Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Bàn về thuế lương thực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.61 KB, 27 trang )

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BÀN VỀ THUẾ LƯƠNG THỰC”
(V.I Lênin: Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ Maxtcơva, 1979, tr. 244-296)
NCV Cao cấp, TS. Phạm Ngọc Dũng
Nguyễn Thị Thúy Nga
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
1- Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Sau cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và 3 năm nội
chiến với sự can thiệp quân sự nước ngoài, nước Nga rơi vào tình trạng hết
sức nặng nề cả về phương diện kinh tế, chính trị và xã hội.
Về kinh tế - xã hội: Nền kinh tế quốc dân bị suy sụp nặng nề: trên 20
triệu người chết trong đó 1/7 dân số nước Nga, khoảng 30% là nam giới ở độ
tuổi lao động. Nguồn của cải bị tiêu huỷ trong các cuộc chiến tranh đó rất lớn,
1/4 tài sản quốc dân bị tiêu huỷ. Đại đa số các xí nghiệp công nghiệp ở tình
trạng đình đốn, nhiều nhà máy ngừng hoạt động, đặc biệt các ngành công
nghiệp nặng, so với trước chiến tranh, sản lượng công nghiệp nặng giảm 7
lần. Ngành giao thông ở vào tình trạng tê liệt, do nhiên liệu thiếu, lương thực
thực phẩm không đủ. “Thêm vào đó, nạn mất mùa năm 1920, nạn thiếu thức
ăn gia súc, nạn chết súc vật”1 đã làm cho đời sống nhân dân điêu đứng đến
mức không thể chịu nổi. Tình hình kinh tế, xã hội như vậy dẫn đến tình chính
trị trở nên phức tạp. Hai giai cấp cơ bản trong xã hội là công nhân và nông
dân của chế độ Xôviết đều có vấn đề.
Về kết cấu kinh tế, xã hội, giai cấp: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
gồm kinh tế gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, tư bản tư nhân, kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế chủ nghĩa xã hội cùng tồn tại. Nước Nga rộng lớn
và hỗn tạp đang tồn tại “những thành phần, những bộ phận, những mảnh của
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”2.
1
2

V.I Lênin: Toàn t?p, t?p 43, Nxb Ti?n b? Maxtcova, 1979, tr.262.
Sdd: tr.248.




Cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước Nga rất phức tạp gồm giai cấp tư sản, tiểu
tư sản, giai cấp vô sản, trong đó “Tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và
không thể không chiếm ưu thế, số đông, thậm chí đại đa số nông dân là
những người sản xuất nhỏ”3.
Lực lượng giai cấp vô sản ít ỏi, trong khi đó, tầng lớp tiểu tư sản rất đông,
chiếm phần lớn dân cư, nhất là “quần chúng nửa vô sản” có ảnh hưởng rất lớn
đến giai cấp vô sản. Do các ngành công nghiệp chưa phát triển và đình đốn
nên số lượng đội ngũ giai cấp vô sản đã ít lại giảm đi nhiều. Đời sống bị cùng
cực, một bộ phận trong công nhân đã tha hoá, biến chất, mất gốc giai cấp và
tỏ ra bất mãn với Chính quyền Xôviết, thậm chí trong hàng ngũ công nhân đã
có một bộ phận nảy sinh tư tưởng hoài nghi, thất vọng, không tin tưởng vào
đường lối xây dựng phát triển kinh tế của Chính quyền Xôviết. Một số trong
đội ngũ những người vô sản, cũng đã diễn ra những cuộc bãi công tại một số
xí nghiệp ở Pêtrôgrát và thành phố khác. Họ công khai đòi Chính quyền Xô
viết cho buôn bán trao đổi sản phẩm công, nông nghiệp, đòi hạn chế hoạt
động của các đội kiểm soát đang cản trở tập thể và tư nhân chuyên chở sản
phẩm nông nghiệp vào thành phố.
Giai cấp nông dân dưới chế độ trưng thu lương thực thừa, cũng bất mãn
đối với Chính quyền Xôviết. Nhiều nông dân nghĩ rằng sản xuất để làm gì khi
sản phẩm làm ra bị tịch thu hết. Chẳng hạn, nông dân Cainô ở một làng nhỏ ở
ngoại ô Mátxcơva công khai bày tỏ không mở rộng sản xuất, chỉ gieo trồng
đủ lương thực tiêu dùng cho gia đình. Thậm chí, còn bất bình với chế độ
trưng thu lương thực thừa bằng việc ngừng sản xuất. Lương thực suy giảm, sự
bất mãn của nông dân đối với chính sách của Chính quyền Xôviết ngày càng
tăng, nhât là chính sách trưng thu lương thực thừa. Trên thực tế nó đã biến
thành những cuộc bạo loạn, đặc biệt đáng lưu ý là cuộc bạo loạn ở Tambốptỉnh sản xuất lúa mì chủ yếu của nước Nga lúc bấy giờ. Hàng nghìn người đã
tham gia cuộc bạo loạn đòi bãi bỏ chế độ trung thu lương thực thừa;
3


Sdd: 248.


Các thuỷ thủ cũng rất bất mãn, các cuộc nổi dậy của nông dân chưa phải
là đỉnh cao của bạo loạn. Đỉnh cao của cuộc bạo loạn là cuộc nổi dậy của thủy
thủ tại căn cứ hải quân Crônstát, tháng 3 năm 1921. Điều đáng nói về cuộc
bạo loạn này là nhiều binh lính đã từng anh dũng bảo vệ Chính quyền Xôviết
lại đứng vào hàng ngũ những người bạo loạn. Những người tham gia bạo loạn
đưa ra khẩu hiệu đòi bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa, thực hiện chế
độ tự do buôn bán sản phẩm, trước hết là lúa mì. Một số người cộng sản đã
có biểu hiện bi quan dao động, không kiên định lập trường giai cấp.
Phần tử phản cách mạng: Lênin đánh giá tư sản và tầng lớp tiểu tư sản,
“… không tin chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản nào hết, họ chỉ ngồi chờ
cho qua cơn bão táp vô sản”4. Những người tư sản và tiểu tư sản ấy chờ cơ hội
để lật đổ chính quyền công nông”.
Thực tế, họ ra sức lợi dụng sự bất bình của công nhân, nông dân, binh
lính và sự dao động của những người cộng sản không kiên định lập trường
cách mạng để phá hoại công cuộc xây dựng kinh tế. Toàn bộ tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội trong nước nêu trên đã làm suy yếu cơ sở xã hội của chuyên
chính vô sản, đe doạ sự tồn tại của Chính quyền Xôviết.
Lênin cho rằng nguyên nhân sâu xa và chủ yếu nhất dẫn đến tình trạng
làm hẹp cơ sở xã hội của Chính quyền Xôviết là do sự bất mãn của đông đảo
quần chúng nhân dân, nhất là nông dân đối với chính sách kinh tế - xã hội của
Đảng Bônsêvích. Lênin thừa nhận: “Đến năm 1921, chúng tôi vấp phải một
cuộc khủng khoảng chính trị bên trong nước Nga xôviết. Đó là cuộc khủng
khoảng lớn nhất. Cuộc khủng khoảng đó đã làm cho một bộ phận khá lớn
nông dân, mà cả công nhân, binh lính bất bình”5.
Về tình hình chính trị quốc tế: Bọn đế quốc bị thất bại trong cuộc chiến
tranh công khai hằn thù, chống nước Nga xôviết, âm mưu bóp nghẹt Chính

quyền của giai cấp vô sản bằng kinh tế. Mặt khác, tình hình quốc tế có những
thay đổi mang tính bước ngoặt. Hy vọng vào thắng lợi đồng loạt của cách
4
5

