Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phê phán cương lĩnh gôta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.42 KB, 22 trang )

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔ-TA”
(C.Mác và Ph.Ăng-ghen Toàn tập, t.19.NXb. CTQG,HN,1995.,tr26-53).
PGS. Vũ Hữu Ngoạn
Kiều Văn Liệu
I. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Tác phẩm này do C.Mác viết vào tháng 4 đầu tháng 5 năm 1875. Mục
đích của C.Mác viết tác phẩm này là nhận xét, phê phán tính chất sai lầm về
khoa học, phản động về chính trị của Cương lĩnh Gô-Ta, của Đảng xã hội Dân
chủ Đức, qua đó nhằm chấn chỉnh chính đảng của giai cấp công nhân rằng
phải tuyệt đối trung thành với lý luận Mác- Xít.
Cương lĩnh Gô-ta được chuẩn bị cho hội nghị thống nhất thành lập Đảng:
Đảng Xã hội Dânchủ Đức, họp ở Gô-ta miền nam nước Cộng hoà Liên bang
Đức bây giờ, từ ngày 22 đến 27 tháng 5 năm 1875 đại hội thống nhất hai tổ
chức của giai cấp công nhân hồi đó là: Hội liên hiệp công nhân toàn Đức Thành lập năm 1863 bởi Lát-Xan Phécđi năng ( 1825-1864) do Hadenclêvec
Vinhem ( 1837-1889) và Haxenman Vinhem ( sinh 1844) lãnh đạo; và Đảng
công nhân Xã hội Dân chủ Đức ( còn gọi là Đảng Ai-dơ-nắc) thành lập 1867
do Líp-Nếch và Bê-Ben lãnh đạo.
Lát- xan và phái của ông ta có các quan điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, không nên thống nhất nước Đức "từ dưới lên" trên bằng cách
mạng bạo lực do giai cấp vô sản lãnh đạo theo quan điểm của C.Mác và Ph.
Ăng ghen mà nên thống nhất nước Đức "từ trên xuống" xung quanh nước Phổ
của giai cấp địa chủ. Với chủ trương này theo Lat- Xan, thực hiện quyền bầu
cử phổ thông là cứu vớt được giai cấp vô sản, thành lập những hợp tác xã sản
xuất của công nhân với sự giúp đỡ của chính phủ tư sản, địa chủ là phương
tiện chủ yếu để cải tạo xã hội. Gọi nhà nước tư sản là một tổ chức siêu giai
cấp có thể biến thành "Nhà nước nhân dân tự do" bằng cách lợi dụng quyền
bầu cử phổ thông.


Thứ hai, duy trì quan điểm "quy luật sắt về tiền công" cũ rích của các
nhà kinh tế chính trị học Anh trước đó, mức tiền công không thể cao quá số


lượng tư liệu sinh hoạt tối thiểu của công nhân và bản thân gia đình công
nhân, vì rằng tăng lương lên cao quá mức đó thì sẽ làm tăng thêm hôn nhân
và tỷ lệ sinh đẻ, mà nhân khẩu tăng lên thì tiền công lại tụt xuống và như vậy
làm giảm tỷ lệ sinh đẻ và cứ thế mãi. Do đó rút ra một kết luận phản động là
công nhân không nên đấu tranh đòi tăng lương.
Thứ ba, Lat - xan chủ trương "thu nhập của lao động ... không bị cắt
xén", "phân phối công bằng", coi nông dân là giai cấp phản động. Chủ nghĩa
cơ hội của phái Lát-xan có hại rất lớn cho phong trào công nhân. Vì vậy,
C.Mác và Ph. Ăng ghen luôn luôn chỉ trích phái Lát-xan.
Từ những năm 60 của thế kỷ XIX, thắng lợi của các cuộc đấu tranh
bằng nhiều hình thức của công nhân dưới sự lãnh đạo của Quốc tế I ở Anh,
Pháp, Thuỵ Sỹ đã chứng tỏ lý luận kinh tế của Lát-xan là sai. Thực tiễn cuộc
bầu cử Quốc hội Đức năm 1966 với khẩu hiệu chính trị "phổ thông đầu
phiếu" của Lát -xan không đưa lại lợi ích gì cho giai cấp công nhân.
Giai đoạn 1869-1871 Đảng công nhân Xã hội Dân chủ Đức thường
xuyên đấu tranh chính trị với phái Lát-xan. Song, tuy đấu tranh với phái Latxan, bản thân phái Aidơnắc vẫn chưa thoát khỏi hẳn ảnh hưởng của chủ nghĩa
cơ hội, do đó đấu tranh không triệt để. Cương lĩnh của họ có ảnh hưởng rõ rệt
cuả chủ nghĩa Lát- xan: yêu cầu thành lập "Nhà nước nhân dân tự do" và lập
những tổ chức Liên hiệp sản xuất.
Phái Aidơnắc tham gia Quốc tế I và nhờ có ảnh hưởng của C.Mác và
Ph. Ăng ghen nên tuy họ có sai lầm nhưng cũng đã đạt được cơ sở vững chắc
cho một Đảng Xã hội Dân chủ chân chính. Phái Lát-xan thì từ chối gia nhập
Quốc tế I và giữ lập trường dân tộc chủ nghĩa.
Chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870 với sự thắng lợi của Phổ, chính phủ
Bix - mac thực hịên sự thống nhất “từ trên xuống”, như vậy là vấn đề tranh


luận chủ yếu giữa phái Aidơnắc và phái Lát-xan đã rõ rồi, không đặt ra nữa.
Nước Đức đã đi vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Lúc này, nền công nghiệp Đức phát triển mạnh mẽ (chỉ sau nước Anh)

