Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Kiến thức cơ bản về thuế (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.53 KB, 14 trang )

Kiến thức cơ bản về thuế (Phần 1)
13-06-2008. Số lần xem: 6182
I. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THUẾ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm, phân biệt thuế với lệ phí, phí.
1.1 Khái niệm:
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối
với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, khơng mang tính
chất đối giá và hồn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự
nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước
và pháp luật.
·
Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và sự
xuất hiện của Nhà nước - pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó khơng chỉ phụ thuộc
vào ý chí con người mà cịn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ lịch sử
nhất định.
Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho hoạt động thường
xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà nước tồn tại, duy trì quyền lực và thực hiện
chức năng quản lý xã hội của mình. Trong điều kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với
phạm vi hoạt động của Nhà nước ngày càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phương thức tự
nguyện của dân cư trong chế độ cộng sản ngun thủy khơng cịn phù hợp nữa. Ðể có được lượng
của cải cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp luật, ấn định bắt buộc
các thể nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nước một phần của cải mà họ làm ra và hình thành
qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những của cải vật chất này được thu nộp dưới hình
thức hiện vật, dần dần thuế được chuyển sang hình thức tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa
vụ thu nộp của cải vật chất đối với dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng
bộ máy cuỡng chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế tồn tại và phát triển.
Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu
cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước và sự tồn tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.
·


Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy ngân sách Nhà nước và
những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ
các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của
các nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế
để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp thuận. ở Pháp, Quốc hội
Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu khơng được Quốc hội chấp thuận thì khơng được áp
dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và
định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền
hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp
luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Uớy ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ
một số loại thuế thơng qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
·
Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể nhân đối với Nhà nước
không mang tính đối giá hồn trả trực tiếp.
Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu hiệu và điều kiện được
quy định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện đối với Nhà nước và được đảm bảo thực hiện
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
·
Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới hình thức giá trị giữa Nhà
nước với các chủ thể khác trong xã hội.


Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với các thể nhân và pháp nhân
trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân phối này là của cải vật chất được biểu hiện dưới hình
thức giá trị.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức
sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò, nội dung, đặc điểm của
thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ thống pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên

cứu, sửa đổi bổ sung, cải tiến và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng
giai đoạn. Ðồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiện các quy định pháp
luật về thuế đã được Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.
Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp khơng chỉ nhìn một cách phiến diện vào số lượng
các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần là động viên tài chính vào ngân sách Nhà nước mà
phải được phân tích một cách toàn diện, chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội,
không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân.
Ở nước ta trước cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước, Luật thuế chỉ áp dụng đối với các
cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá thể. Ðể thực hiện chế độ thu ngân
sách Nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường, phát huy vai trị của các hình thức thu ngân sách Nhà
nước, cuộc cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết Quốc hội
khóa VIII kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết qủa của cuộc cải cách này đưa đến việc áp dụng thống nhất
chế độ thu thuế đối với tất cả các thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức
kinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước và thuế chiếm
tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
1.2 Phân biệt thuế với lệ phí, phí.
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo quy định của pháp luật của các cá nhân và pháp nhân đối
với Nhà nước khơng mang tính đối giá và hồn trả trực tiếp.
Lệ phí là khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện một
số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hoặc bất thường như phí về xây
dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối với những hoạt động phục vụ người nộp phí.
Thuế và lệ phí, phí đều là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đều mang tính pháp lý nhưng
giữa chúng có sự khác biệt như sau:
·
Xét về mặt giá trị pháp lý:
Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng văn bản pháp luật
như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hội thơng qua. Trình tự ban hành một
Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ.
Trong khi đó lệ phí, phí được ban hành đưới dạng Nghị định, Quyết định của chính phủ; Quyết

định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Nghị quyết của hội đồng nhân dân
cấp tỉnh.
·
Xét về mục đích và mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế - xã hội thì thuế có 3 tác dụng lớn:
·
Tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
·
Ðiều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát triển kinh tế.
·
Ðảm bảo sự bình đẳng giữa những chủ thể kinh doanh và cơng bằng xã hội.
Qua đó chúng ta thấy thuế có tác động lớn đến tồn bộ qúa trình phát triển kinh tế - xã hội của
một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu thành chính sách tài chính quốc gia.
Trong khi đó lệ phí, phí khơng có những tác dụng nói trên, nó chỉ có tác dụng tạo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không phải dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi
mặt của Nhà nước, mà trước hết dùng để bù đắp các chi phí hoạt động của các cơ quan cung cấp
cho xã hội một số dịch vụ công cộng như: dịch vụ công chứng, dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng tài sản, dịch vụ hải quan...
Ngoài dấu hiệu là thuế được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước, thuế cịn
được phân biệt với lệ phí, phí ở chổ các cá nhân và pháp nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước
nhưng không trên cơ sở được hưởng những lợi ích vật chất tương ứng mang tính chất đối giá. Trong