Sdd: 250.
Sdd: T.45, tr.327.


mạng vô sản ở các nước phương Tây và phương Đông không thực hiện được.
Bối cảnh quốc tế ấy đã khiến nước Nga xôviết trẻ tuổi có khả năng phải tồn
tại ở trạng thái biệt lập, đơn độc trong một thời gian tương đối dài. Bởi vậy,
chiến lược về sự cùng tồn tại hoà bình với thế giới các nước tư bản chủ nghĩa
đã được hình thành rõ nét hơn. Bởi vì, theo Lênin, “Hiện nay, tình hình quốc
tế đã sản sinh một thế cân bằng, dù là tạm thời, không ổn định, nhưng dẫu
sao thì đó cũng vẫn là thế cân bằng”6.
Tình hình khủng khoảng kinh tế, chính trị, xã hội đó là do thực hiện chế
độ trưng thu lương thực thừa và thi hành Chính sách cộng sản thời chiến trong
thời bình; Về mặt chính trị đó là sự thiếu tổ chức và không đưa ra được chính sách
kinh tế phù hợp với thực tiễn nước Nga lúc đó.

2- Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng cộng sản (b)
Nga
Trong điều kiện vô cùng khó khăn phức tạp như vậy, Đại hội X Đảng
cộng sản (b) Nga đã đề ra đường lối mới xây dựng CNXH nhằm đưa nước
Nga vượt qua khó khăn. Đại hội X Đảng cộng sản Nga nhấn mạnh: Phải thay
Chính sách cộng sản thời chiến bằng Chính sách kinh tế mới; Nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong công cuộc hoà bình xây dựng kinh tế;
nhấn mạnh tính tất yếu liên minh giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân
trong sự nghiệp cải tạo và xây dựng XHCN.

Thực hiện hai nội dung trọng tâm là liên minh giai cấp công nông và
việc áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP). Lênin đã viết nhiều văn kiện và
công trình nghiên cứu về nhiều vấn dề trong đó có NEP. Cuốn sách mỏng
Bàn về thuế lương thực, Lênin viết vào tháng 5 năm 1921 đã góp phần quan
trọng giải thích thực chất của liên minh công nông và NEP.
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Nga đã quyết định đặc biệt,
yêu cầu các tổ chức Đảng ở khu, tỉnh, huyện phải sử dụng rộng rãi tác phẩm
Bàn về thuế lương thực trong công tác tuyên truyền chuẩn bị và triển khai,
thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Sdd: T. 43, tr.409, Di?n văn b? m?c H?i ngh? X toan Nga.

6


II. Tư tưởng chính trị cơ bản và kết cấu của tác phẩm
1- Tư tưởng chính trị cơ bản
Lênin và Đảng Bônsêvích có quyết tâm chính trị là thay Chính sách cộng
sản thời chiến bằng NEP nhằm phục vụ cho công cuộc hoà bình và ổn định
chính trị xây dựng CNXH trên đất Nga Xôviết
Chính sách cộng sản thời chiến là cần thiết, buộc phải áp dụng trong
thời chiến, nó là bảo đảm thắng lợi của chiến tranh, giữ vững chính quyền
công nông. Nhưng về mặt cải tạo XHCN và phát triển nền kinh tế, ổn định
chính trị khi sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, thì chính sách đó thoát ly đặc điểm
tình hình cụ thể nước Nga. Vì vậy, nếu tiếp tục thực hiện nó là sai lầm nghiêm
trọng. Trước tình hình kinh tế, chính trị, xã hội diễn ra vào những năm 1920,
Lênin khẳng định: “Việc áp dụng một phương sách sử lý mới trong nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa đã trở thành tuyệt đối cần thiết”7.
Từ Đại hội X Đảng cộng sản Nga (3 năm 1921), nước Nga xôviết đã
chuyển từ Chính sách cộng sản thời chiến sang NEP. Đó là bước ngoặt quan
trọng trong việc tìm con đường xây dựng CNXH. Lênin và Đảng cộng sản (b)

Nga quyết tâm chuyển sang NEP do các nguyên nhân kinh tế, chính trị - xã
hội cơ bản sau:
Về kinh tế: Nếu chúng ta tiếp tục thực hiện Chính sách cộng sản thời
chiến, tình hình kinh tế sẽ ngày càng khó khăn, nhất là tình trạng thiếu lương
thực, thực phẩm. Nông dân không những không hài lòng về chế độ trưng thu
lương thực thừa, mà họ còn không muốn tiếp tục sống theo kiểu cũ nữa. Mặt
khác, Lênin dùng biện pháp nông trang tập thể với "nền nông nghiệp lớn
XHCN" không thực hiện được, chỉ có 0,4% số hộ tham gia nông trang tập thể.
Nhà nước đầu tư lớn vào nông trang tập thể nhưng lương thực cung cấp cho
nhà nước chỉ chiếm 0,04% tổng số lương thực thừa. Do vậy, phải gấp rút khôi
phục và phát triển kinh tế, mà phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân và nông
thôn, cần nghĩ về chính sách đối với nông dân, cần phải tìm một hình thức
7

Sdd: T.45, tr. 102.


liên minh với nông dân. Muốn vậy, phải có thái độ chính trị bằng việc thay
chế độ trưng thu lương thực thừa bởi thuế lương thực;
Về chính trị: Từ khó khăn về kinh tế sẽ dẫn đến tình hình chính trị sẽ
càng phức tạp thêm, sự phản đối của công nhân, nông dân, binh lính và các
tầng lớp lao động khác đối với Chính quyền Xôviết sẽ tăng lên. Bọn phản
cách mạng trong nước và quốc tế lợi dụng tình hình kinh tế, rối ren chính trị,
xã hội trong nước sẽ can thiệp sâu hơn nữa vào Chính quyền Xôviết. Cứ tiếp
tục như vậy, Chính quyền Xôviết sẽ không thể đứng vững được. Theo Lênin,
thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực có tác dụng to
lớn cả kinh tế và chính trị - xã hội, trước hết là vấn đề chính trị, Thực chất vấn
đề ấy là thái độ của giai cấp công nhân đối với nông dân. Thay chế độ trưng
thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, phát triển trao đổi sản phẩm giữa
công nghiệp và nông nghiệp là bắt đầu thực hiện liên minh kinh tế. Liên minh

kinh tế là cơ sở vững chắc để xây dựng liên minh chính trị, củng cố chuyên
chính vô sản;
Chính sách cộng sản thời chiến không còn phù hợp, thậm chí mâu
thuẫn với những điều kiện mới của giai đoạn hoà bình xây dựng kinh tế. Do
chiến tranh tàn phá “buộc chúng ta phải thi hành Chính sách cộng sản thời
chiến”. Nó không phải, và không thể là chính sách phù hợp với nhiệm vụ kinh
tế của giai cấp vô sản. Nó chỉ là biện pháp tạm thời”. “Chỉ có chính sách thuế
lương thực mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản. Chỉ có chính sách
đó mới có thể củng cố được cơ sở của chủ nghĩa xã hội”8. Lênin yêu cầu tất
cả những người cộng sản và những ai ủng hộ NEP cần tin rằng, NEP là tuyệt
đối cần thiết với nước Nga nông nghiệp lạc hậu trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Các lý do trên đã đặt ra cho Lênin và Đảng cộng sản Nga quyết tâm
chuyển sang NEP.
Chế độ cộng sản thời chiến trên thực tế “Chúng ta đã lấy của nông dân
tất cả những lương thực thừa, thậm chí đôi khi cả một phần lương thực cần
8

Sdd: tr.265.


