, không được coi trọng.
Nhưng trái lại xã hội hiện đại đặc biệt là một xã hội chủ nghĩa thì tất cả mọi người
đều có quyền bình đẳng không phân biệt giới tính, tôn giáo và thành phần dân tộc.
Chính những ảnh hưởng của nho giáo nên việc đòi lại quyền bình đẳng cho người
phụ nữ trong xã hội thực sự là một cuộc đấu tranh từ khi Viêt Nam độc lập xóa bỏ
chế độ cũ và đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên đến nay tình trạng phân biệt giới tính vẫn âm ỉ diễn ra. Trong công cuộc
hội nhập xã hội tiếng nói của người phụ nữ không thục sự được coi trọng, nó ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội. Bởi không chỉ những người nam giới mới


đủ năng lực để góp phần xây dựng đất nước mà cả những người phụ nữ cùng đầy đủ
năng lực gánh vác những công việc ngoài xã hội.
Ngoài ra, theo Nho giáo trong hôn nhân người đàn ông có năm thê bảy thiếp trong
đó theo xã hội hiện đại đặc biệt là theo tư tưởng Hồ Chí Minh gia đình một vợ một

chồng là hợp pháp. Đây là một tư tưởng tiến bộ nhưng ngay trong những buổi đầu thì
lại không được chấp nhận ở xã hội Việt Nam. Trong một thời gian dài từ khi chế độ
cũ bị xóa bỏ nó phải là một cuộc đấu tranh lâu dài. Theo Hồ chủ tịch thì gia đình là tế
bào của xã hội cho nên gia đình vững vàng thì xã hội mới yên ấm và phát triển đi
theo đúng hướng. Tuy nhiên tư tưởng này của nho giáo đã ăn sâu nên việc xóa bỏ
hoàn toàn gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, hiện nay việc “trọng nam khinh nữ” đang là một vấn nạn, nó gây ra
rất nhiều hệ lụy trong xã hội. Nó dẫn tới sự mất cân bằng dân số, dẫn đến nhiều tệ
nạn xã hội… nó cản trở sự phát triển của xã hội hiện đại và ảnh hưởng tới con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội và đi ngược lại với mục tiêu xây dựng xã hội công bằng văn
minh.
Nói chung những quan niệm về giá trị con người của nho giáo là không tôn trọng
người phụ nữ trong xã hội, nó là một tiêu cực cần phải khắc phục để nước ta từ một
nước nghèo nàn, lạc hậu đi lên con đường chủ nghĩa xã hội văn minh.
V. Giải Pháp Khắc Phục
Nho giáo được coi là kiến trúc thượng tầng, là một trong những nền móng của xã
hội Việt Nam và sự hình thành xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên nó cũng có cả những ảnh
hưởng tiêu cực cần phải xóa bỏ, bởi nó cản trở sự phát triển của xã hội, đặc biệt là sự
hội nhập kinh tế và đi lên con đường chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng của chủ tịch Hồ
Chí Minh.
- Trước hết nho giáo là một tư tưởng nó tồn tại rất lâu trong xã hội Việt Nam cho nên
việc xóa bỏ những tiêu cực của nó phải tuyên truyền, giáo dục đến toàn thể người
dân. Bởi chỉ có tuyên truyền giáo dục thì mới cho từng người dân nhận thức được
những tiêu cực thấy được những cái xấu không thể tồn tại thì mới xóa bỏ tận gốc nó.


Những cái tích cực đều phải tiếp thu nhưng tiếp thu một cách có chọn lọc. Điều
này phải thực hiện trong một quá trình lâu dài và thường xuyên không được nóng vội.
Chỉ có tư tưởng mới thay đổi tư tưởng.
- Đối với những thới quen do nho giáo để lại cũng cần phải thay đổi. Mỗi người phải

nhận thức rõ rằng nước ta hiện tại đang trên con đường hội nhập cần phải năng động,
làm việc có trách nhiệm có kỷ cương thay đổi thói quen của một nước nông nghiệp.
- Đối với đội ngũ cán bộ Đảng cũng cần phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh đưa
đất nước hội nhập với thế giới. Muốn thay đổi tư tưởng của người dân thì những
người đứng đầu phải gương mẫu, không tiêu cực không quan liên hách dịch, luôn học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh “cần-kiệm-liêm-chính”
- Đối với việc bình đẳng trong xã hội: cần tuyên truyền và nâng cao vai trò của người
phụ nữ trong xã hội. Tất cả mọi hoạt động phụ nữ đều được tham gia đóng góp và
xây dựng ý kiến của mình.
Tuyên truyền cho người dân đặc biệt là những người dân ở vùng xâu vùng xa về
bình đẳng giới. Không để xảy ra tình trạng trọng nam khinh nữ. Cần lập ra các tổ
chức bảo vệ nhân quyền của người phụ nữ. Khuyến khích phụ nữ tham gia tích cực
vào các hoạt đông xã hội, dần dần xóa bỏ tình trạng này để xã hội phát triển cân bằng.
- Luôn luôn học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong khu vực trên thế giới về
trình độ phát triển khoa học công nghệ, tác phong làm việc và mở cửa nền kinh tế.
Mở cửa giao lưu kinh tế không chỉ những giao lưu những tiến bộ về khoa học kỹ
thuật mà nó còn là sự giao lưu về văn hóa.
Chính sự giao lưu này sẽ làm mờ nhạt dần những suy nghĩ bảo thủ của chế độ cũ
và nhanh chóng hội nhập những cái mới. Điều này sẽ giúp nước ta nhanh chóng hội
nhập và phát triển theo đúng hướng.


C. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng nho giáo có ảnh hưởng rất nhiều đến xã hội Việt Nam và sự hình
thành xã hội chủ nghĩa. Nó tác động tích cực như kiến trúc thượng tầng, giúp cho xã
hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển nhanh chóng ở nước ta. Và đến nay nó
vẫn còn giúp cho Việt Nam vững bước hơn nữa trên con đường hội nhập kinh tế
nhưng vẫn giữ nguyên bản săc văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên nó cũng có những tác động tiêu cực cần phải xóa bỏ và nếu khắc phục
được những tiêu cực đó thì nước ta còn phát triển hơn nữa trên trường quốc tế.



D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wikipedia tiếng Việt – Nho giáo.
2. Nho giáo, hiểu theo tiếng Việt là đạo Nho. Theo Trần Trọng Kim trong
Nho giáo, Nxb Trung tâm Học liệu, Sài Gòn, 1971, t. 10.
3. Sách Hệ thống di tích Nho học Việt Nam và các Văn miếu tiêu biểu ở Bắc
bộ, Nxb thông tin và truyền thông.


4. Luận văn nghiên cứu Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội con người
Việt Nam.
5. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia.
6. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
7. Các Bài Giảng Về Tư Tưởng Phương Đông (NXB Đại Học Quốc Gia 2001)
- Trần Đình Hượu.
8. Bài báo: Lịch sử triết học phương Đông" - Cách nhìn mới về tư tưởng
triết học phương Đông, tác giả Nguyễn Phương Thảo, Trang thông tin
điện tử Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Sự thật.
9. Giáo trình: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, GCV.Ths. Hoàng Ngọc Vĩnh.
10. Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại.
11. Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam – Nguyễn Minh Tường.
12. Khảo sát các bài báo, từ điển trên tạp chí, sách, báo và mạng Internet.


×