·

khi đó hình thức lệ phí, phí và cơng trái nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính
bắt buộc của lệ phí và phí chỉ xảy ra khi chủ thể nộp lệ phí, phí thừa hưởng trực tiếp những dịch vụ
do Nhà nước cung cấp.
Bên cạnh đó, thuế khơng mang tính hồn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Tính chất khơng
hồn trả trực tiếp của thuế thể hiện ở chổ Nhà nước thu thuế từ các cá nhân và pháp nhân trong xã
hội nhưng khơng bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải hồn trả lại cho người nộp. Người nộp thuế suy

cho cùng sẽ nhận được các lợi ích vật chất từ việc sử dụng các dịch vụ công cộng do Nhà nước sử
dụng các khoản chi của ngân sách Nhà nước để thực hiện các chính sách kinh tế xã hội chung cho cả
cộng đồng. Tuy nhiên, giá trị phần dịch vụ đó khơng nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà
họ đã nộp cho Nhà nước. Tính chất này của thuế cho phép chúng ta phân biệt thuế với lệ phí, phí và
các khoản thu mà Nhà nước tập trung vào ngân sách Nhà nước nhưng ràng buộc trách nhiệm hồn trả
cho đối tượng nộp dưới các hình thức như vay nợ, tạm ứng cho ngân sách Nhà nước.
Xét về tên gọi và mục đích.
Mục đích của từng loại lệ phí rất rõ ràng, thường phù hợp với tên gọi của nó. Nói một cách chính
xác hơn, tên gọi của loại lệ phí nào phản ánh khá đầy đủ mục đích sử dụng loại lệ phí đó.
Mỗi một Luật thuế đều có mục đích riêng. Tuy nhiên, đa số các sắc thuế có tên gọi khơng phản
ánh đúng mục đích sử dụng, mà thường phản ánh đối tượng tính thuế.
Nói chung mục đích của việc sử dụng của các loại thuế thường là tạo nguồn qũy ngân sách Nhà
nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý xã hội của Nhà
nước.

2. Chức năng, vai trò của thuế.
2.1 Chức năng của thuế.
Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện cơng dụng vốn có của nó. Ðối với
một phạm trù kinh tế - xã hội thì chức năng phản ánh sự tác động của nó - là một phương thức đặc
biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn
định tương đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài
chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng bắt
nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế, chúng ta thấy rằng
thuế thực hiện các chức năng sau đây:
·
Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế.
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính vào ngân sách Nhà
nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước).Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn tài chính là chức

năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập
trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và
tồn tại của Nhà nước. Bằng chính chức năng này, Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân phối và phân phối
lại thu nhập của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ vào
ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng hóa và thu nhập. Người có thu nhập cao và sử
dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ là người nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó laiỷ được Nhà nước
chi nhằm thực hiện chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra tính công bằng tương đối cho xã hội.Trong một
chừng mực nhất định, chức năng phân phối và phân phối lại đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát
huy tác dụng chức năng điều tiết của thuế.
Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng quan trọng. Ðiều này được giải thích bởi
sự phát triển, mở rộng các chức năng của Nhà nước và việc thực hiện nhiều chính sách khác nhau,
trong đó có việc can thiệp của Nhà nước vào các qúa trình kinh tế.
·
Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.
Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ
XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với nền kinh tế. Việc tăng cường vai trò
kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu qủa


tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng qũy tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu
thuế. Nhu cầu về nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của
thuế để tác động một cách có hiệu qủa đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong qúa trình đó chức năng
phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của thuế đã được sử dụng một cách hiện thực.
Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được dự liệu trước vào trong
qúa trình huy động tập trung nguồn tài chính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc
độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có
khả năng thanh tốn của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà
nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi quốc gia.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác

nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các
mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các
hoạt động kinh tế đi vào qũy đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã
hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trị kích thích kinh tế thơng qua thuế ngay
càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích
của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh
lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối
với các chủ thể kinh doanh.
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng phân
phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức
năng điểu tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân
phối và phân phối lại thu nhập. Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền
đề của sự can thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà nước nhằm vào việc
thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân
dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân
phối lại.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn tồn khơng loại trừ các mâu thuẩn nội tại trong
mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại làm cho
nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc
thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Mặc khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân
phối lại một cách qúa mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát triển kinh
tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Ðó là tính hai mặt của thuế,
nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng
một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng
trong tiến trình hoạch định, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong
từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định.
2.2 Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà nước và đời sống xã
hội. Bởi vì trên thực tế, thơng qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận của

cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã
hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua việc ban hành các
văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà
còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế.
Pháp luật thuế là sự thể chế hố các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp
luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trị quan trọng đối với nền
kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều kiện kinh tế, xã
hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của


·

·

Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trị hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển
kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập trung một phần của cải vật
chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể
nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp
luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách
Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục
đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập
qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định
để thu ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế
quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà

nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách
Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều,
kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một cơng cụ quan trọng để góp
phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất
giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.
Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế cịn có vai trị quan trọng
trong việc điều tiết vĩ mơ đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống
nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ
thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trị là cơng cụ điều tiết vĩ mơ của Nhà nước.
Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách
điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện
nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi
đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế...Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối
với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chổ pháp luật thuế là công cụ tác
động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành
viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu
dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung - cầu của nền
kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có
tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước
tác động tích cực đến cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông
đến tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Thông
qua các quy định của pháp luật thuê,ỳ Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội.

Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị
gia tăng, thuế xuất nhập khẩu...đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu,
pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất,
nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu
thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình
trạng suy thối về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất,


·

kinh doanh cần khuyến khích, ngồi các quy định chung, pháp luật thuế cịn có các quy định ưu đãi,
miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các
doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác ngun liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng và xuất khẩu.Thơng qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản
xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước
trong việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu kinh tế.
Pháp luật thuế là cơng cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công
bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và cơng bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa
vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và cơng bằng được thể hiện thơng qua chính sách động viên giống nhau giữa các
đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự
bình đẳng và cơng bằng.
Vai trị điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế đối với
các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ

nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối
về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hịa vĩ mơ thu nhập trong xã hội.
Sự điều tiết này thể hiện ở chổ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc
điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp
luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, vế thuế suất... đều có tác động đến thu nhập
và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế theo hướng
hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất...Tuy vậy, việc thực hiện xu
hướng chung đó khơng làm triệt tiêu vai trị của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ÐỊNH THUẾ TRONG LỊCH SỬ NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
Lịch sử nước ta mặc dù đã hình thành từ rất lâu nhưng cho đến tận thể kỷ XI, đời vua Trần Thái
Tơng (1225 - 1237) thì việc đánh thuế mới được hình thành một cách có tổ chức và có hệ thống.
Ngược dịng lịch sử, chúng ta tìm hiểu khái quát về chế định thuế hình thành và phát triển trong lịch
sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam.
1. Chế định thuế dười thời phong kiến.
Ngay từ thời phong kiến, các cấp lãnh đạo dưới chế độ quân chủ đã biết tổ chức hệ thống thu
thuế để làm nguồn thu cho công qũy của nhà Vua. Tuy vậy từ các triều đại nhà trần trở về sau này,
sự tổ chức, cách đánh thuế và thu thuế mới được ghi chép và có hệ thống.

1.1 Chế định thuế dưới triều đại nhà Trần:
Thuế ở nước ta được hình thành từ đời nhà Trần, rõ rệt nhất là vào thời vua Trần Thái Tông.
Theo sử sách ghi nhận vào thời nhà Trần có 2 loại thuế chính được áp dụng đó là thuế thân và thuế
điền:
Chế định thuế dưới thời Pháp thuộc.
Cơ chế tài chính do Pháp thiết lập ở Ðơng Dương đầu thế kỷ XX khơng nằm ngồi mục đích bao
trùm là vơ vét của cải của thuộc địa. Dưới thời Pháp thuộc, thuế được huy động vào hệ thống ngân
sách thuộc địa gồm nhiều tầng nấc, nhưng chúng lại không được chuyển thành nguồn tài trợ cho sự
phát triển của xã hội mà lại được chuyển về chính quốc, theo đúng mục tiêu của chủ nghĩa thực dân.

Chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra các thuế ngoại ngạch tức là loại thuế gián thu như thuế tiêu thụ


thuốc lá, thuế rượu, thuế muối, thuế đoan (thuế quan); thuế trực thu thì có thuế mơn bài, thuế thổ
trạch. Hệ thống ngân sách của nhà nước thuộc địa bao gồm:
·
Ngân sách Ðông Dương và các ngân sách phụ thuộc của nó là: ngân sách đặc biệt về tiền vay nợ
và ngân sách riêng của sở hoả xa.
·
Ngân sách các xứ bên trong liên bang: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Cao miên, Ai lao và Quảng Châu
văn.
·
Ngân sách các tỉnh và thành phố.
·
Ngân sách xã ở các làng.
Trên thực tê,ỳ một hệ thống ngân sách như vậy đã thể hiện như một hệ thống cực kỳ phản động,
mang tính chất bóc lột và vơ vét. Nhưng chính nó đã tạo tiền đề quan trọng dẫn đến cuộc tổng khởi
nghĩa tháng 8/ 1945, chấm dứt ách đô hộ của chế độ thực dân Pháp tồn tại gần 100 năm.
3. Chế định thuế thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm
1975
3.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 đến năm 1954.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành cơng, Chính phủ ta chủ trương bãi bỏ hẳn sắc thuế mang tính
chất phi nhân đạo như: thuế thân, thuế thổ trạch ở thôn quê và một số tạp thuế vô lý; miễn thuế
điền thổ cho vùng bị lụt và giảm thuế điền 20% trong tồn quốc; đình chỉ thu thuế ở miền Nam.
Sau năm 1946, Nhà nước một mặt bắt đầu cải tiến chế độ thuế, tăng thuế suất nhiều loại thuế;
mặc khác, vẫn tiếp tục dựa vào những đóng góp mới như: Qũy "tham gia kháng chiến" năm 1949,
Qũy "Cơng lương" và thuế điền thổ. Mặc khác, Chính phủ cũng vận động nhân dân vay dưới hình
thức cơng trái, đồng thời còn dựa vào nguồn phát hành tiền tệ.
Ðến năm 1951, bên cạnh việc thống nhất quản lý tài chính Nhà nước, Chính phủ cịn ban hành
chính sách pháp luật thuế mới được xây dựng trên nguyên tắc: cơng bằng, thích hợp với hồn cảnh

