Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Vai trò của người lao động trong sản xuất vật chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.27 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
Vai trò của người lao động trong sản xuất vật chất và
vấn đề về lao động ở Việt Nam

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Giáng Hương
Lớp: Anh 1
Mã SV: 1315510064

Khoa: Kinh doanh Quốc tế

Giáo viên hướng dẫn: Th.S Đặng Hương Giang

Hà Nội, 2014


Mục lục


LỜI MỞ ĐẦU
Trong triết học cổ đại hay hiện đại, con người luôn là một đối tượng
được quan tâm hàng đầu. Đặc biệt, trong học thuyết kinh tế của chủ nghĩa
Mác – Lenin, vai trò của con người trong quá trình sản xuất của cải vật chất là
vô cùng to lớn.
Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là thực thể cải tạo tự
nhiên, xã hội. Con người giữ vai trò quyết định, không thể thiếu trong sản xuất
phát triển nền kinh tế. Lao động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng
trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải vật
chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động đóng


vai trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. Trong một xã hội dù lạc hậu hay hiện
đại cũng cân đối vai trò của lao động, dùng vai trò của lao động để vận hành
máy móc. Lao động là một yếu tố đầu vào của mọi qúa trình sản xuất không
thể có gì thay thể hoàn toàn đợc lao động vav con người là lực lượng sản xuất
cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở tồn tại sự phát
triển xã hội.
Với Việt Nam là một nước đang phát triển đi lên Chủ nghĩa xã hội, bên
cạnh những sự phát triển về khoa học kĩ thuật thì nguồn lực lao động cũng là
một vấn đề nhận được sự quan tâm hàng đầu.
Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của người lao động trong quá trình sản
xuất cũng như tìm những phương pháp giải quyết và phát huy vai trò của
người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam, tôi chọn đề tài “Vai trò của
người lao động trong sản xuất vật chất và vấn đề về lao động ở Việt
Nam”.

3


NỘI DUNG
I.

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG SẢN XUẤT VẬT

CHẤT
1. Quá trình sản xuất vật chất

Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng của con ngời và của xã hội loài người.
Đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con
người. Theo Ăngghen ‘điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã
hội loài vật là ở chỗ loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản

xuất’.
Sự sản xuất trong xã hội gồm ba quá trình: Sản xuất vật chất, sản xuất
tinh thần, sản xuất ra chính con người chúng ta. Trong đó, sản xuất vật chất
đóng vai trò quyết định.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá
trình hình thành và phát triển của loài người gắn liền với sản xuất vật chất.
Như vậy, xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật chất.
Lịch sử của xã hội, do vậy trước hết cũng là lịch sử của sản xuất vật chất.
Dù được xem xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển xã hội
loài người nói chung, hay được xem xét trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của
các xã hội hiện thực nói riêng thì sản xuất vật chất vẫn luôn luôn đóng vai trò
là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội.

4


2. Người lao động trong quá trình sản xuất vật chất
2.1.Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục
giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó
được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ
năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động kết hợp
với nhau tạo thành lực lượng sản xuất trong đó ‘lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động’.
Người lao động là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất. Chính

người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất với sức mạnh và kỹ
năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước tiên là công cụ lao
động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Trong
quá trình sản xuất của cải vật chất, người lao động con được nâng cao về trình
độ, trí tuệ.
2.2.Vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất
Lịch sử phát triển xã hội loài người cho đến nay, về cơ bản, là lịch sử vận
động, phát triển của sản xuất và tái sản xuất xã hội. Chính trong quá trình lao
động con người đã bộc lộ bản chất của mình và thể hiện một vai trò đặc biệt
quan trọng - động lực của sự phát triển sản xuất xã hội.
Lao động sản xuất là một hình thái hoạt động chỉ có ở con người. Con người
tiến hành lao động sản xuất nhằm thoả mãn không chỉ nhu cầu mang tính sinh
vật mà cả những nhu cầu tinh thần, xã hội; không chỉ để thích nghi mà còn để
cải tạo giới tự nhiên, cải tạo xã hội, và cải tạo ngay cả chính bản thân con
5


