Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BT-Nhom-6-Danh-gia-tac-dong-cua-goi-QE-den-nen-kinh-te-My-va-Viet-Nam (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.44 KB, 13 trang )

1

BÀI TẬP NHÓM
Môn: Tài chính quốc tế
Giảng viên: TS. Phạm Thị Hoàng Anh
~o0o~

Đề tài: Đánh giá tác động của gói QE (Quantitative Easing) do FED đưa ra
tới nền kinh tế Mỹ và nền kinh tế Việt Nam.
Nhóm 6:
- Nguyễn Thị Cẩm Anh (NT)
- Phạm Mạnh Cường
- Nguyễn Thị Linh Đan
- Nguyễn Huy Hoàng
- Vũ Minh Phương
- Lưu Thị Thuỳ Trang

-


2

CẤU TRÚC BÀI
I
1

Tổng quan về QE- Quantitative Easing.
Lịch sử hình thành QE và tình hình kinh tế thế giới những năm đầu khủng

hoảng.
Khái niệm QE.


Các giai đoạn của QE.
Tác động của QE đến nền kinh tế (tích cực – rủi ro).
Giới thiệu 3 gói QE đã được FED sử dụng.
Tác động của QE đến nền kinh tế Mỹ.
Tích cực.
Tiêu cực.
III. Tác động của QE đến nền kinh tế Việt Nam.
1
Vấn đề đầu tư USD.
2
Vấn đề tỷ giá USD/VND
3
Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
2
3
4
5
II
1.
2.

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QE (Quantitative Easing)

Nới lỏng định lượng

FED

Cục Dự trữ liên bang Mỹ


NHTW

Ngân hàng Trung ương

TPCP

Trái phiếu Chính phủ


3
I.
1.

Tổng quan về QE - Quantitative Easing.

Lịch sử hình thành QE và tình hình kinh tế thế giới đầu những năm
khủng hoảng.
a
Lịch sử hình thành QE.
Trong những năm 90, nền kinh tế Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn, dù ngân hàng
trung ương Nhật đã hạ xuống lãi suất xuống 0% nhằm thúc đẩy kinh doanh nhưng cũng
không còn hiệu quả. Các ngân hàng thương mại Nhật không muốn mượn tiền để kinh doanh
vì hầu hết các ngành kinh doanh đều đang trong giai đoạn suy thoái. Vì vậy, kinh tế Nhật
tiếp tục trì trệ. Lúc đó, ngân hàng trung ương Nhật mới nghĩ ra cách chủ động bơm tiền vào
thị trường bằng cách thu mua các loại trái phiếu (securities), đặc biệt là các loại trái phiếu về
địa ốc nhằm nâng giá cả các loại tài sản nhà đất lên, tạo ra giá trị tài sản mới để các nhà kinh
doanh có vốn để làm ăn, việc này đồng thời làm tăng thêm khối lượng lớn tiền mặt trong
nền kinh tế. Và cách bơm tiền vào thị trường như cách chính phủ Nhật đã làm chính là
phương thức QE được hình thành.
b


Tình hình kinh tế thế giới và kinh tế Mỹ những năm đầu khủng hoảng.

Thời kỳ khủng hoảng tiền tệ thế giới xảy ra cuối năm 2007 khởi đầu từ Mỹ, bùng nổ
vào năm 2008, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) và các cơ quan nghiên cứu kinh tế trên toàn thế giới nhận định,
kinh tế thế giới suy giảm mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới rất thấp. Theo IMF,
tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thế giới chỉ đạt 3,7% (con số của WB là 2,5%),
thấp hơn 1,3% so với mức tăng 5,0% năm 2007 và thấp hơn 1,4% so với mức tăng 5,1%
năm 2006. Tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế lớn trên thế giới đều giảm mạnh do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính và ảnh hưởng lan tỏa của nó. Giá trị các vụ sát nhập
và mua lại xuyên biên giới (M&A) giảm đáng kể, khoảng 30% đạt hơn 1.000 tỷ USD so với
1.630 tỷ USD năm 2007. Điều này đã dẫn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên thế
giới năm 2008 suy giảm, đạt khoảng 1.600 tỷ USD, giảm 10% so với mức 1.833 tỷ USD
năm 2007. Hoạt động của thương mại thế giới cũng giảm mạnh. Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) đánh giá thương mại thế giới tăng trưởng ở mức rất thấp, chỉ đạt 4,5% trong
năm 2008, giảm 1% so với mức tăng 5,5% năm 2007 và giảm 4% so với mức tăng 8,5%
năm 2006.
Kinh tế Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới cũng chịu ảnh hưởng nặng nề, dường như
đang dừng lại. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 chỉ đạt 1,4%, thấp hơn 0,6% so với mức
tăng 2% năm 2007 và thấp hơn 1,4% so với mức tăng 2,8% năm 2006. Nền kinh tế Mỹ đang
rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Để cứu nền kinh tế của mình, Mỹ cam kết dùng “mọi công
cụ sẵn có” để làm dịu tình trạng kinh tế đang chết, Chính phủ đã cố gắng thúc đẩy kinh tế
bằng cách tạo tiền trở lại bằng cách:


Chi thêm tiền qua những công trình công cộng, xây cầu cống, tài trợ thất nghiệp, tiện
ích xã hội, huấn nghệ, ngay cả tài trợ chi phí cho chiến tranh v.v... Nước Mỹ đã làm
chuyện này rồi và kết quả là đã mang một khối nợ khổng lồ vượt 100% GDP. Do vậy
Quốc Hội không tán thành chi thêm nữa.



