Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo thực tập Văn hóa và Xã hộị : lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 32 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
Lý do chọn đề tài :.........................................................................................3
Mục đích giới thiệu đề tài :............................................................................4
Đối tượng và phạm vi giới thiệu đề tài :........................................................4
Nội dung và bố cục giới thiệu đề tài :............................................................4
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DÂN CƯ TỈNH
CAO BẰNG .........................................................................................................5
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên :................................................................5
Cư dân và đặc trưng văn hóa :.......................................................................6
Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng :....................................................9
CHƯƠNG II : LỄ HỘI LỒNG TỒNG CỦA DÂN TỘC TÀY TỈNH CAO
BẰNG..................................................................................................................11
Nguồn gốc lễ hội :.......................................................................................11
Lễ hội Lồng Tồng truyềnthống :.................................................................14
Vai trò của lễ hội trong đời sống người dân :..............................................26
Những thuận lợi và khó khăn trong lễ hội :.................................................27
KẾT LUẬN.........................................................................................................31

1


MỞ ĐẦU
Lễ hội là di sản văn hóa của dân tộc ta, là sinh hoạt cộng đồng hấp dẫn,
thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Trên khắp đất nước ta, địa
phương nào cũng có lễ hội, diễn ra quanh năm, phần lớn là vào đầu năm. Lễ hội
đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống nhằm thoả mãn khát vọng
trở về cội nguồn, sinh hoạt tín ngưỡng, cân bằng đời sống tâm linh và hưởng
thụ, sáng tạo văn hoá của nhân dân. Trong số đó các lễ hội của đồng bào dân tộc
thiểu số có những nét đặc sắc riêng rất giá trị, vì vậy việc bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hoá tinh thần đó là hết sức cần thiết.


Lễ hội mang tính chất thuần tuý là hướng đến được giao lưu tình cảm, vui
chơi giải trí và cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, người người
khoẻ mạnh, nhà nhà no ấm thì các yếu tố liên quan đến lễ hội cũng không cầu kỳ
mà thường là những sản vật do bà con tự sản xuất được như con gà, gùi lúa.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, cộng đồng người Việt đã xây
dựng cho mình một nền văn hóa phong phú và đa dạng mang nhiều bản sắc dân
tộc. Bản sắc đó được thể hiện rõ nét trong các lễ hội dân gian Việt Nam.
Lễ hội dân gian Việt Nam còn là một pho sử khổng lồ thể hiện những
phong tục tín ngưỡng, văn hóa và cả những sự kiện xã hội quan trọng. Trong bất
kỳ một lễ hội nào cũng chứa đựng một tâm tưởng vừa kín đáo, vừa sâu xa là sự
thờ cúng các vị thần thánh. Thần , thánh ở đây chính là người có công dựng
làng, lập nước, có công truyền nghề, có công đánh giặc, chống thiên tai, dịch
bệnh.
Dân làng mở hội nhằm hồi tưởng công lao của các vị thần, mặt khác dân
làng còn hy vọng rằng ước nguyện của làng về một cuộc sống chung no đủ, giầu
có, bình an được trở thành hiện thực. Họ đã gửi gấm những ước nguyện vào lời
cầu khẩn các vị thần linh của làng.
Một không khí thiêng liêng, vui tươi trong sáng, tràn đầy tình nhân ái lan
truyền trong suốt thười gian mở hội. Qua lễ hội, con người đều muốn sống tốt
2


lành với nhau và cảm thấy gắn bó với làng với nước.
Lý do chọn đề tài :
Cao Bằng là tỉnh biên giới địa đầu Tổ quốc thuộc vùng Đông Bắc Việt
Nam. Có thể nói, Cao Bằng được thiên nhiên ưu đãi rất nhiều với núi, rừng,
sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la với phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp và hùng
vĩ có truyền thống đấu tranh anh dũng bất khuất chống giặc ngoại xâm
Dân số toàn tỉnh là 507.183 người ( 10/2009 ). Dân số trung bình năm
2009 là 510.884 người.

