Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

luận văn thạc sĩ Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 70 trang )



PHẦN MỞ ĐẦU 



triển; làm cách nào để cho  sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với 
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm 

1. Lý do chọn đề tài 
Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế 
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái 
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí 
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước 
trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc 
tế  mà  thời  gian  qua  đã  giúp  cho  các  lĩnh  vực  công  nghiệp,  dịch  vụ  và  đặc  biệt  là  nông 
nghiệp ở  ĐBSCL đạt được những  thành tựu to lớn. Tốc độ  tăng trưởng GDP  lập nên  kỷ 
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh 

chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường 
hội nhập và cạnh tranh quốc tế… 
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những 
sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển 
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở 
thời điểm hiện nay.  Và,  đây cũng  chính  là  lý  do mà  tác  giả  chọn  đề  tài: “Xác định  sản 
phẩm  chủ  lực  và  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực  Đồng  bằng  sông  Cửu  Long  đến  năm 
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân. 

2.  Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án 

tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và 


nông  nghiệp  công nghệ cao;  thu  nhập bình quân  đầu người  tăng  lên  và  đời  sống  xã  hội 
không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế 
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương 
trong vùng và cả nước…. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua 
cũng  bộc  lộ  khá  nhiều  yếu  kém:  tăng  trưởng  xuất  khẩu  không  ổn  định,  còn  chứa  đựng 
nhiều  yếu  tố  không  bền  vững  và  dễ  bị  tổn  thương  bởi  những  cú  sốc  từ  bên  ngoài;  sản 
phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí 
tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh 
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp…. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên 
cứu, sự phát triển kinh tế ­ xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có 
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát 
triển  của  vùng  cũng rất  thiếu đồng bộ,  chưa cân  xứng  giữa  các ngành nghề,  lĩnh  vực  và 
giữa  các  địa phương; phát  triển nặng về  chiều  rộng,  chạy  theo  số  lượng nên  chất  lượng, 
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao… 
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ 
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia 
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu 
quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào 
khác  có  được ngoài  vùng đất nầy.  Vấn  đề đặt ra  ở đây  là,  làm  cách nào để  ĐBSCL  xác 
định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát

2.1. Mục tiêu nghiên cứu 
Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây: 
1) Hệ thống tiêu chí xác định  sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và 
tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho 
toàn vùng. 
2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020. 
3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL trong thời gian tới. 
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 

Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án  sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt các 
nhiệm vụ trọng tâm như sau: 
1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm 
sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn  và 
phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020. 
2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm 
chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ 
thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020. 
3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những 
hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ 
lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020.






4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét 

độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter 

chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp 

và  các lý  thuyết  cạnh  tranh khác  vào  việc  xác  định  lợi thế  cạnh  tranh để phát triển  cụm 

khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài . 

chuyên môn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21]. 

3.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 


2)  Lý  thuyết  cụm  phát  triển  của  M.  Porter  (1990).  Ban  đầu,  Porter  cung  cấp  các 

3.1.  Đối tượng nghiên cứu 

nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho 

Đối  tượng  nghiên  cứu  của  luận  án  là  các  sản  phẩm  hàng  hóa  và  dịch  vụ  chủ  lực 

các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi 

mang  đặc  trưng  cho  lợi  thế,  tiềm  năng  và  gắn  chặt  với  quá  trình  phát  triển  kinh  tế  của 

thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp 

vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng 

vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn 

bằng sông Cửu Long giai từ nay đến năm 2020. 

với  các  chiến  lược  phát  triển  địa  phương.  Trong  trường  hợp  này,  sự  tiếp  cận  cụm  về 

2.2.  Phạm vi nghiên cứu 

nguyên tắc được sử dụng như là công cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên 

Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng 

kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận 


phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trò chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế 

dụng  thành  công  lý  thuyết  này  vào  lựa  chọn  và  phát  triển  ngành/sản  phẩm  chủ  lực  tập 

vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 

trung theo không gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48]. 

Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngoài các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sông 

3) Sự phát triển của khái niệm cụm ­ Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian 

Cửu  Long, khi nghiên  cứu nhu  cầu thị  trường  thì phạm  vi nghiên cứu  được mở rộng  ra 

H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael 

nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước. 

M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, 

4.  Tổng quan tài liệu nghiên cứu 

Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính 

Phát triển  cụm  công nghiệp gắn với phát triển vùng  lãnh thổ và địa phương, hoặc 

sách phát triển kinh tế và xem đây như là mô hình phát triển kinh tế mới. Thông qua công 

phát triển ngành hoặc sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều 


trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu 

công trình trong và ngoài nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên, 

của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng 

nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh 

của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong môi trường cạnh tranh toàn cầu [48]. 

tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, quá trình nghiên cứu, 
Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra. 

4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng 
nông thôn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát 

4.1. Tài liệu nước ngoài 

triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức 

1)  Thuyết  lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia  của  M.Porter  (1990).  Porter  cho  rằng, 

độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các 

các lý thuyết phát  triển truyền  thống như  lợi  thế  tuyệt  đối  của  Adam  Smith  và lợi  thế  so 

sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị 

sánh  của  David  Ricardo  xem nền  kinh  tế  như  là  sự  “định hướng bởi  yếu  tố nguồn  lực”. 


trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm. 

Tức,  lợi  thế  của  một  quốc  gia  trong  thương  mại  quốc  tế  được  xác  định  bởi  các  yếu  tố 

Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm 

nguồn lực như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động và qui mô dân số địa phương vì 

là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có 

chúng  tạo  ra  chi phí  thấp.  Tuy  nhiên,  theo Porter  thì  "sự  thịnh  vượng của quốc gia được 

thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45]. 

tạo ra chứ không phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao 

5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong 

hiệu quả thông qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị

bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các






giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà 


doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mô sản 

nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng 

xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng 

thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã 

thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường 

nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc 

quốc tế [24]. 

gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường 

3) Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 – 

năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa, 

2005 của Bộ Khoa học­Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) với 

dịch vụ chủ lực của địa phương [47]. 

chủ đề “ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm 

Ngoài các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này 

chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu 


được  tác  giả  tham  khảo  như:  “Regional  innovation  systems  (RIS)  in  China  của  Jon 

xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng 

Sigurdson”  đăng  trên  Working  Paper  No  195,  July  2004  [49];  “Sustaining  the  Green 

công nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.  Nội dung chủ yếu của Chương trình 

Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative 

là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có 

industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in 

năng  suất, chất  lượng  cao,  chống  chịu  sâu bệnh…;  xây  dựng  các mô hình  thâm  canh  và 

Japanese  alcoholic  beverages  and  fermented  foods,  Tokyo  University  of  Agriculture 

sản  xuất  công nghiệp  trong nuôi trồng nông, lâm,  thủy  hải  sản  theo hướng bền  vững  và 

Sedagaya­ku,  Tokyo,  Japan  [54];  “Identifying  and  assessing  the  factors  that  influence 

bảo vệ môi trường sinh thái...[1] 

cluster’s  competitiveness  in  Oregon, and  some  initial  suggestions”,  Luận  án  Tiến  sĩ  của 

4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực 

Sam  Gi  Hong  (2007) [52]....Nhìn  chung  các  tài liệu này  đều nhấn mạnh đến  vai  trò  của 


Thành phố Hà Nội”. Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của 

phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề 

Thành phố là các  tiêu chí gồm  sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; được 

xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững. 

tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ công nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với 

4.2 Tài liệu trong nước 

trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của 

1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các 

Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng 

tỉnh  vùng  Bắc  Trung  bộ”  của  Nguyễn  Hồng  Lĩnh  (2007).  Luận  án  đã  vận  dụng  các  lý 

cao,  ổn định;  hoặc  thuộc nhóm  sản phẩm  xuất  khẩu  chủ  lực, đóng  góp tỷ  trọng  lớn vào 

thuyết  liên  quan,  đặc  biệt  là  mô  hình  kim  cương  của  M. Porter  để  phân  tích  tìm  ra  các 

tổng  GDP  công  nghiệp.  Qui  trình  xét  chọn  có  4  bước:  đề  xuất  doanh  nghiệp  tham  gia 

nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn 

Chương trình; khảo sát sản phẩm công nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và công nhận 


các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo 

sản phẩm chủ lực...[17]. 

sát thực tế; rút kinh nghiệm  phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông 

5) Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí 

Nam  Á  và  dựa  trên  tiềm  năng,  lợi  thế  của  vùng,  Luận  án  đã  xác  định  các  ngành  công 

Minh  giai  đoạn  2002  –  2005”.  Theo  Chương  trình  này,  Hệ  thống  tiêu  chí  lựa  chọn  sản 

nghiệp chế biến nông, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9]. 

phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng 

2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo 

ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham 

Chương  trình,  sẽ  hình  thành  và  phát  triển  hàng  hóa  mang  thương  hiệu  Việt  Nam  bằng 

gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn công nghệ, nâng cao 

công nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên 

trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thông qua các hoạt 

việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015 


động hướng dẫn, tư vấn hay môi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín, 

phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến và do các

giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2].






Ngoài ra,  Luận án  còn  tham khảo nhiều  tài liệu chương trình phát triển sản phẩm 

5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL 

chủ  lực  tương  tự  của  các địa phương  khác  cũng như  hội  thảo, hội nghị,...  liên quan đến 

thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển  sản phẩm chủ lực của 

vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa,  dịch vụ chủ lực 

vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ 

Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng 

nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020. 

phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy 

6.  Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài 


(Tp  Cần Thơ) giai đoạn 2011  –  2015, tầm nhìn  đến năm 2020” và các bài viết khác của 

6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề 

các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web  trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy 

Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thông qua các phương pháp chủ yếu như: 

nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng 

+  Tiếp  cận hệ  thống:  Trong quá  trình nghiên cứu  xác định  sản phẩm  chủ  lực  của 

như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm công, nông, nghiệp và thủy sản chủ 

Đồng bằng sông Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ không có tính đặc thù hoặc tính 

lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu  và giải quyết vấn 

đặt thù không cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ 

đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững. 

cùng  loại  trong  cả  nước.  Nghĩa  là  xem  hàng  hóa,  dịch  vụ  đó  của  Đồng  bằng  sông  Cửu 

5. Tính mới của Luận án 
So với các công trình nghiên cứu cũng như  chương trình phát triển sản phẩm chủ 
lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau: 
1) Hoàn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương 
pháp  xác  định  sản phẩm  chủ  lực  để  vận dụng  vào  giải quyết  các  vấn  đề  có  tính  lý luận 

cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long 
đến năm 2020. 
2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm 
chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét 
chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo 
đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa 
có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn. 

Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước. 
+ Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua tài 
liệu, sách báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng để xây dựng các mô hình lý thuyết 
về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở 
chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó. 
+  Các  phương  pháp hỗ  trợ  khác:  Sử  dụng  các  phương  pháp  mô  hình  hóa,  sơ  đồ 
hóa, phương pháp  thống  kê, phương pháp hồi qui  tuyến  tính…, đặc biệt  trong phân  tích 
cạnh tranh sẽ áp dụng mô hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác 
định lợi thế cạnh tranh ngành hàng. 
6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính 
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu 
thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ 

3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hoàn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho 

đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây 

việc công nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực 

dựng  cơ  sở  lý  thuyết  một  cách  khoa  học  và  khách  quan  về  sản phẩm  chủ  lực.  Công  cụ 

một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thông qua 


được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là: Khảo sát thực tế tại các địa phương, thảo 

đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực không thể chối cải của các sản phẩm này bằng 

luận nhóm; Thảo luận tay đôi; Quan sát  ... 

một số chỉ tiêu định lượng quan trọng. 

6.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng 

4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện 

Các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực như: 

việc xem xét, tính toán và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển 

Hệ số lợi thế hiển thị ngành (RCA); Hệ số thương mại ròng (NTR); Hệ số địa phương hóa 

vọng  trong  vùng  để  từ  đó  lập  ra  bảng  Danh mục  những  sản  phẩm  chủ  lực  ĐBSCL  đến 

(LQ); Hệ số bảo hộ hiệu dụng (EPR); Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)...

năm 2020.




10 


7. Khung nghiên cứu 

8. Kết cấu chung của luận án 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án 
được kết cấu thành ba chương: 

Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN 
PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC 

Chương 1: Cơ sở khoa học cho  việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển 
sản phẩm chủ lực 

Cơ sở  lý  luận xác định  SP chủ  lực 
và phát triển sản phẩm chủ lực 
­  Lý luận chung về SP chủ lực 
­  Thuyết  lợi  thế  tuyệt đối  (A.Smith) 
và lợi thế so sánh của (D.Ricardo) 
­ Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia 
và Cụm phát triển của M. Porter 

Phương pháp xác định và phát 
triển SP chủ lực 
­ Các tiêu chí đánh giá và thang 
điểm đánh giá xét chọn SP chủ lực 
­ Qui trình xác định SP chủ lực 
­ Các nội dung và nguyên tắc cơ 
bản hỗ trợ phát triển SP chủ lực 

Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm 
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm 

chủ  lực  trong  phát  triển  kinh  tế  vùng,  địa  phương;  các  lý  thuyết  có  liên  quan  và  kinh 
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước. 
Chương  2:  Thực  trạng  xác  định  và  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực  Đồng  bằng 
sông Cửu Long thời gian qua 
Chương  này  chủ  yếu  thực  hiện  việc  phân  tích,  đánh  giá  thực  trạng  xác  định  sản 

Chương 2. THỰC TRẠNG  XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ 
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL THỜI GIAN QUA 

phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược 
điểm trong việc xác định  sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở 
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020. 