đã kéo theo giai cấp vô sản lớn mạnh, phong trào công nhân có điều kiện mở
rộng. Tuy nhiên, ở một nước Đức thống nhất mà có hai tổ chức đảng của giai
cấp công nhân thì không thể chấp nhận được vì nó chia rẽ, cản trở phong trào
công nhân. Do vậy, chỉ có một chính Đảng thống nhất của giai cấp công nhân
là nguyện vọng chính đáng của quần chúng lao động, đảng viên thường và các
lãnh tụ đảng ở hai tổ chức này. Thấy rõ tính cấp thiết của thực tiễn chính trị
lúc đó, C.Mác và Ph. Ăng ghen tán thành thống nhất hai đảng nhưng trên cơ
sở nguyên tắc vô sản, phái Aidơnắc không được thoả hiệp về những vấn đề
nguyên tắc của Cương lĩnh thống nhất. C. Mác và Ph. Ăng ghen nhiều lần
nhắc nhở những người lãnh đạo phái Aidơnắc, nhất là Líp-nếch rằng thống
nhất trên cơ sở vô nguyên tắc có thể gây hại lớn cho phong trào công nhân
Đức. Nhưng phái Aidơnắc đặc biệt là Líp-nếch bị Lát-xan lợi dụng lại đồng ý
thống nhất trên cơ sở thoả hiệp và điều đó được phản ánh trong "Cương lĩnh
Gô-ta".
C.Mác và Ph. Ăng ghen lúc đó đang ở Anh, nhưng các ông rất quan
tâm đến phong trào công nhân Đức. Hai ông không ngừng chăm lo Đảng
công nhân Dân chủ xã hội Đức trở thành Đảng có tính quần chúng và vững
vàng về tư tưởng để xứng đáng vị trí Quốc tế là niềm tin của giai cấp công
nhân thế giới. Sự chăm lo của hai ông bằng nhiều hình thức: Động viên thắng
lợi phong trào, tuyên truyền lý luận chính trị vào Đức, đứng ra đòi hỏi cao và
nghiêm khắc đối với các lãnh tụ của Đảng, không bỏ qua mà góp ý thẳng thắn
đối với những sai lầm trong sách lược, đường lối của Đảng...
Giữa tháng 3 năm 1875 tình cờ đọc báo, C.Mác và Ph.Ăng ghen mới
biết đã có dự thảo Cương lĩnh thống nhất của hai đảng. Bản dự thảo đó đã làm
hai ông "kinh ngạc" vì đáng lẽ với vai trò của mình hai ông phải nhận được
lời đề nghị góp ý từ các lãnh tụ của Đảng Aidơnắc như Líp-nếch, Bê-ben


trước khi đăng báo, đồng thời hai ông nhận thấy bản dự thảo đầy rẫy những
sai lầm. Bản thân cương lĩnh của Đảng công nhân Dân chủ xã hội năm 1869

còn nhiều thiếu sót, thì bản cương lĩnh dự thảo này lại sai lầm hơn nữa. Bởi
nó ảnh hưởng và nó thoả hiệp nhiều tư tưởng cơ hội của phái Lát-xan, xa rời
những quan điểm khoa học của phong trào vô sản . C.Mác nói đó là “một
Cương lĩnh mà tôi tin chắc là hoàn toàn vô dụng và đang làm cho Đảng mất
tinh thần"1.
Trong thư gửi Bê-ben ngày 18 - 28 tháng 3 năm 1875 Ph.Ăng ghen đã
phê phán dự thảo cương lĩnh . Đồng thời Ph.Ăng ghen cũng chỉ trích Líp-nếch
đã không hỏi ý kiến C.Mác và Ph.Ăng ghen.
Sau khi vạch ra những luận điểm sai lầm chủ yếu của dự thảo Cương
lĩnh Gô-ta, Ph.Ăng ghen tuyên bố rằng nếu "Cương lĩnh đó được thừa nhận
thì C.Mác và tôi không bao giờ lại có thể gia nhập một cái đảng mới, xây trên
một cơ sở như thế"2.
Trong bức thư này còn có luận điểm rất quan trọng của Ph. Ăng ghen về
vai trò của Nhà nước với tư cách là rường cột của hệ thống chính trị: “Nhà
nước nhân dân tự do đã trở thành một Nhà nước tự do. Thế mà, đứng về mặt
ngữ pháp mà xét một Nhà nước tự do là một nhà nước được tự do đối với các
công dân của mình, tức là một nhà nước có chính phủ độc tài. Có lẽ nên bỏ
hẳn tất cả những câu ba hoa về nhà nước ấy đi, nhất là từ sau Công xã, Công
xã không còn là nhà nước theo chủ nghĩa đen của từ này nữa. Bọn vô chính
phủ chủ nghĩa đã làm chối óc chúng ta khá nhiều về mấy tiếng "nhà nước
nhân dân", mặc dù quyển sách C.Mác viết chống Pru-đông rồi đến quyển"
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" cũng đều nói hết sức rõ là với sự thiết lập
chế độ xã họi chủ nghĩa, nhà nước sẽ tiêu vong ( Sichauflost) và biến đi . Vì
nhà nước, xét cho cùng chỉ là một thiết chế tạm thời mà người ta phải dùng
đến trong đấu tranh, trong cách mạng để đàn áp kẻ địch của mình bằng bạo
lực, cho nên nói đến một nhà nước nhân dân tự do là hoàn toàn vô nghĩa.
1
2

C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn t?p, t.19.,NXb. Chính tr? qu?c gia,HàN?i,1995.,tr.24.

sđd. tr.16.


Chừng nào giai cấp vô sản còn cần đến nhà nước thì như thế tuyệt nhiên
không phải là vì tự do thì nhà nước sẽ không còn là nhà nước nữa"3.
Nhưng sự phê phán của Ph.Ăng ghen chưa có tác động mạnh đến Lípnếch và trong nhiều bức thư gửi "những người Luân Đôn", Líp-nếch vẫn tìm
cách bảo vệ lập trường của mình trong việc thương lượng với phái Lát-xan.
Sau khi Ph. Ăng ghen gửi thư cho Bê-ben tại Luân Đôn ( Anh), C.Mác dù bận
cũng đã viết thư đề ngày 5 tháng 5 năm 1875 để gửi cho một trong những
lãnh tụ đảng Aidơnắc là V.Brắc-cơ, đồng thời gửi những nhận xét ngoài lề
phê phán Cương lĩnh hợp nhất. Trong bức thư, C.Mác cảnh báo Cương lĩnh
thống nhất ra đời sẽ làm cho Đảng Ai dơnắc mất tinh thần. Theo C.Mác,
thống nhất hai Đảng lúc này là mang tính chất hình thức, không có sự đoàn
kết thực sự, thể hiện sự nhượng bộ, thoả hiệp với chủ nghĩa cơ hội về lập
trường, nguyên tắc. Lúc này, tốt nhất là chi nên ký một kế hoạch tổ chức hành
động chung chống kẻ thù của hai đảng mà thôi. Từ sự khuyên nhủ này, C.Mác
có nhận định nổi tiếng: "Mỗi bước tiến của phong trào thực sự còn quan trọng
hơn một tá Cương lĩnh"4. Trong thư, C. Mác cũng cho biết, sau đại hội hợp
nhất của hai đảng, " Ph.Ăng ghen và tôi, chúng tôi sẽ công bố một bản tuyên
bố vắn tắt"5, và C.Mác đã viết bản tuyên bố này, có tựa đề "Những nhận xét
về bản cương lĩnh của đảng công nhân Đức" hay "phê phán Cương lĩnh Gôta" (tựa đề do Nhà xuất bản chính trị quốc gia Liên Xô đặt, 1961).
Bất chấp lời khuyên nhủ của C.Mác và Ph. Ăng ghen, bản dự thảo
Cương lĩnh đã được thông qua mà không có sửa chữa gì căn bản và thực chất
vẫn giữ tính chất cơ hội chủ nghĩa, vẫn theo công thức của chủ nghĩa Lát-xan.
Khi C.Mác còn sống, tác phẩm phê phán dự thảo Cương lĩnh không
được xuất bản. Mãi đến tháng 1 năm 1891 với sự cố gắng của Ph.Ăng ghen
tác phẩm mới được đăng ở tạp chí Thời mới - Cơ quan Lý luận của Đảng Dân
chủ xã hội Đức ( Cau-xki chủ biên). Ph.Ăng ghen đã viết lời nói đầu. Sự xuất
hiện của văn phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô–ta” trên vũ đài chính trị là cần
sđd. tr.15.

