1
PHẦN MỞ ĐẦU
2
triển; làm cách nào để cho sản phẩm chủ lực ĐBSCL có thể cạnh tranh ngang ngửa với
hàng hóa, dịch vụ cùng loại trong cả nước và trên thế giới; và làm cách nào để sản phẩm
1. Lý do chọn đề tài
Là một trong những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu bậc nhất Đông Nam Á và thế
giới, ĐBSCL đã trở thành vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, thủy hải sản và cây ăn trái
nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hơn thế, nó còn là vùng kinh tế trọng điểm cả nước, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước
trong khu vực và thế giới. Quá trình cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc
tế mà thời gian qua đã giúp cho các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là nông
nghiệp ở ĐBSCL đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng GDP lập nên kỷ
lục mới, xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng; cơ cấu kinh
chủ lực ĐBSCL không ngừng phát triển và phát triển một cách bền vững trong môi trường
hội nhập và cạnh tranh quốc tế…
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, việc nhanh chóng nghiên cứu để tìm ra những
sản phẩm chủ lực, giữ vai trò chủ đạo đồng thời tạo ra cú đột phá mạnh mẽ cho phát triển
kinh tế ĐBSCL trong tương lai gần cũng như lâu dài là yêu cầu khách quan và bức thiết ở
thời điểm hiện nay. Và, đây cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài: “Xác định sản
phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ của bản thân.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên nghiên cứu của luận án
tế chuyển dịch dần từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp, thương mại dịch vụ và
nông nghiệp công nghệ cao; thu nhập bình quân đầu người tăng lên và đời sống xã hội
không ngừng được cải thiện; một số sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế
biến đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem về nhiều ngoại tệ cho các đại phương
trong vùng và cả nước…. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế của ĐBSCL thời gian qua
cũng bộc lộ khá nhiều yếu kém: tăng trưởng xuất khẩu không ổn định, còn chứa đựng
nhiều yếu tố không bền vững và dễ bị tổn thương bởi những cú sốc từ bên ngoài; sản
phẩm chủ lực còn ít và phát triển chậm, chưa chuyển dịch theo hướng tăng hàm lượng trí
tuệ và công nghệ cao nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của vùng; năng lực cạnh
tranh trong xuất khẩu của các sản phẩm còn thấp…. Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên
cứu, sự phát triển kinh tế xã hội của Đồng bằng sông Cửu Long còn khá biệt lập, chưa có
sự gắn kết chặt chẽ với các vùng khác của đất nước cũng như quốc tế. Đồng thời, sự phát
triển của vùng cũng rất thiếu đồng bộ, chưa cân xứng giữa các ngành nghề, lĩnh vực và
giữa các địa phương; phát triển nặng về chiều rộng, chạy theo số lượng nên chất lượng,
hiệu quả và đặc biệt là tính cạnh tranh quốc tế không cao…
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ
yếu có thể khẳng định là thiếu vắng những sản phẩm chủ lực có khả năng tạo ra giá trị gia
tăng lớn, sức cạnh tranh cao và nhất là tạo được động lực thúc đẩy khai thác một cách hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, lao động và những lợi thế “trời cho” mà không một nơi nào
khác có được ngoài vùng đất nầy. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm cách nào để ĐBSCL xác
định được sản phẩm chủ lực hoặc hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng để tập trung đầu tư phát
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án tập trung vào nghiên cứu 3 mục tiêu cơ bản sau đây:
1) Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực phù hợp với điều kiện thực tế và
tính đặc thù của ĐBSCL để làm cơ sở đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực thống nhất cho
toàn vùng.
2) Danh mục các sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL đến năm 2020.
3) Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển một cách bền vững sản phẩm chủ lực
ĐBSCL trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận án sẽ tập trung thực hiện xuyên suốt các
nhiệm vụ trọng tâm như sau:
1) Nghiên cứu hệ thống hóa lý thuyết về sản phẩm chủ lực và vận dụng nó để làm
sáng tỏ những vấn đề có tính lý luận cũng như thực tiễn trong việc đánh giá, xét chọn và
phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
2) Phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường, tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm
chủ lực cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực ĐBSCL để từ đó xây dựng Hệ
thống tiêu chí đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực vùng từ nay đến năm 2020.
3) Trên cơ sở Hệ thống tiêu chí, tiến hành phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những
hàng hóa hội đủ điều kiện hoặc có triển vọng để hình thành Bảng danh mục sản phẩm chủ
lực ĐBSCL từ nay đến năm 2020.
3
4
4) Phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như tồn tại, hạn chế trong thực tế xét
độc đáo. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công khi vận dụng tư tưởng này của Porter
chọn và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL thời gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp
và các lý thuyết cạnh tranh khác vào việc xác định lợi thế cạnh tranh để phát triển cụm
khắc phục nhằm phát triển hơn nửa sản phẩm chủ lực của vùng trong tương lai lâu dài .
chuyên môn hóa và sản phẩm chủ lực [20], [21].
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
2) Lý thuyết cụm phát triển của M. Porter (1990). Ban đầu, Porter cung cấp các
3.1. Đối tượng nghiên cứu
nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chủ lực
các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia. Porter cho rằng, một cụm được xem là có lợi
mang đặc trưng cho lợi thế, tiềm năng và gắn chặt với quá trình phát triển kinh tế của
thế so sánh nếu sản phẩm, năng suất và tốc độ tăng trưởng cao hơn các cụm khác. Ở cấp
vùng, đồng thời đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản phẩm chủ lực của Đồng
vùng, các chính sách phát triển cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn
bằng sông Cửu Long giai từ nay đến năm 2020.
với các chiến lược phát triển địa phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về
2.2. Phạm vi nghiên cứu
nguyên tắc được sử dụng như là công cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên
Đối với hàng hóa, dịch vụ: Các loại hàng hóa, dịch vụ đã, đang và có triển vọng
kết hoạt động của ngành sản phẩm đó. Từ năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã vận
phát triển để tham gia thị trường và giữ vai trò chủ lực trong chiến lược phát triển kinh tế
dụng thành công lý thuyết này vào lựa chọn và phát triển ngành/sản phẩm chủ lực tập
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020
trung theo không gian địa lý (Porter 1990) hoặc [48].