thiết cho sự sinh sống của họ”9. Trong thời kỳ chiến tranh, chế độ đó thực
hiện có hiệu quả. Vì, trước sự nô dịch và mất nước, nhân dân đã đặt lợi ích
chính trị, lợi ích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giành độc lập cho Tổ
quốc lên trên lợi ích vật chất. Lương thực thừa, thậm chí một phần lương thực
tất yếu và các tài sản khác, người nông dân vẫn sẵn sàng đóng góp, không kể
công sức của mình. Việc liên minh chính trị với giai cấp nông dân rất dễ
dàng. Đến thời kỳ hoà bình xây dựng XHCN, một mặt vẫn phải giữ vững lợi
ích chính trị, nhưng phải đảm bảo lợi ích kinh tế. Chế độ cộng sản thời chiến
tiếp tục thực hiện trong thời bình đã vi phạm nghiêm trọng lợi ích kinh tế đối
với nông dân. Giai cấp công nhân không giúp nông dân phát triển kinh tế thì

liên minh chính trị cũng sẽ không thể thực hiện được.
2- Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm gồm 3 phần (49 tr, 247-296):
Phần 1: Tình hình kinh tế hiện nay của nước Nga (15 trang, 247-262).
Phần này Lênin trích lại một đoạn dài trong cuốn sách “Về bệnh ấu trĩ tả
khuynh và tính tiểu tư sản” xuất bản năm 1918, nhằm giới thiệu lại lý luận về
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong phần này, Lênin đã phân tích tính chất quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH ở Nga lúc đó. Tính chất quá độ đó thể hiện
ở chỗ, “hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”. Từ sự phân tích tính chất quá độ, “Tình
trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu”, bản chất của Nhà nước Xôviết,
“Sự kiểm kê, kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản
phẩm”, Lênin vạch rõ 3 điểm chủ yếu:
a). Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến hơn kinh tế tư bản chủ
nghĩa tư nhân và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Vì 3 lý do: 1. Tính chất của
bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; 2. Thế lực tự phát của
nền sản xuất nhỏ đang cản trở nghiêm trọng đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội; 3. Bản chất Chính quyền Xôviết là Nhà nước chuyên chính vô
sản;
9

Sdd: 264.


b) Vì sao, nước Nga phải thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lênin
khẳng định, đối với tình hình kinh tế - xã hội của nước Nga lúc đó, phương án
tốt nhất là thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước để lên chủ nghĩa xã hội;
c) Chuyển sở hữu chủ nghĩa tư bản nhà nước lên sở hữu XHCN như
thế nào.
Phần 2: Về thuế lương thực, tự do buôn bán và những tô nhượng (24 tr.,

262-286). Trong phần này Lênin trình bầy 3 vấn đề:
a) Về thuế lương thực. Trước hết, Lênin giải thích vì sao phải thay chính
sách trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực; tác dụng của nó như thế
nào; chủ trương ra sao; Lênin phê phán những nhận thức sai lầm và giaỉ thích
vì sao nước Nga phải sử dụng Chính sách cộng sản thời chiến, thời kỳ hoà
bình xây dựng, phải áp dụng NEP như thế nào là phù hợp. Muốn đạt được
mục đích nâng cao lực lượng sản xuất của nông dân, cải thiện được đời sống
của công nhân “Cần phải có sự sửa đổi lớn trong chính sách lương thực. Thay
chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực là một trong những
sửa đổi đó”.
b). Về tự do buôn bán. Cho tự do buôn bán sẽ dẫn đến sự sống lại tính tự
phát tiểu tư sản và của chủ nghĩa tư bản. Trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều
thành phần, đặc biệt kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế, Nhà nước chuyên chính
vô sản nên thi hành theo chính sách nào? Có sợ chủ nghĩa tư bản sống lại
không? Theo Lênin “Không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản, mà tìm cách hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà nước”;
Liệu có thể kết hợp được Nhà nước chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản
nhà nước không? Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước như thế
nào?
c). Những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước: Lênin trình bầy cặn
kẽ chế độ tô nhượng. Đó “là hình thức đơn giản nhất, rõ ràng nhất, sáng tỏ
nhất”. Chế độ tô nhượng là gì, thi hành chế độ tô nhượng có lợi gì, thực hiện
chế độ cần thứ gì; sau trình bầy về chế độ tô nhượng, Lênin cho rằng “Các


hình thức hợp tác xã cũng là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Chủ
nghĩa tư bản nhà nước “hợp tác xã” là như thế nào, sự khác nhau giữa tô
nhượng và “hợp tá xã”; Các hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước:
Nhà nước vô sản sử dụng nhà tư bản như thế nào, Nhà nước cho các nhà tư
bản thuê những cơ sở sản xuất; Lênin cũng đã phê phán những quan điểm,

nhận thức sai lầm của những người cộng sản không tán thành chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Đồng thời, Lênin phê phán chủ nghĩa quan liêu do tình trạng
sản xuất nhỏ nó đã cản trở cho sự nhận thức và thực hiện chủ nghiã tư bản
nhà nước nói chung, Chính sách thuế lương thực nói riêng; Xây dựng Đảng,
củng cố bộ máy quản lý nhà nước, phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
Phần 3: Tổng kết và kết luận chính trị (8 tr, 286-294). Trong phần này,
sau khi phân tích một cách sơ lược cục diện chính trị, Lênin đề cập đến sự cần
thiết thắt chặt hơn nữa mối liên hệ giữa Đảng cộng sản với quần chúng lao
động ngoài đảng hoặc đứng ngoài chính trị bằng cách đưa quần chúng “Tham
gia vào công tác của các xô viết, mà trước hết là vào các công tác kinh tế”;
Kết luận:. (2 tr, 294-296).
III. Những nội dung tư tưởng chính trị chủ yếu
1- Phương pháp luận Lêninit về việc phân tích kết cấu kinh tế - xã hội
nước Nga thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khi phân tích kết cấu kinh tế - xã hội nước Nga thời kỳ quá độ lên
CNXH, Lênin đã đưa ra những quan điểm có tính phương pháp luận nhằm
đảm bảo sự nhất trí trong Đảng về nhận thức đối với các chính sách, hình
thức, biện pháp, phương thức tiến hành cách mạng của Đảng. Lênin nhấn
mạnh rằng, Đảng phải “biết tình hình thực tế”, phải “nhìn thấy sự vật hiện
có”, “biết nhìn thẳng vào sự thật”10, về vị trí, vai trò của mình trong cuộc cách
mạng, đồng thời nhận thức rõ hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, mối quan hệ giữa
Đảng và quần chúng nhân dân. Lênin viết: “Chúng ta thường nhắc đi nhắc lại
rằng, chúng ta đang chuyển từ chủ nghia tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà
quên không nhận cho đúng, cho rõ xem chúng ta là những ai ..., cần phải nhớ
10

Sdd: tr.254.