Các dân tộc ở Cao Bằng gồm Tày (chiếm 41,0% dân số), Nùng (31,1 %),
H'Mông (10,1 2%) , Dao (10,1 %), Việt (5,8 %), Sán Chay (1,4 %)... Có 11 dân
tộc có dân số trên 50 người. Họ có đời sống vật chất , tinh thần rất phong phú
không ngừng phát huy bản sắc văn hóa của miền quê biên giới giàu truyền thống
yêu quê hương đất nước.
Vì là nơi quần tụ của nhiều dân tộc sinh sông nên có khá nhiều lễ hội ví
dụ như trong các dịp lễ tết Nguyên Đán , tết Thanh Minh , tết Trung thu , tết
Đoan Ngọ. Lễ hội Lồng Tồng là một lễ hội tiêu biểu của người dân diễn ra vào
sau tết Nguyên Đán hàng năm.
Lễ hội Lồng Tồng thu hút rất nhiều người tham gia trong đó có cả người
dân thập phương đến tham dự. Việc tìm hiểu về lễ hội Lồng Tồng là việc làm để
mọi người có thế hiểu rõ hơn về lễ hội và thông qua việc giới thiệu về lễ hội
Lồng Tồng của người Tày ở tỉnh Cao Bằng giúp mọi người hiểu rõ hơn về đời
sống vật chất , tinh thần của dân tộc Tày.
Với những lý do trên em đã chọn đề tài lễ hội Lồng Tồng của người Tày
tỉnh Cao Bằng để giới thiệu. Hơn nữa là em là người dân tộc Tày được sinh ra
và lớn lên tại địa phương nên đã chọn đề tài này để giới thiệu và nó cũng giúp
em thêm nhận thức hiểu biết về tín ngưỡng , sinh hoạt văn hóa nơi đây.
Giới thiệu về lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày tỉnh Cao Bằng còn góp
phần truyền bá văn hóa lễ hội cho thế hệ trẻ thêm yêu quê hương đấy nước để có
trách nhiệm giữ gìn , phát huy những tinh hoa , bản sắc văn hóa dân tộc. Và giúp
chúng ta hiểu biết thêm về lịch sử văn hóa làng xã cũng như lịch sử dân tộc và
3


góp phần tìm hiểu những tác động xã hội của lễ hội , những mặt tích cực cũng
như những hạn chế của lễ hội.
Mục đích giới thiệu đề tài :
Mục đích chính là điều tra miêu tả đầy đủ lễ hội Lồng Tồng của dân tộc
Tày tỉnh Cao Bằng. Trên cơ sở đó đề cập đến vấn đề góp phần bảo lưu nững giá

trị truyền thống của kễ hội , đề xuất một số ý kiến bảo tồn và phát huy những
mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực trong lễ hội Lồng Tồng. Qua việc
giới thiệu về lễ hội Lồng Tồng sẽ hiểu rõ hơn về săc thái văn hóa của dân tộc
Tày nhằm giữ gìn và phát huy bản săc văn hóa dân tộc , góp phần xây dựng và
quản lý lễ hội.
Đối tượng và phạm vi giới thiệu đề tài :
Nội dung lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày tỉnh Cao Bằng cũng như các
yếu tố tín nguưỡng dân gian của các hoạt động đó.
Sẽ giới thiệu về không gian , thời gian , địa diểm tổ chức lễ hội Lồng
Tồng của dân tộc Tày tỉnh Cao Bằng.
Nội dung và bố cục giới thiệu đề tài :
Ngoài phần mở đầu và kết luận còn có danh mục tham khảo và mục lục.
Nội dung đề tài được chia làm 2 chương : chương 1 : khái quát về điều
kiện tự nhiên xã hội và dân cư tỉnh Cao Bằng , chương 2 : lễ hội Lồng Tồng của
dân tộc Tày tỉnh Cao Bằng .

4


CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
VÀ DÂN CƯ TỈNH CAO BẰNG .

Tỉnh Cao Bằng
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên :
Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam. Hai mặt Bắc và Đông
Bắc giáp với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), với đường biên giới dài
333.403 km. Phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Phía nam giáp tỉnh
Bắc Kạn và Lạng Sơn. Theo chiều Bắc- Nam là 80 km, từ 23°07'12" - 22°21'21"
vĩ bắc (tính từ xã Trọng Con huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh, huyện Bảo
Lâm). Theo chiều đông- tây là 170 km, từ 105°16'15" - 106°50'25" kinh đông