người.Trong mọi phương thức sản xuất, con người bao giờ cũng ở vị trí trung
tâm và giữ vai trò quyết định so với công cụ lao động và đối tượng lao động.
Con người không chỉ chế tạo ra công cụ lao động, không chỉ đề ra kế hoạch,
lựa chọn phương pháp lao động, mà còn trực tiếp sử dụng công cụ lao động để
sản xuất ra của cải vật chất. Các-Mác đã khẳng định: “Những thời đại kinh tế
khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản
xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào.”.
Chính con người, với trí tuệ và khả năng của mình đã chế tạo ra tư liệu lao
động và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn
lao đến đâu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy
được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Như thế có
thể nói, nhân tố con người (người lao động ) có vai trò hết sức quan trọng và
đã trở thành động lực của sự phát triển sản xuất xã hội.

Như vậy, động lực chủ yếu của sự tiến bộ xã hội là lực lượng sản xuất, mà
trong lực lượng sản xuất thì con người là yếu tố quan trọng nhất. Cho nên, bất
kỳ sự tiến bộ xã hội nào, đều do con người trực tiếp thực hiện. Cho đến nay tất
cả những phương tiện hùng hậu phục vụ cho nền sản xuất có trên trái đất này
đều là kết quả của bàn tay và khối óc con người.
Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần,
đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội....tạo thành năng lực của
con người và của cộng đồng người. Năng lực đó khi được sử dụng, phát huy
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Theo đó, con người không chỉ là
sản phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải
biến tự nhiên và xã hội, con người là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi
quá trình lịch sử, con người là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất,

6


là lực lượng sản xuất quyết định nhất của xã hội và cách mạng xã hội cũng là
sự nghiệp của quần chúng lao động.
2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động
Để phát huy được nguồn lực lao động, cần phải chú ý đến các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng lao động, vì chất lượng lao động ảnh hưởng đến năng
suất lao động. Chất lượng lao động có thể được nâng cao nhờ giáo dục, đào
tạo, sức khoẻ của người lao động.
Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm
năng của con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo
dục là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông,con người ở mọi nơi đều tin
rằng giáo dục rất có ích cho bản thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác,
mọi người có thể nhận thấy mối quan hệ giữa giáo dục và mức thu nhập. Ở
các nước đang phát triển, giáo dục được thể hiện dưới nhiều hình thức nhằm
không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn cho mọi người. Kết

quả của giáo dục làm tăng lực lượng lao động có trinh độ tạo khả năng thúc
đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Vai trò của giáo dục còn được đánh
giá qua tác động của nó đối với việc tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân
nhờ có nâng cao trình độ và tích lũy kiến thức.
Giống như giáo dục, sức khoẻ làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả
hiện tại và tương lai, người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi
nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung
trong khi đang lam việc. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho trẻ em
sẽ là yếu tố làm tăng năng suất lao động trong tương lai, giúp trẻ em phát triển
thành những người khoẻ về thể chất, lành mạnh về tinh thần. Hơn nữa điều đó
còn giúp trẻ em nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho
7


sản xuất thông qua giáo dục ở nhà trường. Những khoản chi cho sức khoẻ còn
làm tăng nguồn nhân lực về mặt số lượng bằng việc kéo dài tuổi thọ lao động.
Ngoài ra, nguồn nhân lực có khả năng tác động và khơi dậy các nhân tố
ảnh hưởng đến sự phát triển của một quốc gia. Bởi vì, con người là nhân tố
chủ động, có đầy đủ khả năng lợi dụng các nhân tố khác, gắn kết các nhân tố
khác tạo thành một tổng thể các nhân tố cần thiết và định hướng tác động của
mọi nhân tố vào mục tiêu phát triển đất nước. Vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên là những nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển đất
nước. Nhưng thực tế cho thấy chúng phụ thuộc vào khả năng khai thác của
con người, ở một số nước, điều kiện tự nhiên thuận lợi là nhân tố làm cho đất
nước giàu mạnh; nhưng ở một số nước khác điều kiện tự nhiên cũng tương tự,
hoặc còn thuận lợi hơn - đất nước lại ngày một nghèo nàn, kiệt quệ và nguồn
tài nguyên ngày càng trở nên cạn kiệt. Bởi vì trường hợp thứ nhất : con người
tái tạo thiên nhiên còn trường hợp thứ hai: con người tước đoạt thiên nhiên,
biến nó thành hoang mạc.
Vốn ban đầu – tiền tệ – là nhân tố quan trọng cho sự phát triển của bất cứ quốc