danh sách tất cả các bộ phận, các chế độ kinh tế khác nhau, không trừ một

chế độ nào đã hợp thành nền kinh tế quốc dân của chúng ta”. “Chúng ta là
là đội tiền phong của giai cấp vô sản, nhưng đội ngũ tiên tiến chỉ chỉ là bộ
phận nhỏ trong quần chúng nhân dân”11.
Chỉ có nhận thức rõ thực tiễn vận động, biến đổi và khuynh hướng phát
triển của nó, nhất là trong thời kỳ quá độ lên CNXH mà phân tích kết cấu
kinh tế - xã hội thì mới có những sáng tạo mới trong lý luận và chính sách và
biện pháp. Đường lối chính trị, chính sách, luật pháp dựa trên lợi ích của giai
cấp công nhân và toàn xã hội, nhưng phải xuất phát từ thực tiễn, bối cảnh lịch
sử - cụ thể trong nước và quốc tế.
Từ quan điểm có tính phương pháp luận đó, Lênin yêu cầu Đảng Cộng
sản (b) Nga “Phải biết nghĩ đến mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia trưởng, từ nền tiểu sản xuất tư bản
chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”12. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của
Lênin về thời kỳ quá độ.
2- Quan niệm mới của Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
dưới góc độ kinh tế, chính trị - xã hội
Trong tự nhiên cũng như trong xã hội, từ cái cũ chuyển sang cái mới
bao giờ cũng là 1 quá trình, có trạng thái quá độ, cần 1 thời gian nhất định,
trong đó cái cũ thoái hoá dần, cái mới ra đời, lớn lên và tiến tới giữ địa vị
thống trị. Sự biến đổi từ cái cũ sang cái mới không diễn ra trong khoảnh khắc,
có ranh giới rõ ràng, mà biến đổi dần dần. Thời kỳ biến đổi đó gọi là thời kỳ
quá độ từ cái cũ sang cái mới.
Lênin đưa ra 1 ví dụ cụ thể nhất về chủ nghĩa tư bản nhà nước đó là
nước Đức, để nêu lên điều kiện vật chất để thực hiện CNXH. L viết "năm
1918, nước Đức và nước Nga đã thể hiện rõ ràng hơn hết điều kiện vật chất để

11
12

Sdd: tr.274.

Sdd: tr.276.


thực hiện CNXH: một mặt là điều kiện kinh tế, sản xuất kinh tế- xã hội, mặt
khác là điều kiện chính trị"13
Lênin đã khẳng định "không có kỹ thuật đại TBCN được xây dựng trên
những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức nhà
nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức
nghiêm ngặt 1 tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối
sản phẩm, thì không thể nói đến CNXH được"

13

. Những điều kiện này

CNTBNN ở Đức đã có đầy đủ nhiệm vụ của nước Nga XV là phải học tập
CNTBNN của người Đức, dốc hết sức ra bắt chước nó.
Đồng thời Lênin cũng khẳng định "nếu không có sự thống trị của giai
cấp vô sản thì cũng không thể nói đến CNXH được". Điều này ở nước Nga đã
có sau Cách mạng tháng 10.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ về chính trị giai cấp công nhân phải giữ
vững chính quyền của mình, còn về kinh tế phải ra sức học tập CNTBNN của
Đức để xây dựng điều kiện vật chất của CNXH. Cụ thể:
- Về chính trị: trong thời kỳ quá độ và trong CNXH có sự lãnh đạo của
giai cấp vô sản đối với toàn xã hội, chính quyền là của giai cấp công nhân và
của nhân dân lao động, tiếp tục củng cố liên minh công nông. Đảng của giai
cấp vô sản phải giữ vững vai trò lãnh đạo.
- Về kinh tế: chính kinh nghiệm những năm xây dựng CNXH theo
Chính sách cộng sản thời chiến với bối cảnh chính trị quốc tế và thực tiễn cụ
thể nước Nga những năm 20 đã giúp Lênin có nhận thức mới về thời kỳ quá

độ “ nước Nga chưa có cơ hội thực hiện “bước chuyển trực tiếp” lên CNXH”.
Người khẳng định: “ Không nghi ngờ gì nữa ở một nước tiểu nông chiếm
tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng
một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt”14. Những biện pháp quá độ đó là:

13
14

sđd. tr.253.
Sdd: tr.68.


Một là, Thuế lương thực là một trong những hình thức quá độ chính trị
từ chế độ cộng sản thời chiến sang chế độ trao đổi sản phẩm bình thường.
Lênin nêu ra những khó khăn về kinh tế, chính trị - xã hội trong nước và quốc
tế từ năm 1918-1921 và đã rút ra kết luận là Đảng cộng sản (b) Nga buộc
“Phải dùng những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải
thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ”15. Chỉ
bằng con đường ấy chúng ta mới có thể cải thiện được đời sống của công
nhân, tăng cường được liên minh công nông, củng cố được chính quyền vô
sản. Lênin chỉ ra: "Thuế lương thực là một trong những hình thức quá độ từ
chế độ cộng sản thời chiến sang chế độ trao đổi sản phẩm xã hội chủ nghĩa
bình thường”16.
Hai là, cho tự do buôn bán, tự do trao đổi hàng hoá, sử dụng quan hệ
tiền - hàng là “một biện pháp quá độ chính trị” mà Chính quyền Xôviết cần
lập tức tiến hành. Để thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế ổn định chính trị,
theo Lênin, chính quyền Xôviết phải cho người dân được “tự do buôn bán”,
tự do trao đổi hàng hoá, phải đem lại cho người tiểu nông “Một sự khuyến
khích kích thích”17. Đó là một biện pháp quá độ chính trị mà Chính quyền
Xôviết cần lập tức tiến hành. Tự do buôn bán, tự do trao đổi hàng hoá, sử

dụng quan hệ hàng - tiền trong công cuộc xây dựng CNXH, đó là “đòn xeo”
chủ yếu để phát triển kinh tế, không những thế nó còn là “vấn đề chính trị
quan trọng nhất”. Lênin coi đây là biện pháp quá độ phức tạp. Phức tạp ở chỗ
khi thực hiện nó sẽ phục hồi chủ nghĩa tư bản và tầng lớp tư sản mới.
Ba là, phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước là một biện pháp “quá độ
đặc biệt” một mắt khâu “trung gian quan trọng để cải tạo XHCN các thành
phần kinh tế và xây dựng CNXH. Trong tác phẩm bàn về thuế lương thực”.
Lênin viết “các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà
nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thức ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn” 18. Chính
Sdd: tr.262.
Sdd: tr.265.
17
Sdd: tr.85.
18
Sđd: tr.271.
15
16


vì vậy, Lênin chú trọng và thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng hợp tác
xã, nhất là những hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ. Hợp tác xã là
“con đường”, là “phương tiện” hữu hiệu để cải tạo XHCN và xây dựng
CNXH đối với những người tiểu tư hữu. Lênin coi việc chuyển từ hợp tác xã
của những sản xuất nhỏ lên CNXH là “một bước quá độ phức tạp” là bước
chuyển từ “tiểu sản xuất sang đại sản xuất”. Một khi thành công, bước chuyển
đó sẽ nhổ được gốc rễ sâu xa, dai dẳng nhất những quan hệ chính trị cũ, tiền
XHCN, thậm chí tiền tư bản chủ nghĩa của khối giai cấp nông dân đông đảo
mà những quan hệ cũ luôn luôn “phản kháng” lại công cuộc đổi mới một cách
kịch liệt. Lênin khẳng định: “Chính sách hợp tác xã một khi thành công sẽ
“giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh

tế nhỏ quá độ lên đại sản xuất, trên cơ sở tự nguyện kết hợp” 19. Trên cơ sở
mối quan hệ tiền - hàng và bằng cách kích thích lợi ích vật chất của nông dân,
chế độ hợp tác xã có khả năng thực hiện “bước quá độ sang một chế độ mới
bằng con đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông
dân”20.
Theo chúng tôi điều quan trọng về quan niệm mới của Lênin về thời kỳ
quá độ chính trị không chỉ ở chỗ Lênin nói đến những hình thức “trung gian”,
những biện pháp “quá độ” và cách thức thực hiện chúng mà điều quan niệm
mới có ý nghĩa lý luận lớn là: “khẳng định tính thiết yếu của việc thực hiện
các hình thức “quá độ gián tiếp”, những “biện pháp trung gian”, “quá độ đặc
biệt” đối với một nước tiểu nông trong thời ký quá độ lên CNXH.
Khi ban hành tác phẩm Bàn về thuế lương thực, Lênin luôn gắn tính
thiết yếu của việc xác định các “bước trung gian”, quá độ với sự cần thiết phải
sử dụng chủ nghĩa tư bản với tư cách là sản vật tự nhiên và sự tất yếu của sự
phát triển kinh tế- chính trị - xã hội theo cách thức hướng nó vào con đường
chủ nghĩa tư bản mang tính chất xã hội nchủ nghĩa. “Hiện nay ở Nga, chính là
chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản chiếm ưu thế, từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa
19
20