(tính từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang).
Tỉnh Cao Bằng có diện tích đất tự nhiên 6.690,72 km², là cao nguyên đá
vôi xen lẫn núi đất, có độ cao trung bình trên 200 m, vùng sát biên có độ cao từ
600- 1.300 m so với mặt nước biển. Núi non trùng điệp. Rừng núi chiếm hơn
90% diện tích toàn tỉnh. Từ đó hình thành nên 3 vùng rõ rệt: Miền đông có nhiều
núi đá, miền tây núi đất xen núi đá, miền tây nam phần lớn là núi đất có nhiều
rừng rậm.
Trên địa bàn tỉnh có hai dòng sông lớn là Sông Gâm ở phía tây và Sông
Bằng ở vùng trung tâm và phía đông, ngoài ra còn có một số sông : sông Quây
5


Sơn , sông Neo , sông Bắc Vọng hay Sông Hiến.
Đa số diện tích Cao Bằng được che phủ bởi rừng vì thế không khí khá
trong sạch ở các vùng nông thôn, các khu dân cư và ở trung tâm thị xã.
Mùa hè ở đây có đặc điểm nóng ẩm, nhiệt độ cao trung bình từ 30 - 32 °C
và thấp trung bình từ 23 - 25 °C, nhiệt độ không lên đến 39 - 40 °C. Vào mùa
đông, do địa hình Cao Bằng đón gió nên nó có kiểu khí hậu gần giống với ôn
đới, nhiệt độ trung bình thấp từ 5 - 8 °C và trung bình cao từ 15 - 28 °C, đỉnh
điểm vào những tháng 12, 1 và 2 nhiệt độ có thể xuống thấp hơn khoảng từ 6 8 °C, độ ẩm thấp, trời hanh khô. Mùa xuân và mùa thu không rõ rệt, thời tiết thất
thường; mùa xuân thường có tiết trời nồm, mùa thu mát, dễ chịu.
Cư dân và đặc trưng văn hóa :
Dân số toàn tỉnh là 507.183 người (theo điều tra dân số ngày 01/10/2009).
Dân số trung bình năm 2009 là 510.884 người.
Các dân tộc ở Cao Bằng gồm Tày (chiếm 41,0% dân số), Nùng (31,1 %),
H'Mông (10,1 %),Dao (10,1 %), Việt (5,8 %), Sán Chay (1,4 %)... Có 11 dân tộc
có dân số trên 50 người.
Nằm ở phía bắc vùng Việt Bắc, nơi địa đầu Tổ quốc, Cao Bằng được
thiên nhiên ưu đãi những tiềm năng du lịch phong phú.
Cao Bằng có núi, rừng, sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn

nhiều nét hoang sơ, nguyên sinh
Khu vực thác Bản Giốc là một thắng cảnh đẹp. Thác nằm trên dòng
chảy của sông Quây Sơn, thuộc xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh.

Thác Bản Giốc – Cao Bằng
6


Động Ngườm Ngao (hang hổ), thuộc xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh
là thế giới của nhũ đá thiên nhiên gồm hàng nghìn hình khối khác nhau, có cái
như đụn gạo, đụn vàng, đụn bạc, hình voi, rồng, hổ báo, mây trời, cây cối, hoa
lá, chim muông.

Động Ngườm Ngao – Cao Bằng
Ngoài ra phải kể đến hồ núi Thang Hen ở huyện Trà Lĩnh.

Hồ Thăng Hen – Cao Bằng
Cao Bằng là vùng đất có truyền thống cách mạng lâu đời, là nơi cội nguồn
của cách mạng Việt Nam.
Tiêu biểu như khu di tích lịch sử cách mạng Pác Bó, thuộc xã Trường Hà,
huyện Hà Quảng. Nơi đây Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân về nước, sống và
làm việc, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập cho dân tộc từ năm 1941
đến 1945

7


Su
ối Lê Nin , Núi Các Mác - Pác Bó - Cao Bằng
Khu di tích Kim Đồng được xây dựng gồm có mộ anh Kim Đồng và

tượng đài khang trang tại chân Rặng núi đá cao đồ sộ, tượng đài anh Kim Đồng
với bộ quần áo nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư, trước tượng đài
có 14 bậc đá và 14 cây lát vươn cao xanh ngắt. Nơi đây có một khoảng sân rộng,
hàng năm thiếu niên và Nhi đồng của tỉnh Cao Bằng, cả nước thường tụ hội tại
đây cắm trại, vui chơi ca hát.