gia nào. Nhưng Các Mác đã rất có lý khi cho rằng, tiền tệ chỉ trở thành tư bản
thông qua sức lao động của công nhân vì nhờ đó nó tạo ra giá trị lớn hơn giá
trị ban đầu. Trong thời đại ‘mở cửa’, nhiều nước có thể thu hót vốn từ nước
ngoài. Nhưng vốn chỉ có thể phát huy tác dụng tích cực nếu những điều kiện
trong nước mà trước hết là có con người sử dụng hợp lý vốn đó để phát triển
nền sản xuất trong nước.
Sở dĩ nguồn nhân lực con người có vai trò quyết định trong các nhân tố, các
nguồn lực của sự phát triển lịch sử, trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ
của bản thân con người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch
sử.

Tóm lại, người lao động là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự phát triển các
8


hình thái kinh tế xã hội. Người lao động làm lực lượng sản xuất biến đổi, lực
lượng sản xuất biến đổi làm quan hệ sản xuất thay đổi, dẫn đến kiến trúc
thượng tầng thay đổi, và hình thái kinh tế xã hội cũng thay đổi theo. Nhân tố
con người – người lao động là động lực của sự phát triển sản xuất xã hội, nhân
tố quan trọng của sự phát triển nhanh và bền vững. Trong quá trình sản xuất
vật chất người lao động làm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân làm sản xuất
vật chất phát triển và xã hội phát triển từ thấp đến cao.
II.
Nguồn nhân lực ở các nước và Việt Nam
1. Đặc điểm Nguồn nhân lực ở các nước đang phát triển
Số lượng lao động tăng nhanh
Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang
phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của
lực lượng lao động. ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc
làm tăng từ 2%trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc

gia tăng dân số. Theo số liệu tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nước ta là
76,32 triệu người, trong đó khoảng 39 triệu người là lực lượng lao động chiếm
51% dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu lao
động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm.
Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển
là đa số lao động làm nông nghiệp.ở Việt Nam lao động nông nghiệp chiếm
hơn 70% tông số lao động . Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở
những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm dần
trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng.
Hầu hết người lao động được trả tiền công thấp
9


Lực lượng lao động ở các nước đang phát triển có số lượng ngày càng
tăng làm cho nguồn cung ứng lao động dồi dào. Trong khi đó hầu hết các
nguồn lực khác đều thiếu và yếu: trang thiết bị cơ bản ,đất trồng trọt, ngoại tệ
và những nguồn lực khác như khả năng buôn bán, trình độ quản lý. Tiền công
thấp còn một nguyên nhân cơ bản nữalà trình độ chuyên môn của người lao
động thấp.
Còn bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng.
Như trên đã phân tích, việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao
động phải được xem xét qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp-thất
nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Do sức ép về dân số và những khó
khăn về kinh tế
Ở các nước đang phát triến đã tác động lớn tới vấn đề công ăn việc làm ở cả
hai khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc
làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị.
2. Nguồn nhân lực ở Việt Nam
Việt Nam cũng là một nước đang phát triển, vấn đề về khai thác và sử dụng

nguồn nhân lực một cách hợp lý, cân đối về cung – cầu và đảm bảo công ăn
việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tăng thời
gian lao động được sử dụng ở nông thôn.
Sù phát triển sản xuất xã hội phụ thuộc nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác
nhau nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào yếu tố con người. Dù cho xã
hội có nhiều công cụ sản xuất tiên tiến, thậm chí hiện đại, song nếu thiếu
những con người có trình độ học vấn và kỹ năng thành thạo, có lòng nhiệt tình
và say mê lao động sáng tạo..... thì điều đó vẫn chưa đủ tạo nên những thành
10