sđd. tr.24.
5
sđd. tr.23.
3
4


thiết vì bấy giờ Đại hội Đảng xã hội Dân chủ Đức ở Naflơ tháng 10 năm 1890
quyết định chuẩn bị dự án cương lĩnh mới (Cương lĩnh Ec-phuya) cho kỳ đại
hội sau, Ph. Ăng ghen thấy cần xuất bản tác phẩm, để có thể giúp cho đảng
viên nhìn rõ vấn đề trong dự thảo Cương lĩnh mới của Đảng Xã hội Dân chủ
Đức.
II. Nội dung tác phẩm
Tác phẩm có 29 trang chia thành 4 đoạn. Qua việc C.Mác phê phán các
quan điểm sai lầm của Cương lĩnh Gô- ta (Cương lĩnh) đã đem lại cho chúng
ta những nội dung lý luận chính trị đáng lưu tâm sau:
1. Lý luận về hai giai đoạn của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Từ những đoạn viết trên của C.Mác, có một nội dung lý luận nổi bật
lên, trở thành đặc trưng của tác phẩm này. Đó là: Dự đoán về cách mạng vô
sản trong xã hội tương lai - lý luận về hai giai đoạn của hình thái kinh tế - xã
hội CSCN. C.Mác viết: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích
ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nước của thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản"6.
Vậy xuất phát từ cơ sở nào, để C.Mác đặt vấn đề về sự phát triển tương
lai của chủ nghĩa cộng sản?
Xuất phát ở chỗ chủ nghĩa cộng sản được hình thành và phát triển từ
chủ nghĩa tư sản, là kết quả của mâu thuẫn không thể điều hoà được giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản, do chủ nghĩa tư sản sinh ra trong di sản lý luận
của C.Mác, theo VI. Lê nin" Người ta không thấy mảy may một ý định nào

nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự đoán vu vơ về những điều
mà người ta không thể biết được"7.
Tư tưởng về Nhà nước của C.Mác đã dược nêu trong tác phẩm "Tuyên
ngôn Đảng cộng sản”, khi ông nêu ra tư tưởng về sự tất yếu xây dựng xã hội
cộng sản từ xã hội tư bản chủ nghĩa và về vai trò của giai cấp vô sản là lực
6
7

sđd. tr.47.
V.I.Lê-nin Toàn t?p, t.33., NXb. Ti?n b?, Mát-xco-va, 1976., tr.104.


lượng chủ yếu có khả năng giải quyết nhiệm vụ ấy, đặc biệt nói rõ việc giai
cấp vô sản giành chính quyền là điều kiện cơ bản để xây dựng chủ nghĩa cộng
sản.
Tổng kết kinh nghiệm 1848-1849, C.Mác và Ph.Ăng ghen đi đến kết
luận cần phải đập tan bộ máy Nhà nước tư sản và nêu ra công thức "chuyên
chính vô sản". Những tư tưởng này được trình bày hết sức đầy đủ trong tác
phẩm của C. Mác " Đấu tranh giai cấp ở Pháp".
Sau công xã Pari năm 1871, C,Mác và Ph.Ăng ghen lại nêu cụ thể phải
thay thế bộ máy Nhà nước tư sản bằng cái gì và bàn đến những hình thức
chính quyền Nhà nước mới tức là những hình thức chuyên chính vô sản.
C.Mác cho rằng, giai cấp công nhân chỉ có thể giành được chính quyền
và thiết lập nền chuyên chính vô sản bằng con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa, trong cuộc cách mạng đó giai cấp vô sản phá huỷ bộ máy nhà nước tư
sản và thiết lập lên một nhà nước mới - Nhà nước vô sản.
Và cuối cùng trong tác phẩm này, những người sáng lập chủ nghĩa
cộng sản khoa học giải thích toàn diện vấn đề chuyên chính vô sản là thời kỳ
quá độ tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tính chất tạm thời lịch
sử và bản chất của Nhà nước đó. C.Mác cũng đã vạch rõ cơ sở kinh tế xã hội

về tính tất yếu tiêu vong của Nhà nước.
C.Mác cho biết xã hội tương lai thay thế xã hội TBCN là xã hội CSCN.
Xã hội đó "Tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất"8, xã hội này phát triển qua hai giai đoạn: "giai
đoạn đầu"9 không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên
những cơ sở của chính nó " hoặc " là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa" Lê nin cho rằng" giai đoạn đầu" " giai đoạn
thấp" mà Mác nói chính là CNXH) và " giai đoạn cao" hay " xã hội cộng sản
chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó"10.
C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn t?p, t.19.,NXb. Chính tr? qu?c gia,HàN?i,1995.,tr.33.
sđd. tr.36.
10
sđd. tr.33.
8
9


C.Mác đã dự đoán những đặc điểm của giai đoạn đầu của CNCS đó là
một xã hội mà về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần... còn mang"
những dấu vết" của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra" 11. Điển hình là trong phân
phối. Ở giai đoạn đầu, sự phân phối cho người lao động sau khi đã khấu hao
và trừ đi những đóng góp cần thiết thì thực hiện theo chế độ phân phối theo
lao động12. Đó là kiểu phân phối tiến bộ hơn sự phân phối trước nó. Nhưng
trong thực tế sự bình đẳng này vẫn nằm trong "khuôn khổ tư sản", "quyền tư
sản"13. Nghĩa là còn "thiếu sót" còn chưa thật “ngang nhau" vẫn tạo ra sự
phân hoá xã hội nhất định. C.Mác viết: "Như vậy, với một công việc ngang
nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội
thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu
hơn người kia..."14. Bởi vậy, con người với tính cách là cá nhân, khác nhau về
cái mà Mác gọi là " đặc quyền tự nhiên" những gì khách quan bên ngoài, ngẫu

nhiên chi phối: thể chất tinh thần người này khác người kia, năng khiếu, năng
lực lao động khác nhau... Từ đó, làm cho người ta lao động với những kết quả
khác nhau. Hoặc người này có gia đình người kia chưa có, người này có nhiều
con người kia ít con... Thành ra làm bằng nhau, thu nhập bằng nhau mà
không hưởng thụ bằng nhau. Kiểu phân phối này, muốn tránh thiếu sót phải
tiến lên thực hiện phân phối theo nhu cầu nghĩa là ở giai đoạn cao của CNCS.
Còn giai đoạn thấp thì "không thể tránh khỏi" những thiếu sót của phân phối theo lao
động.
Theo C.Mác, những thiếu sót này không thể tránh khỏi trong giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản
chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài. Pháp quyền không bao giờ có thể
cao hơn chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế
quyết định.