Sdd: tr.273.
Sdd: T.45, tr.422.


tư bản nhà nước với quy mô lớn cũng như đi lên CNXH, đều trải qua cùng
một con đường, thông qua cùng một trạm trung gian, đó là sự kiểm kê và
kiểm soát toàn dân”21. Qua đó cho thấy, theo quan điểm của Lênin, các nước
kém phát triển sản xuất nhỏ chiếm ưu thế không thể “quá độ trực tiếp” lên
CNXH bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, mà phải trải qua những bước trung
gian “quá độ đặc biệt”, các nước còn kém phát triển càng phải trải qua nhiều

nấc thang “trung gian quá độ”.
3- Nội dung kinh tế chính trị cụ thể của Chính sách kinh tế mới
Đại hội X của đảng Bônsêvích Nga (từ 6-16 tháng 3 năm 1921) đánh dấu
bước ngoặt lịch sử nước Nga Xôviết, bước chuyển từ Chính sách “cộng sản
thời chiến” sang NEP. Đề cập đến phương pháp và phương thức cụ thể trong
việc thực hiện NEP, Lênin chỉ rõ: NEP là sự tiếp tục và phát triển kế hoạch
xây dựng cơ sở nền tảng của nền kinh tế XHCN đã được vạch ra vào mùa
xuân năm 1918. Nội dung kinh tế chính trị cơ bản nhất của NEP là:
Một là, thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực với
tư cách là khâu đầu tiên, là “đòn xeo”, là “liệu pháp cấp tốc, cương quyết
nhất, cấp thiết nhất” để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng
sản xuất dổi mới quan hệ sản xuất và ổn định chính trị - xã hội. Qua đó, kiến
lập được công nông liên minh vững chắc về kinh tế, chính trị - xã hội, sự liên
minh giữa nền kinh tế XHCN và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tại sao NEP
lại bắt đầu từ nông dân, nông nghiệp, trước hết lại là thuế lương thực mà
không từ công nhân, công nghiệp. Vì: “Thuế lương thực được đặc chú ý, gây
nên nhiều cuộc tranh cãi và tranh luận... Nó là một trong những vấn đề chủ
yếu”22 cả kinh tế và ổn định chính trị - xã hội; Lênin nhiều lần khẳng định:
phải bắt đầu từ nông dân, nông nghiệp, trước hết là bắt đầu từ thuế lương
thực. “Chỉ bằng con đường ấy, chúng ta mới có thể cải thiện được đời sống
công nhân, tăng cường được liên minh công nông, củng cố được chuyên
chính vô sản. “Người vô sản nào muốn cải thiện đời sống công nhân bằng
21
22

Sdd: tr.254.
Sdd: tr.244.


những con đường khác, thì thực tế chỉ là kẻ trợ lực cho bọn bạch vệ và bọn tư

sản”23;
Hai là, cho phép tự do trao đổi hàng hoá, tự do buôn bán, kinh doanh với
tư cách là “đòn xeo chủ yếu” của NEP. Nội dung này chiếm vị trí hàng đầu và
là cái rất cần thiết để kiến lập sự liên minh kinh tế, chính trị vững chắc giữa
giai cấp vô sản và giai cấp nông dân;
Ba là, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức tô nhượng, hợp
tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê cơ sở sản xuất...không chỉ là biện pháp
quá độ chính trị đặc biệt, một khâu “trung gian” để quá độ gián tiếp lên
CNXH, mà còn là “chiếc cầu nhỏ vững chắc” mà giai cấp vô sản phải bắc để
“xuyên qua” chủ nghĩa tư bản đi vào CNXH. Tư tưởng kinh tế chính trị chủ
yếu NEP thể hiện 3 mặt sau:
Trước hết, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với việc xử
lý mối quan hệ đan xen giữa các thành phần kinh tế. Lênin cho rằng đặc điểm
kinh tế chính trị chủ yếu ở nước Nga tiểu nông là “tính chất nhiều thành
phần”. Các thành phần kinh tế chủ yếu là: “Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng;
sản xuất hàng hoá nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà
nước; chủ nghĩa xã hội"24. Song, ông cho rằng điều quan trọng cần chú ý
không phải là ở chỗ có bao nhiêu thành phần kinh tế mà là mối quan hệ đan
xen giữa các thành phần kinh tế và xu thế phát triển của các thành phần kinh
tế như thế nào để chuyển nền kinh tế nhiều thành phần thành sang nền kinh tế
XHCN. Dưới đây, chúng tôi phân tích vị trí, vai trò và mối quan hệ đan xen
một số thành phần kinh tế cơ bản trong khi thực thi NEP.
Kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ: Nước Nga tiểu nông, đại đa số nông dân
là những người sản suất hàng hoá nhỏ, V.I. Lênin cho rằng điểm xuất phát
trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khi thực hiện
NEP phải là đáp ứng những lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị cho đại đa số nông
dân. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh "cần phải bắt đầu từ nông nghiệp, tiểu thủ
23
24


Sdd: tr.263.
Sdd: tr.248.


công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế tiểu nông để khôi phục
và phát triển đại công nghiệp".
Toàn bộ chiến lược của Lênin về cách mạng XHCN ở một nước mà nông
dân chiếm đa số phải dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân. Sau một năm thực hiện NEP, tại Đại hội XI Đảng cộng sản
(b) Nga, Lênin khẳng định toàn bộ ý nghĩa của NEP là ở chỗ: "Kiến lập được
sự liên minh chặt chẽ, vững chắc giữa nền kinh tế mới có tính xã hội chủ
nghĩa với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa". “Chính sự liên minh, sự kết hợp”
chứ không phải là thu hút hoạt động sản xuất của người nông dân cá thể bằng
hoạt động sản xuất xã hội mang tính Nhà nước, hay sự thống nhất giữa hai
nền kinh tế đó với nhau một cách máy móc. Chính sự liên minh, sự kết hợp ấy
sẽ đưa giai cấp công nhân cùng với giai cấp nông dân ở một nước tiểu nông
lên CNXH. Trong hoàn cảnh hiện thực nước Nga, tại Đại hội X Đảng cộng
sản (b) Nga, Lênin đã yêu cầu Chính quyền Xôviết phải nhanh chóng phát
triển nền sản xuất tiểu nông bằng cách khuyến khích khích nền kinh tế nông
dân cá thể với những biện pháp "quá độ", những hình thức "trung gian" có
khả năng cải tạo nông dân, đổi mới nông thôn và chuyển đổi nền kinh tế tiểu
nông của những người nông dân cá thể thành nền sản xuất tập thể có tính
XHCN, diễn ra một cách "tuần tự", "có tính kế thừa", "thận trọng". Lênin cho
rằng với bối cảnh hiện thực của Nga thì một trong những biện pháp trung gian
thích hợp là "Không đập tan cái cơ cấu kinh tế …mà là chấn hưng…bằng
cách cố gắng nắm chắc…từng bước hoặc bằng cách nhà nước điều tiết" 25.
Lênin đã hướng nước Nga vào việc tạo khâu "trung gian" và khẳng định công
cuộc xây dựng xã hội mới ở một nước tiểu nông nhất thiết phải bắt đầu từ sự
phát triển nền kinh tế nông dân cá thể. Lênin cho rằng việc chuyển lên chế độ
sở hữu tập thể về ruộng đất, việc chuyển lên chế độ canh tác tập thể là công

việc không thể chốc lát mà "Phải trải qua cả một loạt giai đoạn sơ bộ, tuần tự,
kế thừa, thận trọng, không vội vã". Trong những năm cuối đời Lênin đã tìm
con đường với hình thức hợp tác xã để cải tạo nông dân và nền kinh tế tiểu
25