Đối với địa bàn nghiên cứu: Ngoài các tỉnh, thành thuộc khu vực đồng bằng sông
3) Sự phát triển của khái niệm cụm Kinh nghiệm hiện tại và triển vọng, Christian
Cửu Long, khi nghiên cứu nhu cầu thị trường thì phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra
H. M. Ketels (2003). Ketels đã trình bày khung khái niệm về cụm (cluster) của Michael
nhiều tỉnh, thành phố lớn trong cả nước.
M. Porter, các loại hình cụm, sự tiến hóa cuả cụm và cụm với hiệu quả kinh tế. Ngoài ra,
4. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Ketels cũng nói đến những phát hiện trong thực nghiệm đối với cụm, cụm dựa trên chính
Phát triển cụm công nghiệp gắn với phát triển vùng lãnh thổ và địa phương, hoặc
sách phát triển kinh tế và xem đây như là mô hình phát triển kinh tế mới. Thông qua công
phát triển ngành hoặc sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương, từ lâu đã có nhiều
trình nghiên cứu này, Ketels đã mở rộng hơn về khái niệm cụm so với khái niệm ban đầu
công trình trong và ngoài nước nghiên cứu, nhiều tài liệu, lý thuyết đề cập tới. Tuy nhiên,
của Michael M. Porter và qua đó, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ hơn tầm quan trọng
nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực cho một vùng kinh
của cụm đối với phát triển kinh tế địa phương trong môi trường cạnh tranh toàn cầu [48].
tế như ĐBSCL thì hầu như chưa được nghiên cứu bao giờ. Vì vậy, quá trình nghiên cứu,
Luận án chỉ tiếp cận được với các tài liệu có nội dung gần với chủ đề đặt ra.
4) Lý thuyết điểm trung tâm của Christaller (1933). Lý thuyết này cho rằng, vùng
nông thôn chịu lực hút của thành phố và coi thành phố là cực hút và hạt nhân của sự phát
4.1. Tài liệu nước ngoài
triển. Từ đó, đối tượng đầu tư có trọng điểm cần được xác định trên cơ sở nghiên cứu mức
1) Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của M.Porter (1990). Porter cho rằng,
độ thu hút và ảnh hưởng của một trung tâm và cũng sẽ xác định bán kính vùng tiêu thụ các
các lý thuyết phát triển truyền thống như lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so
sản phẩm của trung tâm. Trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, xác định giới hạn của thị
sánh của David Ricardo xem nền kinh tế như là sự “định hướng bởi yếu tố nguồn lực”.
trường ngoài ngưỡng giới hạn không có lợi trong việc cung cấp hàng hoá của trung tâm.
Tức, lợi thế của một quốc gia trong thương mại quốc tế được xác định bởi các yếu tố
Lý thuyết này được Alosh (Đức) bổ sung. Điểm đáng chú ý của lý thuyết điểm trung tâm
nguồn lực như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động và qui mô dân số địa phương vì
là xác định được quy luật phân bố không gian tương ứng giữa các điểm dân cư, từ đó có
chúng tạo ra chi phí thấp. Tuy nhiên, theo Porter thì "sự thịnh vượng của quốc gia được
thể áp dụng quy hoạch các điểm dân cư trên lãnh thổ mới khai thác [45].
tạo ra chứ không phải được thừa kế", nên cần có sự tập trung đầu tư mạnh mẽ để nâng cao
5) Một nghiên cứu về các chỉ số năng lực cạnh tranh, G. Arzu INAL (2003). Trong
hiệu quả thông qua cải thiện năng suất lao động hoặc sáng tạo ra các sản phẩm với giá trị
bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng và sự quan tâm ngày càng sâu sắc của các
5
6
giới, đặc biệt các nhà sản xuất kinh doanh đến chiến lược cạnh tranh hiệu quả, nhiều nhà
doanh nghiệp khoa học và công nghệ sản xuất; giai đoạn tiếp theo sẽ mở rộng qui mô sản
nghiên cứu đã cố gắng xác định khả năng cạnh tranh và phát triển các chỉ số định lượng
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm được xây dựng ở giai đoạn 2010 – 2015, mở rộng
thích hợp để đo lường sức mạnh cạnh tranh. Với sự nỗ lực của mình, G. Arzu INAL đã
thị trường, tăng cường xuất khẩu và xây dựng thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên trường
nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra 16 chỉ số có thể đo lường năng lực cạnh tranh của quốc
quốc tế [24].
gia, địa phương hay vùng lãnh thổ. Trong đó, có nhiều chỉ số thích hợp cho việc đo lường
3) Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2001 –
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ làm cơ sở xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa,
2005 của Bộ Khoa họcCông nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) với
dịch vụ chủ lực của địa phương [47].
chủ đề “ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm
Ngoài các tài tiệu trên, nhiều tài liệu khác cũng có nội dung liên quan vần đề này
chủ lực”. Mục đích của Chương trình là nhằm gia tăng kim ngạch và chuyển dịch cơ cấu
được tác giả tham khảo như: “Regional innovation systems (RIS) in China của Jon
xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng
Sigurdson” đăng trên Working Paper No 195, July 2004 [49]; “Sustaining the Green
công nghệ cao cũng như thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Nội dung chủ yếu của Chương trình
Revolution in India” của S. Nagarajan [50]; “Economic contributios of Thailand’s creative
là nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghệ về giống cây trồng và vật nuôi có
industries”, đăng trên tạp chí Fiscal Policy Institute 2009 [47]; “Koji – The key product in
năng suất, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh…; xây dựng các mô hình thâm canh và
Japanese alcoholic beverages and fermented foods, Tokyo University of Agriculture
sản xuất công nghiệp trong nuôi trồng nông, lâm, thủy hải sản theo hướng bền vững và
Sedagayaku, Tokyo, Japan [54]; “Identifying and assessing the factors that influence
bảo vệ môi trường sinh thái...[1]
cluster’s competitiveness in Oregon, and some initial suggestions”, Luận án Tiến sĩ của
4) “Quy chế đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực
Sam Gi Hong (2007) [52]....Nhìn chung các tài liệu này đều nhấn mạnh đến vai trò của
Thành phố Hà Nội”. Theo Qui chế này, cơ sở xác định sản phẩm công nghiệp chủ lực của
phát triển cụm ngành sản phẩm trong chiến lược phát triển kinh tế của các quốc gia và đề
Thành phố là các tiêu chí gồm sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước; được
xuất các chính sách hỗ trợ để cụm phát triển một cách bền vững.