sđd. tr.33.
sđd. tr.34.
13
sđd. tr.34.
14
sđd. tr.35.
11
12


Ở đây, xã hội mới ra đời chưa có thể có đầy đủ ngay lập tức những đặc
trưng kinh tế xã hội của chủ nghĩa cộng sản mà phải trải qua một quá trình
xây dựng từng bước,từ thấp đến cao, từ chưa hoàn bị đến hoàn bị, tuỳ theo
điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất và bản thân người lao động. Khắc
phục những thiếu sót trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản bằng vai trò
Nhà nước của giai cấp vô sản. Nhà nước vô sản, một mặt ra sức bảo vệ chế độ

công hữu về tư liệu sản xuất, mặt khác bảo vệ sự bình đẳng trong lao động và
phân phối sản phẩm.
Về phân kỳ, giai đoạn thấp là thời kỳ quá độ nằm "giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa" ( giai đoạn cao).Nhiệm vụ lịch sử
của nó "là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia"
Về mặt chính trị, là thời kỳ quá độ chính trị - nghĩa là “Nhà nước
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản"- chuyên chính vô sản15.
Giai đoạn cao của xã hội CNCS, C.Mác dự đoán khái quát rằng:"
Trong một giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản chủ nghĩa, khi mà sự phụ
thuộc có tính chất nô dịch của họ vào sự phân công lao động không còn nữa
và cùng với sự phụ thuộc đó, sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân
tay cũng không còn nữa, khi mà lao động trở thành không những một phương
tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của sự sống, khi
mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, năng suất của họ cũng
ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào, chỉ
khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái quyền
tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: Làm theo năng lực.
Hưởng theo nhu cầu”16.
Ở đây, thuật ngữ "làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu" theo cách
hiểu của VI. Lê nin, "nghĩa là khi người ta đã rất quen tôn trọng những quy
tắc cơ bản của đời sống chung trong xã hội, và năng suất lao động của người
ta đã lên cao đến mức người ta sẽ tự nguyện làm hết năng lực"17.
sđd. tr.47.
sđd. tr.36.
17
V.I.Lê-nin Toàn t?p, t.33., NXb. Ti?n b?, Mát-xco-va, 1976., tr.118.
15
16



Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Bản thân đặc điểm quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đã nói lên rằng,
đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Đối với các nước đã qua chế độ tư bản hoặc chủ
nghĩa tư bản đã phát triển ở mức trung bình cũng không thể thiết lập ngay lập
tức chế độ công hữu trong toàn bộ đời sống kinh tế.
Nước ta, với nền kinh tế lạc hậu, điểm xuất phát rất thấp, lại càng
không thể nhanh chóng xây dựng chế độ công hữu mà phải trải qua một thời
kỳ lịch sử lâu dài, qua nhiều mức trung gian, quá độ. Thông qua mỗi bước đi,
mỗi hình thức quá độ để tạo điều kiện cho nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày
càng tăng lên. Chính vì không nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai
mặt của phương thức sản xuất mà còn có lúc trước đây chúng ta đã phạm sai
lầm chủ quan, duy ý chí trong việc thiết lập chế độ công hữu.
Khi khẳng định nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát
thấp, điều đó không có nghĩa là chúng ta chưa có cơ sở và không cần xây
dựng chế độ công hữu ở trình độ và phạm vi nào đó của nền kinh tế. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân và sự quản lý của Nhà nước của
dân, do dân và vì dân, những cơ sở kinh tế công hữu được từng bước tạo ra do
quá trình quốc hữu hoá và xây dựng mới. Điều đó là cần thiết, bởi lẽ nếu
không có cơ sở kinh tế này thì không có nền tảng sức mạnh vật chất để điều
tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, không
thể thúc đẩy tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay là việc thiết lập chế độ công hữu
từng bước, hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Còn về Nhà nước ở giai đoạn này như thế nào, thì C.Mác thận trọng
cho biết, chắc chắn nó sẽ biến đổi. Còn biến đổi ra sao, có chức năng nào
giống như chức năng của Nhà nước hiện nay, thì cần phải giải đáp một cách



khoa học và dù có ghép từ "nhân dân" với từ "Nhà nước" đến một nghìn lần
thì người ta cũng không làm cho vấn đề nhích thêm được chút nào18.
Sau này, trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng" viết năm 1917, VI.
Lê nin khẳng định" Nhà nước sẽ tiêu vong, chừng nào không còn có bọn tư
bản, không còn có giai cấp và, do đó không còn giai cấp nào để trấn áp nữa"19
2- Lý luận về Nhà nước:
Do Cương lĩnh đưa ra khái niệm "Nhà nước tự do" coi Nhà nước là
"Một thực tại độc lập" có những "cơ sở tinh thần, đạo đức và tự do" riêng của
nó20. Vì vậy dẫn đến sai lầm nhìn nhà nước Đức như là có tính nhân dân đại
diện cho lợi ích toàn xã hội để cải tạo xã hội thành CNXH ( như trên đã nói).
C.Mác chỉ ra rằng: Nhà nước nào cũng hình thành trên một cơ sở nhất định và
mang bản chất của chế độ xã hội hiện tồn. Có nhiều kiểu Nhà nước tư sản
nhưng đều "có đặc điểm chung là được xây dựng trên miếng đất của xã hội tư
sản hiện đại, chỉ có điều là phát triển ít hay nhiều theo phương thức tư bản
chủ
nghĩa. Vì vậy, những Nhà nước ấy cũng đều có chung một số tính chất căn
bản”21, Nghĩa là không thể có Nhà nước phi giai cấp trong xã hội TBCN.
Sai lầm nữa của Cương lĩnh là họ không nói gì đến trong xã hội tiếp
theo xã hội tư sản tức xã hội CNXH mà mình vươn tới cần có Nhà nước như
thế nào.
C.Mác cho rằng không có Nhà nước tự do độc lập với cơ sở xã hội
cũng không có Nhà nước chung chung. Nếu xã hội tư sản bị tiêu diệt, xã hội
mới ra đời thì phải có một kiểu Nhà nước mới đó chính là Nhà nước CCVS: "
Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một
thời kỳ qua độ chính trị và Nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn t?p, t.19.,NXb.Chính tr? qu?c gia,HàN?i,1995.,tr.47.
V.I.Lê-nin Toàn t?p, t.33., NXb. Ti?n b?, Mát-xco-va, 1976., tr.117.
20