4

Hạ lãi suất thị trường xuống tận cùng ở 0.25% bằng cách thu mua công phiếu - lãi
suất thấp nhất trong 50 năm qua nhưng tình hình kinh tế chưa phát triển trở lại được
mặc dù có một số cải thiện nhất định.
• Sau cùng, FED quyết định sử dụng QE. Lần này FED nhắm thu mua các trái phiếu
địa ốc hay còn gọi là chứng khoán nợ có tài sản đảm bảo (Mortgage Backed
Securities - MBS) để vực lại thị trường bất động sản, một ngành kinh tế căn bản nhất
cho phát triển kinh tế.


2.

Khái niệm QE.

“QE - Quantitive Easing là một chính sách thuộc về nhóm chính sách tiền tệ phi
truyền thống được NHTW sử dụng nhằm kích thích nền kinh tế khi các chính sách tiền tệ
truyền thống đã bị vô hiệu”. NHTW áp dụng nới lỏng định lượng bằng cách mua các tài sản
tài chính từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tư nhân khác (quỹ hưu trí, doanh nghiệp)
nhằm bơm một lượng tiền xác định vào nền kinh tế.
Biện pháp này khác so với cách truyền thống là mua-bán trái phiếu chính phủ nhằm
giữ lãi suất thị trường ở mức mục tiêu. Chính sách nới lỏng tiền tệ mở rộng thường bao hàm
nghiệp vụ NHTW mua trái phiếu chính phủ ngắn hạn nhằm làm giảm các mức lãi suất ngắn
hạn trên thị trường. Tuy nhiên, khi lãi suất ngắn hạn đã gần ở mức 0 hoặc bằng 0%, thì
chính sách tiền tệ truyền thống sẽ không thể hạ thấp lãi suất được nữa. Nới lỏng tiền tệ có
thể được sử dụng nhằm kích thích kinh tế bằng cách mua các tài sản dài hạn, và như vậy sẽ
khiến lãi suất dài hạn giảm xuống.
QE được áp dụng với mục đích: tăng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế; kích

thích đầu tư chi tiêu, đối phó với khủng hoảng; cân đối ngân sách và giải quyết tạm thời vấn
đề nợ công.
QE thường được sử dụng khi: nền kinh tế đang rơi vào suy thoái. NHTW có xu
hướng giảm lãi suất xuống thấp để khuyến khích khách hàng vay tiền và kích thích chi tiêu.
Tuy nhiên, khi lãi suất về 0% thì không thể giảm thêm được nữa, vì vậy NHTW cần tung ra
gói nới lỏng định lượng. Tuy nhiên biện pháp này khá rủi ro vì nó làm tăng nguy cơ lạm
phát.
Các giai đoạn của QE.
Giai đoạn 1: Bộ Tài chính sẽ bán đấu giá trái phiếu chính phủ cho Cục dự trữ liên
bang Mỹ (FED).
Giai đoạn 2. FED nhận trái phiếu và chuyển tiền cho Bộ Tài chính.
Giai đoạn 3: Bộ Tài chính dùng số tiền này mua cổ phiếu của các ngân hàng, giúp
thanh khoản của ngân hàng tăng lên.
Giai đoạn 4: Ngân hàng sẽ nhận được 1 lượng tiền mặt là vốn khả dụng dồi dào để
thực hiện kinh doanh.
3.





Tuy nhiên, do nhu cần về vốn quá thấp làm cho hoạt động đầu tư kém sôi động, tỷ lệ
thất nghiệp cao và tiêu dùng thấp. Do đó, chính phủ Mỹ sẽ đầu tư vào các nền kinh tế đang
phát triển, các thị trường hàng hóa quốc tế lớn để đầu tư sinh lời.


5
4.

Tác động của QE đến nền kinh tế.


Việc khủng hoảng kéo dài sẽ gây ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế quốc gia, vì thế bất cứ 1
quốc gia nào cũng nhanh chóng tìm ra những biện pháp giải quyết. QE-biện pháp cuối cùng
mà các NHTW sử dụng được hy vọng rằng nó sẽ dẫn tới những tác động TÍCH CỰC sau:












Khuyến khích cho vay: Nhờ QE, các ngân hàng thương mại bán được tài sản cho
NHTW các ngân hàng này sẽ có nhiều tiền hơn để cho vay, từ đó nền kinh tế sẽ có nhiều
tiền để tài trợ cho các dự án kinh doanh; các dự án kinh doanh sẽ sử dụng nhiều nhân
công hơn; việc làm được tạo ra và kinh tế được kích thích để phát triển.
Khuyến khích đi vay: Nới lỏng tiền tệ sẽ làm tăng dự trữ dư thừa (mức cao hơn dự trữ
bắt buộc) tại các ngân hàng, và làm tăng giá của tài sản tài chính, từ đó làm giảm lợi suất
của các tài sản này. Lãi suất thấp kích thích việc vay mượn của các doanh nghiệp hay
những người đang cần vốn. Từ đó kích thích nền kinh tế phát triển.
Giảm thất nghiệp: Với nguồn vốn vay mượn được dễ dàng hơn ở các ngân hàng, các dự
án sẽ được tiến hành…các công ty sẽ có nhiều khả năng tuyển thêm các nhân viên, tạo ra
công ăn việc làm cho xã hội.
Kích thích tiêu dùng: Việc bơm tiền vào nền kinh tế thông qua QE làm thúc đẩy tiêu
dùng từ trong người dân,việc tiêu dùng làm tăng lợi nhuận cho các công ty, tạo việc làm,
thúc đẩy cả thị trường chứng khoán, phục hồi kinh tế.