tạo ra trên các dây chuyền thiết bị có trình độ công nghệ ngang tầm khu vực, phù hợp với
4.2 Tài liệu trong nước
trình độ sản xuất trong từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
1) Luận án Tiến sĩ “Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các
Thành phố, đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; tạo ra mức tăng trưởng
tỉnh vùng Bắc Trung bộ” của Nguyễn Hồng Lĩnh (2007). Luận án đã vận dụng các lý
cao, ổn định; hoặc thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, đóng góp tỷ trọng lớn vào
thuyết liên quan, đặc biệt là mô hình kim cương của M. Porter để phân tích tìm ra các
tổng GDP công nghiệp. Qui trình xét chọn có 4 bước: đề xuất doanh nghiệp tham gia
nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn
Chương trình; khảo sát sản phẩm công nghiệp; tổ chức đánh giá, xét chọn và công nhận
các tỉnh Bắc Trung bộ. Trên cơ sở xử lý các số liệu thu thập từ báo cáo thống kê và khảo
sản phẩm chủ lực...[17].
sát thực tế; rút kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp chế biến ở một số nước Đông
5) Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hồ Chí
Nam Á và dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, Luận án đã xác định các ngành công
Minh giai đoạn 2002 – 2005”. Theo Chương trình này, Hệ thống tiêu chí lựa chọn sản
nghiệp chế biến nông, lâm sản chủ lực để phát triển trên địa bàn Bắc Trung bộ [9].
phẩm chủ lực và xây dựng bảng tự đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm đăng
2) Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia dến năm 2020 của Chính phủ. Theo
ký tham gia chương trình đã ra đời cùng với việc triển khai hỗ trợ các doanh nghiệp tham
Chương trình, sẽ hình thành và phát triển hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam bằng
gia chương trình trên năm lĩnh vực: thiết kế sản phẩm và lựa chọn công nghệ, nâng cao
công nghệ tiên tiến, có năng lực cạnh tranh cao về tính mới, chất lượng, giá thành dựa trên
trình độ quản lý của doanh nghiệp, tiếp thị, đào tạo nhân lực, tài chính thông qua các hoạt
việc khai thác lợi thế so sánh các nguồn lực trong nước. Trong đó, giai đoạn 2010 – 2015
động hướng dẫn, tư vấn hay môi giới doanh nghiệp với nhà tư vấn có năng lực và uy tín,
phải hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến và do các
giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn lực về khoa học và tài chính của thành phố [2].
7
8
Ngoài ra, Luận án còn tham khảo nhiều tài liệu chương trình phát triển sản phẩm
5) Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xác định và phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL
chủ lực tương tự của các địa phương khác cũng như hội thảo, hội nghị,... liên quan đến
thời gian qua cũng như quan điểm, định hướng mục tiêu phát triển sản phẩm chủ lực của
vấn đề phát triển sản phẩm chủ lực nói chung, như: “Xác định hàng hóa, dịch vụ chủ lực
vùng thời gian tới, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp chủ yếu, khả thi và đồng bộ
Tp Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020”; “Đánh giá thực trạng và định hướng
nhằm hỗ trợ các sản phẩm chủ lực phát triển một cách bền vững đến năm 2020.
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và làng nghề quận Bình Thủy
6. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
(Tp Cần Thơ) giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn đến năm 2020” và các bài viết khác của
6.1 Phương pháp tiếp cận vấn đề
các tác giả đăng tải trên tạp chí, báo, trang web trong nước và quốc tế có liên quan. Tuy
Để tiếp cận vấn đề, tác giả thực hiện thông qua các phương pháp chủ yếu như:
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận cũng
+ Tiếp cận hệ thống: Trong quá trình nghiên cứu xác định sản phẩm chủ lực của
như thực tiễn việc xác định và phát triển các sản phẩm công, nông, nghiệp và thủy sản chủ
Đồng bằng sông Cửu Long, những loại hàng hóa, dịch vụ không có tính đặc thù hoặc tính
lực thuộc vùng ĐBSCL. Với Luận án này, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu và giải quyết vấn
đặt thù không cao, tác giả đặt chúng trong mối quan hệ hỗ tương với hàng hóa, dịch vụ
đề bức xúc đó nhằm góp phần phát triển nền kinh tế ĐBSCL một cách bền vững.
cùng loại trong cả nước. Nghĩa là xem hàng hóa, dịch vụ đó của Đồng bằng sông Cửu
5. Tính mới của Luận án
So với các công trình nghiên cứu cũng như chương trình phát triển sản phẩm chủ
lực của các địa phương đã nêu trên, Luận án này có những điểm mới cơ bản sau:
1) Hoàn thiện hơn về mặt cơ sở lý luận đối với sản phẩm chủ lực cũng như phương
pháp xác định sản phẩm chủ lực để vận dụng vào giải quyết các vấn đề có tính lý luận
cũng như thực tiễn trong việc xác định sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2020.
2) Từ cơ sở lý thuyết đã xây dựng, Luận án đưa ra bộ tiêu chí xác định sản phẩm
chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2020 với 2 hệ thống đánh giá, xét
chọn sản phẩm hàng hóa chủ lực và sản phẩm dịch vụ chủ lực. Các hệ thống này vừa bảo
đảm các điều kiện cần, vừa bảo đảm đảm điều kiện đủ; vừa có tiêu chí định lượng và vừa
có tiêu chí định tính; đầy đủ hơn, thực tế hơn nhưng đơn giản, dễ thực hiện hơn.
Long như là một bộ phận hữu cơ trong mối quan hệ tổng thể của cả nước.