C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn t?p,t.19.,Nxb.Chính tr? qu?c gia, Hà Nôi,1995., tr.45.
21
sđd. tr.47.
18
19


hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Thế mà bản Cương
lĩnh không đả động gì đến vấn đề chuyên chính vô sản, cũng chẳng nói gì đến
chế độ Nhà nước tương lai trong xã hội cộng sản chủ nghĩa".
Chuyên chính vô sản, theo VI. Lê nin hiểu là việc tổ chức đội tiền
phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn tư
sản bóc lột và mở rộng chế độ dân chủ cho nhân dân. Đúng như Ph. Ăng
ghen, trong thư gửi Bê - ben đã khẳng định, giai cấp vô sản cần đến Nhà nước
không phải là vì tự do, mà là để trấn áp kẻ địch của mình, và ngày nào còn có
thể nói đến tự do thì Nhà nước không còn nữa. Đây chính là nhiệm vụ của
Nhà nước vô sản trong giai đoạn đầu ( chủ nghĩa xã hội - theo cách gọi của
VI. Lênin) của chủ nghĩa cộng sản.
Vậy đến bao giờ không còn Nhà nước nữa, bao giờ có thể nói đến tự
do? Đó là một thời gian rất dài, thậm chí hàng trăm năm. Nhà nước chỉ mất đi
trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản khi sự phản kháng của giai cấp tư
sản bị đập tan hoàn toàn. Khi đó, một nền dân chủ thật sự hoàn toàn mới có
thể có được.
Đảng ta xem nhà nước ta "là một trụ cột của hệ thống chính trị, là công
cụ thực hiện quyền lực của nhân dân", nó được tổ chức theo nguyên tắc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, lấy liên minh công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, doanh nhân làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng ta. Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực Nhà nước được
tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp chặt
chẽ giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện có hiệu

quả mối quan hệ nhà nước với xã hội công dân, xã hội công dân với nhà
nước. Đây cũng là bản chất chính trị của Nhà nước
3- Lực lượng chính trị cách mạng vô sản.
Cương lĩnh viết "trong xã hội hiện nay, tư liệu lao động là độc quyền
của giai cấp các nhà tư bản"22. Theo C.Mác, thật ra, nước Đức lúc này tư liệu
lao động là độc quyền của cả tư bản và cả bọn địa chủ (sự độc quyền sở hữu
22

C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn t?p, t.19.,Nxb.Chính tr? qu?c gia, Hà Nôi, 1995., tr.29.


ruộng đất) và xác định như Cương lĩnh là không đầy đủ và bỏ sót đối tượng
cách mạng.
Theo Cương lĩnh "Việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của giai
cấp công nhân, đối diện với giai cấp này, tất cả các giai cấp khác chỉ hợp
thành một khối phản động"23. C.Mác cho rằng sự khái quát này của Cương
lĩnh thật "phi lý". Mỗi giai cấp có vị trí xã hội nhất định và mang tính lịch sử.
Lúc này giai cấp tư sản đại biểu cho nền đại công nghiệp được coi là giai cấp
cách mạng so với bọn phong kiến và bộ phận trung gian nào đó cố bám lấy
phương thức sản xuất lỗi thời. Nhưng giai cấp vô sản lại cách mạng hơn so
với giai cấp tư sản, vì bản thân nó là con đẻ của công nghiệp, muốn giải
phóng lực lượng sản xuất ấy- tức muốn cho "nền sản xuất trút bỏ cái tính chất
tư bản chủ nghĩa" mà giai cấp tư bản đang cố duy trì vĩnh viễn. Còn các đẳng
cấp trung gian ngả nghiêng có khả năng trở thành cách mạng "trong chừng
mực, họ thấy rõ sẽ phải rơi vào hàng ngũ giai cấp vô sản".
Do vậy gộp tất cả tư sản, phong kiến , nông dân, thợ thủ công... là phản
động thì thật là phi lý, nhất là ở Đức, đất nước đông đảo nông dân , là không
xác định đúng đối tượng cách mạng và lực lượng cách mạng. Rõ ràng đây là
một Cương lĩnh tiểu tư sản và đầy rẫy tinh thần chủ nghĩa dân tộc, không xác
định được động lực chính trị do ảnh hưởng của phái Lát-xan, Cương lĩnh vứt

bỏ nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế. C.Mác phải kêu gọi : "còn những chức năng
quốc tế của giai cấp công nhân Đức thì không có một lời nào nói tới!". C.Mác
nghiêm khắc phê phán Cương lĩnh về điểm đó.Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, Đảng ta và Bác Hồ đã quán triệt sâu sắc
tinh thần của C.Mác về lực lượng chính trị của cách mạng vô sản. ở nước ta là
khối liên minh công - nông - trí vững chắc. Chính vì tập hợp được lực lượng
đông đảo trên cơ sở lập luận đúng đắn, cách mạng Việt Nam lần lượt đi đến
mọi thắng lợi. Ngày nay, Đảng ta khẳng định: vận dụng khối liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, danh nhân nhằm
23

C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn t?p, t.19.,Nxb.Chính tr? qu?c gia, Hà Nôi, 1995., tr.37.