kinh tế - xã hội và điều kiện chiến tranh. Chính sách pháp luật thuế thống nhất bao gồm 7 loại thuế
là:
·
Thuế nông nghiệp.
·
Thuế cơng thương nghiệp.
·
Thuế hàng hóa.
·
Thuế xuất nhập khẩu.
·
Thuế sát sinh.
·
Thuế trước bạ.
·
Thuế tem.
Trong số các loại thuế này thì thuế nơng nghiệp giữ vai trị quan trọng. Tuy nhiên các loại thuế
này vẫn chưa được cấu trúc thành một hệ thống pháp luật thuế hồn chỉnh và cũng chưa có tác dụng
đáng kể.
3.2 Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975.
Ðây là giai đoạn mà nền tài chính đứng trước nhiều thuận lợi và thử thách mới. Một mặt, Việt
Nam đã đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi một cách vĩnh viễn, nhưng mặc khác, đất nước lại bị
chia cắt. Sau hiệp định Geneve, Chính phủ chỉ lần lượt ban hành các loại Luật thuế mới trên cơ sở
sửa đổi, bổ sung các chế độ thuế đã ban hành từ năm 1951 ở vùng tự do cũ để áp dụng thống nhất,
bao gồm 12 loại thuế sau:
·
Thuế doanh nghiệp.
·
Thuế hàng hóa.
·

Thuế sát sinh.
·
Thuế bn chuyến.
·
Thuế thổ trạch.
·
Thuế kinh doanh nghệ thuật.
·
Thuế môn bài.
·
Thuế trước bạ.
·
Thuế muối.
·
Thuế rượu.


·

Thuế xuất nhập khẩu và chế độ thu quốc doanh.
Trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, thuế công thương nghiệp được sửa đổi đáng kể: từ một
hệ thống thuế tương đối ít chuyển sang một hệ thống với nhiều hình thức thuế khác nhau, áp dụng
trên nhiều khâu của qúa trình sản xuất , lưu thơng hàng hóa, sử dụng nhiều loại thuế suất khác nhau
có sự phân biệt giữa các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, phân biệt kinh tế tập thể và tư nhân và
nhiều biện pháp ưu đãi khác nhau.
Trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Nhà nước đã áp dụng thí điểm chế độ thu
mới gọi là thu quốc doanh. Mức thu quốc doanh được xác định riêng cho từng mặt hàng tùy theo giá
cả Nhà nước quy định và chỉ thu ở khâu sản xuất. Năm 1962, Nhà nước cịn ban hành chế độ trích
nộp và sử dụng lợi nhuận của các xí nghiệp. Theo chế độ này, lợi nhuận của các doanh nghiệp quốc
doanh phải trích nộp một phần vào ngân sách Nhà nước; phần lợi nhuận còn lại, doanh nghiệp được

dùng để lập qũy doanh nghiệp, bổ sung kinh phí chuyên dùng, đầu tư một phần vào việc mở rộng
quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và bổ sung vốn lư động. Các doanh nghiệp công tư
hợp doanh trong thời kỳ này được chuyển sang làm nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước như các
doanh nghiệp quốc doanh, có nghĩa là phải nộp thu quốc doanh và lợi nhuận chứ không phải nộp
thuế như trước. Chế độ thuế này được duy trì ở miền Bắc cho đến ngày giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.

3.3 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1990.
·
Thời kỳ 1975 - 1980:
Trong thời kỳ này, miền bắc vẫn tiếp tục thực hiện hệ thống pháp luật thuế đã ban hành từ
trước, có sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Cịn miền Nam thì có áp dụng một số loại thuế cũ
của chính quyền Sài Gịn trên cơ sở xóa bỏ một số loại thuế phản tiến bộ và sửa đổi bổ sung để
thích ứng với điều kiện đất nước thống nhất.
·
Thời kỳ 1980 -1990:
Trong thời kỳ này, cả nước áp dụng hệ thống pháp luật thuế thống nhất, nhưng hệ thống pháp
luật thuế hiện hành này ngày càng tỏ ra có nhiều nhược điểm, cản trở sự phát triển các yếu tố của
nền kinh tế thị trường đang nảy sinh với các đặc điểm:
·
Sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp quốc doanh thì thực hiện chế độ
thu quốc doanh, thu trích nộp lợi nhuận cùng với các hình thức thu khác, trong khi các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác lại chịu sự tác động của thuế.
·
Thu quốc doanh đã bộc lộ nhiều nhược điểm căn bản. Về thực chất, đây là một loại thuế đa thuế
suất với hàng trăm thuế suất; điều này đặc biệt gây khó khăn cho việc quản lý và hành thu.
·
Giai đoạn từ 1990 đến nay:
Từ giữa những năm 1980, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, hệ thống pháp luật
thuế Việt Nam đã được nghiên cứu và đến năm 1990 một hệ thống pháp luật thuế mới được hình