+ Tiếp cận logic: Từ việc nghiên cứu, thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua tài
liệu, sách báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng để xây dựng các mô hình lý thuyết
về sản phẩm chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long, xem đây là giả thuyết để làm cơ sở
chứng minh cho tính đúng đắn của nó hoặc loại trừ nó.
+ Các phương pháp hỗ trợ khác: Sử dụng các phương pháp mô hình hóa, sơ đồ
hóa, phương pháp thống kê, phương pháp hồi qui tuyến tính…, đặc biệt trong phân tích
cạnh tranh sẽ áp dụng mô hình kim cương (diamond model) của Michael M. Porter để xác
định lợi thế cạnh tranh ngành hàng.
6.2 Phương pháp nghiên cứu định tính
Để thực hiện đề tài này, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp định tính để thu
thập phân tích và diễn giải dữ liệu nhằm mục đích khám phá các nhân tố và mối quan hệ
3) Cũng với cơ sở lý thuyết đã hoàn thiện, Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho
đến tính chủ lực của hàng hóa, dịch vụ. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu này chủ yếu là để xây
việc công nhận sản phẩm chủ lực ĐBSCL đối với các sản phẩm đã từ lâu giữ vị trí chủ lực
dựng cơ sở lý thuyết một cách khoa học và khách quan về sản phẩm chủ lực. Công cụ
một cách tự nhiên do lợi thế đặc thù của vùng như lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thông qua
được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là: Khảo sát thực tế tại các địa phương, thảo
đó, Luận án cũng chứng minh tính chủ lực không thể chối cải của các sản phẩm này bằng
luận nhóm; Thảo luận tay đôi; Quan sát ...
một số chỉ tiêu định lượng quan trọng.
6.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng
4) Dựa trên Bộ tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực đã xây dựng, Luận án thực hiện
Các chỉ tiêu định lượng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm chủ lực như:
việc xem xét, tính toán và cân nhắc đối với từng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có triển
Hệ số lợi thế hiển thị ngành (RCA); Hệ số thương mại ròng (NTR); Hệ số địa phương hóa
vọng trong vùng để từ đó lập ra bảng Danh mục những sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến
(LQ); Hệ số bảo hộ hiệu dụng (EPR); Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)...
năm 2020.
9
10
7. Khung nghiên cứu
8. Kết cấu chung của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo..., Luận án
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN
PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC
Chương 1: Cơ sở khoa học cho việc xác định sản phẩm chủ lực và phát triển
sản phẩm chủ lực
Cơ sở lý luận xác định SP chủ lực
và phát triển sản phẩm chủ lực
Lý luận chung về SP chủ lực
Thuyết lợi thế tuyệt đối (A.Smith)
và lợi thế so sánh của (D.Ricardo)
Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia
và Cụm phát triển của M. Porter
Phương pháp xác định và phát
triển SP chủ lực
Các tiêu chí đánh giá và thang
điểm đánh giá xét chọn SP chủ lực
Qui trình xác định SP chủ lực
Các nội dung và nguyên tắc cơ
bản hỗ trợ phát triển SP chủ lực
Chương này chủ yếu trình bày các quan điểm, khái niệm, định nghĩa về sản phẩm
chủ lực; phương pháp xác định hàng sản phẩm chủ lực; và vai trò ý nghĩa của sản phẩm
chủ lực trong phát triển kinh tế vùng, địa phương; các lý thuyết có liên quan và kinh
nghiêm phát triển sản phẩm chủ lực ở một số quốc gia và địa phương trong nước.
Chương 2: Thực trạng xác định và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng bằng
sông Cửu Long thời gian qua
Chương này chủ yếu thực hiện việc phân tích, đánh giá thực trạng xác định sản
Chương 2. THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL THỜI GIAN QUA
phẩm và phát triển sản phẩm chủ lực ở ĐBSCL thời gian qua. Đưa ra nhận xét ưu, nhược
điểm trong việc xác định sản phẩm chủ lực của các địa phương trong vùng để làm cơ sở
cho việc tiến hành xác định sản phẩm chủ lực cấp vùng đến năm 2020.
Đánh giá tiềm năng
phát triển sản phẩm
chủ lực ĐBSCL
Vận dụng mô hình
kim cương (M.Porter)
và các lý thuyết đã
khác trình bày
Thực trạng phát triển
sản phẩm chủ lực
Lĩnh vực nông nghiệp
và thủy sản
Lĩnh vực công nghiệp
Lĩnh vực thương mại
và dịch vụ
Thực trạng xác định
sản phẩm chủ lực
Xây dựng tiêu chí và
qui trình xác định
Danh mục sản phẩm
chủ lực
Nhận xét, đánh giá
Chương 3: Xác định sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020
Chương ba chủ yếu giải quyết 3 vấn đề cơ bản là: xây dựng Hệ thống tiêu chí xác
định sản phẩm chủ lực ĐBSCL; đề xuất Danh mục sản phẩm chủ lực ĐBSCL đến năm
2020 và đề xuất một số giải pháp chủ yếu phát triển sản phẩm chủ lực của ĐBSCL một
cách bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Chương 3. XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM CHỦ LỰC VÀ PHÁT
TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC ĐBSCL ĐẾN NĂM 2020
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM
Xây dựng Hệ thống
tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực ĐBSCL
Hệ thống tiêu chí
Thang điểm và phương
pháp tính toán
Xây dựng Danh mục
SP chủ lực ĐBSCL
Sản phẩm chủ lực
ĐBSCL 20062010
Sản phẩm chủ lực
ĐBSCL đến năm 2020
Giải pháp triển sản
phẩm chủ lực ĐBSCL
Giải pháp phát triển
sản phẩm chủ lực
ĐBSCL đến 2020
CHỦ LỰC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CHỦ LỰC
1.1. Tổng quan về sản phẩm chủ lực và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.1. Định nghĩa về sản phẩm chủ lực
1.1.1.1. Một số quan điểm khác nhau về sản phẩm vụ chủ lực
11
Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới luôn gắn liền với sự trỗi dậy
của những ngành hàng hoặc sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Những ngành hoặc sản phẩm
12
số: 21/2001/QĐbKHcnmt về việc “Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản
phẩm xuất khẩu và sẩn phẩm chủ lực”) [1].