xây dựng nền kinh tế - xã hội nước nhà trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
4. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị:
4.1. Lao động và phân phối sản phẩm của lao động - sự bất bình đẳng
trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Cương lĩnh viết "Lao động là nguồn gốc của mọi của cải và mọi văn
hoá, và vì lao động có ích thì chỉ có thể được trong xã hội và do xã hội, cho
nên thu nhập do lao động đem lại thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội
một cách không bị cắt xén"24. Ở đây, theo C.Mác là không đầy đủ và không đúng.
"Lao động là nguồn gốc mọi của cải" đó là cách nói thông thường
"trong sách vỡ lòng" và với điều kiện nhất định thì được, chứ trong Cương
lĩnh của một đảng XHCN thì không được, hơn nữa đó là câu nói" tư sản rỗng
tuếch". Theo C.Mác, tầm của cương lĩnh phải điễn đạt "Giới tự nhiên, cũng
như lao động là nguồn gốc của những giá trị sử dụng" ( 26) . Lao động chỉ có
thể có được khi có điều kiện nhất địnhcủa nó, những yếu tố của giới tự nhiên,
đối tượng lao động. Cho nên, trong "Tư bản luận" C.Mác có định nghĩa rất

hay về lao động: “Lao động trước hết là một quá trình xảy ra giữa người và tự
nhiên, một qúa trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều
tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên". Nhưng
trong xã hội, những điều này lại do một số người nắm, còn những người khác
chỉ độc có sức lao động đã trở thành nô lệ, phụ thuộc vào những người có (sở
hữu) điều kiện vật chất của lao động.
Giai cấp tư sản thích gán cho lao động sức sáng tạo siêu nhiên - giống
như Cương lĩnh nói trên, là có lý do, có ý đồ chính trị rõ rệt, là che dấu sự bất
bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất.
Lao động (kiểu lao động có sự bất bình đẳng về sở hữu) càng phát triển
xã hội càng phân hoá: nghèo khổ phát triển ở phía người lao động, của cải và
văn hoá phát triển ở kẻ không lao động (nhưng lại nắm đối tượng lao động,
24

sđd. tr.26.


công cụ lao động). C.Mác nói:"Đó là quy luật của toàn bộ lịch sử từ xưa đến
nay”25.
C.Mác vạch rõ rằng về vấn đề phân phối thu nhập, cương lĩnh có mâu
thuẫn không thể giải quyết được. Điều 1 nói thu nhập do lao động đem lại là
thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội một cách không bị cắt xén. Mà
điều 3 thì lại yêu cầu "phân phối một cách công bằng thu nhập của lao động",
tức là công nhân phải nhận được tất cả những gì mình đã làm cho xã hội. Như
vậy thì nghĩa là chỉ có ai làm thì mới được hưởng, nhưng như thế thì lại trái
với "quyền ngang nhau" . Và C.Mác vạch ra rằng, người công nhân không thể
nào được hưởng thụ toàn bộ sản phẩm mà mình đã làm cho xã hội. Theo
C.Mác, tổng sản phẩm xã hội thu được hàng năm phải khấu trừ vào:
- Thứ nhất, phần để thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng.
- Thứ hai, phần phụ thêm để mở rộng sản xuất.

- Thứ ba, phần quỹ dự trữ hoặc bảo hiểm đề phòng những tai nạn, thiên
tai, mất mùa...
Còn lại bao nhiêu thì dành làm vật phẩm tiêu dùng. Nhưng trước khi
phân phối cho tiêu dùng cá nhân lại còn phải khấu trừ cho các khoản: Thứ
nhất, những chi phí quản lý chung không trực tiếp thuộc sản xuất, so với xã
hội hiện nay, phần này thường bị thu hẹp và xã hội càng phát triển thì phần đó
càng giảm xuống. Thứ hai, những khoản dùng để cùng chung thoả mãn những
nhu cầu như trường học, cơ quan, y tế... Phần này tăng lên dần dần trong xã
hội hiện nay và xã hội càng phát triển thì phần này càng tăng lên. Thứ ba, quỹ
cần thiết để nuôi dưỡng người không có khả năng lao động...
Cuối cùng, bấy giờ mới tới "sự phân phối" phần những vật phẩm tiêu
dùng để chia cho người sản xuất.
Sau đó, C. Mác phê phán quan điểm tầm thường, tiểu tư sản coi chủ
nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc quyền ngang nhau.
C.Mác cho rằng: "Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối
với một lao động không ngang nhau. Nó không thừa nhận sự phân biệt người
25

C.Mác và Ph.Ang-ghen Toàn t?p, t.19.,Nxb.Chính tr? qu?c gia, Hà Nôi, 1995., tr.29.


khác, nhưng nó lại mặc nhiên thừa nhận nhân sự không ngang nhau về năng
khiếu cá nhân và do đó về năng lực lao động coi đó là những đặc quyền tự
nhiên. Như vậy, với một công việc ngang nhau và do dó, với một phần tham
dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn giầu
hơn người kia... Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải là không
bình đẳng, chứ không phải là bình đẳng. Nhưng đó là thiếu sót không thể
tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa"26 ( 35 -36).
Ở Cương lĩnh, đòi phân phối "cho mọi thành viên không bị cắt xén theo
những quyền ngang nhau" là quan điểm mị dân, điều hoà mâu thuẫn giai cấp,

ảo tưởng của giai tầng bóc lột và không thể thực hiện được trong thực tiễn.
C. Mác phê phán phái Lát - xan coi phân phối độc lập với sản xuất và
vạch rõ rằng:" Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là
hậu quả của phân phối chính ngay trong những điều kiện sản xuất, nhưng sự
phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngày
phương thức sản xuất"27.
4.2. Lý luận về tiền công và sự cần thiết phải xoá bỏ chế độ làm thuê
Cương lĩnh có ghi: "Xuất phát từ những nguyên lý đó, Đảng công nhân
Đức dùng mọi thủ đoạn hợp pháp để đấu tranh thành lập một nước tự do và xã
hội XHCN; xoá bỏ chế độ tiền công cùng với cái quy luật sắt về tiền công và
xoá bỏ sự bóc lột dưới mọi hình thức của nó; thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng về
xã hội và chính trị"28. Theo C.Mác "Quy luật sắt về tiền công" là quan điểm
của Lát-xan. Nhưng thật ra lại theo tinh thần của chủ nghĩa Man tuýt ( 1766
-1834) – một nhà kinh tế học tư sản tầm thường người Anh. Ông ta cho rằng
sự bần cùng của nhân dân trong CNTB là do người ta sinh đẻ nhanh hơn
lượng tư liệu sinh hoạt có thể tăng lên - nghĩa là do bản thân giới tự nhiên,
chứ không phải do chế độ TBCN gây ra. Phương tiện chủ yếu để ngăn ngừa
dân số tăng là bệnh dịch, nạn đói, lao động nặng nhọc và chiến tranh huỷ diệt
bớt dân số.
sđd. tr.35-36.
Nhu trên
28
sđd. tr.41.
26
27