thành, bao gồm hệ thống chính sách pháp luật thuế và hệ thống quản lý Nhà nước về thuế. Giai đoạn
này được đặc trưng bởi sự hình thành một hệ thống pháp luật thuế hoàn chỉnh nhất từ trước đến
nay, bao gồm 9 loại thuế:
·
Thuế nông nghiệp.
·
Thuế doanh thu.
·
Thuế tiêu thụ đặc biệt.
·
Thuế lợi tức.
·
Thuế xuất nhập khẩu (mậu dịch và phi mậu dịch).
·
Thuế tài nguyên.
·
Thuế thu nhập.
·
Thuế nhà đất.
·
Thuế vốn (khoản thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).
Ngồi ra cịn có một số phí và lệ phí có tính chất như thuế như: lệ phí mơn bài, lệ phí trước bạ, lệ
phí giao thơng, thuế sát sinh.
III.

PHÂN LOẠI THUẾ


Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật thuế bao gồm
nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế, chúng ta tiến hành

sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế thành những nhóm
khác nhau theo những tiêu thức nhất định.
1. Căn cứ để phân loại thuế.
Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu và nội
dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thơng thường thuế
được phân loại theo các tiêu thức sau:
1.1 Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà nước, thuế được phân
làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
·
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu nhập của người
tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chổ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất
với nhau. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt
động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế.
Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt...
·
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các pháp nhân hoặc
thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế theo quy định của pháp luật đồng thời là
người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế.
ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng
chính sách pháp luật thuế.
1.2 Căn cứ vào đối tượng đánh thuế.
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
·
Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng.
·

Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
·
Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao.
·
Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
·
Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài nguyên, thuế sử
dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước.
·
Thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát huy tác dụng riêng
của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và
vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
2. Các loại thuế cơ bản áp dụng ở các nước trên thế giới và ở Việt
Nam.
Do thể chế chính trị, kinh tế của các nước không giống nhau nên hệ thống pháp luật thuế của
mỗi quốc gia đều có tính chất đặc thù riêng. Chúng ta nghiên cứu sơ lược về hệ thống chính sách
pháp luật thuế ở một số nước xã hội chủ nghĩa và các nước có nền kinh tế thị trường.
2.1 Hệ thống pháp luật thuế của một số nước xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, một số nước xã hội chủ nghĩa đã có những thay đổi về chính sách kinh tế và tài chính,
áp dụng cơ chế kinh tế thị trường, tăng cường giao lưu thương mại với nhiều nước trên thế giới,
trong khu vực cũng như ngồi khu vực, khơng phân biệt thể chế chính trị. Một số nước đã áp dụng
chính sách pháp luật thuế với nhiều ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu tư. Do đó


·
·
·
·

·
·
·
·
·
·
·
·
·
·
·

các Luật thuế về cơ bản cũng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên mục đích của Luật thuế vẫn là điều tiết
thu nhập nhằm đảm bảo cơng bằng và chính sách thuế vẫn có xu hướng thiên về loại gián thu.
Nói chung, hiện nay tại một số nước xã hội chủ nghĩa, các Luật thuế với thuế suất cũng như cách
tính thuế đang được áp dụng có nhiều điểm tương đồng, phù hợp với chuẩn mực chung với Luật
thuế của các nước tiên tiến trên thế giới.
Chẳng hạn, hiện nay nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đang áp dụng các loại thuế sau đây:
Thuế giá trị gia tăng.
Thuế doanh thương.
Thuế tiêu thụ.
Thuế tài nguyên.
Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế địa ốc tại thành phố.
Thuế trị giá đất.
Thuế mơn bài.
Thuế con niêm.
Thuế quan.
Ngồi ra, có nước cịn áp dụng các loại thuế khác như:

Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Thuế môn bài.
Thuế trước bạ.

2.2 Hệ thống pháp luật thuế của một số nước áp dụng cơ chế kinh tế thị trường.
Pháp luật thuế của các nước tư bản đã có từ rất lâu đời và luôn được bổ sung, sửa đổi cho phù
hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ngày một phát triển.
Hệ thống pháp luật thuế của các nước tư bản áp dụng nhiều Luật thuế khác nhau, được phân
loại và xếp thành hệ thống như sau:
Thuế trực thu: gồm có:
·
Thu nhập cơng ty.
·
Thuế thu nhập cá nhân.
·
Thuế mơn bài hay thuế nghề nghiệp.
·
Thuế tài sản.
Thuế gián thu: gồm có:
·
Thuế tiêu thụ đặc biệt (thuế tiêu dùng).
·
Thuế giá trị gia tăng.
·
Thuế hí cuộc.
·
Thuế quan.
·
Thuế trước bạ và con niêm.