này đã trở thành yếu tố dẫn đạo tăng tưởng và phát triển kinh tế của quốc gia hoặc vùng
+ Kế đến là Chương trình "Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ
lãnh thổ. Điển hình nhất là Nhật bản, 20 năm sau thế chiến thứ 2 (1951 – 1973) đã trở
Chí Minh giai đoạn 20022005" đã giới hạn sản phẩm chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp
thành nền kinh tế lớn của thế giới với GDP tăng trưởng gấp 20 lần. Các sản phẩm được
với thuật ngữ “sản phẩm công nghiệp chủ lực”. Theo Chương trình, những sản phẩm này
xem là thế mạnh cạnh tranh của Nhật giai đoạn này là tàu biển, xe máy, máy khâu, máy
phải có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao
ảnh, ti vi, thép, ô tô, sản phẩm hóa chất, hàng dệt,... Kế đến là Trung Quốc, trong ba thập
đối với người sản xuất, đóng góp đáng kể cho tổng sản phẩm nội địa và phát triển kinh tế
kỷ (từ 1978 đến 2007) với việc chuyển đổi từ nền công nghiệp không dựa vào lợi thế sang
của Thành phố. Ngoài ra, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Tp Hồ Chí Minh giai đoạn
nền công nghiệp dựa trên lợi thế nguồn nhân công dồi dào với các sản phẩm cấp thấp, giá
20022005 phải vừa có tính hiện đại, vừa có tính văn hóa truyền thống; vừa sử dụng nhiều
rẻ... đã đưa nền kinh tế Trung quốc tăng trưởng một cách thần kỳ, đạt tốc độ trung bình
nguyên liệu trong nước vừa có thương hiệu mạnh và đặc biệt, phải bảo đảm về lao động và
hàng năm 9,5%. Kết quả là từ một nước kém phát triển, Trung quốc đã vươn lên tốp bốn
thân thiện với môi trường (Quyết định số: 153 /2002/QĐUB) [2].
nền kinh tế hàng đầu thế giới (WB, 2007). Tương tự, thông qua hai cuộc “Cách mạng
+ Một khái niệm khác có thể tham khảo là “sản phẩm công nghiệp chủ lực” của Tp
xanh” với các sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm), công nghiệp phục vụ nông
Hà Nội ghi trong “Qui chế đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực Thành phố
nghiệp,... Ấn độ đã trở thành hiện tượng đặc biệt trong phát triển kinh tế nhờ vào xác định
Hà Nội”, Theo cách mô tả của Qui chế này thì “sản phẩm chủ lực” đã được giới hạn trong
và phát triển các ngành sản phẩm chủ lực phù hợp với lợi thế của mình [48], [49], [53]
phạm vi ngành công nghiệp với các đặc trưng cơ bản là: Có sức cạnh tranh trên thị trường
Ở Việt Nam, sản phẩm chủ lực hay sản phẩm công nghiệp chủ lực là khái niệm mới
trong và ngoài nước; Được tạo ra trên dây chuyền thiết bị có công nghệ ngang tầm khu
và thường xuất hiện trong một số văn bản quản lý Nhà nước vào thập niên đầu tiên thế kỷ
vực, phù hợp với trình độ sản xuất và chiến lược phát triển của Thành phố trong từng thời
XXI. Lúc đầu, đây chỉ là thuật ngữ dùng để chỉ những sản phẩm có khả năng xuất khẩu
kỳ; Đảm bảo năng lực sản xuất và môi trường bền vững; Tạo ra mức tăng trưởng ổn định
mạnh, chiếm tỷ trọng kim ngạch cao hoặc có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế của
ở mức cao và thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực với tỷ trọng đóng góp vào tổng
đất nước. Gần đây, khái niệm này được sử dụng khá phổ biến và đã trở thành thuật ngữ
GDP công nghiệp lớn (Quyết định số 03/2006/QĐUB) [17].
kinh tế quen thuộc không những với các nhà quản lý mà còn với cả các doanh nghiệp và
+ Cùng một quan niệm với Tp Hồ Chí Minh và Tp Hà Nội, tỉnh Đồng Nai với
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu về sản phẩm chủ lực của mỗi người, mỗi địa phương
“Chương trình phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh Đồng Nai giai đoạn
lại có những điểm khác nhau khá rõ rệt. Dưới đây là những điểm khác nhau điển hình khi
20062010” cũng tập trung giới hạn ở “Sản phẩm công nghiệp chủ lực” và cho rằng, sản
nói về sản phẩm chủ lực.
phẩm công nghiệp chủ lực phải là sản phẩm đóng vai trò then chốt, quyết định đối với việc
v Thể hiện trong các chủ trương, chính sách nhà nước
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong một thời kỳ nhất định. Đây là những sản
+ Trước hết là khái niệm “sản phẩm chủ lực” của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
phẩm công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành công nghiệp có nhịp độ tăng
trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) là sản phẩm giúp gia tăng kim ngạch và
trưởng và tỷ lệ giá trị gia tăng cao, có vị trí chi phối và ảnh hưởng đến sự phát triển đối
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm chế biến, sản
với nhiều sản phẩm công nghiệp khác cũng như có sức cạnh tranh cao trên thị trường
phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ cũng như tạo điều kiện
trong nước và xuất khẩu (Quyết định số 955/QĐUBND). Nói cách khác, đối với tỉnh
đẩy nhanh áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất theo phương châm lấy tiết kiệm
Đồng Nai thì sản phẩm chủ lực là sản phẩm công nghiệp có thế mạnh về giá trị sản lượng
năng lượng, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Quyết định
và giá trị gia tăng; có sức tác động hay lan tỏa đến các sản phẩm công nghiệp khác, đồng
thời có khả năng tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước [9].