Đánh  giá  tiềm  năng 
phát  triển  sản  phẩm 
chủ lực ĐBSCL 
­ Vận dụng mô hình 
kim cương (M.Porter) 
và các lý thuyết đã 
khác trình bày 

Thực  trạng  phát  triển 
sản phẩm chủ lực 
­ Lĩnh vực nông nghiệp 
và thủy sản 
­ Lĩnh vực công nghiệp 
­ Lĩnh vực thương mại 
và dịch vụ 

Thực  trạng  xác  định 

sản phẩm chủ lực 
­  Xây  dựng  tiêu  chí  và 
qui trình xác định 
­  Danh  mục  sản  phẩm 
chủ  lực 
­ Nhận xét, đánh giá 

Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực  và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng 
bằng sông Cửu Long đến năm 2020 
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác 
định  sản phẩm  chủ lực  ĐBSCL;  đề  xuất  Danh mục  sản phẩm  chủ  lực  ĐBSCL  đến năm 
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ  yếu phát triển  sản phẩm  chủ lực của ĐBSCL một 
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 

Chương 3. XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT 
TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020 

Chương 1 
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM 

Xây  dựng  Hệ  thống 
tiêu  chí  xác  định  sản 
phẩm chủ lực ĐBSCL 
­Hệ thống tiêu chí 
­Thang điểm và phương 
pháp tính toán 

Xây  dựng  Danh  mục 
SP chủ lực ĐBSCL 
­ Sản phẩm chủ lực 

ĐBSCL 2006­2010 
­  Sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL đến năm 2020 

Giải  pháp  triển  sản 
phẩm chủ lực  ĐBSCL 
­ Giải pháp phát triển 
sản phẩm chủ lực 
ĐBSCL đến 2020

CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC 
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực 
1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực 
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực


11 

Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy 
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm 

12 

số: 21/2001/QĐ­bKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản 
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1]. 

này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng 

+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ 


lãnh  thổ.  Điển  hình nhất  là Nhật bản,  20 năm  sau  thế  chiến  thứ  2  (1951  –  1973) đã  trở 

Chí Minh giai đoạn 2002­2005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp 

thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được 

với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này 

xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy 

phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao 

ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập 

đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế 

kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang 

của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp  Hồ Chí Minh giai đoạn 

nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá 

2002­2005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều 

rẻ... đã đưa nền  kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình 

nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và 

hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn 


thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐ­UB) [2]. 

nền  kinh  tế  hàng  đầu  thế  giới  (WB,  2007).  Tương  tự,  thông  qua  hai  cuộc  “Cách  mạng 

+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp 

xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông 

Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố 

nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định 

Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong 

và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53] 

phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường 

Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới 

trong  và ngoài nước;  Được tạo ra  trên dây  chuyền  thiết bị  có  công nghệ  ngang  tầm  khu 

và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ 

vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời 

XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu 

kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định 


mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của 

ở  mức  cao  và  thuộc nhóm sản  phẩm  xuất  khẩu  chủ  lực  với  tỷ  trọng  đóng góp vào  tổng 

đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ 

GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐ­UB) [17]. 

kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và 

+  Cùng  một  quan  niệm  với  Tp  Hồ  Chí  Minh  và  Tp  Hà  Nội,  tỉnh  Đồng  Nai  với 

nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương 

“Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn 

lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi 

2006­2010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản 

nói về sản phẩm chủ lực. 

phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc 

v  Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước 

thực  hiện các mục  tiêu, nhiệm  vụ đặt  ra  trong  một  thời kỳ  nhất định.  Đây  là  những  sản 

+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi 


phẩm  công  nghiệp  chiếm  tỷ trọng  cao  trong cơ  cấu  ngành công nghiệp  có  nhịp  độ tăng 

trường  (nay  là  Bộ  Khoa  học  và  Công  nghệ)  là  sản  phẩm  giúp  gia  tăng  kim  ngạch  và 

trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và  ảnh hưởng đến sự phát triển đối 

chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm  chế biến, sản 

với  nhiều  sản  phẩm  công  nghiệp  khác  cũng  như  có  sức  cạnh  tranh  cao  trên  thị  trường 

phẩm  có hàm  lượng  công nghệ  cao,  thúc đẩy  xuất  khẩu dịch  vụ  cũng  như  tạo điều  kiện 

trong  nước  và  xuất  khẩu  (Quyết  định  số  955/QĐ­UBND).  Nói  cách  khác,  đối  với  tỉnh 

đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm 

Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng 

năng lượng, giảm giá thành và nâng cao  chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định

và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng 
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9].


13 

14 

v  Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu 


quyết  định  đến  phạm  vi  toàn  cục.  Đặc  trưng  của  chủ  lực  là  tập  trung  với  số  lượng  lớn, 

+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh, 

được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác 

Chuyên  gia  nghiên  cứu  khu  công  nghiệp,  trong  một  bài  viết  của  mình  cũng  đã  sử  dụng 

chiến trên diện rộng. 

khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai 

Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm 

phát  triển  mạnh  về  công  nghệ,  có  khả  năng  cạnh  tranh  trên  thị  trường  quốc  tế  và  trong 

dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức  là sản phẩm hữu 

nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có 

hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản 

tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng 

phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính 

mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình 

năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm 


hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ  Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là 

chế  biến  có  thịt  đóng  hộp,  cá  đóng  hộp,  thịt  đông  lạnh,  cá  đông  lạnh...,  ngành  hóa  mỹ 

sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng 

phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu 

cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô 

tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng 

hình nữa.

với  sản phẩm  chủ  lực  hay  ngành hàng  chủ lực  như:  key products, main products, major 

+  Với  TS  Lê Tấn  Bửu,  Trưởng  khoa  Thương  mại­Du  lịch­Marketing,  trường  Đại 

products  hoặc key sectors, main sectors. 

học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến 

­ Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí 

nông,  thủy  sản  vì  đây  là  thế  mạnh  của  Việt  Nam  mà  trọng  điểm  là  ĐBSCL,  đồng  thời 

chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main 

chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội. 


products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến), 

Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi 

Canned (đóng hộp)... 

thời  kỳ khác  nhau  việc nhận  thức  về  sản  phẩm  chủ  lực  có  khác nhau.  Chính  từ  sự nhận 

­ Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ  yếu của Công 

thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển 

ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết 

sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một 

kế và cài  đặt tất  cả  các bảng  phân  phối  điện),  Control  Board  (Bảng  kiểm  soát  điện), 

vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là 

Electric  Box  (Hộp  điện), Capacitor  Bank  medium  and  low  Voltage  (Tụ  bù  trung  áp  và 

lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để 

thấp áp)…. 

tập  trung  đầu  tư  phát  triển  là  nhiệm  vụ  có  tính  chiến  lược  đối  với  mỗi  quốc  gia,  địa 

­ Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ 


phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án  cần đi đến một nhận 

sản  phẩm  chính  của  Sumikin  Bussan  Special  Steel  Co.,  Ltd  là:  Tubes  and  Pipes  (ống 

thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực. 

nước, ống kết  cấu cho xe ô  tô,  máy  móc  và ống  thép đặc  biệt cho  các nhà máy hóa dầu); 

1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực 

Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire 

Trước  hết,  cần  bắt  đầu  với  thuật  ngữ  “chủ  lực”.  Theo  Từ  điển  tiếng  Việt  thông 

Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm 

dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác 

chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với 

dụng  quyết  định. Ứng  với  tiếng  Anh là  “driving  force”  (lực lượng  có tính dẫn đạo) hay 

nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử, 

“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ 

điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay. 

lực  lượng quan trọng nhất  có  ý nghĩa  quyết  định  chiến  trường  như  “quân  chủ  lực”, “bộ 


­ Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa 

đội”  chủ lực...Lực lượng  này  được  sử  dụng  khi  cần  giải  quyết  các mục  tiêu  chiến lược,

phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có


15 

16 

các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và 

Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều 

thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền 

ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác 

thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình).... 

và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực 

Từ những  kết  quả phân tích đã  trình bày ở phần  trên,  có  thể nhận diện  sản phẩm 

cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ 

chủ  lực  thông qua định  nghĩa như  sau:  “Sản  phẩm  chủ  lực  là  sản  phẩm hàng hóa  hoặc 

này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công 


dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn  và năng lực cạnh 

nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương 

tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời 

hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất 

nó  còn  có  thể là  sản phẩm  thể hiện  tính đặc  thù riêng,  mang  ý nghĩa  văn hóa  của  một 

lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ, 



quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ”  . 
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực 
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản 
của sản phẩm chủ lực như sau: 

nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo. 
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ 
Một  sản  phẩm  chủ  lực  còn  là  sản  phẩm  thể  hiện  lợi  thế  đặc  trưng  của  quốc  gia, 
vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản 

1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao 

phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ 

Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra 


cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính  lợi thế cạnh tranh của 

để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng 

quốc  gia hay  vùng  lãnh  thổ  (vị  trí địa  lý,  tài nguyên  thiên nhiên,  lao động…).  Ngoài  ra, 

hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến 

nhiều  sản phẩm chủ lực còn là  biểu tượng văn hóa của quốc gia  hay vùng lãnh thổ, góp 

nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng, 

phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế. 

mẫu mã  kiểu dáng  và  các tính năng  khác phải  giống nhau  giữa  các  cá  thể.  Rõ  ràng,  sản 

5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường 

phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ 

Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên 

công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi 

liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ  không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho 

lực yếu, sức cạnh tranh không cao. 

môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc 


2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế 

quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu 

Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng, 

tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi 

thiết  kế  kỹ  thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo  tiêu  chuẩn quốc  tế;  có  khả năng tiêu thụ  tốt 

trường so với sản phẩm được thay thế. 

không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu 
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng 

1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án 

sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước 

Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu 

mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp. 

trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với 

Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực 

từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới. 


cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững. 

Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực 

3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh 


Khái niệm trong Luận án 
Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có

Các khái niệm trước đây


17 

Nêu  bật  mục  đích  chính  của  sản  phẩm  Chỉ  cho  biết  sản  phẩm  nói  chung  chứ  chưa 
được  tạo  ra  là  để  trao  đổi  mua  bán,  đặc  thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua 
biệt là mua bán quốc tế. 

bán, nhất là mua bán quốc tế. 

18 

2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa, 
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng, 
có tác động lôi  kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển. 
Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ  các ngành 

Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa  Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào 
trên  tiềm  năng,  lợi  thế  chung  của  vùng,  điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và 

miền quyết định một cách khách quan. 

do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan 

nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một 
ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm 
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này, 

Bao  gồm  cả  sản phẩm  công nghiệp, nông  Thường  chỉ  đề  cập  chủ  yếu  đến  sản  phẩm 

có  thể  xác  định  được  những  ngành  nào  có  khả  năng  lan  tỏa  đến  nó  để  có  chính  sách 

nghiệp ­ thủy sản và dịch vụ 

khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ. 

công nghiệp, hoặc nông nghiệp 

Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá  Chú  trọng  đến  khía  cạnh  tạo  ra  giá  trị  sản 
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến  lượng,  tốc  độ  tăng  trưởng,  hiệu  quả...  riêng 
các ngành nghề khác 

của sản phẩm chủ lực mà thôi. 

Sản  phẩm  không  những  mang  giá  trị  vật  Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật 
chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá  chất, giá trị kinh tế mà thôi 
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa… 
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng 
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực 
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh 

thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể: 
1)  Xác định  đúng  sản phẩm chủ  lực đồng nghĩa  với  việc  xác  định  được  năng  lực 
cạnh  tranh  cốt  lõi  của  quốc  gia,  vùng  lãnh  thổ…,  để  từ  đó  có  chính  sách  đầu  tư  đúng 
hướng, tập trung và có chiều sâu. 
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu 
tư  phát  triển  một  cách  có  trọng  tâm,  trọng  điểm  và  theo  chiều  sâu  trên  cơ  sở  lợi  thế  so 
sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng 
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua 
đó  tạo môi trường  thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được 
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế ­ 
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.

3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh 
tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu. 
Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp, 
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó. 
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn 
kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững. 
4)  Xác  định  đúng  sản  phẩm  chủ  lực  cũng  có  nghĩa  là  xác  định  đúng  đối  tượng 
khách hàng và  thị  trường  tiêu  thụ để  tăng  cường áp  dụng  các hệ  thống quản  lý  và thực 
hành chất lượng phù hợp. 
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được 
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng. 
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất 
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn 
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. 
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực 
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723­1790) 
Adam  Smith được  coi  là  cha đẻ  của kinh  tế học hiện đại.  Tác phẩm  lớn nhất  của 

ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của 
chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá. 
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong 
mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi 
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm


19 

20 

bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó, 

triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên 

A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá 

một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy 

rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi 

giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại 

thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương. 

ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản. 

Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí 
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi 


Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước 
đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công. 

phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí 

Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế 

sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối 

so sánh cao một cách  tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có 

với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi 

lợi  thế  so  sánh  về  những hàng  hóa này.  Điều  này  lý  giải  vì  sao Việt  Nam lại xuất 

bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao 

khẩu nhiều  sản  phẩm  thô  hoặc  sơ  chế  như  dầu  thô, than  đá,  thủy  sản  đông  lạnh...  hoặc 

sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem 

hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc, 

lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước. 

thiết bị từ các nước phát triển [3]. 

Ngày  nay,  đối  với  các  nước  đang  phát  triển  như  Việt  Nam  việc  khai  thác  lợi  thế 

1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (1772­1823) 


tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm, 

Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình 

đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ. 

phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng 

Khi nhập  công nghệ  sản  xuất,  lao động  trong  nước  sẽ học  được  cách  sử dụng máy móc 

thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là 

thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này, 

cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và 

vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển  (có lợi thế tuyệt 

cuốn  ''Lợi  thế  cạnh  tranh  quốc  gia”  vào  năm  1990.  Trong  tác  phẩm  Lợi  thế  cạnh  tranh 

đối về công nghệ) và các nước đang phát triển  (có lợi thế  tuyệt đối về nguồn lực) thông 

quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh 

qua  bù đắp  sự  yếu  kém  về  khả  năng  sản  xuất tư  liệu sản  xuất  và  yếu  kém về  kiến thức 

vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter 

công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55]. 


thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết 

1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (1772­1823) 

các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi 

Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các 

thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của 

quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại 

một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành 

thương  có  lợi  cho  mọi  quốc  gia  miễn  là  xác  định  đúng  lợi  thế  so  sánh.  Nghĩa  là  việc 

của  quốc  gia  đó. Khi nền  tảng  của  cạnh  tranh  càng  chuyển  dịch sang  sự  sáng  tạo  và  tri 

chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động 

thức mới  thì vai  trò  của quốc  gia càng  tăng lên. M.  Porter  cho  rằng  các nền  kinh  tế đều 

cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập 

phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất, 

lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự 

cạnh  tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh 


khác  nhau  giữa  các  nước  trong công  nghệ sản  xuất  dẫn  đến năng  suất vật  chất  và  đòi 

tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt 

hỏi lao động đơn vị khác nhau. 

với cạnh tranh quốc tế. 

Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công 

Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc 

nghệ  như  nhau:  các  nước  phát  triển có  cung  về tư  bản nhiều  hơn các  nước  đang  phát

gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác


21 

22 

định được một nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào sẽ là cơ sở để chính quyền địa 

các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, 

phương hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phù hợp để 

Ông  còn  đưa ra  thêm 2  yếu  tố bổ  sung là  vai  trò  của nhà nước  và  yếu  tố thời  cơ.  (Xem 


sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất và vị thế cạnh tranh. 

Michael E. Porter, 2008) [21]. 

Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của Porter 
Nền kinh tế định 
hướng yếu tố 

Nền kinh tế định 
hướng đầu tư 

Nền kinh tế định 
hướng sáng tạo 

Hiệu quả nhờ 
chi phí đầu vào 

Hiệu quả nhờ 
đầu tư mạnh 

Hiệu quả nhờ 
đổi mới

Hình 1.2  Mô hình Kim cương trong năng lực cạnh tranh của M. Porter 
SỰ 
NGẪU 
NHIÊN 

CHIẾN LƯỢC 
CÔNG TY, CẤU 

TRÚC VÀ CẠNH 
TRANH NỘI ĐỊA 

ĐIỀU KIỆN 
YẾU TỐ SẢN 
XUẤT 

CÁC ĐIỀU 
KIỆN VỀ 
CẦU 

Nguồn: Porter (1990) 
Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao 
độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên 
ưu  thế  quyết  định  sự  thành  công  trong  cạnh  tranh.  Các  quốc  gia  thành  công  ở  một  số 

CÁC NGÀNH 
CÔNG NGHIỆP 
PHỤ TRỢ VÀ CÓ 
LIÊN QUAN 

CHÍNH 
PHỦ

ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong 
và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ 
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, 
nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành 
phụ trợ. Như vậy, lợi thế cạnh tranh có thể hiểu là lợi thế về nguồn lực, cơ hội hoặc điều 
kiện tự nhiên... mà một doanh nghiệp, ngành, quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể tạo ra một 

số ưu thế vượt trội về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc tế 
giúp  cho  các  doanh  nghiệp  có  được  “Quyền  lực  thị  trường”  để  thành  công  trong  kinh 
doanh  quốc tế.  Theo  Michael.E Porter,  lợi  thế  cạnh  tranh  của quốc  gia,  địa phương hay 
vùng lãnh thổ có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngành và sản phẩm. 
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có lợi thế cạnh tranh  tốt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các 
ngành và doanh nghiệp thông qua việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm ưu việt hơn 
so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ông cho rằng, bí quyết mà một quốc gia gặt hái 
được sự thành công quốc tế trong một ngành nhất định nằm trong bốn thuộc tính lớn của 
một  quốc  gia.  Bốn  thuộc  tính  này  định  hình  nên  môi  trường  cạnh  tranh  của  các  doanh 
nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh và được coi là các 
yếu tố quyết định của mô hình, là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, 

Nguồn: Lợi thế cạng tranh quốc gia của Michael M. Porter 
Qua mô hình  kim  cương,  Michael  M. Porter đưa ra 4  yếu  tố  quyết  định  năng  lực 
cạnh tranh và 2 yếu tố chi phối các yếu tố quyết định của một ngành bao gồm: 
v  Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 
+  Chiến  lược  công  ty,  cấu  trúc  và  cạnh  tranh  nội  địa.  Những  điều  kiện  kinh  tế, 
chính trị xã hội của một quốc gia ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức và quản lý doanh 
nghiệp cũng như đặc tính của cạnh tranh trong nước. 
+  Các  điều kiện  về  phía  cầu.  Thị  trường  trong  nước  với  số  cầu  lớn và  có những 
khách hàng đòi hỏi cao và những cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ tạo ra khả năng 
cạnh tranh cao hơn cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 
+ Điều kiện về các yếu tố sản xuất. Bao gồm chất lượng lao động, vốn rẻ, cơ sở hạ 
tầng mạnh và công nghệ cao trong khu vực hay quốc gia sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh 
của ngành, của khu vực và của cả quốc gia. 
+ Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Năng lực cạnh tranh của một ngành 
phụ thuộc vào các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ. 


23 


24 

v  Các yếu tố chi phối các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành: 

Các công ty thành viên của cụm sẽ chia sẻ các yêu cầu và các mối quan hệ bên trong với 

+  Vai  trò  của  chính phủ.  Chính phủ  có  thể tác động  tới năng  lực  cạnh  tranh  của 

nhà cung cấp và khách hàng. Các mối quan hệ bên trong công ty yêu cầu các dịch vụ bổ 

ngành thông qua cả 4 nhóm nhân tố: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các 

sung từ các nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các công ty chủ chốt. 

ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của 

Cụm sẽ tạo ra lực lượng lao động, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối 

ngành. Các tác động của chính phủ có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.

quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ 

·  Đối với các yếu tố sản xuất và các ngành hỗ trợ và liên quan; chính phủ có 
thể tác động thông qua chính sách thuế, vốn, trợ cấp, quy hoạch phát triển ngành,…

hỗ trợ và các bên hữu quan [47], [50], [51]. 
Ban  đầu,  Porter  cung  cấp  các  nguyên  lý  cụm  cho  các  cụm  quốc  gia  và  quốc  tế 

·  Đối với nhu cầu trong nước, chính phủ tác động bằng những quy định mang 


nhưng  sau  đó đã  nhận  ra sự  thích  hợp  cho  các cụm  vùng  kinh  tế  trong nội bộ quốc gia. 

tính chất định hướng nhu cầu như quy định tiêu chuẩn đối với từng mặt hàng trong ngành, 

Một cụm giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hoá, dịch vụ, trong đó các ngành sản 

các biện pháp kích thích hoặc kiềm hãm nhu cầu đối với một loại sản phẩm nhất định.

xuất được liên kết với nhau bởi dòng hàng hoá và dịch vụ mạnh hơn dòng liên kết chúng 

·  Đối với cơ cấu và môi trường cạnh tranh, sự tác động của chính phủ thể hiện 
thông qua những quy định về thị trường tín dụng, chính sách thuế và các quy định về cạnh 
tranh trong sản xuất, kinh doanh của ngành hàng cụ thể. 
+ Sự ngẫu nhiên hay vai trò của cơ hội. Cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan 
đến tình trạng sản xuất, kinh doanh hiện tại của ngành hàng nào đó tại quốc gia. Những cơ 
hội có thể đến với mặt hàng có thể là: những cuộc khủng hoảng  kinh tế,  thiên tai, chiến 
tranh ở các quốc gia, khu vực trên thế giới; sự tiến bộ về công nghệ sinh học; sự bãi bỏ các 
hàng  rào  thuế  quan  hay  phi  thuế  quan  của  chính  phủ  các  nước  đối  với  mặt  hàng  nào 
đó…làm nhu cầu ở những nơi này tăng lên, đẩy giá cả thế giới lên cao hay ngược lại. 

với phần còn lại của nền kinh tế. Các quan hệ trong cụm được phân thành 3 loại: 
(1)  quan hệ  mua  ­  bán  bởi  sự  tập  trung  và  hội  nhập  dọc  giữa  quá  trình  sản  xuất 
chính với các đầu vào và phân phối hàng hoá và dịch vụ; 
(2) quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh và các đối tác nhằm khai thác thông tin về 
sản phẩm và qui trình, mở rộng sự cải tiến và các liên kết chiến lược; và 
(3) quan hệ giữa thị phần và nguồn tài nguyên bằng sự chia sẻ công nghệ, lực lượng 
lao động và thông tin. 
Việc sử dụng khái niệm cụm như là công cụ để hiểu được quá trình phát triển sản 
phẩm chủ lực ở cấp độ vùng và sự ảnh hưởng của nó đến việc định dạng và chuyển giao 


Hiện nay, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước những 

chính sách phát triển cụm và phát triển kinh tế vùng. Ở cấp vùng, các chính sách phát triển 

cơ hội và thách thức lớn khi hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Làm thế nào để tận dụng tốt 

cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn với các chiến lược phát triển địa 

thời cơ cũng như có biện pháp ngăn chặn những tác động tiêu cực từ hội nhập là một câu 

phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về nguyên tắc được sử dụng như là công 

hỏi mà các quốc gia đều quan tâm. Câu trả lời là: mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ  cần phải 

cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. 

phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình trong mối tương quan với nền kinh tế thế giới. 
1.1.3.4  Thuyết cụm phát triển của Michael E. Porter 

1.1.3.5 Phát triển bền vững sản phẩm chủ lực 
Năm 1980, lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được Hiệp hội 

Được  phát  triển  bởi  M.  Porter  (1990),  lý  thuyết  cụm  được  sử  dụng  một  các  phổ 

Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế ­ IUCN công bố), thuật ngữ "phát 

biến trong việc hoạch định các chính sách công cộng và kinh tế. Cụm được tạo thành khi 

triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không 


các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các ngành, sản phẩm 

thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã 

tương  tự  vào  trong một  vùng  nhằm  tăng  khả năng  cạnh  tranh  bằng  việc  tăng năng  suất, 

hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Đến năm 1987, khái niệm này được phổ 

khuyến khích các công ty mới cải tiến, thậm chí giữa các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những 

biến  rộng  rãi thông  qua  nội  dung  của Báo  cáo  Brundtland (còn  gọi  là  Báo  cáo Our 

cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. “Cụm là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành 

Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới ­ WCED (nay là Ủy ban 

sản xuất, dịch vụ nhằm  tận dụng các cơ hội qua liên kết địa lý” (Chritian Ketels, 2003).

Brundtland).  Theo báo  cáo này  thì  phát  triển bền  vững  là "sự phát triển  có  thể đáp  ứng


25 

26 

được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng 

nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm thiểu tình trạng mất cân bằng trongthu 


nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm hài 

nhập thu nhập giữa thành thị và nông thôn. 

hòa giữa phát triển kinh tế hiệu quả với xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ. Để 
đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế ­ xã hội, nhà quản lý, các tổ chức xã hội... 
phải  bắt  tay  nhau  thực  hiện  nhằm  mục  đích  dung  hòa  3  lĩnh  vực  chính:  kinh  tế ­ xã 
hội và môi trường. 

2)  Liên quan đến yếu tố tài nguyên: Phát triển sản phẩm chủ lực trong giới hạn khả 
năng cho phép của tài nguyên, nguồn lực và hệ sinh thái. 
Phát triển sản phẩm chủ lực phải góp phần giảm sử dụng năng lượng hóa thạch, hạn 
chế sử dụng các hóa chất độc hại, giảm chất thải công nghiệp và làm sạch các khu vực bị ô 

Sản phẩm chủ lực và sự phát triển bền vững 

nhiễm, đồng thời ngăn ngừa việc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên tái tạo và nước; 

Quá trình toàn cầu hóa đi đôi với tự do hóa thương mại phát triển nhanh chóng nhờ 

chặn đứng phá rừng, xói mòn đất, rửa trôi chất màu và phá hủy hệ sinh thái, giảm đốt củi 

sự thúc đẩy bởi các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đã làm thay đổi quan trọng diện 
mạo của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở tất cả các nước. Quá trình này đã mang đến 
nhiều cơ hội cũng như thách thức mới với nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Do vậy, việc 

và sử dụng phân gia súc. 
3) Liên quan đến yếu tố lợi nhuận: Phát triển sản phẩm chủ lực phải tạo ra giá trị 
một cách công bằng cho người tiêu dùng và các bên liên quan trong chuỗi giá trị. 


phát triển sản phẩm chủ lực nhất thiết phải cân nhắc đến tính bền vững, lâu dài của chúng 

Phát triển sản phẩm chủ lực cần bảo đảm  khả năng sinh lời cho các doanh nghiệp 

và đặt trong mối quan hệ tam giác “triple bottom line”, với 3 cạnh nối các đỉnh: kinh tế, xã 

và  các bên liên quan,  tạo  ra giá  trị  hữu dụng cao  cho người  tiêu  dùng, đảm bảo  nối  kết 

hội và môi trường. 

giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các công ty lớn và các công ty đa quốc gia, công 

Hình 1.3  Quan hệ giữa Con người – Tài nguyên – Lợi nhuận với Sản phẩm 

nghiệp hóa, hiện đạt hóa và không ngừng tăng quy mô sản xuất hợp lý [42]. 

1.2. Phương pháp xác định và phát triển sản phẩm chủ chủ lực 
1.2.1. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 
1.2.1.1. Khái niệm tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một hoặc một số chỉ tiêu định lượng hoặc 
định  tính mà  theo đó, người  ta  có  thể nhận biết  được sản phẩm  nào  có ưu  thế  trong  sản 
xuất, kinh doanh hoặc cạnh tranh trên thương trường để công nhận là sản phẩm chủ lực. 
Theo quan điểm của một số  nhà nghiên cứu thì có thể tiếp cận vấn đề  này từ các 

CON 
NGƯỜI 

khía cạnh như sau: 
Một là, phải xem xét, đánh giá và lựa chọn sản phẩm chủ lực dựa trên cả hai nhóm 
tiêu chí, tiêu chí cần và tiêu chí đủ. 


Nguồn: Theo thiết kế sản phẩm 

SẢN 
PHẨM 
CHỦ LỰC 

1)  Liên  quan 
người: Phát triển sản 
đáp  ứng  các  yêu  cầu 

hướng tới phát triển bền vững 

TÀI 
NGUYÊN 

LỢI 
NHUẬN 

về  xã  hội  và 

đến  yếu  tố  Con 
phẩm  chủ  lực  phải 
công bằng. 

Phát triển sản phẩm chủ lực sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động ở

+ Nhóm tiêu chí cần: là những yếu tố nội tại của một sản phẩm cụ thể nào đó mà 
chúng có thể giúp sản phẩm đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội, đặc biệt là đáp ứng 
được các mục tiêu của nhà quản lý như: có quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao, nộp ngân sách 

lớn,  giải  quyết  nhiều  lao  động...  Khi  một  sản  phẩm  có  đủ  các  yếu  này  thì  sản phẩm  đó 
được coi là sản phẩm chủ lực. 
+ Nhóm tiêu chí đủ: là những yếu tố mà sản phẩm chủ lực đòi hỏi về phía xã hội. 
Chẳng hạn như: phải có tài nguyên, nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng thương hiệu, chính


27 

sách hợp lý… Trên thực tế, khi các doanh nghiệp hay nhà nước đáp ứng tốt những đòi hỏi 
này thì sản phẩm bình thường vẫn có thể trở thành sản phẩm chủ lực. 
Có  thể nói rằng, tiêu chí cần  là mục tiêu  cuối cùng mà một sản phẩm  phải hướng 
tới, còn tiêu chí đủ là những yếu tố mà “xã hội” phải quan tâm đảm bảo để sản phẩm đạt 
đến mục tiêu của mình. 
Hai là, khi xem xét, đánh giá lựa chọn sản phẩm chủ lực phải cân nhắc đầy đủ cả 
hai tiêu chí, tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính. 