Khu di tích Kim Đồng – Cao Bằng
Khu di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo, nơi thành lập Đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Khu di tích lịch sử Trần Hưng Đạo – Cao Bằng
8


Thành Bản phủ nhà Mạc ở Cao bằng.
Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng :
Khí hậu Cao Bằng mang tính nhiệt đới gió mùa lục địa núi cao và có đặc
trưng riêng so với các tỉnh miền núi khác thuộc vùng Đông Bắc. Có tiểu vùng có
khí hậu á nhiệt đới. Đặc điểm này đã tạo cho Cao Bằng những lợi thế để hình
thành các vùng sản xuất cây, còn phong phú đa dạng, trong đó có những cây đặc
sản như dẻ hạt, hồng không hạt, đậu tương có hàm lượng đạm cao, thuốc lá, chè
đắng… mà nhiều nơi khác không có điều kiện phát triển.
a. Tài nguyên đất :
Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 140.942 ha đất có khả năng phát triển nông
nghiệp, chiếm 21% diện tích tự nhiên. Phần lớn đất được sử dụng để phát triển
cây hàng năm, chủ yếu là cây lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp còn ít.
Hiệu quả sử dụng đất còn thấp, hệ số sử dụng đất mới đạt khoảng 1,3 lần. Đất có
khả năng phát triển lâm nghiệp có khoảng 408.705 ha, chiếm 61,1% diện tích tự
nhiên, trong đó rừng tự nhiên khoảng 248.148 ha, rừng trồng14.448 ha, còn lại
là đất trống, đồi núi trọc. Với phương thức nông lâm kết hợp, căn cứ độ dốc và

tầng đất mặt đối với diện tích đất trống đồi núi trọc có thể trồng cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản và chăn nuôi gia súc kết hợp với trồng rừng theo
mô hình trang trại. Các loại đất chuyên dùng, đất xây dựng khu công nghiệp, đất
xây dựng đô thị và đất xây dựng khác còn nhiều. Tỉnh cần có kế hoạch quản lý,
sử dụng các loại đất trên cho hiệu quả, tạo thêm nguồn lực quan trọng để phát
triển.
b. Tài nguyên rừng:
Hiện trên địa bàn tỉnh chủ yếu là rừng nghèo, rừng non mới tái sinh, rừng
trồng và rừng vầu nên trữ lượng gỗ ít. Rừng tự nhiên còn một số gỗ quý như
nghiến, sến, tô mộc, lát nhưng không còn nhiều, dưới tán rừng còn có một số
loài đặc sản quý như sa nhân, bạch truật, ba kích, hà thủ ô và một số loài thú quý
hiếm như: gấu, hươu, nai, và một số loài chim…Mấy năm gần đây, nhờ có chủ
trương và chính sách xã hội hoá nghề rừng, giao đất giao rừng, thực hiện
chương trình 327, chương trình 5 triệu ha rừng, PAM 5322 và trồng rừng quốc
9


gia nên tài nguyên rừng đang dần được phục hồi, độ che phủ rừng đạt 40% năm
2000, 45% năm 2002, lập lại thế cân bằng sinh thái. Trữ lượng gỗ, lâm sản tăng
lên sẽ có những đóng góp cho nền kinh tế tỉnh trong tương lai.
c. Tài nguyên khoáng sản :
Cao Bằng có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng, đến cuối năm1999,
trên địa bàn tỉnh đã đăng ký 142 mỏ và điểm quặng với 22 loại khoáng sản.
Đáng kể nhất là quặng sắt trữ lượnghàng nghìn triệu tấn, có nhiều công dụng
trong sản xuất vật liệu xây dựng. Số liệu điều tra địa chất hiện có đã cho phép
Cao Bằng hoạch định quy hoạch phát triển khai thác và chế biến đối với các
khoáng sản nêu trên. Đồng thời cần tiếp tục điều tra thăm dò chi tiết hơn đối với
các khoáng sản còn tiềm năng như vàng, đôlômít, thạch anh, antimon, vofram.
Cao Bằng có nhiều cửa khẩu thông thương với Trung Quốc tạo thuận lợi
giao lưu, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá. Bên cạnh đó nguồn tài

nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng cũng là tiền đề để phát triển ngành công
nghiệp của tỉnh. Đất nông – lâm nghiệp còn tiềm năng chưa được khai thác, đất
vườn tạp còn nhiều, khả năng thâm canh tăng vụ còn lớn. Đó là các cơ sở và
cũng là điều kiện cho phép phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả. Với những
đặc điểm địa hình, đất đai, nguồn nước và khí hậu đã tạo cho Cao Bằng có điều
kiện phát triển một nền nông lâm nghiệp đa dạng, phong phú với nhiều loại cây,
con sinh trưởng và phát triển tốt cho sản phẩm có giá trị hàng hoá cao, được thị
trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Nhân dân các dân tộc Cao Bằng có
truyền thống cách mạng, yêu nước, đoàn kết xây dựng quê hương.
d. Tiềm năng du lịch :
Cao Bằng có nhiều tiềm năng về du lịch cả tự nhiên và nhân văn với
những di tích lịch sử, văn hoá được xếp hạng như di tích Pắc Bó, Lam Sơn, khu
rừng Trần Hưng Đạo, khu di tích lịch sử Đông Khê, hầm pháo đài thị xã, thác
Bản Dốc, động Ngườm Ngao, hồ Thang Hen…và các cửa khẩu. Ngoài ra tỉnh
còn có nhiều dân tộc với truyền thống văn hoá, lễ hội đa dạng, độc đáo, sẽ là
điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch.
10


CHƯƠNG II : LỄ HỘI LỒNG TỒNG CỦA DÂN TỘC TÀY
TỈNH CAO BẰNG.
Nguồn gốc lễ hội :
Lễ hội Lồng tồng cũng thường gọi là Hội xuống đồng, là một lễ hội của
dân tộc Tày, cũng là nét quy tụ những sắc thái văn hóa đặc trưng nhất của các
dân tộc như: Nùng, Dao, Sán Chỉ.... Được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời
cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Nơi
tổ chức tại những ruộng tốt nhất, to nhất. Vẫn chưa có tài liệu nào nghiên cứu,
khẳng định lễ hội này có từ bao giờ. Nhưng chắc chắn rằng, khởi nguồn của lễ
hội phải được sinh ra từ xã hội của người Tày khi đã sống thành làng bản quần
cư trong cộng đồng.

Lễ hội diễn ra từ mùng 2 đến 30 tháng Giêng tuỳ thuộc vào sự sắp xếp
của mỗi địa phương.
Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng, hãy cùng em tìm hiểu về
bản sắc văn hóa người Tày, Nùng, Dao với lễ hội Lồng Tồng – lễ hội xuống
đồng.
Lồng Tồng là gọi theo cách của người Tày - Nùng còn người Dao gọi
Lồng Tồng đều có nghĩa là xuống đồng với nhiều nghi thức và thành phần lễ hội
sinh động. Vào ngày hội, tất cả mọi người trong thôn, trong bản đều tham gia
làm lễ. Nhà nào cũng có mâm cúng, có gà luộc, có bánh chưng, thịt lợn, trứng
luộc nhuộm phẩm màu, xôi đỏ, xôi vàng tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng,
cho âm dương, trên mỗi đĩa xôi có một con én màu đỏ làm bằng giấy đậu lên,
những mơ ước, những khát vọng về cuộc sống ấm no, sinh sôi nảy nở, an lành
đều được gửi gắm tất cả vào trong đó.
Khi mặt trời lên, trống hội giục, các gia đình lần lượt đội mâm cúng ra
thửa ruộnglớn nhất trên cánh đồng của bản mường để chuẩn bị cho nghi thức
cầu mùa. Mâm cúng được xếp theo hàng, trên cùng là mâm của thầy Mo - người
11


được kính trọng nhất và cũng là người giữ vai trò chủ trì các nghi lễ trong ngày
hội. Người làm lễ đứng vòng quanh mâm cúng, khi hương thắp, thầy Mo đọc lời
khấn và bắt đầu những nghi thức cầu cúng như tạ lễ thần Nông, Thiên địa, Sơn
Thần, Thuỷ thần… và Thần thành hoàng, những vị thần được cho là có sự tác
động đến hoạt động sản xuất và đời sống của cư dân trong cộng đồng Tày –
Nùng, Dao, cầu cho được mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt sinh sôi nẩy
lộc, bản làng yên ấm. Thầy Mo tay cầm nậm nước làm bằng vỏ bầu khô được
hứng ở đầu nguồn (do các sơn nữ đẹp nhất của các bản mường mang đến) ngửa
mặt lên trời cầu khấn rồi vẩy nước ra khắp bốn phương tượng trưng cho nước
thiêng từ mường trời tưới xuống nhân gian cho cây tươi tốt, cho ruộng nương
được mùa để tất cả người dân bản mường được hưởng phúc. Sau những nghi