tựu phát triển kinh tế – xã hội. Cho nên làm thế nào để có thể khai thác được
tất cả những tiềm năng to lớn vô tận của con người nhằm tạo ra sự phát triển
sản xuất xã hội vẫn là đòi hỏi bức thiết mà chính bản thân con người.
2.1.Đặc điểm nguồn lao động của Việt nam
Bên cạnh những đặc điểm truyền thống như người Việt Nam cần cù, thông
minh, chịu khó tiếp thu và lắng nghe và nhanh chóng thích ứng với điều kiện
lao động thì còn có đặc điểm như
Nguồn nhân lực rẻ, dồi dào. Theo điều tra dân số tháng 4 năm 1999, dân số
của Việt Nam hiện là 76 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới. So với các nước
Đông Nam á, Việt Nam là một quốc gia đông dân, chỉ đứng sau Indonesia,
vượt cả Philippin và Thái Lan. Số người trong độ tuổi lao động ở Việt Nam
không ngừng tăng lên. Hiện nay trung bình hàng năm có khoảng 1,4 đến 1,5
triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động, bổ sung liên tục vào lực lượng lao
động vốn đã đông đảo này.
Giá lao động Việt Nam còn rẻ so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới cũng được xem là một lợi thế to lớn. Các số liệu thống kê gần đây cho
thấy mức lương phổ biến của các doanh nghiệp, các cơ quan của Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay vào khoảng 1.000 đến 1.500 ngàn đồng/tháng (tức khoảng
60 – 90 USD/tháng, trên dưới 3USD/ngày). Theo Nghị định số 03/2006/NĐCP (ngày 6.1.2006), mức lương tối thiểu cho khối DN đầu tư nước ngoài tại

Hà Nội và TPHCM là 870.000đ/thỏng, tương đương 55USD. Đây vẫn là mức
lương thấp nhất trong khu vực so với Indonesia (90USD), Thái Lan
(110USD), Philippines (135USD). Những nét khái quát trên cho thấy, lực
lượng lao động ở Việt Nam có những lợi thế so sánh nhất định. Đây cũng là
điều kiện thuận lợi ban đầu để Việt Nam tham gia vào phân công lao động
quốc tế, thu hút nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế,
đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
11


Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những đặc điểm hay là mặt hạn chế của lao động
nước ta. Về mặt thể lực lao động Việt Nam còn ở mức độ thấp. Trong một thời
gian dài, do thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam rất thấp, mức tăng
GDP không theo kịp mức tăng dân số làm cho vấn đề chăm sóc sức khỏe, y
tế...... gặp không ít khó khăn, đời sống của người lao động suốt một thời gian
dài không được cải thiện là bao. Điều này ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về
thể lực của đội ngò lao động.
Trình độ, kỹ năng của đội người lao động ở Việt Nam còn thấp so với nhiều
nước trên thế giới và khu vực, tỷ lệ lao động có trình độ kỹ thuật, có tay nghề,
có kỹ năng và kinh nghiệm quản lý còn ít. Điều đó có nghĩa là số lao động kỹ
thuật ở Việt Nam đang thiếu nghiêm trọng.
Một số vấn đề khác là tình trạng dư thừa lao động đang trở thành một thách
thức lớn nhất trong các vấn đề xã hội của Việt Nam. Theo tính toán của tổ
chức lao động quốc tế (ILO), với tốc độ tăng nguồn lao động 3%/năm như ở
Việt Nam hiện nay thì cần có mức tăng GDP trên 10%/năm mới có thể ổn định
tình hình việc làm ở mức hiện tại. Như vậy sau năm 2000, Việt Nam vẫn dư
thừa sức lao động. Các kết quả điều tra năm 1994 cho thấy, số người trong độ
tuổi lao động chưa có việc làm ở Việt Nam còn khá lớn, ở thành thị, tỷ lệ chưa
có việc làm là 6,08%. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn Việt Nam càng
trầm trọng hơn với khoảng 8 – 9 triệu lao động dư thừa.

2.2.Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu
người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi
dào.
Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí
thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn
nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân
12


lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt
nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng
2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người,
trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của
giới doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực,
nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Lao động ở nước ta được chia thành hai loại là: lao động phổ thông và lao
động chất lượng cao. Tuy nhiên, hiện nay số lượng lao động phổ thông chiếm
số đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp.
Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo
trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có
bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15
tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng
40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học
và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là
0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công
nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn
so với nhiều nước khác.

Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ
thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi
đó các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề,
lĩnh vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang
thiếu lao động như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ
thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo...
13


Tuy nhiên trong những năm gần đây, cùng với thành tựu nổi bật về nhiều mặt
trong phát triển kinh tế – xã hội, đội ngữ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật được đào tạo ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước
ta có ý nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 cũng nêu rõ cần tập trung tạo đột phá
“phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để xây
dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp:
3.1.Giải pháp về phía cung
Cần nhanh chóng nâng cao trình độ văn hoá cho nguồn nhân lực, phấn đấu phổ cập phổ thông trung
học đối với những đối tượng và những vùng có điều kiện nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp thu các
kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.

Để có cơ cấu lao động hợp lý, một trongnhững biện pháp quan trọng là
thực hiện chính sách phân hàng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở để
tạo ra cơ cẩu hợp lý. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, cứ 1 người có

trình độ đại học, cao đẳng cần có 4-5 người có trình độ trung học chuyên
nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật.
Đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, đặc biệt là đào tạo,
bồi dưỡng nghề cho người lao động để tăng tỷ lệ được đào tạo thường được
tiến hành qua các biện pháp xã hội hoá đào tạo, đa dạng hoá hình thức đào tạo,
bồi dưỡng với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Các lao động mới bước vào tuổi lao động, lao động dôi dư, lao động trẻ
ở nông thôn cần được ưu tiên trong trang bị kiến thức kỹ thuật về công nghệ
14


mới liên quan dến trồng trọt, chăn nuôi, các ngành thủ công có điều kiện phát
triển ở địa phương cũng như các kiến thức cần thiết khác để cung cấp cho khu
công nghiệp mới, các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất khẩu lao động, có thể thành
lập bộ phận đào tạo, bồi dưỡng riêng các trung tâm dạy nghề hợp tác với các
trung tâm đào tạo trong nước và nước ngoài, để đào tạo, bồi dưỡng người lao
động đi làm có thời hạn ở nước ngoài.
Cùng với đẩy mạnh đào tạo lại các nguồn nhân lực với kiến thức về
chuyên môn, kỹ thuật cũng như kỹ năng thực hành cho nhu cầu trước mắt còn
phải trang bị cho lao động kiến thức về ngoịa nhgữ, tin hoc, pháp luật nhằm
đáp ứng cho nhu cầu về hội nhập.
3.2.Giải pháp về phía cầu

a.Khuyến khích mở rộng và phát triển các nghành nghề thu hút được
nhiều lao động.
Bởi đối với nước ta hiện nay tỷ lệ người thất nghiêp còn cao chính vì thế
cho lên cần khuyến khích các nghành nghề này để tạo thêm nhiều việc lam
mới cho người lao động.
b. Phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Đó là các biện pháp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập khắc
phục hiện tượng nâng dân do tình thời vụ của nông nghiệp, do diện tích canh
tác thấp, năng suất thấp. Nếu thực hiện tốt các biện pháp có liên quan trước
hết là yếu rố tiêu thụ sản phẩm và giống cây con, đào tạo nghề cho người lao
động… ở nông thốn sẽ có cơ cấu kinh tế thay đổi, tăng đáng kể giá trị sản
15


lượng nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ,
nâng đời sống vật chất cho người lao động.
Cùng với biện pháp phát triển kinh tế là biện pháp phát triển xã hội
như: y tế, văn hoá, giáo dục, vệ sinh môi trường, sử dụng nguồn nước sạch và
sản xuất theo yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm.cũng sẽ thu hút nhiều lao
động góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, ổn định xã hội, giảm gia tăng
dân số và nguồn lao động, giảm hiện tượng dân nông nghiệp, nông thôn ra
thành phố, khu công nghiệp tìm việc làm một cách tự phát.
c. Huy động các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ ở thành thị.