28 

+  Tiêu  chí  phải  bảo  đảm  tính  đặc  trưng  của  địa  phương.  Tiêu  chí  xác  định  sản 
phẩm chủ lực phải thể hiện được những đặc trưng của từng vùng, miền. Đây là cơ sở phân 
biệt một hàng hóa của địa phương này với hàng hóa của địa phương khác. 
+  Tiêu  chí  phải bảo  đảm  dễ  hiểu,  dễ  thực  hiện.  Xây  dựng  tiêu  chí  xác  định  sản 
phẩm chủ lực không nên sử dụng các mô hình toán phức tạp, triết lý cao siêu hay viện dẫn 
quanh co làm cho việc áp dụng tiêu chí vào thực tế gặp khó khăn phức tạp. 
+Tiêu chí phải bảo đảm tính công khai. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực của địa 

Mặc dù mọi phương pháp xác định sản phẩm chủ lực đều cố gắng lượng hóa đến 

phương cần được xây dựng tập thể và công bố rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan đều 


mức tối đa để có thể đưa ra kết quả khách quan, chính xác, nhưng trên thực tế không thể 

biết. Việc xây dựng và công bố này nhất thiết phải được thực hiện ngay từ khi ban hành 

quy tất cả các yếu tố kinh tế và xã hội thành các con số. Đó là chưa kể còn có nhiều biến 

chương trình hay qui định về hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương. [2], [8]... 

số khó lường có thể làm đảo lộn mọi tính toán. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng cả 

1.2.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 

hai loại tiêu chí định tính và định lượng. Tiêu chí định lượng dựa trên các số liệu thống kê, 

Việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có ý nghĩa rất quan trọng cả về 

phân tích bằng các thuật toán, còn tiêu chí định tính  chủ  yếu dựa trên các yếu tố kinh tế, 
chính trị, xã hội được xác định bằng kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia [37]. 

mặt giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Cụ thể: 
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là thước đo giá trị nội tại và khách quan của 

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cũng cần phải vận dụng linh hoạt, không cứng 

hàng hóa. Nó phản ảnh trung thực về khả năng đáp ứng những đòi hỏi của thị trường, của 

nhắc khi sử dụng các tiêu chí. Chẳng hạn, có tiêu chí về lý thuyết có thể định lượng như 

xã hội cũng như của nhà quản lý. Thông qua các tiêu chí đánh giá, người ta có thể nhận 


nhu cầu thị trường, giá trị thương hiệu, nhưng nếu không thể đo đếm, tính toán được các 

biết được sản phẩm chủ lực đang sở hữu những tính năng, chất lượng gì và có khả năng 

chỉ tiêu đo lường một cách chính xác thì đành phải sử dụng nó như là tiêu chí định tính, 

thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng tới đâu. 

với vai trò đánh giá của các chuyên gia. Tuy vậy, khi xây dựng tiêu chí, cần cố gắng lượng 
hóa cả các đánh giá định lượng và định tính thành điểm số để dễ so sánh và lựa chọn. 

+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực còn là những yêu sách về phía xã hội và nhà 
quản lý. Nếu đáp ứng được những yêu sách này thì sản phẩm sẽ đủ điều kiện trở thành sản 

1.2.1.2. Yêu cầu đối với tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực 

phẩm chủ lực. Như vậy, cũng có thể xem hệ thống tiêu chí đánh giá là khuôn mẫu cho các 

Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực chỉ bảo đảm được chất lượng tốt và khả thi khi 

chính sách đầu tư về công nghệ, sử dụng tài nguyên, đào tạo tay nghề và các chính sách hỗ 

nó thỏa mãn các yêu cầu sau: 

trợ của Nhà nước. 

+ Tiêu chí phải bảo đảm tính định lượng. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có 

+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, khi được thừa nhận, là một văn bản có giá 


thể xây dựng dưới dạng định tính hoặc định lượng. Tuy nhiên, để bảo đảm rõ ràng, minh 

trị pháp lý, chi phối mọi hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh, nhà hoạch định chính 

bạch thì các tiêu chí cần được lượng hóa. Những tiêu chí không thể lượng hóa được như 

sách  và  nhà  quản  lý.  Để  phát  triển  sản  phẩm  chủ  lực,  các  nhà  sản  xuất  phải  điều  chỉnh 

chỉ  tiêu  đánh giá độ mạnh của  thương hiệu, biểu  trưng  văn hóa địa phương…thì cần  có 

công nghệ, tổ chức lại sản xuất và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hợp chuẩn. Sẽ 

tiêu chí trung gian khác làm cơ sở đánh giá. 

không  còn  tùy  tiện,  chủ quan xem  thường qui  chuẩn  thường  thấy  ở  đối  tượng này.  Nhà 

+ Tiêu chí phải bảo đảm tính khách quan, khoa học. Tiêu chí xác định sản  phẩm 
chủ lực được xây dựng dựa trên các số liệu, dữ kiện khách quan, không áp đặt theo cảm 
tính hay ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Đồng thời nó còn phù hợp với qui luật vận động của 
các yếu tố kinh tế, xã hội – văn hóa.

hoạch định chính sách và nhà quản lý sẽ lấy đó làm mục tiêu để định ra các biện pháp tổ 
chức thực hiện thích hợp. 
+  Tiêu  chí  xác  định  sản  phẩm  chủ  lực  là  một  bản  tuyên  ngôn  về  chất  lượng  của 
hàng hóa,  thể  hiện  sự  cam  kết  về  trách  nhiệm  của doanh nghiệp, nhà  sản  xuất với  cộng


29 

30 


đồng,  xã  hội.  Thông  qua  hệ  thống  tiêu  chí  xác  định  sản  phẩm  chủ  lực,  người  tiêu  dùng 

Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực đang xét càng quan trọng đối 

hiểu được rằng nhà sản xuất sẽ làm  gì, làm như thế nào và chịu trách nhiệm ra sao trong 

với vùng vì nó đóng góp giá trị lớn và  có sức tác động mạnh đến kết quả sản xuất kinh 

việc cung cấp các tiện ích để thỏa mãn nhu cầu của họ ở chính trong sản trong phẩm của 

doanh của toàn vùng. 

các nhà sản xuất. 

(2) Hệ số địa phương hóa của sản phẩm trong vùng (LQ ir ) 

+ Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là bản tuyên bố sứ mạng của các 

Hệ số địa phương hóa (Location Quotient ) giúp đo lường mức độ tập trung chuyên 

doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh, có giá trị lâu dài về mục đích  và giúp  phân 

môn  hóa  của  vùng,  miền  hay  địa  phương  về  lĩnh  vực  khu  vực  i  trong  mối  quan  hệ với 

biệt được doanh nghiệp này với những doanh nghiệp khác. Có thể gọi đó là phát biểu của 

vùng lãnh thổ lớn hơn R (thường là một quốc gia) và trong toàn bộ nền kinh tế (tức là, tất 

một doanh nghiệp về triết lý kinh doanh, những nguyên tắc kinh doanh, thể hiện niềm tin 


cả  các  lĩnh  vực  của nền  kinh  tế của  một quốc  gia).  Thông qua hệ số này,  người  ta thấy 

và tầm nhìn của doanh nghiệp [2], [8], [16], [17], [37].... 

được mức độ tập trung chuyên môn hóa của một ngành hay sản phẩm nào đó tại một vùng, 

1.2.1.4. Nội dung các tiêu chí 

miền hay địa phương so với mức độ tập trung chuyên môn hóa ngành, sản phẩm đó của 

Xuất phát từ các vấn đề đã bàn luận trên đây, có thể thấy việc xác định sản phẩm 

vùng lớn hơn hay trên cả nước ((Maggioni và Riggi năm 2008). 

chủ lực của quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ  cần dựa trên các tiêu chí định lượng 

Hệ số địa phương hóa được thể hiện theo công thức: 

và định tính sau đây: 

LQ ir  = 

v  Nhóm tiêu chí định lượng: 
Có  tác  dụng đánh  giá  khả  năng  sản  xuất,  mức  đóng  góp  vào  tăng  trưởng  kinh  tế 

X ir  / X Ir 
X iR  / X IR 

(1.2)


Trong đó: 

vùng và lợi thế cạnh tranh về mặt định lượng thông qua các số liệu thống kê hoặc điều tra 

Xir: Giá trị sản lượng sản phẩm loại i của vùng, miền, địa phương r 

thu thập được qua các thời kỳ. Nhóm này có 10 tiêu chí gồm: 

X Ir : Tổng giá trị sản lượng trong vùng, miền, địa phương r 

(1) Tỷ trọng của sản phẩm so với toàn vùng (ROV). 

X iR : Giá trị sản lượng sản phẩm i toàn ngành (khu vực lớn hơn hay cả nước R) 

Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực vùng với tổng giá trị 

XIR: Tổng giá trị sản lượng của cả nước (hoặc khu vực lớn hơn hay cả nước R) 

sản lượng của vùng được tạo ra trong một thời kỳ xác định. Tiêu chí này phản ảnh mức độ 

Thực tế nghiên cứu của các nước cho thấy nếu LQ <1, cho biết vùng, miền hay địa 

tập trung lao động xã hội của sản phẩm tại một vùng, miền hay địa phương được thể hiện 

phương đang xét có ít tiềm năng phát triển sản phẩm i; LQ> 1, cho biết vùng, miền hay địa 

thông qua giá trị sản lượng, giá trị gia tăng....(Lindqvist et al, 2003; Karlsson, năm 2008; 

phương đang xét nhiều  hay ít tiềm  năng phát triển  sản phẩm  i  và  khi  LQ≥1,25, cho  biết 


Solvell  et  al,  2009).  Tiêu  chí  này  còn  phản  ảnh  tầm  quan  trọng  của  sản  phẩm  chủ  lực 

vùng, miền hay địa phương đang xét có tiềm năng đặc biệt phát triển sản phẩm i để cạnh 

thông qua sự đóng góp giá trị của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương. 

tranh toàn cầu (Florida State University, 2010). 

Tỷ trọng này được tính theo công thức : 

R OV

OV P 

x 100 
OV R 

Trong đó :
·  OVP : Giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực
·  OVR : Tổng giá trị sản lượng của toàn vùng 

(3) Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm trong vùng (Grw). 
(1.1)

Tiêu chí này cho biết mức độ tăng trưởng về sản lượng, giá trị sản lượng hoặc giá 
trị gia tăng của sản phẩm chủ lực. Nó phản ảnh khả năng và triển vọng phát triển của hàng 
hóa chủ lực trong tương lai. 
Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm có thể nhận được từ số báo cáo hàng năm của địa 
hoặc tính theo công thức : 



31 

Grw = 

32 

Tỷ trọng này được tính theo công thức : 

OV 1  - OV 0 
x 100 
OV 0 

(1.3)

R EX = 

Trong đó : 
OV 1  : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm xem xét 
OV0  : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm định gốc so sánh 
Tiêu chí này có thể xem xét qua nhiều năm. Nếu tốc độ tăng trưởng trung bình càng 
cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực của vùng, miền hay địa phương đang xét càng có khả năng 
và triển vọng tăng trưởng tốt, ổn định và bền vững. 

EX P 
x 100 
EX R 

(1.5)


Trong đó :
·  EXP : Giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực
·  EXR : Tổng giá trị xuất khẩu của toàn vùng 
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ tính chủ lực của sản phẩm đang xét càng mạnh 
vì nó ảnh hưởng lớn đến thành tích xuất khẩu chung của toàn vùng. 

(4) Hệ số vượt trội của sản phẩm (C Grw ). 

(6) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu nội địa (RCA D ) 

Tiêu chí này phản ảnh khả năng vượt trội của hàng hóa chủ lực đối với toàn ngành 

Là  chỉ  tiêu  phản  ảnh  khả  năng  cạnh  tranh  trong  xuất  khẩu  của  vùng  về  một  sản 

kinh tế. Nếu hệ số này càng cao chứng tỏ hàng hóa chủ lực đang xét giữ vai trò quyết định 

phẩm cụ thể trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả nước về sản phẩm đó. Nếu tỷ 

trong việc hình thành mức tăng trưởng chung cho toàn ngành. 

trọng  xuất  khẩu  của  vùng  về  sản phẩm  chủ  lực lớn hơn  tỷ trọng  sản phẩm cùng  loại đó 

Công thức xác định hệ số vượt trội có dạng : 

CGrw  = 

G RWi 
G RWs 


trong tổng xuất khẩu của cả nước thì vùng, địa phương đang xét được coi là vùng có lợi 
thế so sánh về loại sản phẩm đó. 
(1.4) 

Công thức tính hệ số này như sau: 

RCA D  = 

Trong đó: 
G Rwi : là tốc độ phát triển của sản phẩm i 
GRWs: là tốc độ phát triển chung của toàn bộ ngành (khu vực) kinh tế 
Sử dụng hệ số vượt trội để đánh giá mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng sản phẩm i 
đến  toàn bộ ngành  kinh  tế  (nông nghiệp,  công  nghiệp,  thương mại dịch  vụ)  sản phẩm i. 
Nếu  CGrw  <  1,  việc  phát  triển  sản  phẩm  i  sẽ  làm  tăng  tỷ  trọng  giá  trị  sản  phẩm  i  trong 
ngành  nên  sẽ  ảnh  hưởng  tiêu  cực  đến  tăng  trưởng  ngành  kinh  tế  (kéo  giảm  tốc  độ  tăng 
trưởng của ngành); Nếu CGrw >1, việc phát triển sản phẩm y sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản 
phẩm i trong ngành nên sẽ ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (đẩy nhanh 
tốc độ tăng trưởng của ngành). 
(5) Tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm so với toàn vùng (REX) 
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực với tổng giá trị xuất 
khẩu  của  toàn  vùng.  Tiêu  chí  này  phản  ảnh  tầm quan  trọng  của  sản phẩm  chủ  lực  trong 
lĩnh vực xuất khẩu thông qua mức đóng góp của nó trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn 
vùng cũng như khả năng đóng góp ngoại tệ cho địa phương thông qua sự đóng góp giá trị 
xuất khẩu của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương. 