Tránh cho kinh tế không bị rơi vào tình trạng giảm phát (deflation) là hiện tượng vật giá
xuống thang với gia tốc nhanh sẽ đưa đến khủng hoảng kinh tế.
Làm cho giá đồng USD trở nên rẻ hơn so với ngoại quốc khiến cho xuất khẩu Mỹ được
thuận lợi hơn.
Một mối lợi phụ nhưng khá đáng kể nữa là chính phủ Mỹ có thể giảm số nợ hiện có
bằng cách in tiền để mua lại công khố phiếu, nghĩa vụ trả lãi sẽ giảm đi.

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế, một số RỦI RO cũng được lo ngại đến
như:










Lạm phát: Việc bơm tiền liên tục làm cho đồng tiền có khả năng mất giá cao. Đây là một
chuyện đương nhiên sẽ xảy ra khi quá nhiều tiền trong khi chỉ có một lượng hàng hóa
nhất định.
QE không có kết quả chắc chắn. Kinh tế nước Nhật đã từng áp dụng QE nhưng hiệu quả
rất hạn chế.
Với khuynh hướng toàn cầu hóa hiện nay, QE chỉ tạo công ăn việc làm cho những quốc
gia ngoài Mỹ vì đa số những công ty lớn của Mỹ đều làm ăn với ngoại quốc, đặc biệt là
những quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, v.v..., do đó tình trạng việc làm trong
nước Mỹ chỉ khả quan hơn sau khi các nước ngoài được hưởng lợi trước.
Đồng tiền USD rẻ đi một cách nhân tạo để giúp xuất khẩu của Mỹ sẽ gặp sự chống đối
của các quốc gia khác và có thể đưa đến chiến tranh kinh tế. Có khả năng các rào cản hải

quan được dựng lên làm cản trở sự lưu thông hàng hóa khiến kinh tế không phát triển
được.
Chỉ có tác dụng trong ngắn hạn vì dài hạn thì rất đáng lo, đặc biệt là lạm phát
Khuyến khích nợ: Sau QE thì việc trả nợ và thu hồi nợ cũng là một vấn đề được quan
tâm.


6

5. Giới thiệu về các gói QE đã được FED sử dụng.

QE1= 1,700 tỷ USD (25/11/2008- 31/3/2010): là năm đầu tiên Mỹ áp dụng QE
nhằm vực dậy nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính, khi mà đang trong tình trạng
căng thẳng nhất. FED đã hạ lãi suất đồng USD về 0- 0.25%. Các tài sản mà Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (FED) mua vào theo gói QE này bao gồm từ trái phiếu kho bạc và trái phiếu nợ
địa ốc.
QE2= 600 tỷ USD (3/11/2010- 30/6/2011):FED quyết định chi thêm 600 tỷ USD để
mua trái phiếu chính phủ dài hạn từ 2 – 10 năm cho đến hết tháng 6/2011.
QE3= 1,600 tỷ USD (13/9/2012 – 29/10/2014):Kể từ khi bắt đầu được áp dụng vào
cuối năm 2012 đến nay, FED đã mua vào 1.6 ngàn tỷ USD chứng khoán theo chương trình
QE3 nhằm duy trì lãi suất ở mức thấp và kích thích nền kinh tế.
Các gói QE của FED, ra đời năm 2008 với mục đích duy trì đà phục hồi của nền kinh
tế Mỹ, đã khiến bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương vượt ngưỡng 4.5 ngàn tỷ
USD, cao gần gấp 6 lần so với khi thời điểm ngân hàng này bắt đầu mua vào trái phiếu.
Ngoài các chương trình nới lỏng định lượng thông thường, trong năm 2011 FED còn
sử dụng một giải pháp “lai” là Operation Twist (còn được gọi là QE2.5). Tương tự như
các chương trình nới lỏng định lượng, mục tiêu của Operation Twist là nhằm giảm lãi suất
dài hạn. Tuy vậy, nguồn vốn được FED sử dụng trong chương trình Operation Twist để mua
trái phiếu kho bạc dài hạn đến từ việc bán những trái phiếu kỳ hạn ngắn ngày hơn; hay nói
cách khác là gần như không bơm thêm tiền vào nền kinh tế.

II.
1

Tác động của QE đến nền kinh tế Mỹ.
Tích cực.