thức, sau đường cày khai hội là những chiếc còn xinh xắn rực rỡ sắc màu với
những tua vải dài lê vút lên không trung hướng đến hồng tâm trên ngọn nêu nơi
có hai vòng tròn cao thấp tượng trưng cho Âm - Dương cái gốc của vũ trụ và
sinh ra vạn vật. Chiếc còn được rời tay của người chủ hội đã bắt đầu cho cuộc
vui. Trai gái xúm lại bên những chiếc còn, đón nhận bằng tình cảm, bằng sự chờ
đợi. Ai cũng hy vọng chiếc còn của mình đi qua hồng tâm để Âm - Dương giao
hoà mùa màng được tươi tốt. Và bên kia là những đôi mắt, những bàn tay xinh
đang chờ đợi chiếc còn trao gửi tình cảm của người mình thương yêu. Tiếp đó là
những bài hát Sli mượt mà, tình cảm với những câu Lượn giao duyên rồi nhiều
trò chơi khác như đi cà khoeo, đánh quay, đánh yến đá cầu, đẩy gậy…trai gái có
dịp trổ tài với bản mường làm người xem không muốn dứt trong tiếng Lượn
nàng ới. Phần thưởng thường là mâm cỗ ngon nhất hội cho những ai thắng cuộc
tuy nhiên người chiến thắng lại đem chia cho tất cả mọi người cùng hưởng phúc
lộc ngày xuân. Trong ngày xuân tất cả những vật dụng, cây cối vật nuôi trong
ngày tết đều được dán một mảnh giấy đỏ lên mình như khoác một tấm áo mới để
vui cùng con người sau những ngày lao động vất vả thể hiện tính triết lý và nhân
văn sâu sắc.
Lễ hội Lồng Tồng là một Lễ hội dân gian giàu bản sắc và sinh động trong
các dạng thức biểu hiện, tuy nhiên trước nguy cơ đồng nhất về văn hoá cần có
12


sự phục dựng và bảo tồn kịp thời để không mất đi một lễ, hội đầy ý nghĩa trong
ngày xuân và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc ở các tỉnh miền núi
Cao Bằng khai xuân với các lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa.
Hàng loạt các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa của đồng
bào các dân tộc trong tỉnh như: lễ hội đền vua Lê, lễ hội đề Kỳ Sầm, lễ hội Pháo
hoa,… Mỗi một lễ hội đều gắn với phong tục tập quán riêng có của một vùng,
địa phương hay của một dân tộc nhất định nhưng đa số các lễ hội tại Cao Bằng
đều bao gồm hai phần, gồm: phần lễ là các nghi thức dâng hương mang ý nghĩa

văn hóa tâm linh và phần hội là các trò chơi dân gian truyền thống mang đến
niềm vui, sự hứng khởi để bắt đầu công việc của một năm mới với hy vọng sẽ
tốt đẹp hơn.

Cao Bằng khai xuân với các lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa
Lễ hội Lồng tồng là lễ hội gắn liền với nền nông nghiệp, được tổ chức
trong các bản làng để cầu cúng thần nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn
tược, gia súc, làng bản cho được cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu, gia súc
sinh sôi, mọi người no ấm, bản làng yên lành. Lễ hội Lồng tồng đã có từ rất lâu
đời, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày,
Nùng, ở Cao Bằng Lễ hội diễn ra từ ngày 2 đến 30 tháng giêng âm lịch để mở
13


mùa gieo trồng mới (tùy theo từng địa phương)
Lễ hội Lồng Tồng truyềnthống :
a. Quy trình chuẩn bị :
Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước
sau:
1. Chuẩn bị : Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn

chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ
hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị
đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội
sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích,
rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ
cho thần...
2. Vào hội : nhnều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi
thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt
động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít

khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối
bởi các hoạt động trong những ngày này.
3. Kết thúc hội : ( xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ.
Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và
mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời
ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố
cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.
Lễ hội Lồng Tồng với nhiều nghi thức và thành phần lễ hội sinh động.
Vào ngày hội, tất cả mọi người trong thôn, trong bản đều tham gia làm lễ. Nhà
nào cũng có mâm cúng, có gà luộc, có bánh chưng, thịt lợn, trứng luộc nhuộm
phẩm màu, xôi đỏ, xôi vàng tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng, cho âm
dương, trên mỗi đĩa xôi có một con én màu đỏ làm bằng giấy đậu lên, những mơ
ước, những khát vọng về cuộc sống ấm no, sinh sôi nảy nở, an lành đều được
gửi gắm tất cả vào trong đó.