13
14
v Thể hiện trong các bài viết, tác phẩm nghiên cứu
quyết định đến phạm vi toàn cục. Đặc trưng của chủ lực là tập trung với số lượng lớn,
+ Với GS.TS Võ Thanh Thu, Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh,
được huấn luyện chính qui, chuyên nghiệp, trang bị hiện đại và có khả năng cơ động tác
Chuyên gia nghiên cứu khu công nghiệp, trong một bài viết của mình cũng đã sử dụng
chiến trên diện rộng.
khái niệm “sản phẩm chủ lực” và cho rằng nó phải có các đặc trưng như: Phải có tương lai
Vậy sản phẩm chủ lực là gì? Có thể nói, sản phẩm trong Luận án này là khái niệm
phát triển mạnh về công nghệ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong
dùng để chỉ sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ được thương mại hóa, tức là sản phẩm hữu
nước; Phải khai thác được lợi thế của địa phương , là đặc trưng cho địa phương; Phải có
hình hoặc vô hình được sản xuất và cung ứng nhằm mục đích thương mại. Khái niệm sản
tính lan tỏa, kích thích các ngành khác, sản phẩm khác phát triển; Phải là những mặt hàng
phẩm ở đây còn được mở rộng đến ngành hàng hay một nhóm các sản phẩm có cùng tính
mang hàm lượng chất xám cao, cũng như có khả năng xuất khẩu cao; Có thể là hữu hình
năng, mục đích sử dụng hay qui trình công nghệ sản xuất. Ví dụ, ngành hàng thực phẩm
hoặc là vô hình. Ở đây GS.TS Võ Thanh Thu đã đưa ra thêm 2 điểm khác quan trọng là
chế biến có thịt đóng hộp, cá đóng hộp, thịt đông lạnh, cá đông lạnh..., ngành hóa mỹ
sản phẩm chủ lực phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác và lôi kéo chúng
phẩm có bột giặt, nước xả, chất tẩy rửa gia dụng, mỹ phẩm....Khi tham khảo các tài liệu
cùng phát triển, đồng thời sản phẩm chủ lực không chỉ là hữu hình mà còn có thể là vô
tiếng Anh, tác giả thường thấy xuất hiện các từ hoặc cụm từ có thể được xem là tương ứng
hình nữa.
với sản phẩm chủ lực hay ngành hàng chủ lực như: key products, main products, major
+ Với TS Lê Tấn Bửu, Trưởng khoa Thương mạiDu lịchMarketing, trường Đại
products hoặc key sectors, main sectors.
học Kinh tế TP.HCM thì sản phẩm chủ lực phải là sản phẩm trong công nghiệp chế biến
Main products: Là sản phẩm chính, sản phẩm chủ yếu của một công ty, giữ vị trí
nông, thủy sản vì đây là thế mạnh của Việt Nam mà trọng điểm là ĐBSCL, đồng thời
chủ yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh doanh nghiệp. Ví dụ main
chúng còn là nguồn cung sản phẩm thiết yếu thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho toàn xã hội.
products của Seaprodex gồm: Fresh (cá tươi), Frozen (đông lạnh), Processed (chiến biến),
Như vậy, trong thực tế nghiên cứu cho thấy, ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi
Canned (đóng hộp)...
thời kỳ khác nhau việc nhận thức về sản phẩm chủ lực có khác nhau. Chính từ sự nhận
Key products: Sản phẩm chủ yếu của công ty. Ví dụ sản phẩm chủ yếu của Công
thức khác nhau như vậy mà việc lựa chọn sản phẩm chủ lực và chính sách hỗ trợ phát triển
ty TNHH điện tử Nam Phương gồm có: Design and install all of Distributor Board (Thiết
sản phẩm chủ lực ở mỗi địa phương thời gian qua cũng có khác nhau. Tuy nhiên, có một
kế và cài đặt tất cả các bảng phân phối điện), Control Board (Bảng kiểm soát điện),
vấn đề mà mọi quốc gia, vùng lãnh thổ và mọi thời đại đều thống nhất với nhau chính là
Electric Box (Hộp điện), Capacitor Bank medium and low Voltage (Tụ bù trung áp và
lợi ích của việc xét chọn sản phẩm chủ lực, đồng thời xem việc tìm ra sản phẩm chủ lực để
thấp áp)….
tập trung đầu tư phát triển là nhiệm vụ có tính chiến lược đối với mỗi quốc gia, địa
Major Products: Sản phẩm chính của công ty, doanh nghiệp hay quốc gia. Ví dụ
phương và vùng lãnh thổ. Chính vì điều này mà trước tiên, Luận án cần đi đến một nhận
sản phẩm chính của Sumikin Bussan Special Steel Co., Ltd là: Tubes and Pipes (ống
thức chung, nhất quán về sản phẩm chủ lực.
nước, ống kết cấu cho xe ô tô, máy móc và ống thép đặc biệt cho các nhà máy hóa dầu);
1.1.1.2. Nhận thức chung về sản phẩm chủ lực
Steel Sheets and Plates (thép tấm); Construction Materials (thép xây dựng); Bar and Wire
Trước hết, cần bắt đầu với thuật ngữ “chủ lực”. Theo Từ điển tiếng Việt thông
Rods (thanh thẳng, thanh cuộn) và Raw Materials (thép nguyên liệu thô). Hay sản phẩm
dụng, Nhà xuất bản Giáo dục 2003 thì đây là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt và có tác
chính của Nhật: Xe máy, Xe hơi, Thiết bị điện và Máy vi tính…Trong đó, xe gắn máy với
dụng quyết định. Ứng với tiếng Anh là “driving force” (lực lượng có tính dẫn đạo) hay
nhãn hiệu Honda, Suzuki, Yamha hay xe hơi với nhãn hiệu Toyota hoặc thiết bị điện tử,
“main force” (lực lượng chính). Thuật ngữ này được dùng phổ biến trong quân sự để chỉ
điện lạnh của Sony… là biểu tượng, là nét văn hóa của nước Nhật xưa và nay.
lực lượng quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định chiến trường như “quân chủ lực”, “bộ
Key sectors: Ngành hàng hoặc lĩnh vực sản xuất quan trọng, chủ yếu của một địa
đội” chủ lực...Lực lượng này được sử dụng khi cần giải quyết các mục tiêu chiến lược,
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia. Ví dụ, để qui hoạch phát triển Ấn Độ đã xác định có
15
16
các key sectors như: Agriculture (Nông nghiệp); Commerce & Industries (Công nghiệp và
Có thể nói, sản phẩm chủ lực là những sản phẩm có sự liên hệ mật thiết với nhiều
thương mại); Finance (Tài chính); Communication & IT (Công nghệ thông tin và truyền
ngành hàng hay sản phẩm khác, ảnh hưởng trực tiếp lên các sản phẩm, ngành hàng khác
thông); Education (Giáo dục); Health & Family welfare (Y tế và phúc lợi gia đình)....