Việc triển khai các gói QE đối với nền kinh tế Mỹ là điều cần thiết để phục hồi đà
tăng trưởng cũng như cải thiện thị trường việc làm khi các chính sách cũ không phát huy tác
dụng. FED tung ra gói QE nhằm hỗ trợ tăng vốn khả dụng cho nền kinh tế để qua đó có khả
năng kích thích thị trường việc làm; Mặt khác, làm cho lợi suất trái phiếu giảm xuống, và vì
vậy, các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm những tài sản khác như trái phiếu công ty.
DN có thể vay mượn với chi phí rẻ hơn. Chi phí vay rẻ hơn có thể khuyến khích DN
mở rộng sản xuất kinh doanh làm tăng số lượng công việc cho nền kinh tế và làm giảm tỷ lệ
thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân. Thu nhập tăng đồng nghĩa với chi tiêu tăng,
doanh số bán hàng tăng lên và giá nhà sẽ có thể tăng trở lại. Điểm cuối của chu trình này là
thị trường hàng hóa và bất động sản có thể được phục hồi.
- QE1 đã góp phần ngăn chặn nền kinh tế Mỹ rơi vào một cuộc suy thoái sâu rộng.
Nói cách khác, QE1 được ví như một “gói kích thích niềm tin” khổng lồ giúp nền kinh tế
không còn lao dốc và lạm phát dần dần tăng lên. Tuy nhiên, hiệu quả của QE1 cũng bị giảm
dần theo thời gian và đó là tiền đề cho QE2 ra đời.


7

- QE2 không bơm tiền trực tiếp vào các NHTM, định chế tài chính (để số tiền này
chạy ra thị trường phục vụ sản xuất) nữa, mà là muốn làm cho mặt bằng lãi suất dài hạn
giảm xuống để kích thích tổng cầu. FED tăng thu mua TPCP để giảm lãi suất trái phiếu này
xuống, cũng là giảm lãi suất dài hạn của thị trường (hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp phát hành
trái phiếu với lãi suất thấp, tăng cho vay sản xuất, tiêu dùng, bất động sản,…thị trường
chứng khoán dần khởi sắc do dòng tiền vào nhiều hơn và hoạt động của doanh nghiệp cải

thiện).
Bước sang năm 2012, kinh tế Mỹ có những dấu hiệu phục hồi, tăng trưởng kinh tế
của Mỹ “dương” trong 3 quý liên tiếp (Q1: 2%; Q2: 1,3%; Q3: 2,7%). Tuy nhiên, tốc độ
tăng trưởng này vẫn còn thấp hơn mức 4,2% của quý IV/2011. Tuy nhiên, niềm tin của
người tiêu dùng không vững chắc, các chỉ số lòng tin liên tục “âm” trong nhiều tháng đầu
năm. Tỉ lệ thất nghiệp tiếp tục ở mức cao trên 8% trong 44 tháng liên tiếp và chỉ giảm
xuống 7,8% trong tháng 9/2012. Chính vì vậy, FED đã quyết định đưa thêm gói nới lỏng
tiền tệ thứ ba (được gọi là QE3)
- Không giống như gói QE1 và QE2, điểm khác biệt của gói QE3 là không giới hạn
thời gian và quy mô gói cứu trợ. FED không mua vào một lượng tài sản cố định và mong
đợi sau đó nền kinh tế sẽ hồi phục mà FED tuyên bố sẽ tiếp tục mua cho đến khi nền kinh tế
tốt lên và thị trường lao động được cải thiện rõ rệt.
Hiệu quả của gói QE3 luôn là đề tài gây tranh cãi. Những người ủng hộ gói QE3 cho
rằng tuy kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi nhưng yếu và thị trường việc làm chưa ổn định,
lòng tin của công chúng còn bấp bênh. Do vậy, QE3 là cần thiết.
Thực tế cho thấy, gói QE3 đã đem lại những tác động tích cực đến nền kinh tế Mỹ.
Cụ thể, tỷ lệ tăng trưởng GDP quý IV/2012 đạt mức 3,1%. Tuy nhiên, chi tiêu của người
tiêu dùng Mỹ - yếu tố đóng góp tới hơn 70% vào các hoạt động của nền kinh tế lại liên tục
gia tăng. Theo số liệu của tổ chức nghiên cứu Conference Board, chỉ số niềm tin tiêu dùng
của Mỹ tháng 6/2013 tăng lên 82,1 điểm, cao nhất kể từ tháng 02/2008.
Ngoài ra, QE3 ra đời cũng đã đáp ứng được sự mong chờ của thị trường chứng khoán
cũng như các nhà đầu tư kim loại quý. Thị trường chứng khoán Mỹ tăng ngay khi mở cửa,
giá vàng cao ngay từ những lần tung ra QE1 và QE2, giá dầu thô cũng tăng mạnh. Có thể
nói, QE3 đã làm ấm lên hi vọng và củng cố niềm tin vào tương lai của nền kinh tế Mỹ tương
tự như những gì FED đã tạo ra trong giai đoạn khủng hoảng năm 2008.
Đi sâu hơn vào một số điểm tích cực nổi bật được ghi nhận của nền kinh tế Mỹ qua
giai đoạn triển khai các gói QE – cho đến năm 2014, nhóm chúng tôi có những nhận định
rằng:
Lạm phát duy trì mức độ ổn định: Tính đến tháng 11/2014, CPI tăng 1,3% - FED
dự kiến tỷ lệ lạm phát sẽ dần tăng lên mục tiêu 2% mà cơ quan này đề ra. Kể từ tháng