Về cơ bản các nước có nền kinh tế thị trường đều áp dụng các Luật thuế trên đây và coi đây là
nguồn thu cơ bản cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên cũng tùy theo cơ chế kinh tế và tổ chức xã hội
của mỗi nước mà có sự thay đổi trong cách tính thuế và thuế suất.
IV. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH MỘT LUẬT THUẾ
Luật thuế do Quốc hội ban hành, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ. Xem xét cấu tạo một
Luật thuế là xem xét sự sắp xếp, bố trí các quy phạm pháp luật theo các nội dung điều chỉnh.
Ơớ nước ta, các Pháp lệnh, Nghị quyết do Uớy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chứa đựng các
quy phạm pháp luật thuế, thực hiện chức năng điều chỉnh của Luật thuế nên cũng có cấu tạo tương
tự Luật thuế.
Thơng thường, Luật thuế có cấu tạo gồm các bộ phận chủ yếu sau: tên gọi; những quy định
chung; căn cứ tính thuế; đối tượng nộp thuế; chế độ kê khai, nộp thuế, thu thuế; chế độ miễn, giảm
thuế; nghĩa vụ và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế; chế độ xử lý vi phạm; khen thưởng và giải
quyết khiế nại về thuế.


Tên gọi của luật thuế.
Tên Luật thuế thường được xác định trên cơ sở tên gọi loại thuế được quy định. Tên gọi của một
Luật thuế được xác định theo đối tượng tính thuế hoặc nội dung và tính chất của các hoạt động làm
phát sinh điều kiện pháp lý để áp dụng.
2. Những quy định chung.
Phần quy định chung trong Luật thuế bao gồm các quy định về nguyên tắc áp dụng và phạm vi áp
dụng của Luật thuế như quy định đối tượng nộp thuế, đối tượng không thuộc diện chịu thuế,
nguyên tắc về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm, quyền hạn
của cơ quan thu thuế.
Ðối tượng nộp thuế là các pháp nhân và thể nhân có nghĩa vụ phải nộp thuế cho Nhà nước
khi có các điều kiện được dự liệu trong Luật thuế.
Ðối tượng không thuộc diện chịu thuế là trường hợp các thể nhân và pháp nhân có các hoạt
động tương tự các điều kiện được dự liệu nhưng Luật thuế quy định không thuộc phạm vi điều
chỉnh thì các hoạt động đó khơng thuộc diện chịu thuế theo quy định trong Luật thuế.
Nguyên tắc thu, nộp thuế được quy định trong Luật thuế thể hiện một cách tổng quát quyền

và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan thu thuế.
3. Căn cứ tính thuế.
Trong các Luật thuế đều có các quy phạm quy định thuế được tính dưạ trên căn cứ nào. Tùy
thuộc nội dung, tính chất của từng loại thuế mà các căn cứ tính thuế được quy định cụ thể. Các căn
cứ tính thuế bao gồm các yếu tố cơ bản là đối tượng tính thuế và thuế suất. Ngồi ra trong một số
loại thuế, căn cứ tính thuế còn được quy định bao gồm một số yếu tố khác như số lượng hàng hố,
giá tính thuế...
Ðối tượng tính thuế:
Là căn cứ quan trọng nhất để tính thuế, phản ánh nội dung kinh tế - xã hội, nguồn gốc của bộ
phận của cải được tập trung vào qũy ngân sách Nhà nước, thể hiện tính chất độc lập của một loại
thuế trong hệ thống pháp luật thuế. Do đó, các Luật thuế quy định đối tượng tính thuế của mỗi loại
thuế có tính độc lập. Chẳng hạn, đối tượng của thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập chịu thuế...
Biểu thuế:
Là bảng tập hợp các thuế suất hoặc các mức thuế nhất định trong một Luật thuế được áp dụng
để thu thuế đối với từng quan hệ cụ thể cụ thể.
Thuế suất:
Là mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị của đối tượng tính thuế.
Tuỳ theo từng Luật thuế mà người ta áp dụng các mức thuế suất khác nhau. Biểu thuế gồm có các
hình thức sau:
Biểu thuế thơng thường bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp dụng ổn định và thống
nhất cho tồn bộ đối tượng tính thuế.
Biểu thuế lũy tiến bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp dụng càng cao theo quy mô của
đối tượng tính thuế. Biểu thuế lũy tiến có hai hình thức: biễu thuế lũy tiến tồn phần và biểu thuế
lũy tiến từng phần.
+ Biểu thuế lũy tiến toàn phần bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp dụng thay đổi theo
mức cao hơn đối với toàn bộ đối tượng tính thuế nếu đối tượng tính thuế thuộc bậc quy định. Hay
nói cách khác thuế được tính chung trên tồn bộ đối tượng tính thuế theo thuế suất tương ứng.
+ Biểu thuế lũy tiến từng phần bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất được áp dụng thay
đổi theo mức cao hơn đối với từng phần của đối tượng tính thuế nếu đối tượng tính thuế thuộc bậc
quy định.