Sdd: T.44, tr.275.


nông. Trong tác phẩm Bàn về chế độ hợp tác xã, Lênin khẳng định: Những
điều chúng ta phải làm dưới chế độ NEP là tập hợp những tầng lớp nông dân
Nga thật sâu rộng vào các hợp tác xã, trên cơ sở phải kết hợp lợi ích tư nhân,
lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc Nhà nước kiểm soát được lợi ích đó,
sao cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. "Chế độ hợp tác xã văn
minh" đó có khả năng đem lại "bước quá độ sang một chế độ mới bằng con
đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân"26.
Kinh tế tư bản tư nhân: Khi thực thi NEP trên thực tế, Lênin hiểu rất rõ
rằng NEP sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản sống lại. Nhưng Ông cho rằng không
sợ nó, mà kêu gọi Chính quyền Xôviết cần sử dụng tư nhân nông dân, tư nhân
thợ thủ công, thương nhân, các nhà doanh nghiệp để phát triển nền kinh tế đất
nước, tạo ra nhiều hàng hoá tiêu dùng cho xã hội cơ sở để ổn định chính trị.
Với NEP, kinh tế tư bản tư nhân đã được phép tồn tại và phát triển.
Từ buổi đầu thi hành NEP, Lênin đã kêu gọi Chính quyền Xôviết cần sử
dụng mọi biện pháp làm sống động sự giao lưu giữa công nghiệp với nông
nghiệp theo phương thức lưu thông, trao đổi hàng hoá. Lênin nhấn mạnh:
"Trong lĩnh vực này người nào thu được nhiều kết quả nhất, dẫu là bằng con
đường tư bản tư nhân, thậm chí không phải bằng con đường hợp tác xã, trực
tiếp biến chủ nghĩa tư bản ấy thành chủ nghĩa tư bản nhà nước, thì người đó
sẽ giúp ích cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong toàn bộ nước Nga
nhiều hơn kẻ chỉ ngồi lo lắng đến sự thuần tuý của chủ nghĩa cộng sản" 27.
Trong những năm thực hiện NEP, những xí nghiệp vưà và nhỏ không

thuộc quyền sở hữu của nhà nước phát triển mạnh, kể cả những xí nghiệp đã
chuyển sang sở hữu nhà nước trong những năm thực hiện Chính sách "cộng
sản thời chiến" song không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả thì trả lại
cho chủ cũ. Việc phục hồi các xí nghiệp tư nhân đã góp phần quan trọng phát
triển nền kinh tế Nga. Lênin đã khẳng định "Việc phục hồi lại sự hoạt động
kinh tế tư bản tư nhân là điều rất cần đối với chúng ta…. Kết quả sẽ tiếp tục
26
27

Sdd: T.45, tr.433.
Sdd: tr.280.


tốt nếu chúng ta biết khéo làm, nếu sau này chúng ta biết chấp hành đúng
đắn chính sách ấy”28.
Kinh tế tư bản nhà nước: Lênin đánh giá rất cao vị trí và vai trò của kinh
tế nông dân sản xuất hàng hoá nhỏ, song chưa bao giờ coi chúng là thành
phần kinh tế độc lập. Chúng luôn luôn tồn tại và phát triển cùng với các thành
phần kinh tế khác, tạo nên tính chất phức tạp, tính chất đan xen của "kết cấu
kinh tế - xã hội" quá độ. Lênin khẳng định đó là thành phần kinh tế tư bản nhà
nước. Xét đến trình độ tiến bộ, trình độ phát triển, khả năng hiện thực và tính
hữu ích của nó đối với công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở một nước tiểu nông phải là chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Trong quá trình thực hiện NEP, Lênin luôn luôn đánh giá cao vị trí vai
trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Ông coi kinh tế tư bản nhà nước là thành
phần kinh tế cơ bản trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Việc phát
triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện pháp "quá độ đặc biệt",
khâu "trung gian" trong thời kỳ quá độ lên CNXH, mà chính là "sự chuẩn bị
vật chất đầy đủ nhất" cho CNXH, là "phòng chờ" đi vào CNXH. Nó là "chiếc
cầu" vững chắc mà Chính quyền Xôviết cần phải thực hiện để xuyên qua nó

đi vào CNXH.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước “hợp tác xã”: Trong những năm thực hiện
NEP, Lênin coi chế độ hợp tác xã là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin cho rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước "hợp tác xã" là hình thức phức tạp
hơn các hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tuy phức tạp, nhưng
hợp tác xã lại là hình thức rất phổ biến ở nước Nga, nên Ông rất chú trọng xây
dựng “hợp tác xã”. Vì chủ nghĩa tư bản nhà nước "hợp tác xã" là bước quá độ,
mở ra con đường mới cho sản xuất nhỏ đi lên quỹ đạo của CNXH.
Kinh tế chủ nghĩa xã hội: Trong những năm thực thi NEP, những mạch
máu kinh tế cơ bản như công nghiệp, ngân hàng, tài chính, tín dụng luôn nằm
trong tay chính quyền xô viết, thuộc sở hữu nhà nước, tạo thành thành phần
kinh tế XHCN. Khi NEP được thực hiện, mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã
28

Sdd: T.44, tr.256


được xác lập trên phạm vi cả nước, Lênin chủ trương chuyển các xí nghiệp
quốc doanh sang chế độ tự hoàn vốn, chế độ hạch toán kinh tế. Nhờ đó các xí
nghiệp quốc doanh được giải phóng khỏi những qui định hết sức ngặt nghèo
đối với sản xuất trong những năm thi hành mô hình chính sách "cộng sản thời
chiến". Các xí nghiệp này được tự do hành động, tự chịu trách nhiệm vật chất
với kết quả hoạt động của mình.
Việc cho phép các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo chế độ hạch toán
kinh tế, tự quản và tự chủ trong sản xuất kinh doanh không có nghĩa là từ bỏ
chế độ kế hoạch hoá. Khi thực hiện NEP, dưới sự chỉ đạo của Lênin, kế hoạch
ở đây được hiểu là kế hoạch mang tính chất điều tiết, chứ không phải mang
tính chất pháp lệnh. Những chức năng quan trọng nhất của kế hoạch là xác
định tỷ lệ cân đối kinh tế theo ngành và theo khu vực. Nói đến tính thiết yếu
của kế hoạch trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khi thực hiện NEP,