và lôi kéo chúng cùng phát triển theo. Mặt khác, quá trình phát triển của sản phẩm chủ lực
Từ những kết quả phân tích đã trình bày ở phần trên, có thể nhận diện sản phẩm
cũng thường xuyên chịu sự tác động bởi các ngành hàng hoặc sản phẩm khác. Sự liên hệ
chủ lực thông qua định nghĩa như sau: “Sản phẩm chủ lực là sản phẩm hàng hóa hoặc
này được thể hiện thông qua các mối liên hệ chuỗi giá trị (sự kết nối liên tiếp về mặt công
dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn và năng lực cạnh
nghệ trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) hoặc các mối liên hệ bổ trợ (mối liên hệ tương
tranh cao; là trung tâm lan tỏa, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển; đồng thời
hỗ tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm). Với tính chất
nó còn có thể là sản phẩm thể hiện tính đặc thù riêng, mang ý nghĩa văn hóa của một
lan tỏa như vậy, thực tế cho thấy khi sản phẩm chủ lực phát triển sẽ tạo ra nhu cầu hỗ trợ,
1
quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ” .
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm chủ lực
Từ sự nhận thức như đã trình bày ở phần trên, có thể rút ra năm đặc trưng cơ bản
của sản phẩm chủ lực như sau:
nhu cầu liên kết…từ đó kích thích, lôi kéo các ngành nghề khác cùng phát triển theo.
4) Sản phẩm mang tính đặc thù của quốc gia, vùng lãnh thổ
Một sản phẩm chủ lực còn là sản phẩm thể hiện lợi thế đặc trưng của quốc gia,
vùng lãnh thổ mà không nơi nào khác có thể sánh kịp. Người tiêu dùng bỏ tiền mua sản
1) Sản phẩm có qui mô khối lượng lớn và tính đồng nhất cao
phẩm ấy chính bởi những giá trị đặc trưng mà họ thấy được từ sản phẩm, đồng thời đối thủ
Một sản phẩm muốn trở thành chủ lực trước tiên phải là sản phẩm được sản xuất ra
cạnh tranh khó lòng bắt chước vì thiếu những điều kiện mang tính lợi thế cạnh tranh của
để trao đổi mua bán với khối lượng lớn và đạt được độ đồng nhất cao. Nói cách khác, hàng
quốc gia hay vùng lãnh thổ (vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động…). Ngoài ra,
hóa chủ lực phải được sản xuất theo qui mô tập trung, công nghiệp với công nghệ tiên tiến
nhiều sản phẩm chủ lực còn là biểu tượng văn hóa của quốc gia hay vùng lãnh thổ, góp
nên có thể đảm bảo được khối lượng cung ứng lớn cho thị trường đồng thời chất lượng,
phần tạo nên thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.
mẫu mã kiểu dáng và các tính năng khác phải giống nhau giữa các cá thể. Rõ ràng, sản
5) Sản phẩm có tính an toàn và thân thiện với môi trường
phẩm không thể trở thành chủ lực nếu chỉ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún với phương pháp thủ
Sản phẩm chủ lực nhất thiết phải là sản phẩm mà trong quá trình khai thác nguyên
công, mang tính cá biệt cao. Bởi, nếu như vậy không thể có được thị trường rộng lớn, mãi
liệu, sản xuất, tồn tại, sử dụng và sau khi thải bỏ không gây hại hoặc ít gây hại hơn cho
lực yếu, sức cạnh tranh không cao.
môi trường so với sản phẩm cùng loại và được các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc
2) Sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế
quốc tế công nhận. Hoặc, sản phẩm được tạo ra có khả năng thay thế cho các nguyên liệu
Sản phẩm chủ lực phải là những sản phẩm đảm bảo các yêu cầu về mặt chất lượng,
tự nhiên mà trong quá trình tồn tại, sử dụng hoặc sau khi thải bỏ gây hại ít hơn cho môi
thiết kế kỹ thuật, mẫu mã, kiểu dáng…theo tiêu chuẩn quốc tế; có khả năng tiêu thụ tốt
trường so với sản phẩm được thay thế.
không những trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu, đồng thời luôn chiếm được ưu
thế cạnh tranh trước các đối thủ quốc tế khác. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng
1.1.1.4. Điểm khác cơ bản của khái niệm sản phẩm chủ lực trong Luận án
sâu rộng, môi trường cạnh tranh không còn đơn giản với không gian nhỏ hẹp trong nước
Có thể thấy, về cơ bản Luận án đã kế thừa có chọn lọc các khái niệm mà các tài liệu
mà cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh mang tính toàn cầu với nhiều phương thức phức tạp.
trước đây đưa ra. Tuy nhiên, nếu xét ở phạm vi nội dung và ý nghĩa cũng như so sánh với
Do vậy, một sản phẩm trở thành chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có được năng lực
từng tài liệu riêng rẻ thì Luận án đã đưa ra nhiều điểm mới.
cạnh tranh tốt trên phạm vi quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.
Bảng 1.1. Điểm khác nhau giữa Luận án với các tài liệu về sản phẩm chủ lực
3) Sản phẩm có sức lan tỏa mạnh
1
Khái niệm trong Luận án
Tác giả tổng hợp và chọn lọc từ các định nghĩa trong nhiều tài liệu đã có
Các khái niệm trước đây
17
Nêu bật mục đích chính của sản phẩm Chỉ cho biết sản phẩm nói chung chứ chưa
được tạo ra là để trao đổi mua bán, đặc thể hiện rõ mục đích tạo ra là để trao đổi mua
biệt là mua bán quốc tế.
bán, nhất là mua bán quốc tế.