Biểu thuế lũy thoái bao gồm các mức thuế suất nhưng thuế suất áp dụng giảm dần tương ứng
với sự tăng lên của đối tượng tính thuế ở các bậc. Hiện nay pháp luật thuế Việt Nam cũng như phổ
biến ở nhiều nước trên thế giới không quy định loại thuế lũy thoái. Việc áp dụng biểu thuế lũy thối
trong thu thuế mang tính cá biệt ở một số nước.
Trong công tác hoạt động xây dựng pháp luật, việc quy định các mức thuế suất cũng như hình
thức biểu thuế thể hiện thái độ của Nhà nước trong việc động viên nguồn tài chính vào ngân sách
Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
1.

·
·
·

·

·
·

·
·


Chế độ kê khai, nộp thuế, thu thuế.
Chế độ kê khai thuế quy định trong Luật thuế thể hiện các quyền và nghĩa vụ của đối tượng
nộp thuế trong việc chấp hành sổ sách kế tốn, hóa đơn chứng từ và cung cấp tài liệu, sổ sách kế
toán, chứng từ hố đơn liên quan đến việc tính và thu thuế. Tùy thuộc vào yêu cầu của việc tính thuế
đối với từng loại thuế mà Luật thuế và các văn bản ph&aac
11-06-2008. Số lần xem: 2313
V. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ
4.


·

·
·
·
·

·

1. Qúa trình hình thành và phát triển bộ máy quản lý Nhà nước về
thuế ở Việt Nam.
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập cho đến nay, cùng với sự phát triển của
ngành tài chính, tổ chức bộ máy tài chính nói chung và tổ chức bộ máy thu thuế nói riêng được phát
triển và hoàn thiện dần, từng bước phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế tài chính phù hợp với tổ chức
hành chính Nhà nước và tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh.
Trước khi tiến hành cải cách hệ thống pháp luật thuế áp dụng chung cho tất cả các thành phần
kinh tế, bộ máy thu thuế Việt Nam được tổ chức như sau:
Bộ máy thu thuế được tổ chức theo từng thành phần kinh tế, phù hợp với chế độ thu thuế áp dụng
cho mỗi thành phần kinh tế, đó là:
Bộ máy thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp quốc doanh: chịu trách nhiệm quản lý
các khoản thu từ xí nghiệp quốc doanh.
Bộ máy thu thuế nông nghiệp: chịu trách nhiệm quản lý thu thuế hợp tác xã nông nghiệp và cá
thể.
Bộ máy thu thuế công thương nghiệp: chịu trách nhiệm quản lý thu thuế công thương nghiệp
đối với kinh tế tập thể, cá thể kinh doanh công thương nghiệp.
Ðối với khu vực xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, Nhà nước thực hiện quản lý và thu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu thông qua bộ máy thu thuế là Tổng cục hải quan.
Về hình thức tổ chức cũng có nhiều thay đổi qua các thời kỳ: có lúc bộ máy thu thuế được tổ chức
thành hệ thống dọc, trực tuyến từ trung ương xuống đến quận, huyện; có lúc bộ máy thu thuế được

tổ chức thành một bộ phận nằm trong cơ cấu bộ máy của cơ quan tài chính các cấp.
2. Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thuế hiện nay.
Ðể phù hợp với tình hình mới của đất nước, yêu cầu cấp bách phải tổ chức bộ máy thu thuế
thống nhất trong cả nước. Ngày 7/8/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 281/HÐBT về
việc thành lập bộ máy thu thuế Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. Ngày 21/8/1991 Bộ Tài chính ra
Quyết định số 316 TC-QÐ/TCCB thành lập Tổng cục Thuế Nhà nước trực thuộc Bộ tài chính làm
nhiệm vụ quản lý thuế nội địa. Việc quản lý thuế xuất nhập khẩu do Tổng cục Hải quan tiếp tục
thực hiện.

2.1 Nguyên tắc tổ chức hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về thuế.
·
Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế Nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung ương đến cơ sở,
cùng thực hiện nhiệm vụ tổ chức thực hiện các Luật thuế trong cả nước.
Tính thống nhất và hệ thống trong tổ chức bộ máy thu thuế được thể hiện ở các điểm sau:
·
Hệ thống thu thuế Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thống nhất trong cả nước về công tác
thu thuế và các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước đối với tất cả các thành phần kinh tế; không
một tổ chức hay cá nhân nào được đứng ra tổ chức thu thuế nếu không được sự ủy quyền của cơ
quan thuế.
·
Các nghiệp vụ thu thuế và các khoản thu khác đối với các đối tượng nộp thuế được chỉ đạo và tổ
chức thực hiện thống nhất trong toàn ngành thuế nhằm đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật
thuế và các chế độ thu khác.
·
Cơ quan thuế các cấp được tổ chức theo một mơ hình thống nhất. Việc quản lý biên chế, cán bộ,
kinh phí chi tiêu, thực hiện các chính sách đối với cán bộ cũng như tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ
thuế được thực hiện thống nhất trong toàn ngành thuế.



·
·

Cơ quan thuế địa phương chịu sự lãnh đạo song trùng của Bộ trưởng Bộ tài chính và Chủ tịch Uớy
ban nhân dân tỉnh.
Các cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương nằm trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, có tư
cách pháp nhân.