Tinh thần trên của Man tuýt tác hại rất lớn. Nó đánh lạc hướng giai cấp
công nhân trong công cuộc đấu tranh cách mạng chống chế độ làm thuê, để
cho lực lượng phản động che dấu âm mưu của chúng về việc hạ thấp mức

sống của người lao động, về việc gây ra chiến tranh..., trốn tránh trách nhiệm
của chúng đối với đời sống khổ cực, đói rét, bệnh tật của người lao đọng. Nếu
theo "Quy luật sắt về tiền công" mức lương của công nhân không thể vượt
quá tư liệu sinh hoạt tối thiểu của mình và gia đình họ. Từ đó khuyên người ta
rằng đấu tranh đòi tăng lương là không có ý nghĩa gì cả. Bởi vì, nâng cao tiền
lương quá mức đó sẽ làm tăng con số kết hôn và sinh đẻ, mà nhân khẩu tăng
sẽ bị dẫn tới hạ thấp mức lương, điều đó lại dẫn đến phải giảm bớt sinh đẻ.
C.Mác cho rằng nếu quả có "quy luật sắt về tiền công" này thật, nó sẽ
chi phối mọi chế độ xã hội thì xoá bỏ thế nào được, mà nêu ra trong cương
lĩnh. Qua đây chứng tỏ Lát-xan "Không hiểu tiền công là gì và theo đuổi
những nhà kinh tế học tư sản, ông ta đã lấy biểu hiện bên ngoài làm bản chất
của sự vật". Trong khi đó lý luận khoa học về tiền công lao động đã được
Mác nêu ra và được nhiều đẩng viên tiếp nhận. Thế mà, Cương lĩnh của một
đảng lại vẫn rơi vào quan điểm sai lầm của Lát -xan thì đó là một " sự thụt lùi
thật đáng công phẫn".
Theo khoa học về tiền công lao động của Mác thì tiền công ấy không
phải là cái mà nó biểu hiện ra bên ngoài tức không phải là giá trị hay giá trị
hay giá cả của lao động. Nhìn bề ngoài thì tưởng là thế. Và nếu thế thì không
thấy được sự bóc lột trong chế độ làm thuê TBCN vì người ta sẽ lầm tưởng
rằng toàn bộ lao động của công nhân đã được trả công. Thật ra, tiền công đó
là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động hoặc là giá cả của sức lao động
của người công nhân.
Sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Quá trình lao động của công nhân
tức là hàng hoá này được sử dụng, không ngừng tạo ra giá trị bằng giá trị của
chính nó( sức lao động) còn tăng thêm giá trị. Đó chính là giá trị thặng dư lao động không công mà nhà tư bản chiếm đoạt. Nhà tư bản lại luôn tìm cách


chiếm đoạt nhiều hơn giá trị thặng dư. Mác viết rằng "toàn bộ hệ thống sản
xuất tư bản chủ nghĩa đều xoay quanh cái trục là kéo dài lao động không công
ấy bằng cách nâng cao năng suất, bằng cách buộc sức lao động phải hoạt động

căng thẳng hơn". Mác còn cho hay, "dù cho sức sản xuất của xã hội ngày
càng phát triển, lương của công nhân dù nhận được cao hay thấp thì chế độ nô
lệ làm thuê, sức bóc lột ngày càng khắc nghiệt"29.
Do vậy, phải tiến tới xoá bỏ chế độ làm thuê chứ không phải xoá bỏ cái
"quy luật sắt về tiền công" mà cương lĩnh đã nêu ra.
5. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản:
C.Mác cho rằng, phong trào công nhân về nội dung mang tính

quốc tế nhưng về hình thức thì trước hết phải mang tính dân tộc. Người
nói:" Cố nhiên là nói chung muốn có thể đấu tranh được thì giai cấp công
nhân, với tư cách là một giai cấp, phải tự tổ chức lại ở trong nước họ, và vũ
đài trực tiếp của cuộc đấu tranh của họ là ở trong nước. Chính vì thế mà cuộc
đấu tranh giai cấp của họ có tính chất dân tộc, không phải về mặt nội dụng
của nó là là" về hình thức của nó"30.
Tính chủ nghĩa quốc tế của phong trào vô sản là một tất yếu, bởi vì
CNTB cũng mang tính quốc tế cả về mặt kinh tế và chính trị (liên kết quốc tế
chống giai cấp vô sản)31. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản không chỉ thể
hiện bằng tinh thần, lời nói "tình hữu nghị" suông như cương lĩnh nêu ra mà
phải có "chức năng quốc tế" - phải có sự phối hợp hành động thực tế32.

6. Lý luận về phương pháp cách mạng hay con đường để có xã hội mới
xã hội chủ nghĩa:
Cương lĩnh ghi: " Để dọn đường cho việc giải quyết vấn đề xã hội.
Đảng công nhân Đức yêu cầu thành lập những hội sản xuất, với sự giúp đỡ
sđd. tr.43.
sđd. tr.39.
31
sđd. tr.40.
32
sđd. tr.484.

29
30


của Nhà nước, dưới sự kiểm soát dân chủ của nhân dân lao động. Đối với
công nghiệp và nông nghiệp, các hội sản xuất cần được tổ chức với một khối
lượng khiến cho việc tổ chức toàn bộ lao động theo kiểu XHCN sẽ xuất hiện
từ những hội sản xuất ấy"33.
C.Mác cho rằng Đảng công nhân Đức phải thực hiện đấu tranh giai cấp,
thì ở đây lại chỉ nói đến" giải quyết vấn đè xã hội" nghĩa là đã xa rời quan
điểm đấu tranh giai cấp, là nói theo công thức" kiểu nhà báo" chứ không phải
của một cương lĩnh chính trị. Chính ra phải nói đến" quá trình cải biến cách
mạng" đối với xã hội để có CHXH, thì Cương lĩnh lại đưa ra biện pháp tổ
chức các hội sản xuất của người lao động, dưới sự giúp đỡ của Nhà nước tư
sản thì thật là không tưởng và ngây thơ:" Tưởng rằng người ta có thể xây
dựng một xã hội mới bằng những khoản tiền giúp đỡ của Nhà nước cũng dễ
dàng như xây dựng một con đường sắt mới thì đó quả thật là một điều xứng
đáng với sự tưởng tượng của Lassalle: và cũng thật là một vô lý khi đưa ra
phương án kèm theo yêu cầu bên cạnh giúp đỡ của Nhà nước tư sản là "sự
kiểm soát dân chủ của nhân dân lao động". Vô lý ở hai ý: Một là, hai từ "dân
chủ" theo tiếng Đức có nghĩa là "nhân dân nắm chính quyền". Nhưng ở Đức
thì nhân dân không nắm chính quyền, nên không thể nói đến sự kiểm soát dân
chủ của nhân dân đối với Nhà nước được. Hai là; Lúc này ở Đức, nhân dân đa
số là nông dân, hơn nữa nông dân chưa giác ngộ, nghĩa là" chưa trưởng thành
để nắm chính quyền"34.
Con đường hoà bình chủ nghĩa: Chỉ dựa vào dân chủ tư sản, vào nhà
nước tư sản, xây dựng tổ chức sản xuất theo kiểu XHCN - nghĩa là hòng xây
dựng quan hệ sản xuất CNTB để từ đó có CNXH là quan điểm viển vông,
phản khoa học và không hiện thực. Vấn đề đặt ra là phải hoạt động để " lật đổ
những điều kiện sản xuất hiện nay", từ đó giai cấp công nhân tạo ra điều kiện

sản xuất tập thể trên quy mô toàn xã hội ( và trước tiên ở nước mình) mà
không cần đến Nhà nước của giai cấp tư sản.
33
34

sđd. tr.44.
sđd. tr.44-45.