14


Thầy mo làm lễ
Khi mặt trời lên, trống hội giục, các gia đình lần lượt đội mâm cúng ra
thửa ruộng lớn nhất trên cánh đồng của bản mường để chuẩn bị cho nghi thức
cầu mùa. Mâm cúng được xếp theo hàng, trên cùng là mâm của thầy Mo - người
được kính trọng nhất và cũng là người giữ vai trò chủ trì các nghi lễ trong ngày
hội. Người làm lễ đứng vòng quanh mâm cúng, khi hương thắp, thầy Mo đọc lời
khấn và bắt đầu những nghi thức cầu cúng như tạ lễ thần Nông, Thiên địa, Sơn
Thần, Thuỷ thần… và Thần thành hoàng, những vị thần được cho là có sự tác
động đến hoạt động sản xuất và đời sống của cư dân trong cộng đồng Tày –
Nùng, Dao, cầu cho được mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt sinh sôi nẩy
lộc, bản làng yên ấm. Thầy Mo tay cầm nậm nước làm bằng vỏ bầu khô được
hứng ở đầu nguồn (do các sơn nữ đẹp nhất của các bản mường mang đến) ngửa

mặt lên trời cầu khấn rồi vẩy nước ra khắp bốn phương tượng trưng cho nước
thiêng từ mường trời tưới xuống nhân gian cho cây tươi tốt, cho ruộng nương
được mùa để tất cả người dân bản mường được hưởng phúc. Sau những nghi
thức, sau đường cày khai hội là những chiếc còn xinh xắn rực rỡ sắc màu với
những tua vải dài lê vút lên không trung hướng đến hồng tâm trên ngọn nêu nơi
có hai vòng tròn cao thấp tượng trưng cho Âm - Dương cái gốc của vũ trụ và
sinh ra vạn vật. Chiếc còn được rời tay của người chủ hội đã bắt đầu cho cuộc
vui. Trai gái xúm lại bên những chiếc còn, đón nhận bằng tình cảm, bằng sự chờ
đợi. Ai cũng hy vọng chiếc còn của mình đi qua hồng tâm để Âm - Dương giao
hoà mùa màng được tươi tốt. Và bên kia là những đôi mắt, những bàn tay xinh
đang chờ đợi chiếc còn trao gửi tình cảm của người mình thương yêu. Tiếp đó là
15


những bài hát Sli mượt mà, tình cảm với những câu Lượn giao duyên rồi nhiều
trò chơi khác như đi cà khoeo, đánh quay, đánh yến đá cầu, đẩy gậy…trai gái có
dịp trổ tài với bản mường làm người xem không muốn dứt trong tiếng Lượn
nàng ới. Phần thưởng thường là mâm cỗ ngon nhất hội cho những ai thắng cuộc
tuy nhiên người chiến thắng lại đem chia cho tất cả mọi người cùng hưởng phúc
lộc ngày xuân. Trong ngày xuân tất cả những vật dụng, cây cối vật nuôi trong
ngày tết đều được dán một mảnh giấy đỏ lên mình như khoác một tấm áo mới để
vui cùng con người sau những ngày lao động vất vả thể hiện tính triết lý và nhân
văn sâu sắc.
Dưới đây là 1 số hình ảnh về phần lễ của lễ hội :

16


17



18


Hội tổ chức ngoài trời, trên một thửa ruộng lớn gọi là ruộng xuống đồng.
Vẫn theo lệ từ ngàn xưa, Hội chia thành hai phần: Phần lễ có tạ thiên địa, cầu
thần Nông, thần Phục Hy độ trì cho mưa thuận gió hoà, gia cầm sinh sôi, bản
làng bình yên no ấm... Chủ trì hội là ông thại đinh (người coi đình) hay người
coi việc thờ cúng Thần Nông của bản. Tất cả gia đình tham dự hội đều mang
theo cỗ để làm lễ vật cúng thần đất, thần núi, Thần Nông và Thành Hoàng : đó là
những mâm cỗ thịnh soạn, trình bày đẹp. Mâm lễ thường có xôi nếp, thịt lợn,
rượu trắng và các loại bánh như khẩu sli, khẩu slec, bánh khảo, bánh dày, chè
lam...Ở một số hội qui mô lớn, người chủ trì còn cho tổ chức lễ hiến tam sinh
(trâu, heo, gà hay heo, dê, gà). Trên thửa ruộng xuống đồng đàn tế Thần Nông
và các thần khác được trần thiết. Lễ hội bắt đầu khi chiêng trống nổi lên, rồi các
bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, còn các
gia đình thì rước cỗ bày ra trên bãi hội. Người chủ trì hội xướng bài mo cúng
chư thần rồi tuyên bố phá cỗ . Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều
khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình thì xem đó là điều may mắn cho cả
năm. Có nơi các vị bô lão được mời đi thưởng cỗ , có thanh niên gái trai đi theo
múa hát, chúc cho từng gia đình vạn sự tốt lành. Ăn cỗ xong, mọi người tiếp tục
ca hát và tham gia các trò chơi dân gian : cuớp còn (như người Mường, người
19