2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thuế.
a. Ðối với cơ quan quản lý thuế nội địa:
·
Tổng cục Thuế.
Tổng cục thuế là cơ quan cao nhất trong hệ thống thu thuế Nhà nước cùng với Tổng cục hải
quan.
Theo quyết định thành lập, Tổng cục thuế có nhiệm vụ tư vấn soạn thảo các văn bản pháp luật
về thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật thuế. Xây dựng và điều hành kế hoạch thu trong
cả nước và từng địa phương; tổ chức phổ biến, hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ thực hiện các Luật
thuế trong cả nước; nghiên cứu hoàn thiện cơ cấu bộ máy quản lý Nhà nước về thuế và sử dụng cán
bộ; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra qúa trình chấp hành các Luật thuế để việc thực hiện các Luật
thuế đạt được kết qủa cao; giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế...
·
Các cục thuế địa phương.
Cục thuế là tổ chức trực thuộc Tổng cục thuế được tổ chức tại tất cả các tỉnh, thành phố, đặc
khu trực thuộc Trung ương. Cơ cấu bộ máy Của cục thuế bao gồm một số phòng chức năng và một
số phòng nghiệp vụ, phòng thu thuế được tổ chức theo đối tượng thu thuế.
Cục thuế có nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu sau:
Phổ biến, hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức thi hành các Luật thuế; xây dựng và chỉ đạo thực hiện
kế hoạch thu trong toàn địa bàn và từng Chi cục thuế trực thuộc; hướng dẫn kiểm tra các Chi cục
thực hiện các nghiệp vụ quản lý, giải quyết các khiếu nại về thuế; trực tiếp thực hiện việc thu thuế
và thu khác đối với các đối tượng thuộc trách nhiệm quản lý trên địa bàn.

·
Các Chi cục thuế.
Chi cục thuế là tổ chức trực thuộc Cục thuế, được tổ chức tại tất cả các quận, huyện. Cơ cấu
bộ máy Chi cục thuế gồm các tổ chuyên môn, nghiệp vụ và các đội, tổ, trạm trực tiếp quản lý việc
thu thuế.
Chi cục thuế có nhiệm vu, quyền hạn sau:
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thu chi tiết đối với từng Luật thuế phát sinh trên địa bàn
Huyện; tổ chức thực hiện các nghiệp vụ quản lý các đối tượng nộp thuế; đôn đốc, kiểm tra các đối
tượng nộp thuế trong việc chấp hành Luật thuế.
Từng cơ quan thuế thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình sẽ tạo nên sự phối hợp đồng bộ trong
việc thực hiện mục tiêu hoàn thành kế hoạch thu của Nhà nước. Nhưng để thực hiện nhiệm vụ
được giao, pháp luật thuế có quy định cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ thu thuế có một số quyền hạn
nhất định.
b. Ðối với cơ quan quản lý Nhà nước về thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu:
Cơ quan Hải quan Việt Nam thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, qúa cảnh, mượn đường Việt Nam; đấu tranh
chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối, tiền Việt Nam qua biên giới. Các
hàng hóa, hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam, bưu kiện, bưu phẩm, các đồ vật và tài sản khác xuất
khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam đều chịu sự quản lý Nhà nước về hải quan theo quy định
của pháp luật.
Cơ quan Hải quan Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Chính phủ. Tổ chức hải quan Việt Nam bao gồm:
·
Tổng cục Hải quan.
·
Cục Hải quan tỉnh hoặc liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương.
·
Hải quan cửa khẩu, Ðội kiểm sốt hải quan.
Cơ quan hải quan Việt Nam có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
·

Tiến hành thủ tục hải quan, thực hiện kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan theo quy định của
pháp luật.


·

·
·
·
·
·
·

Tổng Cục Hải quan có trách nhiệm quy định thủ tục khai báo, kiểm hóa, tính thuế, nộp thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và tổ chức thực hiện việc thu thuế thống nhất trong toàn ngành
Hải quan. Hải quan tỉnh, thành phố và hải quan cửa khẩu có trách nhiệm thực hiện đúng quy định về
thủ tục đăng ký tờ khai hàng xuất khẩu, nhập khẩu cung cấp đủ các chứng từ hợp lệ để tính thuế,
tính đúng số thuế mà tổ chức, cá nhân phải nộp thuế, đảm bảo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Ðảm bảo thực hiện quy định của Nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu, về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu và các nghĩa vụ khác trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định.
Tiến hành những biện pháp phát hiện, ngăn ngừa, điều tra và xử lý hành vi buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối, tiền Việt Nam qua biên giới, hành vi vi phạm các quy định khác
của Nhà nước về hải quan trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định.
Thực hiện thống kê Nhà nước về hải quan.
Kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất
cảnh, nhập cảnh, qúa cảnh, mượn đường Việt Nam, hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện quy định
của Nhà nước về hải quan.
Ðào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên hải quan.
Hợp tác quốc tế với Hải quan các nước.

Trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hải quan Việt Nam phối hợp chặt chẽ với
chính quyền địa phương các cấp, các lực lượng vũ trang, cơ quan Nhà nước khác, tổ chức xã hội, dựa
vào nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.



×