12/2008 đến nay, FED vẫn đang giữ lãi suất ngắn hạn gần mức 0%.
Tăng trưởng phục hồi trở lại: Trong quý I/2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ rơi
xuống mức -2,1% thấp hơn nhiều so với kì vọng chỉ giảm 1%. Tuy nhiên, sang đến quý II


8

kinh tế Mỹ đã có bước tăng trưởng ngoạn mục lên tới 4,5% và tiếp tục tăng cho tới cuối
năm. Do đầu tư của các doanh nghiệp tăng 7,2% trong năm 2014, chi tiêu quốc phòng tăng
16% - mức tăng cao nhất trong 5 năm trở lại và chi tiêu của người tiêu dùng mạnh lên. Đây
là những động lực chính mang lại tăng trưởng tích cực cho kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, kim
ngạch xuất khẩu quý III-2014 tăng 11%, vượt xa mức tăng 1,7% của nhập khẩu, thâm hụt
thương mại được thu hẹp và góp 1,3% vào tăng trưởng kinh tế 2014. Chi tiêu của Chính phủ
(tăng 10% năm 2014) cũng góp thêm 0,8% vào tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, kết thúc năm tài chính 2014, thâm hụt ngân sách của Mỹ giảm từ mức
680,2 tỷ USD xuống 483,4 tỷ U của năm tài chính 2013, xuống thấp nhất kể từ năm 2007 do
tăng trưởng kinh tế tăng tốc và doanh thu từ thuế thu nhập tăng.
Về thị trường việc làm: tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể: Tỷ lệ thất nghiệp tháng
11/2014 là 5,8% mức thấp nhất kể từ khi QE bắt đầu, Số người nộp đơn xin hưởng trợ cấp
thất nghiệp tại Mỹ trong giữa tháng 12/2014 vẫn duy trì dưới ngưỡng 300.000, mức cho
thấy sự tuyển dụng đang diễn ra mạnh mẽ trên thị trường lao động; số đơn xin trợ cấp thất
nghiệp lần đầu giảm 6.000 đơn xuống 289.000 đơn trong tuần kết thúc vào ngày 13/12. Như
vậy, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tiếp tục ghi nhận tuần thứ 13 trong số 14 tuần
đứng dưới mức 300.000 đơn. Trong năm 2014, trung bình nền kinh tế Mỹ tạo ra 239.000
việc làm trong mỗi tháng.
Về thị trường bất động sản: Giá nhà liên tục tăng và đạt mức tăng mạnh nhất trong
7 năm qua. Giá nhà đất dự kiến tiếp tục tăng khi lãi suất cho vay thấp và người tiêu dùng
cũng đã lấy lại niềm tin vào nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê Mỹ, tổng số nhà xây
dựng mới đã gia tăng gần gấp đôi so với thời điểm bắt đầu thực hiện QE.
Trước số liệu tích cực của nền kinh tế Mỹ, FED đã chính thức tuyên bố chấm dứt chương

trình nới lỏng định lượng thứ 3 (QE3) sau 7 lần thu hẹp liên tiếp trước đó từ mức 85 tỷ
USD/tháng.
Tóm lại, với 3 gói QE được FED tung ra trong những năm vừa qua đã giúp Mỹ tăng
lượng tiền trong lưu thông, giảm lãi suất thấp gần mức 0%, từ đó giúp các tập đoàn và DN
tiếp cận được với nguồn vốn một cách dễ dàng. Theo FOMC, “chương trình cứu trợ gồm 3
gói nới lỏng định lượng đã được thực thi kể từ tháng 11/2008 đến nay nhằm giúp nền kinh
tế Mỹ vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu 2007 – 2009”. Qua 6 năm thực
hiện, FED đã bơm vào thị trường tổng cộng 4.400 tỷ USD để mua lại các trái phiếu dài hạn
có liên quan tới thế chấp nhằm giữ tỷ lệ lãi suất cơ bản ở mức thấp, khiến bảng cân đối kế
toán của ngân hàng trung ương vượt ngưỡng 4,5 nghìn tỷ USD, cao gần gấp 6 lần so với
thời điểm ngân hàng này bắt đầu thực hiện mua trái phiếu.
Ngoài các quyết sách đúng đắn từ FED, kinh tế Mỹ còn được lợi do gần như được
“cách ly” khỏi những yếu kém bên ngoài, nhờ xuất khẩu chiếm chưa đầy 14% hoạt động
của kinh tế Mỹ, một trong những tỷ lệ thấp nhất trên thế giới. Tại Mỹ, người tiêu dùng mới
là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế, đóng góp gần 70% vào GDP của nước này.
Giá khí đốt giảm cũng giúp người tiêu dùng “giải phóng” được một số tiền đáng kể để chi
tiêu vào những thứ hữu ích hơn, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


9

So với các nền kinh tế lớn khác, kinh tế Mỹ đã có các bước đi nhanh chóng để tăng
cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng, trong khi tài chính của người dân vững hơn nhờ
lãi suất xấp xỉ 0% trong gần 6 năm sử dụng QE giúp gánh nợ vơi đi đáng kể. Đương nhiên,
kinh tế Mỹ không phải miễn nhiễm hoàn toàn với những bất lợi đang diễn ra trên thế giới.
Các thị trường tài chính gần đây cũng ít nhiều xáo động và đà tăng trưởng chậm lại của kinh
tế châu Âu và châu Á cùng với việc đồng USD mạnh lên kéo chậm đà xuất khẩu của Mỹ
trong tương lai.
2


Tiêu cực.