EX ir  / EX r 
EX iN  / X N 

(1.6) 


Trong đó: 
EX ir : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của vùng, địa phương r 
EXr: Tổng giá trị xuất khẩu của vùng, địa phương r 
EX iN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của cả nước 
EXN: Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả nước 
Nếu hệ số RCA D  lớn hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là có 
lợi thế  so  sánh  nội  địa  về sản phẩm  i.  Hệ  số này  càng  cao  thì lợi  thế  so  sánh càng  cao. 
Ngược lại, nếu RCAD  nhỏ hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là không 
có lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i. 
(7) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu thế giới của sản phẩm (RCAW) 
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa 
chủ lực trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả thế giới về hàng hóa đó. Nếu tỷ 
trọng xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa chủ lực lớn hơn tỷ trọng hàng hóa đó trong tổng 
xuất khẩu của cả thế giới thì quốc gia đó được coi là có lợi thế so sánh về hàng hóa đó. 


33 

34 

Công thức tính hệ số này như sau: 

RCA W  = 

Mức bảo hộ hiệu dụng làm tăng giá trị gia tăng trong nước và được tính toán bằng 

EX iN  / EX N 
EX iw  / X W 

công thức: 

(1.7) 

ERP = 

Trong đó: 

AV PD  - AV PW 
AV PW 

(1.9) 

EXiN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của quốc gia 

Trong đó: 

EX N : Tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia 

AVPD : là giá trị gia tăng tính theo giá trong nước; 

EXiw: Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của thế giới 

AV PW : là giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. 

EX W : Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả thế giới 

Hệ số bảo hộ hiệu dụng có thể có giá trị âm, có thể có giá trị dương hoặc bằng 0. 

Nếu hệ số RCAW  lớn hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là có lợi thế so sánh 

Hệ số này thường có giá trị âm đối với những ngành công nghiệp có thế mạnh xuất khẩu, 


quốc  tế  về  sản phẩm  i.  Hệ số  này  càng  cao  thì  lợi thế  so  sánh  càng  cao.  Ngược  lại, nếu 

bởi vì khi đó thuế nhập khẩu đối với ngành đó bằng 0, trong khi đó đầu vào sản xuất lại 

RCA W  nhỏ hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là không có lợi thế so sánh quốc tế 

phải chịu thuế nhập khẩu. Việc tính toán AVPD  và AVPW  cần dựa vào bảng cân đối liên 

về sản phẩm i. 

ngành  I/0. 

8) Hệ số thương mại ròng của sản phẩm (NTR) 

10) Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC) 

Là chỉ  tiêu phản  ảnh mối  tương  quan  giữa  xuất  và  nhập khẩu  của hàng hóa cùng 
loại với hàng hóa chủ lực. 

DRC là chỉ số thường được dùng để đánh giá lợi thế so sánh của ngành hàng thông 
qua  xem  xét  tính  hiệu  quả  của  nguồn  lực  trong  nước  được  sử  dụng  để  sản  xuất  ra  sản 

Công thức tính hệ số thương mại ròng: 

EX  - IM i 
NTR =  i 
EX i  + IM i 

phẩm. DRC biểu thị tổng chi phí của các nguồn lực trong nước được sử dụng tương ứng 

(1.8)

Trong đó: 

với 1 đơn vị tiền tệ thu được từ sản phẩm đem bán. Do đó, DRC nhỏ hơn 1 có nghĩa là sản 
phẩm có lợi thế so sánh và ngược lại. DRC càng nhỏ thì lợi thế so sánh càng cao. 
Công thức tính: 

EX i : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i 

DRC = 

IMi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm i 
Nếu hệ số NTR có giá trị lớn hơn 0 thì quốc gia đang xem xét có lợi thế so sánh ở 

( PV  - DIV  - FIV ) 
FIV i 
P i ( 1 ) 
PV i 

sản phẩm i, còn nếu NTR nhỏ hơn 0 thì quốc gia đang xem xét không có lợi thế so sánh ở 

Trong đó: 

sản phẩm i. Giá trị NTR gần bằng 0 là tình trạng lợi thế không rõ ràng 

PVi: Giá trị sản xuất của một đơn vị sản phẩm i 

(9) Hệ số bảo hộ hiệu dụng của hàng hóa chủ lực (EPR) 


DIV i : Giá trị đầu vào nội địa trong một đơn vị sản phẩm i 

Hệ số bảo hộ hiệu dụng của một sản phẩm là chênh lệch giữa giá trị gia tăng tính 

FIVi: Giá trị đầu vào nhập khẩu trong một đơn vị sản phẩm i 

(1.10 
)

theo  giá  trong  nước  của ngành  sản phẩm đó và  giá trị gia  tăng  tính theo  giá  thế  giới  rồi 

P i : Giá nhập khẩu của một đơn vị sản phẩm i (tính theo giá nội địa) 

chia cho giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. ERP Là chỉ tiêu phản ảnh mức độ bảo hộ 

Hệ số DRC>1 có nghĩa là phải tốn hơn 1 đồng chi phí nguồn lực trong nước để tạo 

trong nước đối với hàng hóa chủ lực hoặc nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng hóa chủ lực 
thông qua thuế quan. 

ra 1 đồng giá trị gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả. [10], [43], [46] 
v  Nhóm tiêu chí định tính: 


35 

Là các tiêu chí khó lượng hóa mà chỉ có thể dễ dàng thu thập thông tin thông qua 
các phương pháp định tính như phỏng vấn, khảo sát.... 
Nhóm này có 5 tiêu chí gồm: 


36 

định mức độ đạt được của các tiêu chí trên. Do vậy, bên cạnh hệ thống các tiêu chí xác 
định  sản phẩm  chủ  lực, phải xây  dựng  khung  thang điểm với  điểm chuẩn tối  đa  cho hệ 
thống tiêu chí cũng như từng tiêu chí cụ thể. 
+ Về điểm chuẩn tối đa. Đây là biểu thị mức độ đạt được của hệ thống các tiêu chí; 

(1) Qui mô thị trường 

là cơ sở để đưa ra quyết định việc có công nhận một sản phẩm nào đó là sản phẩm chủ lực 

Chỉ tiêu này cho biết qui mô thị trường tiêu thụ hàng hóa chủ lực rộng hay hẹp, nội 

hay không (xét về mặt định lượng). Điểm chuẩn tối đa của hệ thống có thể là 10, 20, 50 

địa hay quốc tế. Qui mô thị trường, đặc biệt thị trường quốc tế càng rộng lớn, nói lên khả 

hoặc 100, tùy vào quyết định chủ quan của người xây dựng. Tuy nhiên, để đảm bảo việc 

năng phát triển ổn định và bền vững của hàng hóa chủ lực trong tương lai lâu dài. 

đánh giá chính xác đến mức phần trăm (1/100), cần chọn theo thang điểm ‘bách phân’, tối 

(2) Ngành công nghiệp hoặc dịch vụ phụ trợ 

đa là 100 điểm (thực tế nhiều địa phương trong nước đã làm). 

Chỉ tiêu này phản ảnh bối cảnh tác động từ bên ngoài có thuận lợi hay không đối 

+ Về điểm chuẩn tối đa cho từng tiêu chí. Đây là biểu thị mức độ đạt được của một 


với  quá  trình  sản  xuất  và  cung  ứng hàng hóa  chủ  lực.  Ngành công nghiệp  hoặc dịch  vụ 

tiêu chí cụ thể; là cơ sở xem xét mức độ đạt được về mặt định lượng của một yếu tố nào 

phụ trợ càng đa dạng và phát triển thì hàng hóa chủ lực càng có điều kiện phát triển tốt. 

đó. Do mỗi tiêu chí có mức độ quan trọng khác nhau nên khi xây dựng thang điểm chuẩn 

(3) Mức độ lan tỏa đến các lĩnh vực, ngành nghề khác 

cho mỗi tiêu chí, cần tiến hành theo phương pháp chuyên gia thông qua phỏng vấn bằng 

Chỉ  tiêu này lại  cho biết  sự  phát  triển  của hàng  hóa  chủ  lực  sẽ  có  lợi  cho  những 

bảng câu hỏi để thu thập thông tin, xử lý và tìm ra trọng số cho mỗi tiêu chí. 

ngành nghề nào trong nền kinh tế. Mức độ lan tỏa càng lớn chứng tỏ vai trò của hàng hóa 

Nếu gọi i (i=1,2,3,4,5...n), là các phương án trả lời cho mỗi câu hỏi trong thang đo 

chủ  lực  càng  quan  trọng  bởi  sự  tồn  tại  và phát  triển  của  hàng  hóa  chủ  lực đã  góp  phần 

và cũng là trọng số của phương án lựa chọn; tỷ lệ người chọn trả lời phương án là r (r=% 

quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế trong vùng. 

của số người tham gia trả lời); vậy, trọng số của một tiêu chí cụ thể nào đó chính là ∑ir. 

(4) An toàn và thân thiện với môi trường 


Từ đó, nếu gọi t là tiêu chí thứ t (với t = 1,2,3,4,5...m) thì tổng trọng số của cả hệ thống 

Sản xuất gắn với môi trường đang được xem là “vũ khí” tăng sức cạnh tranh của 

các tiêu chi được biết là ∑∑ir. Bây giờ gọi P là tổng điểm chuẩn tối đa của hệ thống và P t 

doanh  nghiệp  trên  thương  trường.  Một ngành  sản  xuất  không phá hủy  cân  bằng hệ  sinh 

là điểm chuẩn tối đa của tiêu chí. Vậy, điểm chuẩn tối đa của một tiêu chí được tính bằng 

thái,  không  ô  nhiễm  môi  trường  tự  nhiên,  không  ảnh  hưởng  đến  sức  khỏe  cộng 

công thứcsau:

đồng…được xã hội thừa nhận, pháp luật bảo vệ. Đây chính là điều kiện gần như tiên quyết 
để phát triển hàng hóa chủ lực một cách bền vững. 
(5) Chính sách ưu đãi của Nhà nước 
Nội dung bao gồm ưu đãi trong sử dụng đất đai, vay vốn, thuế suất, đầu tư,…Một 
ngành  sản  xuất  nếu  được  nhiều  chính  sách  ưu  đãi  sẽ  có  nhiều  thuận  lợi  hơn  cho  cạnh 
tranh, tổ chức đầu tư, sản xuất cũng như cung ứng sản phẩm ra thị trường. [2], [8], [16]. 



å ir 
P t  =  P .  mi =1 n 

(1.11)

åå ir 

t =1  i =1 

1.2.2. Qui trình xác định sản phẩm chủ lực 

1.2.1.5 Xây dựng khung thang điểm và xác định điểm chuẩn tối đa cho tiêu chí 

Như phân tích ở phần trên, đánh giá và xét chọn sản phẩm chủ lực là một việc làm 

Xây dựng hệ thống các tiêu chí để xác định sản phẩm chủ lực là việc làm cần thiết, 

cực  kỳ  trọng đối  với mỗi địa phương, doanh nghiệp.  Nó  góp  phần nâng  cao  vị  thế  cạnh 

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là cơ sở để xem xét các yếu tố lợi thế cạnh tranh, tiềm 

tranh và bảo đảm sự tồn tại, phát triển một cách bền vững của mỗi địa phương cũng như 

năng, nguồn lực cũng như các yếu tố liên quan đến điều kiện và môi trường kinh doanh 

doanh  nghiệp.  Chính  vì  vậy  mà  việc  đánh  giá,  lựa  chọn  sản  phẩm  chủ  lực  đòi  hỏi phải 

khác. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ, vì chưa có cơ sở định lượng để xác

được tiến hành một cách nghiêm túc, khách quan và khoa học. 


37 

38 

Qua nghiên cứu qui trình đánh giá, xét chọn sản phẩm của các địa phương tác giả 

nhận thấy, để đảm bảo được yêu cầu này, ĐBSCL cần thực hiện theo qui trình với 4  giai 
đoạn với các nội dung công việc chủ yếu như sau: 

+ Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực cho toàn vùng. Bộ tiêu 
chí này phải đảm bảo các yêu cầu chủ yếu như:
·  Bảo đảm tính định tính và định lượng. Cần ưu tiên xem xét các tiêu chí định 

Hình 1.4 Qui trình đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực 

lượng kết hợp cân nhắc một số tiêu chí định tính cần thiết.
·  Bảo đảm cả điều kiện cần và điều kiện đủ. Tức Bộ tiêu chí phải vừa thể hiện 

GIAI ĐOẠN 
CHUẨN BỊ 

rõ khả năng đáp ứng các yêu cầu của thị trường, đồng thời chỉ ra được những bức xúc, đòi 
hỏi mà xã hội, địa phương cần hỗ trợ. 

GIAI ĐOẠN THÔNG TIN 
VÀ TIẾP NHẬN ĐĂNG KÝ 

Để bảo đảm khách quan, khoa học, thiết nghĩ công việc này cần giao cho các nhà 
nghiên  cứu  và  chuyên  môn  trong  từng  lĩnh  vực  như  sản  xuất,  kinh  doanh,  xuất  nhập 

Đủ chuẩn 

Không đủ chuẩn 
GIAI ĐOẠN 
ĐÁNH GIÁ 


Thiếu chuẩn 

khẩu…phối hợp thực hiện. 
+ Xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của vùng. Một sản 

Không đủ chuẩn 

LOẠI 
BỎ 

phẩm  có thể chưa trở thành chủ lực của vùng do còn thiếu các điều kiện hỗ trợ cần thiết 
như đầu tư, xây dựng và quảng bá thương hiệu…Do đó, các địa phương cần thống nhất 
xây dựng chính sách ưu tiên, hỗ trợ chung để sản phẩm đó trở thành chủ lực của vùng. 