Lênin nhấn mạnh: "Chính sách kinh tế mới không thay đổi kế hoạch kinh tế
thống nhất của nhà nước và không vượt ra ngoài giới hạn của kế hoạch đó,
chỉ thay đổi biện pháp thực hiện kế hoạch đó" 29 . Tuân theo những chỉ thị đó
của Lênin trong những năm thực hiện NEP, các xí nghiệp quốc doanh đã hoạt
động một cách có hiệu quả và điều đó đã làm cho thành phần kinh tế XHCN
trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dần dần đóng vai trò chủ đạo.
Trong những năm thực hiện NEP, nền kinh tế của nước Nga xôviết đã có
những bước phát triển rất mạnh. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân, sản xuất
hàng hoá nhỏ, kinh tế nông dân mang tính chất tự nhiên, đặc biệt kinh tế tư
bản nhà nước đã phát triển trong nhiều lĩnh vực, thậm chí có lúc còn mạnh
hơn cả khu vực kinh tế XHCN. Chính điều đó đã tạo nên nét độc đáo của sự
thi đua hoà bình, cạnh tranh lành mạnh giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản ở
Nga lúc bấy giờ. Tính độc đáo không chỉ ở sức mạnh của nhà nước XHCN,
mà còn ở chỗ các thành phần kinh tế phi XHCN đã buộc phải đóng vai "trợ
thủ cho CNXH". Khẳng định tính biện chứng trong mối quan hệ giữa các
thành phần kinh tế ở những năm thực hiện NEP, Lênin viết: "Chúng ta sẽ
29

Sdd: T.54, tr. 131.


tăng cường sản xuất, đẩy mạnh trao đổi,…tăng cường giai cấp tiểu tư sản,
nhưng chúng ta củng cố thật nhiều nền sản xuất lớn và giai cấp vô sản, cái
nọ gắn liền với cái kia"30.
Quan niệm của Lênin về các thành phần kinh tế ở nước Nga sau nội
chiến, cần lưu ý một số điểm sau: Lênin xếp các thành phần kinh tế theo cấp
độ tăng lên của tính chất XHCN; Tỷ trọng các thành phần kinh tế trong từng
giai đoạn của lịch sử; Sự biến đổi tỷ trọng các thành phần kinh tế phải theo
hướng XHCN; Tính đan xen và mâu thuẫn và sự đấu tranh giữa các thành
phần kinh tế là “Giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân

chống lại cả chủ nghĩa tư bản nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội”31.
Thứ đến, phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga. Những chính
sách trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực tất yếu dẫn đến phục hồi và phát
triển chủ nghĩa tư bản. Lênin cho rằng, “chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản
xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu
sản xuât tạo nên”. Bằng chủ nghĩa tư bản nhanh chóng xoá bỏ nền tiểu sản
xuất, chủ nghĩa quan liêu góp phần quan trọng ổn định chính trị. Trong điều
kiện kinh tế xã hội nước Nga lúc đó “Có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư
nhân (chứ đừng nói đến chủ nghĩa tư bản nhà nước) để xúc tiến chủ nghĩa xã
hội”32. Lênin cho rằng, một khi chủ nghĩa tư bản phục hồi mà “Tìm cách ngăn
cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân...là một sự
dại dột và tự sát...đảng nào định thi hành chính sách như thế, nhất định sẽ
thất bại”33. Lênin quả quyết: Một khi chủ nghĩa tư bản phục hồi và phát triển
thì chính sách hợp lý, đúng đắn nhất “Không tìm cách ngăn cấm hay chặn
đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con
đường chủ nghĩa tư bản nhà nước”34 rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước hoàn
toàn có thể tồn tại dưới Chính quyền Xô viết.
Sdd: tr.446.
Sdd: tr.350.
32
Sdd: tr.281.
33
Sdd: tr.267.
34
Sdd: tr.268.
30
31



Quan điểm của Lênin về sự tất yếu phục hồi chủ nghĩa tư bản ở Nga sau
Cách mạng tháng Mười, nhưng theo hướng chủ nghĩa tư bản nhà nước. ở đây
dưới góc độ chính trị cần lưu ý: Trong điều kiện kinh tế xã hội của nước Nga,
có thể sử dụng kinh nghiệm của chủ nghĩa tư bản để xúc tiến CNXH, vì chủ
nghĩa tư bản tích cực chống chủ nghĩa quan liêu, nhanh chóng xoá bỏ tình
trạng phân tán của những người sản xuất nhỏ (Theo Lênin đây là lực lượng
chủ yếu chống Chính quyền xôviết); Điều quan trọng là phải hướng nó vào
con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước; Giai cấp vô sản phải là giai cấp lãnh
đạo, giai cấp thống trị Nhà nước.
Ba là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng bộ máy quản lý nhà
nước, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân. Trong tác phẩm Bàn về thuế
lương thực, Lênin rất chú ý đến việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
Bônsêvích Nga, xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước, phát huy
khả năng sáng tạo, tính năng động của quần chúng nhân dân, sử dụng đội ngũ
chuyên gia tư sản, thực hiện dân chủ, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan
liêu, thể hiện một số mặt sau: Về nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng cộng sản,
Lênin chỉ ra, “Người cộng sản không nên tự mình làm tất cả, làm quá sức mà
không kịp, làm một lúc cả hàng hai chục việc mà không được việc nào ra trò,
mà phải kiểm tra công việc của hàng chục, hàng trăm người phụ giúp... Chỉ
đạo công tác và học tập những người có kiến thức chuyên môn (những
chuyên gia), các nhà tư bản”35. Vì "Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia
am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệmu thì không thể nào
chuyển lên chủ nghĩa xã hội được vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến
có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới năng suất lao động cao hơn
năng suất của chủ nghĩa tư bản" 36. Như vậy, người đảng viên cộng sản không
được bao biện làm thay mà phải biết phân công, chỉ đạo công việc và tổ chức
cho quần chúng kiểm tra kết quả công việc đó. Người cộng sản phải biết học
tập kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm quản lý cuả các chuyên gia
35
36


Sdd: tr.293.
Sdd: tr.217.


cũng như các nhà tư bản để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng CNXH; cải thiện
bộ máy, chống chủ nghĩa quan liêu. Lênin chỉ ra rằng: “Muốn cải thiện bộ
máy một cách triệt để hơn, muốn cho nó bổ xung nhiều sinh lực mới, muốn
chiến thắng chủ nghĩa quan liêu, muốn khắc phục tình trạng thủ cựu nguy hại
đó, thì phải có sự giúp đỡ của các tổ chức địa phương, của cơ sở”37; Hướng
về cơ sở: công việc làm tốt ở một địa phương, dù là địa phương nhỏ, vẫn có
lợi cho Nhà nước hơn là sự hoạt động của một số cơ quan trung ương mắc
phải tình trạng trì trệ nguy hại nào đó; Lênin chủ trương đưa cán bộ có năng
lực ở cấp trên về cơ sở “Một số cán bộ phụ trách phải thôi công tác ở các cơ
quan trung ương về các tỉnh nhận lãnh đạo ở các quận, các tổng...sẽ giúp ích
nhiều vô cùng.. hơn là giữ một chức vụ khác ở trung ương”38; Công tác cán
bộ, Lênin lưu ý các cấp: “Khắp nơi người ta thấy ở địa phương đang xuất
hiện những cán bộ cộng sản mới, trẻ đầy sinh lực, được tôi luyện...chúng ta
chưa hề làm được đầy đủ những điều phải làm để đưa một cách có hệ thống
và không ngừng các lực lượng thanh niên ấy từ những cơ sở lên tổ chức cao
hơn”39; Thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng cộng sản với quần chúng lao động
bằng cách đưa quần chúng: “Tham gia công tác của các xô viết, mà trước hết
là vào các công tác kinh tế. Hàng trăm hàng nghìn người không đảng làm
việc trong bộ máy của chúng ta" 40. Đồng thời phải "kiểm tra, thử thách họ
một cách có hệ thống, thường xuyên"41.
IV. Ý nghĩa của tác phẩm
Một là, tác phẩm là phương án cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Nga trong thời kỳ kết thúc nội chiến
Chính sách trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực không phải chỉ là
sách lược khắc phục cuộc khủng khoảng kinh tế, chính trị, xã hội ở nước Nga