Nhiều chuyên gia cho rằng các gói QE1 và QE2 được đưa ra là bởi vì khi đó, các mối
đe doạ về khả năng suy thoái nền kinh tế hoặc giảm phát xuất hiện. Trong khi nền kinh tế
Mỹ chỉ đang phục hồi từ từ, FED không nên thực hiện gói QE3 bởi gói nới lỏng định lượng
mới sẽ không hiệu quả và còn gây ra những rủi ro cho nền kinh tế:
- Thứ nhất, gói QE3 này sẽ làm tăng tài sản nợ trong bảng cân đối tài sản của FED,
do một lượng lớn tiền được phát hành ra hệ thống ngân hàng và không được trung hòa, tạo
áp lực lạm phát.
- Thứ hai, QE3 làm cho thế giới lo ngại về sự lan tràn của đồng USD. Khi thực hiện
QE1 và QE2, FED đã chịu rất nhiều chỉ trích từ công luận bởi hành động bơm tiền của FED
làm đồng USD lan tràn, tạo ra “bong bóng tài sản” ở nhiều khu vực, đặc biệt là tại thời điểm
đó, kinh tế Trung Quốc và kinh tế các nước Đông Nam Á đang tăng trưởng cao.
- Thứ ba, việc duy trì lãi suất thấp trong thời gian dài sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới
người gửi tiền tại các quỹ hưu trí, và lãi suất tiền gửi được coi là nguồn thu nhập chính của
họ đã giảm đi.
- Thứ tư, việc bơm tiền không giới hạn của Mỹ còn bị các nước Brazil, Nga và Trung
Quốc cáo buộc là Mỹ đang duy trì chính sách duy trì đồng USD yếu và gói cứu trợ mới của
Mỹ là một nỗ lực “ích kỷ”, chỉ nhằm làm cho hàng hóa xuất khẩu của Mỹ rẻ hơn so với các
hàng hóa các nước, gây tổn hại cho khả năng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường
này.
Bên cạnh đó, nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng lợi ích mà QE3 mang lại là
không nhiều. Hai gói QE đầu tiên trước đó đã giúp giảm lãi suất và thúc đẩy thị trường cổ
phiếu nhưng các ngân hàng lại không sẵn sàng trong việc cho vay tiền. Các ngân hàng hiện
vẫn dư thừa 1 lượng dự trữ khổng lồ 1,6 ngàn tỷ USD. Các hộ gia đình thì không bận tâm
nhiều đến việc chi tiêu khi mà họ vẫn đang phải lo trả nợ. Các chuyên gia kinh tế cho rằng,
một chương trình mua trái phiếu trị giá 500 tỷ USD chỉ có thể giảm được 0,1% tỷ lệ thất
nghiệp và tăng khoảng 0,2% GDP. Như vậy, rủi ro mà QE3 mang lại là rất lớn. Như vậy,
việc triển khai các gói QE khổng lồ không thực sự đem lại nhiều lợi ích trực tiếp cho nền
kinh tế Mỹ mà ngược lại đã trực tiếp làm gia tăng tỷ lệ nợ công của nước này (tỷ lệ này đã

tăng đáng kể trong giai đoạn tiến hành các gói QE, cụ thể từ mức 87,1% năm 2010 lên tới
mức 101,6% cho năm 2013).


10

Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng, “nếu không có QE3, kinh tế Mỹ đã bị
kéo lùi lại mất mấy năm.”
III.

Tác động của QE đến nền kinh tế Việt Nam.

Nhận định rằng, việc thi triển các gói QE không có quá nhiều ảnh hưởng đến nền
kinh tế Việt Nam, thậm chí ngay cả khi FED cho dừng gói QE3 và bất chấp những phục hồi,
tăng trưởng đáng kể trên thị trường Mỹ. Xét trên các mặt đầu tư USD, sự biến động tỷ giá
hay xuất nhập khẩu sang Mỹ,… những thay đổi trên thực tế có được đều rất ít hoặc sai khác
nhiều so với dự đoán lý thuyết.
1. Vấn đề đầu tư USD.
a.
Tác động của các gói QE đến sự đầu tư của Việt Nam vào USD.
Trên lý thuyết, việc Mỹ áp dụng 3 gói QE thì sẽ làm cho đồng USD giảm giá tại Mỹ
từ đó tác động đến thị trường Việt Nam – đồng USD tại Việt Nam cũng theo chiều hướng
đó giảm xuống. Mà khi đồng USD giảm, người dân sẽ có xu hướng ngừng mua USD để tích
trữ mà chuyển sang tích trữ vàng hoặc đầu tư vào bất động sản và các giấy tờ có giá khác.
Lý giải cho điều này, ta có thể thấy rằng giá vàng trong nước, ngoài các yếu tố cung cầu còn
chịu ảnh hưởng bởi diễn biến giá vàng của thị trường thế giới. Khi gói QE được áp dụng,
lạm phát Mỹ có xu hướng tăng lên là điều kiện để các nhà đầu tư chuyển dòng vốn vào vàng
như một kênh đầu tư chống lạm phát an toàn.
Nhưng trên thực tế thì không phải vậy. Đồng USD tại Việt Nam trong suốt những
năm qua kể từ khi Mỹ áp dụng gói QE đến nay không hề có chiều hướng giảm sút, người