HOÀN THIỆN 

Để đảm bảo tính hiệu lực khi thực thi, việc hoạch định chính sách phải được các cơ 
Đủ chuẩn 
GIAI ĐOẠN CÔNG 
NHẬN TÔN VINH

quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực tài chính, kế hoạch đầu tư, quản lý nhà nước 
về sản xuất kinh doanh phối hợp với bộ phận chỉ đạo chung xây dựng. 
+ Thiết kế các thủ tục đăng ký, mẫu biểu giấy tờ cần thiết. Cần hoàn thiện các qui 

Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng 
1) Giai đoạn chuẩn bị 
Trong giai đoạn này, các địa phương thực hiện bước 1 của qui trình với công việc 
chủ yếu là chuẩn bị về thủ tục mang tính pháp lý trên cơ sở phân tích điều kiện thực tế của 
vùng cũng như của từng địa phương như: 

+ Thành lập cơ quan chỉ đạo chung về đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản 
phẩm chủ lực của toàn vùng. Để đảm bảo sự chỉ đạo một cách nhất quán, tránh việc mỗi 
địa phương chỉ đạo thực hiện theo cách riêng vì lợi ích mang tính cục bộ, cần hình thành 
một bộ phận chỉ đạo có tính độc lập. Bộ phận này có nhiệm vụ thống nhất về mặt hoạch 
định chính sách, qui trình, thủ tục pháp lý, chỉ đạo và giám sát việc thực hiện đối với từng 
địa phương. Ngoài ra, bộ phận này phải được các địa phương thừa nhận về pháp nhân và 
đặt dưới sự quản lý chung của Ban chỉ đạo Tây Nam bộ. 

định, hướng dẫn, mẫu biểu giấy tờ cần thiết…để làm cơ sở pháp lý và tạo ra tính thống 
nhất trong chỉ đạo cũng như quản lý hành chính trong quá trình thực hiện. 
Về thẩm quyền, các thủ tục này do bộ phận chỉ đạo chung soạn thảo và được các 
địa phương phê duyệt. 
2) Giai đoạn thông tin và tiếp nhận đăng ký 
Đây là bước 2 của qui trình xác định với 2 công việc chủ yếu sau: 
+  Công  bố  Chương  trình hỗ  trợ  phát  triển  sản  phẩm chủ  lực  của  vùng.  Cơ  quan 
truyền thông của bộ phận chỉ đạo chung thông tin toàn bộ nội dung chương trình, chính 
sách hỗ trợ, các qui định, hướng dẫn đăng ký tham gia và Bộ tiêu chí đánh giá, xét chọn 
sản  phẩm  chủ  lực  cho  tất  các  doanh  nghiệp,  người  sản  xuất  được  biết  thông  qua  các 
phương tiện truyền thông phù hợp. 
+ Tiếp nhận đăng ký và sàng lọc đối tượng tham gia chương trình. Nhằm bảo đảm 
tính khả thi và tập trung, tránh dàn trải, bộ phận chỉ đạo tiếp nhận đăng ký của các doanh 
nghiệp và tiến hành sàng lọc với 2 nội dung sau:


39

·  Sàng lọc sản phẩm  có triển vọng. Căn cứ Phiếu đăng ký của doanh nghiệp 

40 


4) Giai đoạn công nhận và tôn vinh sản phẩm chủ lực 

tham  gia  Chương  trình,  bộ  phận  chỉ  đạo  có  trách  nhiệm  tổng  hợp,  phân  loại  theo  từng 

Với bước cuối cúng này, Ban  chỉ đạo căn cứ đề nghị của Hội đồng chuyên ngành 

nhóm ngành kinh tế ­ kỹ thuật và lên kế hoạch kiểm tra, khảo sát thực tế tại doanh nghiệp, 

sẽ,  xem  xét  ra  quyết  nghị  công  nhận  sản phẩm  chủ  lực  của  vùng.  Quyết  nghị  này phải 

sau đó lên “Danh sách sản phẩm có triển vọng” để tiếp tục xem xét, hỗ trợ.

được UBND các địa phương phê duyệt và thông qua. Đây là căn cứ pháp lý để các doanh 

·  Sàng lọc doanh nghiệp có năng lực. Cũng trên cơ sở Phiếu đăng ký tham gia 

nghiệp và nhà sản xuất hưởng hỗ trợ theo các cơ chế đặc thù của địa phương mình. Bên 

của các doanh nghiệp, đồng thời căn cứ vào các điều kiện qui định ban đầu để tiến hành 

cạnh đó, các sản phẩm chủ lực còn được tôn vinh và công bố, giới thiệu rộng rãi trên các 

sàng lọc, chọn ra các doanh nghiệp có năng lực tham gia chương trình 

phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương cũng như địa phương [2], [8], [16], [17].. 

Danh  sách  các  doanh  nghiệp  có  năng  lực  và  Danh  mục  sản  phẩm  có  triển  vọng 
tham gia chương trình nhất thiết phải được các địa phương thông qua và phê duyệt. 
3) Giai đoạn tổ chức đánh giá, xét chọn 


1.3. Kinh nghiệm phát triển sản phẩm chủ lực của một vài quốc gia trong 
khu vực Đông Nam Á 
Nhiều  quốc  gia trên  thế  giới,  đặc  biệt  là  các  nước  Đông  Nam  Á  có  nét  tương 

Giai đoạn này, các Hội đồng chuyên ngành  (do bộ phận chỉ đạo chung thành lập) 

đồng  về  nhiều  mặt  như  vùng  kinh  tế  ĐBSCL  của  Việt  Nam,  đã  rất  khó  khăn  trong 

căn cứ vào hệ thống tiêu chí (cả định tính lẫn định lượng), thang bảng điểm đã được phê 

phát triển kinh tế vào đầu nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, gần đây đã phát triển vượt 

duyệt để tổ chức đánh giá, xét chọn đối với các sản phẩm có triển vọng được bộ phận chỉ 

bậc nhờ vào lựa chọn và phát triển sản phẩm/ngành sản phẩm phù hợp theo mô hình 

đạo chung lựa chọn và các địa phương thông qua. Việc đánh giá, xét chọn ở giai đoạn này 

cụm phát triển của M. Porter. Xin dẫn chứng 3 trường hợp điễn hình nhất như sau: 

có thể dẫn đến 3 tình huống với 3 phương án giải quyết và thực hiện theo 2 bước sau: 
­ Bước 3. Đánh giá sản phẩm chủ lực trên 2 nhóm tiêu chí định lượng và định tính: 

1.3.1 Kinh nghiệm của Indonesia 
Chính phủ Indonesia cho rằng, với một đất nước mà kinh tế nông nghiệp còn giữ 

Phương án 1: Sản phẩm đạt tổng điểm chuẩn theo quy định thì được chuyển thẳng 

vai trò chủ lực, nông dân và nông thôn vẫn còn là địa bàn quan trọng thì nhiệm vụ trước 


sang  giai đoạn  4  (Bước 5.  công nhận  và  tôn vinh  sản phẩm  chủ  lực  của  vùng  và đầu  tư 

hết là phải có những chính sách tác động mạnh mẽ vào công nghiệp chế biến nông, lâm 

phát triển bền vững). 

sản. Chính phủ cũng đã tiến hành cải tổ lại khu vực kinh tế đồn điền nhằm mục đích tư 

Phương án 2: Sản phẩm chủ lực không đạt yêu cầu theo điểm chuẩn quy định  (cả 
điều kiện cần và điều kiện đủ) thì bị loại ra khỏi Danh sách các sản phẩm có triển vọng. 

nhân hóa một bộ phận quan trọng đồn điền của Nhà nước, thu hút đầu tư của tư bản nước 
ngoài để mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất 

Phương án 3: Sản phẩm chưa đủ điểm chuẩn theo qui định nhưng đã đảm bảo được 

khẩu… Chính phủ khuyến khích tư bản tư nhân trong nước tham gia kinh doanh đồn điền 

các điều kiện cần thì chuyển sang bước 4 (đầu tư hỗ trợ để bổ sung điều kiện đủ), sau đó 

trên  cơ  sở  Nhà  nước  cho  vay  vốn  với  lãi  suất  thấp,  miễn  giảm  thuế  kinh  doanh  và  cho 

sẽ xem xét đánh giá lại để quyết định chuyển sang giai đoạn 4 để công nhận, tôn vinh hoặc 

phép  phối  hợp  với  Nhà  nước  để  thực  hiện  hợp  đồng  xuất  khẩu.  Từ  năm  1968, khuyến 

loại bỏ ra khỏi Danh sách sản phẩm có triển vọng. 

nông  được Indonesia  xác  định  là  nhiệm  vụ quan  trọng  hàng  đầu. Trong  đó,  việc  cung 


­ Bước 4.  Hỗ trợ để để bổ sung hoàn thiện sản phẩm chủ lực. 

cấp lúa gạo, ổn định lương thực được xem như là mục tiêu chính  của kế hoạch phát triển. 

Đây là bước có tính chất “dự bị” đối với những sản phẩm còn non điểm ở một vài 

Nhờ chính sách khuyến khích sản xuất nông sản và cải tạo hệ thống lưu thông nông sản 

tiêu chí đủ nào đó so với chuẩn  qui định. Trong bước này các địa phương cần tập trung 

như vậy mà công nghiệp chế biến của Indonesia đã có những bước tiến căn bản. Là nước 

đầu tư hỗ trợ về mặt tài chính, công nghệ, quảng bá, tiếp thị…để các nhà sản xuất nâng 

nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới, Indonesia bắt đầu tự túc được lương thực từ năm 1981. 

dần chất lượng và thương hiệu đối với sản phẩm. Sau một thời gian, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ 

Các  loại  cây  công  nghiệp  được  chú  trọng  phát  triển  để  tiêu  thụ  trong  nước  và  tham  gia 

được xem xét công nhận sản phẩm chủ lực của vùng (chuyển sang bước 5), ngược lại sẽ bị 

xuất khẩu trên thị trường như: cà phê, ca cao, cao su, hồ tiêu hạt trắng và hồ tiêu hạt đen.

loại ra khỏi Danh sách sản phẩm có triển vọng.


41 

42 


Trong thời kỳ 1985­1996, Indonesia tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu dầu cọ, cao 

chức thành  các đồn rộng lớn.  Ngay  từ  thập kỷ  60,  Philippines  đã  tiến hành  cuộc  cách 

su, sắn, hoa, trái cây, cơm dừa và dầu dừa, gỗ. 

mạng  xanh  nhằm  tăng  năng  suất  cây  trồng  bằng  cách  áp  dụng  tiến  bộ  khoa  học  kỹ 

Những năm cuối thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nền kinh 

thuật  như  lai  tạo  ra  các  giống  lúa  cao  sản,  phân  bón  hóa  học,  thuốc  trừ  sâu  và  xây 

tế  Indonesia  bị  thiệt  hại  nặng  nề.  Tình  hình  chính  trị  bất  ổn  và  hạn  hán  xảy  ra  nghiêm 

dựng hệ thống thủy nông.  Đã từ lâu,  Philippines là quê hương của  giống lúa cao sản 

trọng đã  làm  cho  nông nghiệp nước này  không phát  triển được.  Sau  khi  Chính  phủ mới 

tại  châu  Á;  ở  đây  có  Viện  Nghiên  cứu  Lúa  Quốc  tế  (IRRI)  và  là  nước  đi  đầu  trong 

được thành lập (6/1999) kinh tế Indonesia nói chung và nông nghiệp nói riêng đã có dấu 

việc  áp dụng những giống lúa do IRRI tạo ra. Sản xuất lúa, dừa, mía là những ngành 

hiệu phục hồi: chiến lược phát triển nông nghiệp mới của Indonesia thể hiện một cuộc cải 

nghề  có  qui  mô  lớn  và  mang  tính  truyền  thống.  Trung  tâm  sản  xuất  lương  thực  của 

tổ sâu sắc, đặc biệt là trong lĩnh vực lưu thông nông sản như: xóa bỏ độc quyền của Bulog 


Philippines  là  vùng  Mindacao,  chiếm  34%  diện  tích  Philippines,  đóng  góp  34%  cho 

trong nhập khẩu lúa mì, bột mì, đậu tương, tỏi và gạo; cắt giảm thuế quan với tất cả các 

sản  xuất  nông  ngư  nghiệp  của  Philippines,  Chính  phủ  đầu  tư  1/3  ngân  sách  nông 

hàng  thực phẩm xuống mức  cao nhất  là 5%; cho  tự do buôn bán  giữa  các vùng,  loại bỏ 

nghiệp xây dựng vùng này thành vùng sản xuất chuyên canh lúa. Ngành sản xuất dừa 

những cản trở đối với việc buôn bán và vận chuyển một số hàng hóa, giảm các cản trở phi 

là ngành  chính  trong  nền  kinh  tế  Philippines,  đặc  biệt  trong  việc  thu ngoại  tệ  và  tạo 

thuế quan đối với thị trường nông sản, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh nhỏ có cơ hội 

công ăn việc làm. Khoảng 90% lượng dừa của nước này được chế biến thành cùi dừa 

tăng thu nhập; mở rộng tự do buôn bán thực phẩm, chuyển dần từ cơ chế hành chính sang 

khô. Trong đó, 5% lượng cùi dừa khô là để xuất khẩu, 95% chế biến thành dầu ăn và 

các công cụ tài chính, thị trường để quản lý lương thực và ổn định giá; đảm bảo giá sàn 

dầu  công  nghiệp  khác.  Mía  đường  được  trồng  trên  những  đồn  điền  lớn,  đường 

theo mức thích hợp  cho  từng  vùng để hỗ  trợ nông dân,  thay  cho  việc bảo hộ người  tiêu 

Philippines được nhập theo quota ưu đãi vào thị trường Mỹ. 


dùng trước đây. Trong vụ thu hoạch  khi giá xuống quá thấp Chính phủ sẽ mua vào bằng 

Vì  là  một  nước  nông  nghiệp,  nên  Philippines  đã  chọn  phát  triển  ngành  công 

giá sàn để hỗ trợ cho nông dân; loại bỏ độc quyền phân phối phân bón và các vật tư thiết 

nghiệp  chế  biến  nông  sản.  Chính phủ  Philippines  đề  ra  ba  mục  tiêu  của  ngành công 

bị nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã ­ chuyển đổi hệ thống hợp tác xã 

nghiệp  chế  biến  nông  sản  là  bảo  đảm  xuất  khẩu các  mặt  hàng  truyền  thống,  tìm  các 

thành các tổ chức kinh doanh hiện đại, hoạt động trên nguyên tắc cạnh tranh; Tăng cường 

nguồn  hàng  nông  nghiệp  mới  để  xuất  khẩu  và  tự  sản  xuất  để  thay  thế  nhập  khẩu. 

cho vay tín dụng đối với nông dân từ 1,4 triệu Rupi/ha lên hai triệu Rupi/ha, tổng lượng 

Philippines  quyết  định  thay  đổi  chính  sách  nông  nghiệp  từ  bảo  trợ  sang  tăng  cường 

tín  dụng  cho  vay  tăng  từ  1,9  nghìn  tỷ  lên  3,4  nghìn  tỷ;  đẩy  mạnh  công  tác  nghiên  cứu 

cạnh tranh. Một loạt các chính sách phát triển nông nghiệp ra đời như: 

giống, chấm dứt sự độc quyền của các công ty giống quốc doanh, khuyến khích các thành 

­ Luật “hiện đại hóa nông, ngư nghiệp" (AFMA­1998),  cung cấp các chính sách 

phần  kinh  tế  tham  gia  thị  trường  này;  nâng  cao  hiệu  quả  của  công  tác  quản  lý  thủy  lợi 


cơ bản  cùng  với các biện pháp để hiện đại hóa nông nghiệp và thủy sản. Luật này nhằm 

nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất trong nông nghiệp – nguyên liệu đầu vào của công 

mục đích: (1) thực hiện các biện pháp  theo tầm quan trọng của nông nghiệp và thủy sản 

nghiệp chế biến nông, lâm sản [45]. 