Việt vùng trung du chơi cướp nõn nường ), ném còn, kéo co, đánh quay, đánh
yến, đánh đu, múa kỳ lân, múa sư tử, múa võ, múa giáo, bịt mắt bắt dê, hát giao
duyên(hát lượn), thi sản vật địa phương, cờ tướng ….
Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ,
như: múa rồng, múa lân, tung còn, hát lượn, tranh đầu pháo... Trò chơi tiêu biểu

của lễ hội là trò cướp đầu pháo, đầu pháo làm từ chiếc vòng sắt trang điểm tua
ngũ sắc sặc sỡ, pháo được đặt trên một đài cao, sau khi đốt pháo, chờ cho đầu
pháo rơi xuống, các đội bắt đầu tranh cướp, đội nào cầm được đầu pháo mang
đến cho Ban Tổ chức là đội thắng cuộc. Gần đây, khi có lệnh cấm đốt pháo, Ban
Tổ chức đã tiến hành trò chơi bằng cách đứng trên đài cao rồi tung vòng sắt (đầu
pháo) ra cho các đội tranh cướp như thường lệ. Theo quan niệm của người dân
địa phương thì ai bắt được vòng lộc pháo thì cả năm sẽ gặp may mắn, phát tài,
phát lộc và đem lại vinh dự lớn cho xã mình. Xã nào thắng cuộc sẽ được phần
thưởng là một con lợn quay trên kiệu trong lễ rước thần, cỗ kiệu cũng được để
lại cho xã đó hương khói cầu lộc một năm đến lễ hội pháo hoa năm sau, địa
phương này lại chuẩn bị một con lợn quay để lên kiệu, đoàn rước rồng sẽ đến
lấy làm lễ rước thần, đồng thời làm phần thưởng cho đội thắng cuộc thi năm đó.
Một số trò chơi đặc sắc trong phần hội như là :
Ném còn là trò chơi vui nhất, đông người tham gia nhất, người dân quan
niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng
tâm thì năm đó bản làng mới có thể làm ăn thuận lợi. Gái trai chia làm hai phe
để hát sli, lượn, là hai hình thức đối ca giao duyên nam nữ, thể hiện tục cầu mùa,
còn trò chơi kéo co giữa các cô gái chàng trai Tày Nùng vừa mang tính chất cầu
mùa, cầu mưa, cầu nước như một nghi lễ tín ngưỡng nông nghiệp lâu đời. Đặc
biệt các điệu hát Sli ( Nùng ) , Lượn ( Tày ) quen thuộc được biểu diễn một cách
tự nhiên trong làng , ở khe suối hay ở các cánh rừng. Là lễ hội quan trọng nhất
của vùng Đông Bắc nên mọi người đều mặc y phục sắc tộc đẹp nhất, các bà, các
cô được tô điểm bằng đồ trang sức quí nhất. Điệu múa tiêu biểu của hội lồng
tồng là múa sư tử . Những điệu múa lễ hội khác của người Tày Nùng là xòe
chiêng , múa then. Khi trời tối cũng là lúc không khí hội chuyển sang sự hấp dẫn
20


khác. Lửa trại được nhóm bùng lên. Những là hát cọi vang lên. Câu ca "Gốc cọi
ở mường trời, tổ cọi ở xứ tiên" từ miệng hoa của người con gái thường được mở

đầu cho các làng hát cọi đối đáp nhau. Ngoài ra, hội còn tổ chức thi hát lượn, hát
sli, thu hút đông người tham gia.

Trò chơi ném còn
Trò kéo co

21


22


Hát và múa giao duyên :

23


Trò bịt mắt bắt dê :

Đẩy gậy :

24


Múa rồng , múa lân :

25



×