Với xu thế của mình, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ phát triển theo
chiều rộng và chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh , phát huy lại
thế cạnh tranh sử dụng nhiều lao động có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong
nước về xuất khẩu của các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông, dịch vụ,
du lịch
Kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác có sự giúp đỡ và quản lý
của Nhà nước, căn cứ vào nhu cầu sản xuất, tiêu dùng tại chỗ và xuất khẩu,
với khả năng về vốn, trình độ quản lý và kỹ thuật có thể phát triển các doanh
nghiệp vừa và thuốc các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hoá, giáo
dục, y tế.
3.3.Các giải pháp về chính sách của nhà nước

a. Chính sách khuyến khích và đãi ngộ người có trình độ.

Mục đích của lao động là có thu nhập tương ứng với khả năng của
mình, đảm bảo cuộc sống ổn định cho gia đình, vì vậy, càng có các yếu tố vật
chất và tinh thần khuyến khích và đãi ngộ thì lao động càng nâng cao trình độ
của mình đáp ứng nhu cầu xã hội. Cần tập trung vốn cho giáo dục và đào tạo
nhằm khuyến khích mọi người tự nâng cao và được nâng cao trình độ học vấn,
16


tay nghề của mình đồng thời phải có các hình thức đaic ngộ riêng những
người có trình độ cao hơn người khác, xã hội đang khan hiếm từ đó có động
lực hơn cho mọi lao động phấn đấu.
b. Chính sách khuyến khích dạy và học nghề.

Nước ta đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động có kỹ thuật, vì vậy
nâng cao số lượng lao động này để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá- hiện đại
hoá là việc cần làm ngay trong thời gian tới. Do đó, có những chính sách cụthể
về khuyến khích dạy và học nghề bằng cách tang phụ cấp, tiền lương, tạo ra
nhiều việc làm cho những học sinh học nghề, có kế hoạch sử dụng ngay nguồn
lực này khi học tốt nghiệp đảm bảo điều kiện tốt nhất về mọi việc làm, điều
kiện sinh hoạt hàng ngày cho họ.

17


KẾT LUẬN
Nhân tố con người đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất của
cải vật chất nói riêng, và sự phát triển tiến bộ của xã hội nói chung. Lịch sử
loài người từ trước đến nay, trong các quá trình thay đổi luôn đi liền với sản

xuất vật chất, từ việc con người sáng tạo ra các công cụ lao động để tác động
vào xã hội, cho đến nay, những người lao động vẫn không ngừng sử dụng bàn
tay, khối óc để sáng tạo và tìm tòi ra các phương thức sản xuất, các cách thức
để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Đối với đất nước Việt Nam, một
quốc gia đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, nhân tố
con người càng được quan tâm hơn hết. Mọi sự phát triển của Việt Nam trong
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, đều do con người Việt Nam hiện
đại thực hiện và đều vì sự phát triển của con người Việt Nam toàn diện, do đó
chúng ta cần có những phương hướng, biện pháp xây dựng con người Việt
Nam hiện đại, phù hợp với yêu cầu của Đảng và nhà nước và của xu thế phát
triển. Bên cạnh đó cần quan tâm đến các yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội
như đối tượng lao động (tài nguyên thiên nhiên – nguồn nguyên liệu không thể
thiếu trong sản xuất) không phải là yếu tố vô hạn. . Con người càng phát triển
sản xuất, khả năng khai thác tự nhiên càng cao, hiệu quả khai thác của công cụ
lao động càng lớn thì tài nguyên thiên nhiên ngày càng mau chóng cạn đi. Do
đó, chúng ta cần biết khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, có
cách khai thác hợp lý. Như trên đã phân tích, nguồn lực con người là yếu tố
quyết định, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất, do đó chúng ta cần ưu
tiên phát triển, cần có những biện pháp, chính sách phát triển thích hợp với
tình hình hiện nay để thúc đẩy kinh tế phát triển, làm cho đất nước ngày càng
giàu mạnh.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Leenin”, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, t.131
2. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Leenin”, Nxb.


Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, t.202
3. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện hội nghị lần thứ tư ban chấp hành
Trung ương khoá X. Nxb, chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
4. PGS,TS Đức Vượng “Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân

lực Việt Nam”
/>option=com_content&view=article&id=1251:thc-trng-va-gii-phap-v-phattrin-nhan-lc-vit-nam&catid=250:vit-nam&Itemid=532
5. Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ,

tháng 9/1998 “Người lao động trong nền kinh tế thị trường”
/>
19



×