(2) đảm bảo sự lãnh đạo mạnh mẽ của Bộ Nông nghiệp và (3) nâng cấp ngắn hạn và dài 

1.3.2 Kinh nghiệm của Philippines 

hạn khả năng hành chính của Bộ Nông nghiệp và các tổ chức liên quan. 

Philippines  là một trong  số  các  quốc  gia có lợi  thế  hơn  trong công  nghiệp  hóa  so 

­ Dự án GMA là một kế hoạch trung hạn của Philippines  (1999­2001) nhằm thực 

với các quốc gia châu Á láng giềng khác. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ 

hiện  AFMA­1998.  Theo kế  hoạch  này,  dự  án  lúa  bao  gồm:  (1)  thực hiện  an  ninh lương 

trọng lớn trong GDP và là ngành kinh tế quan trọng, luôn đảm bảo sự ổn định cho kinh tế 

thực quốc gia, (2) xóa đói giảm nghèo ở các làng nông nghiệp, (3) tăng thu nhập cho nông 

xã  hội của  Philippines. Phần  lớn  sản  xuất nông nghiệp là  các  loại  cây  trồng cho tiêu  thụ 

dân, (4) thực hiện nông nghiệp bền vững, và (5) nâng cấp khả năng của nông dân. 


trong nước như gạo và ngô, và cây  trồng để xuất khẩu như dừa, mía và  chuối. Trước đây, 

­ Chương trình nghị sự của Bộ nông nghiệp (2001) bao gồm 11 mục: (1) thúc đẩy 

sản xuất nông nghiệp thường được tiến hành theo quy mô nhỏ, nhưng hiện nay nó được tổ

việc thực hiện các quy định chủ yếu của đạo luật Hiện đại hóa nông nghiệp thủy sản năm


43 

44 

1997,  (2)  tăng  cường  các  biện pháp  chống  buôn  lậu  và  cải  thiện môi  trường đầu  tư,  (3) 

chức nông dân và thiết lập mạng lưới phát triển nông nghiệp thích nghi với kiến thức 

triệt để triển khai thực hiện Luật Thuỷ sản, (4) sắp xếp các cơ sở hạ tầng, bao gồm cả các 

và  văn  hóa  truyền  thống  của  địa phương;  (4)  Cải  thiện  hệ  thống quản  lý  trong nông 

cơ  sở  thủy  lợi  và  đường  giao  thông,  (5)  thiết  lập  một hệ  thống  tài  trợ  cho  nông  dân  và 

nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản và sử dụng tài nguyên theo cách bền vững. Để đạt các 

những người tương tự, (6) thảo luận về tài nguyên nước trong nông nghiệp, (7) xem xét 

mục tiêu  này, đầu năm 2002 Chính phủ Thái Lan đã dành ra 124 tỷ Bath (3 tỷ USD) 


các dự án GMA, (8) xem xét ưu đãi trong thúc đẩy phát triển kinh doanh và tài chính, (9) 

để  cải  thiện  toàn  diện  nông  nghiệp  trong  2  năm  (2002  ­  2004).  Trong  đó  chú  trọng 

xúc tiến phát triển ở Mindanao, (10) cung cấp hỗ trợ để tái lập các quỹ thuế dừa, và (11) 

nâng cao  chất lượng sản phẩm, phát triển loại giống tốt, mở rộng tưới tiêu, phát triển 

củng cố tổ chức của nông dân (ASEAN­JAPAN CB Project). 

công nghệ sinh học, phát triển các sản phẩm mới, đặc biệt khuyến khích và cho phép 

Có thể nói đây là một tổ hợp các chính sách liên quan đến sản xuất, nghiên cứu 
chuyển  giao  công  nghệ,  khuyến  nông,  phát  triển  kinh  tế  nông  thôn,  thương  mại,  tài 

nông  dân  tham  gia  trực  tiếp  vào  các  kế  hoạch  phát  triển  nông  nghiệp  và  nông  thôn. 
(ASEAN­JAPAN CB Project). 

chính  và  thị  trường  với  nhiều  chương  trình,  giải  pháp  cụ  thể  nhằm  tăng  cường  hiệu 

Về công nghiệp, Thái Lan  tập trung phát triển mạnh  công nghiệp chế biến với 

quả và năng lực cạnh tranh cho ngành nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc 

sự  phân bố đều khắp  ở  các  địa phương.  Công  nghiệp chế  biến  lúa  gạo  của Thái  Lan 

gia và tăng trưởng xuất khẩu cho Philippines [54] 

bao gồm hàng chục ngàn cơ sở xay xát lớn, vừa và nhỏ cộng với hệ thống kho chứa 


1.3.3 Kinh nghiệm của Thái Lan 

gạo,  kho  dự  trữ,  các  xí  nghiệp  sản  xuất  bao  bì  đóng  gói  ở  khắp  các  thị  trấn,  thành 

Thái Lan là một nước nông nghiệp rất đặc trưng ở Đông Nam Á. Có thể nói, từ 

phố,  bến  cảng.  Mặt  hàng  gạo  sấy  của  Thái  Lan  đang  "một  mình,  một  chợ"  và  Thái 

thời cổ đại, cơ sở của nền kinh tế Thái Lan là nông nghiệp và đang phát triển với nền 

Lan  đang  đẩy  mạnh  sản  xuất  mặt  hàng  này  lên  tới  30%  khối  lượng  gạo  xuất  khẩu. 

tảng là nông nghiệp. Từ cuối những năm 1980, cả Thái Lan đã được công nghiệp  hóa 

Công nghiệp mía đường, công nghiệp chế biến sắn của Thái Lan cũng khá phát triển 

một cách nhanh chóng thể hiện ở giáo dục chất lượng cao và sự thịnh vượng của Thái 

với sản lượng khoảng gần 4 triệu tấn sắn khô/năm. Đặc biệt, công nghệ chế biến trái 

Lan.  Chuyển  dịch  cơ  cấu  kinh tế  theo  hướng  giảm  dần  tỷ  trọng  GDP  cũng  như  xuất 

cây  và  rau  xuất  khẩu của  Thái  Lan  phát  triển  khá  nhanh  với  rất  nhiều chủng  loại  từ 

khẩu trong nông nghiệp.  Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là một trong những ngành  kinh 

dứa,  xoài, dừa,  chuối, bưởi, măng cụt,  rau  thơm  và  đặc biệt  là  đồ  gia  vị...  Hiện  nay, 

tế chủ lực làm nền tảng cho phát triển kinh tế của quốc gia này. Sản xuất nông nghiệp 


Thái  Lan  là  một  trong những  nước  đứng đầu  thế  giới  về  xuất  khẩu  rau quả chế  biến 

được phân bổ tập trung theo cụm ở rải rác khắp nơi trên lãnh thổ như:  vải thiều, dâu 

sang thị trường các nước Mỹ, Nhật, EU. Trồng và chế biến cao su cũng là ngành kinh 

tây và  các loại trái  cây khác  tập trung ở Bắc Thái  Lan; lúa  gạo,  mía, sắn được trồng 

tế có giá trị cao ở Thái Lan. Nhằm khuyến khích nông dân chế biến tập trung để nâng 

nhiều  ở khu vực Đông Bắc;  khu vực Miền  Trung Thái Lan nổi tiếng về lúa gạo xuất 

cao  chất  lượng  sản  phẩm  và  giảm  chi  phí  sản  xuất,  tăng  sức  cạnh  tranh,  Chính  phủ 

khẩu, nơi  đây  được  mệnh danh  là  “Nồi  cơm  của  Châu  Á”.  Tương  tự,  vùng  quê  phía 

Thái Lan hỗ trợ cho nông dân sơ chế 100% mủ cao su trên cơ sở các hộ có nhu cầu sơ 

Nam Thái Lan là nơi tập trung của các đồn điền cao su và dừa. 

chế phải tự nguyện liên kết lại trong các tổ chức tự quản như tập đoàn, hợp tác xã,... 

Về  chính  sách  phát  triển  nông  nghiệp,  bắt  đầu  từ  năm  1961,  Chính  phủ  Thái 

và  đăng  ký  với  Quỹ  hỗ  trợ  trồng  lại  cao  su  (ORRAF)  để  được  xem  xét  đầu  tư  nhà 

Lan thiết lập các định hướng chính sách cho Bộ Nông nghiệp và các Tổ chức hợp tác 

máy chế biến có qui mô, công suất thích hợp (nhà máy do ORRAF đầu tư 100% vốn 


trong nông nghiệp theo từng thời kỳ 5 năm. Theo khuôn khổ này, các chính sách khác 

và giao cho tập đoàn hoặc hợp tác xã tự quản lý). Hiện nay,  Thái Lan là quốc gia có 

nhau  ở các cấp được triển khai thực hiện. Điển hình là trong Kế hoạch lần thứ 9 phát 

nền công nghiệp chế biến cao su đạt trình độ cao và một trong những nước xuất khẩu 

triển nông nghiệp Thái Lan (2002 – 2006) đưa ra 4 mục tiêu chủ yếu là: (1) nâng cao 

cao su hàng đầu thế giới. 

năng  lực  cạnh  tranh  của hàng hóa nông  nghiệp,  lâm  nghiệp  và thủy sản;  (2)  ổn  định 

Tuy nhiên, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong xu thế toàn cầu 

nền kinh tế xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nông dân; (3) Tăng cường tổ

hóa,  tự  do  hóa  thương  mại,  nông  nghiệp  Thái  Lan  cũng  phải  đối  mặt  với  nhiều  khó


45 

46 

khăn: chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp diễn ra chậm, năng suất thấp, chi phí sản xuất 

ra bài học kinh nghiệm từ sự thành công của một số quốc gia trong khu vực qua các 

cao,  giá  nhân  công  tăng;  cơ  sở  hạ  tầng  và  trang  thiết  bị  sản  xuất  kém, nhất  là  vùng 


nghiên cứu trên đây như sau: 

phía  Bắc  và  Đông  Bắc;  các  nguồn  tài  nguyên  thiên  nhiên  bị  khai  thác  kém  hiệu 
quả...Để khắc phục tình trạng này, Bộ Nông nghiệp Thái Lan đã đưa ra chương trình 

Một là,  xác  định đúng  ngành,  sản phẩm  chủ  lực  lấy  đó  làm  điểm  khởi  đầu  để 
tiến hành qui hoạch, xác lập chính sách hỗ trợ đúng trọng tâm, trọng điểm. 

đầu tư theo chiều sâu để tăng cường khả năng cạnh tranh các mặt hàng chủ lực và đề 

Hai  là,  phối  hợp  đồng  bộ  các  chính  sách  và  các  giải  pháp  trong  từng  thời  kỳ 

ra các giải pháp thích hợp cho mỗi nhóm hàng xuyên suốt từ sản xuất, chế biến, tiêu 

nhất định, đặc biệt đối với các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản, bước 

thụ; chú trọng vào công tác nghiên cứu khoa học, tăng cường đầu tư cho thủy  lợi và 

đầu  phải  có  chính  sách  bảo hộ  và  chương trình hỗ  trợ  đặc biệt  như  chương  trình  trợ 

khoa học kỹ thuật. Chính phủ trợ cấp trực tiếp cho hoạt động sản xuất và tiếp thị của 

giúp  nghiên  cứu,  ứng  dụng  khoa  học  công  nghệ,  vốn  đầu  tư...  để  tạo  dựng  thương 

nông dân thông qua quỹ "Hỗ trợ chính sách cho nông dân", giảm thuế xuất khẩu nông 

hiệu sản phẩm hoặc ngành hàng xuất khẩu chủ lực. 

sản và nguyên liệu. 