lúc đó, mà là đường lối chiến lược, phương án cải tạo và xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước, mà nền kinh tế tiểu nông còn
Sdd: tr.282.
Sdd: tr.264.
39
Sdd: tr.284.
40
Sdd: tr.292.
41
Sdd: tr.293.
37
38


chiếm ưu thế. Phương án đó thể hiện một số vấn đề sau: 1. Vấn đề liên minh
công nông. Cách mạng XHCN thực hiện ở một nước mà phần đông dân cư là
những người tiểu nông, sản xuất nhỏ, chỉ có thể thắng lợi trong điều kiện có
sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo với nông dân. Lênin
chỉ rõ nội dung chính trị chủ yếu của Chính sách mới trong tác phẩm là nhằm
xây dựng khối liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân. Hơn nữa, Lênin coi thiết lập khối liên minh đó là nguyên tắc cao nhất
của chuyên chính vô sản, là cơ sở của Chính quyền Xôviết, là điều kiện quan
trọng nhất để xây dựng thành công CNXH; 2. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà
nước là phương thức có hiệu quả gián tiếp cải tạo các thành phần kinh tế đưa
tư bản tư nhân, đặc biệt những người sản xuất kinh doanh tiểu tư hữu vào quỹ
đạo CNXH và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: “chủ nghĩa tư bản nhà
nước về kinh tế cao hơn rất nhiều nền kinh tế của nước Nga lúc đó”. Việc
hướng nền kinh tế đi theo chủ nghĩa tư bản nhà nước “sẽ đưa chúng ta đến
chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất”, “sẽ bảo đảm cho chủ
nghĩa xã hội được củng cố”42. Chương trình cải tạo và xây dựng XHCN đối

với nền sản xuất nông nghiệp là bộ phận cấu thành quan trọng của kế hoạch
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Song Lênin thừa nhận cải tạo
XHCN nền sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ khó khăn nhất cả kinh tế và
chính trị. Để giải quyết khó khăn này, giai cấp vô sản không có con đường
khác ngoài việc hợp tác hoá kinh tế nông dân bằng con đường chủ nghĩa tư
bản nhà nước “hợp tác xã” để qua đó thu hút hàng triệu nông dân vào công
cuộc xây dựng CNXH. Hợp tác xã với tư cách là hình thức đặc thù của chủ
nghĩa tư bản nhà nước, là chế độ xã hội “dễ tiếp thu nhất” đối với nông dân,
có khả năng “quá độ sang chế độ mới”. 3. Sử dụng quan hệ thị trường, quan
hệ tiền - hàng, phát triển tự do buôn bán, tự do trao đổi trong thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH là vấn đề “đặt lên hàng đầu” và “không thể
tránh khỏi” để tạo dựng “hình thức liên minh kinh tế, chính trị hoàn toàn vững
chắc” giữa giai cấp vô sản với nông dân. Lênin coi đó là “đòn xeo chủ
42

Sdd: T.48, tr. 252.


yếu”của chính sách kinh tế và chính trị trong tác phẩm Bàn về thuế lương
thực. Đây là vấn đề “kinh tế và chính trị quan trọng nhất” trong thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Hai là, ý nghĩa chính trị quốc tế và tính thời sự của nó. Trong hàng loạt
các tác phẩm sau này, Lênin khẳng định ý nghĩa chính trị to lớn của những
chính sách mới trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực không chỉ đối với
nước Nga khi đó. Lênin cho rằng: “Con đường của chúng ta là con đường
đúng, sớm hay muộn các nước khác nhất định cũng sẽ đi theo” 43. Tác phẩm
Bàn về thuế lương thực đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của dân tộc Nga.
Tư tưởng chính trị cơ bản của tác phẩm Bàn về thuế lương thực và kinh
nghiệm thực hiện nó ở Nga đã trở thành bài học bổ ích cho những nước có
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu quá độ đi lên CNXH, song quá độ đó phải

mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo.
Trong thời đại ngày nay, các Chính sách trong tác phẩm Bàn về thuế
lương thực còn có ý nghĩa và vai trò to lớn đối với các nước đang phát triển.
Tính thời sự của nó thể hiện, nhiều nước đang phát triển đang quan tâm tới
kinh nghiệm của nước Nga trong những năm 1921-1939 dể tìm con đường,
biện pháp giải quyết tình hình kinh tế, chính trị còn lạc hậu hiện nay; Vai trò
lãnh đạo không thể bác bỏ của Đảng Bônsêvích Nga, năng lực quản lý của
Chính quyền Xôviết trong những năm thực hiện NEP đang được coi là những
bài học kinh nghiệm quý; Vấn đề liên minh công nông, phát triển chủ nghĩa tư
bản nhà nước, sử dụng chuyên gia tư sản, phát triển kinh tế thị trường... đang
là đề tài hấp dẫn đối với các nước đang chuyển đổi như nước ta hiện nay.
Ba là, tác phẩm là kiểu mẫu của việc vận dụng phương pháp biện chứng
duy vật vào quá trình giải quyết những nhiệm vụ cách mạng trong những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể: phải có thái độ khách quan khoa học trong việc
phân tích bước chuyển cách mạng, từ đó có chiến lược, kế hoạch phát triển
phù hợp điều kiện và yêu cầu thực tế. Trong việc phân tích bước chuyển cách
mạng phải có thái độ khách quan, dám nhìn thẳng vào sự thật để phân tích
43

Sdd: T.44, tr.404.


tình hình và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu xã hội - gia cấp, xã
hội - dân cư, con người chính trị nông dân, công nhân, trí thức và các tầng lớp
khác trong nước và tình hình chính trị quốc tế. Chính từ thực tiễn đó mới có
chiến lược, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện của giai đoạn lịch sử cụ thể và yêu cầu của thực tiễn. Vấn đề này thể hiện rất rõ ở Phần 1 của tác
phẩm "Bàn về thuế lương thực" và trong "Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư
sản".
Bốn là, đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam, tác phẩm Bàn
về thuế lương thực chẳng những có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận còn có

ý nghĩa thực tiễn và giá trị thời sự. Thể hiện:
Trước hết, nó là cơ sở lý luận về con đường gián tiếp lên CNXH ở Việt
nam hiện nay. Trên cơ sở tư tưởng lý luận về con đường gián tiếp lên CNXH
của Lênin trong bối cảnh đổi mới, tại Đại hội VI (1986), Đảng ta đã nhận rõ
những sai lầm nôn nóng, chủ quan, duy ý chí “tiến nhanh, tiến thẳng lên
CNXH”. Thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt nam và các nước XHCN khác
trong những năm trước đây, tư tưởng của tác phẩm Bàn về thuế lương thực
không chỉ là mẫu mực về một giải pháp tình thế mà còn là đường lối mang
tính chiến lược, là cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên CNXH. Cụ
thể là: giá trị và ý nghĩa lớn của nó là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Lý luận, kinh nghiệm sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, thi hành chế độ hợp tác xã vẫn còn giữ
nguyên giá trị và ý nghĩa lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN hiện nay. Tại Hội nghị Đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ta khẳng định: “Phải vận dụng sáng tạo và
tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt tư tưởng
của Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều
hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với bối cảnh lịch sử
cụ thể để đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”44; Cơ sở lý luận về
44

ĐCSVN (1994): Văn ki?n H?i ngh? đ?i bi?u toan qu?c gi?a nhi?m k?, khoá VII, Nxb CTQG, HN, tr.24.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×