III. Ý nghĩa của tác phẩm:
a. - Phê phán Cương lĩnh "Gô - ta" vẫn còn là một tác phẩm quan trọng
của chủ nghĩa Mác - Lê nin nói chung. Với số trang không lớn nhưng đã đem
lại nhiều nộidung lý luận. Và những nội dung cơ bản trong đó vẫn còn giá
trị,nhát là về mặt phương pháp luận.
b.- Đó là tác phẩm mẫu mực về luận chiến khoa học, kiên quyết và thể
hiện tấm gương không nhân nhượng về lý luận trước những quan điểm phi
mác xít.
c- Trong những nội dung lý luận của tác phẩm hiện nay, chúng ta cần
chú ý một số vấn đề cụ thể sau đây của C.Mác.
- trong lý luận về tiền công C.Mác kết luận, dù cho sức sản xuất xã hội
ngày càng phát triển, tiền công của công nhân đã nhận được cao hay thấp, thì
trong CNTB chế độ nô lệ làm thuê, sự bóc lột ngày càng khắc nghiệt. Kết
luận này vẫn là phương pháp luận khoa học sát thực cho viẹc nhìn nhận quan
hệ giữa giai cấp tư sản và công nhân hiện nay, mà một số người lầm tưởng
rằng, trong đó giai cấp công nhân đã không còn bị bóc lột, hoặc ít bị bóc lột
hơn.
- Thế giới đang đứng trước nguy cơ "bùng nổ" dân số và những hậu
quả của nó, có người vận vào và cho rằng "quy luật sắt của tiền công" là có
thật. Như vậy là lại "giẫm" vào sai lầm của Man-tuýt, Lat-xan... về giải thích
nguồn gốc vấn đề và cách giải quyết mang tính phản động.

Sự thật về sự tăng dân số không phải từ việc lương cao, giàu có lên của
người lao động, ngược lại. Hiện nay nơi có tỷ lệ sinh con cao nhất lại là
những vùng đói kém, chậm phát triển nhất, (phạm vi thế giới, điển hình là khu
vực châu Phi; ở Việt Nam, điển hình là đồng bào dân tộc miền núi). Tinh thần
chung ở nhiều nơi trên thế giới là tích cực hạn chế sinh đẻ, ổn định dân số là
nhằm nâng cao chất lượng sống và được thực hiện bằng tổng thể các biện
pháp mang tính chất nhân văn và khoa học và phê phán quan điểm cách mạng
bạo lực của C.Mác. Rõ ràng, chúng ta phải tán thành quan điểm Mác - Lê nin


chỉ rằng, chủ nghĩa tư bản không bao giờ tự nguyện rời việc nắm chính quyền
một cách hoà bình. Muốn lật đổ giai cấp tư sản và Nhà nước tư sản, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động phải tất yếu sử dụng bạo lực cách mạng.
Trường hợp đặc biệt, giai cấp vô sản giành chính quyền mà không cần đến
bạo lực cách mạng, thì theo chúng tôi đó cũng là một phương pháp hay.
- Lý luận về hai giai đoạn hay phân kỳ xã hội CSCN mang ý nghĩa
phương pháp luận cao. Định hướng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của
các quốc gia và nhân loại, đó là cơ sở để các Đảng cộng sản hoạch định chính
sách kinh tế-xã hội cho mỗi giai đoạn: giai đoạn thấp-chủ nghĩa xã hội và giai
đoạn cao-chủ nghĩa cộng sản,
d- Trong tác phẩm của một số nội dung mà người đọc có sự nhìn nhận
khác nhau:
- Khi nói về giai đoạn thấp, C.Mác dự đoán "Anh ta( tức người lao
động) nhận của xã hội một cái phiếu chứng nhận rằng anh ta đã cung cấp một
số laođộng là bao nhiêu đó( sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta làm
cho các quỹ xã hôị) và với cái phiếu ấy, anh ta lấy ở kho của xã hội ra một số
lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với một số lượng lao động mà anh ta
đã cung cấp 35. Kiểu trao đổi này là trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng
sản.
- Trong tác phẩm có quan điểm cho rằng giai đoạn thấp của CNCS" vừa

lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ kéo dài". Hình
ảnh này có thể hiểu một mặt CNXH ra đời từ xã hội của TBCN, mặt khác
quan hệ sản xuất của xã hội XHCN không ra đời trong lòng xã hội TBCN ,
vấn đề này cần được nghiên cứu.
Câu nổi tiếng trong tác phẩm là" Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội sang xã
hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chímh trị và nhà

35

Sđd. tr.34.


nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nên chuyên chính của giai
cấp vô sản”36.
Thế, “quá độ chính trị" CCVS có tồn tại suốt trong giai đoạn thấp - xã
hội XHCN không (?). Rõ ràng là như vậy.
- C.Mác phê phán “Cương lĩnh không đả động gì đến vấn đề chuyên
chính vô sản, cũng chẳng nói gì đến chế độ Nhà nước tương lai trong xã hội
cộng sản chủ nghĩa"37.
Như vậy Nhà nước vẫn tồn tại ở giai đoạn cao của CNCS (?). Thực
chất Nhà nước mà C.Mác đang nói là Nhà nước CCVS trong giai đoạn thấp
của CNCS.
Trong tác phẩm, C.Mác khẳng định: Chủ nghĩa tư bản bóc lột lao động
làm thuê và C.Mác phê phán sự bóc lột đó. Còn hiện nay, Đảng ta khẳng định
đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Như vậy kinh tế tư nhân là một trong
những hình thức kinh tế bóc lột và như thế Đảng viên bóc lột lao động làm
thuê. Điều này có trái với quan điểm của C.Mác. Đúng là có bóc lột nhưng
bản chất của nó khác với giai cấp tư sản bóc lột lao động làm thuê, vì có sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa. Thực hiện quan điểm này là tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta nhằm động viên mọi nguồn lực , thúc đẩy lực lượng sản xuất
và rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực.

36
37

sđd. tr.47.
sđd. tr.47.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×