Để  giúp  ngành  công  nghiệp  chế  biến  cạnh  tranh  trên  thị  trường quốc  tế,  Thái 
Lan định hướng mạnh mẽ vào việc tăng chất lượng nông sản phẩm. Các nhà đầu tư đã 
chấp  nhận  áp  dụng  hệ  thống  tiêu  chuẩn  chất  lượng  "Hệ  thống  quản  lý  môi  trường" 
(EMS) cho các sản phẩm chế biến. Cố gắng này giúp sản phẩm của Thái Lan đạt tiêu 

Bốn là, chú trọng phát huy các lợi thế so sánh  hiện có  để thực hiện chiến lược 
phát triển  sản phẩm  chủ lực, tạo vùng và qui hoạch đầu tư đồng bộ cho các vùng sản 
xuất chuyên canh tập trung sản xuất hàng hóa. 
Năm  là, chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng  sản xuất nông, lâm thủy sản. 
Đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. 

chuẩn quốc tế như ISO/14000 và vượt qua các rào cản về kỹ  thuật để vào thị trường 

Sáu là, tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh sản xuất ­ tiêu 

quốc  tế.  Nhờ  nổi  tiếng  về  chất  lượng,  nông  sản  chế  biến  của  Thái  Lan  đang  cạnh 

thụ  ­ xuất khẩu, phản ứng nhanh trước sự thay đổi nhu cầu và  thị hiếu của thị trường 

tranh  quyết  liệt  chiếm  dần  thị  phần  của  Indonesia  và  Malaysia.  Bên  cạnh  đó,  Chính 

về  hình  thức,  chất  lượng  của  hàng  hóa  nhằm  nâng  cao  lợi  thế  cạnh  tranh,  coi  trọng 

phủ  Thái  Lan  tập  trung  khai  thác  thị  trường  các  nước  đạo  Hồi  với  chủ  trương  xây 

chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường mới. 

dựng tỉnh Pattani (giáp biên giới  Malaysia) thành trung tâm sản xuất thực phẩm cho 

1.4. Kết luận chương 1 


đạo Hồi của thế giới. Chính phủ Thái Lan đã đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng, 

Sản phẩm chủ lực là những sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ chủ yếu giữ vị trí chủ 

khuyến  khích đầu  tư  bằng thuế,  tín dụng  ưu đãi,  giúp  các  nhà  đầu  tư  nghiên  cứu  thị 

đạo trong phát triển kinh tế của một địa phương, một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Đây là 

trường  Ai  Cập  và Nam  Phi,  thống  nhất  với  Indonesia  và  Malaysia  về  nhãn hiệu, qui 

những sản phẩm vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa mang ý nghĩa về mặt văn hóa, tâm 

tắc quản lý chất lượng thức ăn Hồi giáo của các nước ASEAN. Đến nay, 221 nhà máy 

linh  của  cộng  đồng  xã  hội.  Trong  môi  trường  kinh doanh với  tính  chất  cạnh  tranh ngày 

sản xuất sản phẩm này của Thái Lan đã đi vào hoạt động [52]. 

càng  khốc  liệt  như  hiện  nay,  sản  phẩm  chủ  lực  đã  trở  thành  nhân  tố  quyết  định  đến  sự 

1.3.4 Bài học rút ra cho Luận án 

thành công trong phát triển  kinh tế, xã hội của một địa phương, quốc  gia  hay vùng lãnh 

Cò thể nói,  nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong  việc xác định và  phát 

thổ. Vần đề đặt ra là, mỗi địa phương, quốc gia hay vùng kinh tế phải tìm ra những sản 

triển  các  sản  phẩm  nông nghiệp  cũng như  xây  dựng  các ngành  hàng  công nghiệp  bổ 


phẩm có đủ điều kiện trở thành sản phẩm chủ lực để tập trung đầu tư phát triển, tránh tình 

trợ như  chế biến nông sản, lâm  sản và thủy sản  đã cho thấy sự  cần thiết của việc xác 

trạng phân tán làm suy  yếu nguồn lực kinh tế dẫn đến suy giảm sức cạnh tranh của quốc 

định  đúng  đắn  ngành  hàng,  sản  phẩm  chủ  lực  trên  cơ  sở  tiềm  năng,  lợi  thế  của  mỗi 

gia. Muốn vậy, trước tiên cần có phương pháp phù hợp cho việc xác định sản phẩm chủ 

quốc gia để có  chính sách  hỗ trợ phù hợp từ phía chính phủ nhằm tạo ra những động 

lực với qui trình và tiêu chí đánh giá, xét chọn chính xác, đảm bảo tính khách quan, khoa 

lực và xung lực cho sự phát triển bền vững của ngành và sản phẩm chủ lực. Có thể rút

học, thể hiện đúng tiềm năng, lợi thế và đặc trưng văn hóa của mỗi địa phương, vùng kinh


47 

48 

tế. Vấn đề còn lại là chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của các ngành, các cấp 

đa số với hơn 90%, số còn lại là khme chiếm 6,4%, dân tộc Hoa, Chăm và dân tộc khác có 

và hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. 


khoảng 3,6%. Theo nhiều nhà nghiên cứu, ĐBSCL là vùng đất có nhiều tiềm năng và lợi 

Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, chương này đã hệ thống hoá lý luận về sản 

thế mang tính đặc thù rất thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội nói chung, sản phẩm chủ 

phẩm  chủ  lực,  với phát  triển  vùng địa phương  trong quá  trình  công nghiệp  hoá hiện đại 

lực nói riêng. Để làm rõ vấn đề này,  Luận án sẽ dựa theo mô hình kim cương của Michael 

hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh nghiên cứu phương pháp xác định sản phẩm chủ lực và 

E. Porter để phân tích những tiềm năng và lợi thế gần như có một không hai này. 

đưa ra các tiêu chí để đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực  trên địa bàn các  vùng và  địa 

2.1.1 Điều kiện về các yếu tố sản xuất để phát triển sản phẩm chủ lực 

phương,  luận án có sử dụng các mô hình lý thuyết về lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, lý 

2.1.1.1 Điều kiện về nguồn nhân lực 

luận về phát triển kinh tế địa phương để luận giải và xác định các nội dung cơ bản về phát 

Như đã nói ở phần trên, dân số ĐBSCL năm 2010hiện có 17,272 triệu người, chiếm 

triển cụm sản phẩm chủ lực cho vùng và địa phương. Ngoài ra, Luận án cũng nghiên cứu 

19,87% dân số cả nước và mật độ dân số là 426 người/km 2 , cao hơn trung bình chung cả 


kinh nghiệm trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản  của một số nước trong 

nước (263 người/km 2 ). Dân số nông thôn ĐBSCL có 13,272 triệu người (chiếm 76,84%), 

khối ASEAN có nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội để rút ra bài học cho 

cao hơn rất nhiều so với cả nước (69,83%). Số người trong độ tuổi lao động của toàn vùng 

Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng. 

có  khoảng  10,129  triệu  người,  chiếm  58,64%  dân  số,  trong  đó  số  lao  động  có  việc  làm 
chiếm tới 76,2%. 

Chương 2 

Bảng 2.1. Dân số và lao động ĐBSCL so với cả nước giai đoạn 2006 – 2010 
2008 

Đơn vị tính: 1000 người 
2009 
2010 

THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM 
CHỦ LỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI GIAN QUA 

Dân số và lao đông 

2006 

2007 

Cả nước 

Tổng dân số 

83.311,2 

84.218,5 

85.118,7 

86.025,0  86.927,7 

2.1. Tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL 

Dân số nông thôn 

60.265,4 

60.472,2 

60.445,6 

60.440,3  60.703,3 

ĐBSCL còn  được  gọi  là miền  Tây Nam  Bộ, có diện  tích  tự nhiên  khoảng 4  triệu 

DS từ 15 – 60 tuổi 

44.904,5 


47.160,3 

48.209,6 

49.322,0  50.392,9 

51,9 

53,7 

54,6 

Km 2  (chiếm 12% diện tích tự nhiên cả nước), là vùng đất trù phú nhất Việt Nam và cũng 

Lao động có việc làm 

là  một  trong  13  đồng  bằng  châu  thổ  lớn  hàng  đầu  thế  giới.  Nằm  trong  tiểu  vùng  sông 
Mekong, ĐBSCL có 3 mặt tiếp giáp biển; phía Đông Bắc giáp Thành phố Hồ Chí Minh và 

Tổng dân số 

vùng kinh tế trọng điểm  Đông Nam Bộ, Tây và Tây Nam giáp Campuchia và Vịnh Thái 

Dân số nông thôn 

Lan; Đông và Đông Nam giáp Biển Đông. Nếu đối chiếu khoảng cách sang các nước xung 

Dân số trong tuổi lao động 

quanh thì ĐBSCL chiếm vị trí trung tâm của Đông Nam Á, rất thuận lợi cho các hoạt động 


Tỷ lệ lao động có việc làm 
52,8 
54,8 
55,5 
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2010 

giao  thương,  vận  tải  bằng  đường  bộ,  đường  không  cũng  như  đường  biển  với  các  nước 

55,5 

56,4 

ĐBSCL 
16.946,9 
13.426,1 

17.042,0 
13.451,2 

17.129,5 
13.440,4 

17.199,9  17.272,2 
13.257,1  13.271,9 

9.354,8 

9.772,7 


9.895,2 

10.046,2  10.128,7 
56,2 

56,7 

trong khu vực. Địa giới hành chính của ĐBSCL được xác định bởi 12 tỉnh và 1 thành phố 

Theo  số  liệu  trong  bảng 2.1,  dân  số  ĐBSCL  đã  tăng  từ 16946,9  ngàn người năm 

thực thuộc Trung ương, gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà 

2006 lên 17272,2 ngàn người năm 2010, tăng 1,92% cả giai đoạn  (thấp hơn tốc độ trung 

Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và Tp. Cần Thơ. 

bình cả nước ­ tăng 4,34% cả giai đoạn). Trong đó, dân số nông thôn có chiều hướng giảm 

Theo  số  liệu  thống  kê  chính  thức  từ  Tổng  cục  thống  kê,  dân  số  ĐBSCL  năm  2010  có 

và người trong độ tuổi lao động có việc làm cũng tăng và luôn cao hơn trung bình chung 

khoảng 17,272 triệu người chiếm 19,87% dân số cả nước. Trong đó, người kinh chiếm đại

của cả nước (từ 52,8% năm 2006 lên 56,7% năm 2010). Tuy nhiên, lực lượng lao động đã


49 


50 

qua đào tạo chuyên môn còn rất thấp với tỷ lệ cao nhất năm 2010 là 7,9%, tăng hơn so với 

gồm đất than bùn (vùng rừng U Minh), đất xám trên phù sa cổ (cực Bắc của ĐBSCL) và 

2005 (7,2%). Trong khi đó tỷ lệ này của cả nước là 14,46% và 12,5%. Đứng đầu là ĐBSH 

đất đồi núi (phía Tây­Bắc ĐBSCL). 

với 20,7% năm 2010 so với 16,5% năm 2005. 

Nhìn chung, đất đai ở ĐBSCL rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và các loại 
cây trồng, đặc biệt trồng lúa là thế mạnh gần như tuyệt đối của vùng đất này. 

Bảng 2.2. Lao động đã qua đào tạo các vùng giai đoạn 2006 ­ 2010 
Vùng lãnh thổ 

2006 

2007 

2008 

2009 

2010 

Cả nước 


12,5 

13,6 

14,3 

14,8 

14,6 

Trung du và miền núi phía Bắc 

16,3 

17,8 

18,1 

20,9 

20,7 

Đồng bằng sông Hồng 

10,1 

11,0 

12,2 


13,2 

13,3 

Bắc Trung bộ và duyên hải MT 

11,0 

12,0 

13,1 

13,5 

12,7 

Tây Nguyên 

11,0 

12,0 

11,4 

10,9 

10,4 

Đông Nam bộ 


19,6 

21,4 

22,5 

19,6 

19,5 

7,2 

7,9 

7,8 

7,9 

7,9 

Đồng bằng sông Cửu Long 

Bảng 2.3. Diện tích lúa theo các vùng trên cả nước giai đoạn 2006 – 2010 

1.171,2 

TD & 
MNPB 
661,0 


Đơn vị tính: 1000 ha 
BTB& 
TN & 
DHMT 
ĐNB 
1.206,9 
511,8 

3.683,1 

1.158,1 

671,9 

1.188,7 

505,6 

3.858,9 

1.153,2 

658,8 

1.210,3 

519,0 

7.437,2 


3.870,0 

1.155,5 

670,4 

1221,0 

520,3 

7.513,7 

3.970,5 

1.150,1 

664,2 

1214,6 

514,3 

Năm 

Cả nước 

ĐBSCL 

ĐBSH 


2006 

7.324,8 

3.773,9 

2007 

7.207,4 

2008 

7.400,2 

2009 
2010 

Nguồn: Tổng cục thống kê 2010 

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê 

Như vậy, về dân số và lao động ĐBSCL có thế mạnh về các ngành nghề không đòi 

Qua số liệu thống kê các năm giai đoạn 2006 – 2010  cho thấy, đất trồng cây hàng 

hỏi chuyên môn kỹ thuật cao nên phù hợp với điều kiện sản xuất đơn giản, công nghệ sản 

năm  của  ĐBSCL  chiếm  trên  50%,  trong  đó  chủ  yếu  là  đất  trồng  lúa,  chiếm  trên  90% 

xuất thấp và thâm dụng lao động. 


(chiếm đến 52% của cả nước; gấp 3,3 lần đồng bằng sông Hồng và Bắc trung bộ ­ duyên 

2.1.1.2 Điều kiện về tài nguyên thiên nhiên 

hải Miền Trung). Đất chuyên canh các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày khoảng 

1) Tài nguyên đất 

150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000 ha, chiếm khoảng 8,2% diện tích tự nhiên 

Tổng diện tích ĐBSCL có khoảng 4,0 triệu ha, trong đó khoảng 2,60 triệu ha được 

của toàn vùng.. 

sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 65,6%; khoảng 0,5 triệu 

Bảng 2.4  Diện tích một số cây trồng quan trọng giai đoạn 2006 – 2010 

ha  đất  lâm  nghiệp,  trong  đó  đất  có  rừng  chiếm  khoảng  43%  và  tỷ  lệ  che  phủ  rừng  chỉ 
chiếm 5%. Ngoài ra, ĐBSCL còn có vùng bãi triều đứng đầu cả nước với diện tích khoảng 
480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn và nước 
lợ. Theo các nhà khoa học đất thì ĐBSCL có 4 nhóm đất chính: nhóm đất phù sa sông vời 

Loại cây trồng 
1. Cây ăn quả 
các loại 

khoảng  1,2  triệu  ha,  tập  trung  chủ  yếu  ở  vùng  trung  tâm  ĐBSCL;  nhóm  đất  phèn  với 
khoảng 1,6 triệu ha, bao gồm cả các loại đất phèn nhiễm mặn nặng và trung bình, trong đó 


2. Cây mía 

2007 

2008 

2009 

2010 

Cả nước (ha)  764.400 

Trong đó 

778.500 

775.500 

774.000 

776.300 

ĐBSCL (ha)  276.896 

281.675 

279.049 

255.348 


258.918 

Tỷ trọng (%) 

2006 

36,18 

35,98 

32,99 

33,35 

Cả nước (ha)  288.100 

36,22 

293.400 

270.700 

265.600 

266.300 

66.792 

64.032 


62.990 

61.843 

ĐBSCL (ha) 

69.496 

đất phèn tập trung tại Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và vùng trung tâm bán đảo 

Tỷ trọng (%) 

24,12 

22,76 

23,65 

23,72 

23,22 

Cà  Mau;  nhóm  đất  nhiễm  mặn  có  khoảng  0,75  triệu  ha,  khó  cung  cấp nước  ngọt  từ  hệ 

Cả nước (ha)  134.870 

136.600 

141.000 


144.900 

147.000 

ĐBSCL (ha)  107.896 

109.269 

112.760 

115.941 

117.544 

thống  sông  ngòi  nên  chỉ  trồng  được  lúa  vào  mùa  mưa,  còn  mùa  khô  nhiều  nơi  được 
chuyển sang nuôi tôm nước mặn và lợ; và các loại đất khác chỉ với khoảng 0,35 triệu ha,

2. Cây dừa 

Tỷ trọng (%)  80,00 
79,99 
79,97 
80,00 
79,96 
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê và Thống kê kinh tế xã hội các tỉnh, thành ĐBSCL 2010


×