dân vẫn tích cực mua USD thay vì tích trữ vàng hay bất động sản như trên lý thuyết. Từ đó
nhận thấy việc Mỹ áp dụng các gói QE không tác động nhiều đến Việt Nam mà nếu có tác
động thì cũng không đáng kể.
Tác động của các gói QE đến sự đầu tư vào Việt Nam bằng USD.
- Mức đầu tư bằng FDI:
Số liệu thống kê cho thấy: năm 2008, nguồn vốn đầu tư bằng USD vào Việt Nam đạt
mức kỷ lục: gần 72 tỷ USD. Tuy nhiên, sau đó lượng FDI lại liên tục giảm:
• năm 2009 đạt 23,107 tỷ USD;
• 2010 đạt 19,764 tỷ USD;
• 2011 đạt 14,696 tỷ USD;
• 2012 đạt 16,3 tỷ USD;
• 2013 đạt 21,6 tỷ USD;
• 2014 là 20,23 tỷ USD.
Dễ dàng nhận thấy tác động của các gói QE đã kéo phần vốn đầu tư FDI bằng USD
suy giảm mạnh mẽ qua các năm!
b.


11

- Thị trường chứng khoán Việt Nam:
Trong nửa đầu thời gian FED sử dụng QE1, thị trường chứng khoán Việt Nam hầu
như không có phản ứng rõ rệt. Khối ngoại mua ròng đều nhưng quy mô khá hạn chế trong
khi thị trường vẫn đang nằm trong xu hướng giảm kéo dài từ năm 2007. VN INDEX mặc dù
bật tăng mạnh đến 59% trong giai đoạn này nhưng chủ yếu do ảnh hưởng của gói kích cầu
hỗ trợ lãi suất 1 tỷ USD của Việt Nam sử dụng hỗ trợ nền kinh tế vào đầu năm 2009.
Gần đây nhất, việc Mỹ ngừng gói QE3 không gây nhiều lo ngại đến thị trường vốn
Việt Nam do mức độ mở cửa của thị trường vốn Việt Nam vẫn thấp. Hơn nữa, mức thâm
hụt tài khoản vãng lai ở mức dương và không quá lệ thuộc vào các nguồn vốn đầu tư nóng
từ bên ngoài như các nước đang phát triển khác (Ấn Độ, Indonesia…). Dự trữ ngoại hối dồi

dào, đảm bảo ổn định nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ (Quý I dự trữ ngoại hối đạt hơn 30
tỷ USD). Hiện tượng rút vốn ồ ạt khó có thể diễn ra do nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam
trong những năm qua không nóng như các thị trường khác. Chỉ số P/E thị trường chứng
khoán Việt Nam đang ở mức 12,2 - thấp so với khu vực.
2. Vấn đề tỷ giá USD/VND.

TỶ GIÁ BÌNH QUÂN USD/VND QUA CÁC NĂM
Năm

Tỷ giá bình quân 6
tháng đầu năm

Tỷ giá bình quân
6 tháng cuối năm

2008

16,112

16,517

2009

16,975

16,954

2010

17,941


18,544

2011

18,932

20,618


12

2012

20,828

20,860

2013

20,828

21,036

2014

21,036

21,246


2015

21,246

-

Khi FED tung ra gói QE, tỷ giá USD/VND được nhận định sẽ biến động, cụ thể là sẽ
giảm do ảnh hưởng từ sự giảm giá đồng USD.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tỷ giá hối đoái USD/VND trong ngắn hạn không bị ảnh
hưởng quá nhiều vào giá trị của đồng USD do chính sách tỷ giá USD/VND của NHTW.
Cụ thể:
Năm 2008 được coi là năm mà tỷ giá bất ổn định nhất, khi mà tỷ giá được NHTW
nới biên độ 3 lần chỉ trong vòng 1 năm. Đầu tiên là vào tháng 2/2008, khi mà lượng kiều hối
đổ về vào dịp tết nguyên đán đã khiến lượng USD trong hệ thống tăng cao. Khi đó ngân
hàng nhà nước đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nên đã không thu mua USD mà
cho phép nới lỏng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày
10/03/2008.
Tiếp đó, vào 27/6/2008, NHTW lại tiếp tục nới biên độ từ 1% lên +/-2% và kiểm soát
chặt các bàn thu đổi ngoại tệ khi cơn sốt ngoại tệ tăng do nhu cầu sử dụng ngoại tệ của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu tăng cao, cộng với tâm lý lo ngại khan hiếm USD do giới đầu
cơ tung ra.
Sau khi gói QE1 được đưa ra, vào 7/11/2008, một lần nữa NHTW buộc phải nới lỏng
biên độ tỷ giá từ mức 2% tăng lên 3% do làn sóng thoái vốn đầu tư ngoại trên thị trường
chứng khoán cộng với tác động của việc mua vàng lậu sau khi nhà nước ra quyết định
không cho phép nhập vàng. Trước đó, NHTW cũng đã thực hiện việc tăng tỷ giá USD/VND
bình quân liên ngân hàng lên mức 16.517 VND/1 USD.
Năm 2009, tiếp tục làn sóng 4 tháng cuối năm 2008, biên độ tỷ giá lại được nới lên
mức 5% kéo tỷ giá trên thị trường vượt ngưỡng 18.000 VND/USD. Cuối năm 2009, bằng
một loạt các biện pháp nhằm thực hiện việc bình ổn tỷ giá như nâng lãi suất VND, nâng tỷ
giá liên ngân hàng, yêu cầu các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương

mại….từ đó đã đẩy lùi được tình trạng bất ổn của tỷ giá. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng
cũng được đẩy lên mức 16.983 VND.
Từ cuối năm 2009 đến năm 2010, biên độ lãi suất đã được hạ xuống chỉ còn 3%.
Trong giai đoạn này tỷ giá trên thị trường chủ yếu xoay quanh giá bán ở mức 18.000 VND –
19.000 VND/USD.
Những năm 2011, 2012 là những năm thể hiện sự thay đổi trong đường lối về tỷ giá
của NHTW, dường như NHTW đã bắt đầu “tôn trọng” thị trường hơn khi thực hiện các biện
pháp nhằm tăng tỷ giá, phản ánh đúng quy luật cung cầu cùng với một mức biên độ cứng
nhắc hơn. Trong năm 2013, tỷ giá trên thị trường có những lúc đạt mức trên 21.000 VND.
Thậm chí, theo các chuyên gia tại thời điểm đó, NHTW cần thực hiện phá giá đồng tiền
khoảng 3-4% nữa bởi tương quan lạm phát giữa VND và USD là khá chênh lệch. (Lạm phát


13

của Việt Nam thời điểm đó là 12% trong khi đó ở Mỹ là 2%). Tuy nhiên, ý kiến này không
được ngân hàng nhà nước Việt Nam chấp thuận bởi e ngại làn sóng đầu cơ USD những năm
về trước.
Năm 2014 là năm được đánh giá là năm thành công trong vấn đề ổn định tỷ giá của
NHTW, khi mà mức biến động tỷ giá chỉ ở mức 1% (Tỷ giá bình quân liên ngân hàng trong
giai đoạn tháng 6/2014 đạt mức 21.246 VND). Với cam kết cứng rắn rằng sẽ ghim giữ tỷ
giá ổn định, NHTW đã thực hiện rất tốt lời hứa của mình đồng thời tạo ra được môi trường
kinh tế vĩ mô ổn định, bằng chứng là chỉ số lạm phát trong năm 2014 rất thấp (khoảng
3,95%) mức thấp nhất trong 15 năm trở lại đây.
Tiếp đà tự tin, năm 2015, NHTW tiếp tục tuyên bố sẽ giữ ổn định tỷ giá, biên độ
được neo ở con số 2%. Tuy nhiên chỉ trong vòng hơn 1 tháng kể từ khi bước sang năm mới
ngân hàng nhà nước đã nâng tỷ giá thêm 1% trước sức ép phục hồi của kinh tế Mỹ. Chưa
dừng lại ở đó, ngay trong tháng 5, NHTW lại tiếp tục nâng tỷ giá thêm 1%.
3. Vấn đề xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ.


Rất nhiều chuyên gia tin rằng các gói kích thích kinh tế QE sẽ có tác động tích cực
đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Theo lý thuyết kinh tế học thì quan
điểm này không sai, nhưng tùy vào từng tình huống thực tế mà ta mới có thể đưa ra nhận
định chính xác.
Thực tế đã chỉ ra rằng: Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ giữ nguyên sự ổn
định trong suốt nhiều năm qua - thậm chí ngay cả khi nền kinh tế Mỹ đi vào suy thoái, bởi
vì Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào thị trường Mỹ các sản phẩm thiết yếu như giầy dép,
thực phẩm, hải sản và hàng dệt may. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, Mỹ vẫn là bạn
hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm nay, tổng giá trị xuất khẩu
của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 13.9 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái, và
đây cũng chỉ là mức tăng trung bình trong 5 năm trở lại đây. Vì vậy có thể thấy gói kích
thích QE3 của Cục Dự trữ liên bang Mỹ không có ảnh hưởng rõ ràng đến xuất khẩu của
Việt Nam.
Giá xăng dầu và vàng trên thế giới tăng mạnh sau khi gói kích cầu QE3 được sự ủng
hộ của chính phủ Mỹ, và điều này cũng ảnh hưởng đến Việt Nam. Việt Nam không chỉ xuất
khẩu mà còn nhập khẩu xăng dầu nên chắc chắn giá dầu thế giới tăng sẽ ảnh hưởng đến giá
xăng bán lẻ trong nước. Người dân gần đây rất quá quan tâm tới sự biến động của giá dầu
trên thị trường thế giới, nhưng thực sự khả năng tác động của giá xăng lên người tiêu dùng
không còn cao như trước do cầu trong nước hiện khá suy yếu. Tuy nhiên, tăng giá là một
mối quan tâm thực sự cho các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiên liệu và ảnh hưởng đến khả
năng tồn tại của các doanh nghiệp. Hiện tại giá xăng dầu vẫn được quản lý bởi Bộ Tài
chính, do đó các doanh nghiệp tiêu thụ xăng dầu không có lựa chọn nào khác ngoại trừ phải
chấp nhận điều chỉnh nhằm cắt giảm tiêu thụ xăng dầu trong sản xuất.



×