18
2) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa xác định đúng trung tâm lan tỏa,
nguồn phát tác hấp lực từ tập trung chuyên môn hóa – hiện đại hóa sản xuất và cung ứng,
có tác động lôi kéo các ngành nghề liên quan, dịch vụ bổ trợ phát triển.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực nghĩa là đã xem xét một cách đầy đủ các ngành
Xác định rõ sản phẩm của vùng, miền dựa Xác định sản phẩm của địa phương, dựa vào
trên tiềm năng, lợi thế chung của vùng, điều kiện sản xuất đặc thù của địa phương và
miền quyết định một cách khách quan.
do doanh nghiệp quyết định theo chủ quan
nghề có liên quan trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa, khi tập trung đầu tư phát triển một
ngành hàng chủ lực nào đó sẽ đồng thời phải đầu tư cho các ngành có liên quan khác làm
cho chúng có điều kiện phát triển theo. Ngược lại, cũng thông qua quá trình xem xét này,
Bao gồm cả sản phẩm công nghiệp, nông Thường chỉ đề cập chủ yếu đến sản phẩm
có thể xác định được những ngành nào có khả năng lan tỏa đến nó để có chính sách
nghiệp thủy sản và dịch vụ
khuyến khích đầu tư và qui hoạch phát triển một cách tương ứng và đồng bộ.
công nghiệp, hoặc nông nghiệp
Sản phẩm vừa giữ vị trí chủ yếu tạo ra giá Chú trọng đến khía cạnh tạo ra giá trị sản
trị sản lượng vừa là trung tâm lan tỏa đến lượng, tốc độ tăng trưởng, hiệu quả... riêng
các ngành nghề khác
của sản phẩm chủ lực mà thôi.
Sản phẩm không những mang giá trị vật Chỉ chú trọng đến việc nhấn mạnh giá trị vật
chất, giá trị kinh tế mà nó còn mang cả giá chất, giá trị kinh tế mà thôi
trị phi vật thể: nhân văn, văn hóa…
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng
1.1.2. Ý nghĩa của việc xác định sản phẩm chủ lực
Việc xác định đúng sản phẩm chủ lực của một quốc gia, địa phương hay vùng lãnh
thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể:
1) Xác định đúng sản phẩm chủ lực đồng nghĩa với việc xác định được năng lực
cạnh tranh cốt lõi của quốc gia, vùng lãnh thổ…, để từ đó có chính sách đầu tư đúng
hướng, tập trung và có chiều sâu.
Xác định đúng sản phẩm chủ lực là cơ sở để tập trung nguồn lực, ưu tiên hỗ trợ đầu
tư phát triển một cách có trọng tâm, trọng điểm và theo chiều sâu trên cơ sở lợi thế so
sánh, không dàn trải làm lãng phí vốn đầu tư. Qua đó, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng
suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh cho từng loại sản phẩm và qua
đó tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất phát triển, đảm bảo cho những sản phẩm được
chọn có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế
xã hội của địa phương và hội nhập kinh tế quốc tế.
3) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng đồng nghĩa với việc định vị đúng nền kinh
tế trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu.
Sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương thể hiện đẳng cấp,
thực trạng và tương lai phát triển kinh tế của quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đó.
Căn cứ vào định vị này, các quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp và hiệu quả nhất, nhằm góp phần giải quyết các bất ổn
kinh tế vĩ mô và đảm bảo tăng trưởng một cách bền vững.
4) Xác định đúng sản phẩm chủ lực cũng có nghĩa là xác định đúng đối tượng
khách hàng và thị trường tiêu thụ để tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý và thực
hành chất lượng phù hợp.
Để đối mặt với sự cạnh tranh mang tính quốc tế, các doanh nghiệp phải tạo ra được
những sản phẩm bảo đảm chất lượng, thương hiệu và uy tín, được khách hàng ưa chuộng.
Muốn vậy, các nhà sản xuất phải đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ sản xuất
tiên tiến, hiện đại cũng như áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng một cách toàn
diện theo chuẩn quốc tế, đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng.
1.1.3. Một số lý thuyết liên quan đến xác định và phát triển sản phẩm chủ lực
1.1.3.1. Thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (17231790)
Adam Smith được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại. Tác phẩm lớn nhất của
ông là 'The Wealth of Nations' xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi ích của
chuyên môn hoá và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản hồi qua hệ thống giá.
Có lẽ tư tưởng gắn liền với ông là Lý thuyết lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage). Trong
mô hình kinh tế cổ điển, các nhà học giả cho rằng đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi
nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm
19
20
bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Trong điều kiện đó,
triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên
A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá
một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy
rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi
giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại
thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương.
ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản.
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí
nguồn lực để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Khi một nước sản xuất sản phảm có chi
Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước
đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.
phí cao hơn (do hạn chế về nguồn lực) có thể nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế
sản xuất thấp hơn (do có ưu thế về nguồn lực). Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối
so sánh cao một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có
với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi
lợi thế so sánh về những hàng hóa này. Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất
bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao
khẩu nhiều sản phẩm thô hoặc sơ chế như dầu thô, than đá, thủy sản đông lạnh... hoặc
sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem
hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc,
lại hiệu quả. Điều này gọi là bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước.
thiết bị từ các nước phát triển [3].
Ngày nay, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam việc khai thác lợi thế
1.1.3.3. Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal E. Porter (17721823)
tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm,
Michael E. Porter là người đã đưa ra môn học về chiến lược cạnh tranh và mô hình
đặc biệt là công nghệ sản xuất với chi phí chấp nhận được mà phải nhập khẩu công nghệ.
phân tích cấu trúc ngành. Về lý luận cạnh tranh, ông đã xuất bản ba cuốn sách nổi tiếng
Khi nhập công nghệ sản xuất, lao động trong nước sẽ học được cách sử dụng máy móc
thế giới và được sử dụng trong hầu hết các chương trình đào tạo MBA của các nước. Đó là
thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này,
cuốn ''Chiến lược cạnh tranh'' xuất bản năm 1980, cuốn ''Lợi thế cạnh tranh'' năm 1985 và
vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển (có lợi thế tuyệt
cuốn ''Lợi thế cạnh tranh quốc gia” vào năm 1990. Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh
đối về công nghệ) và các nước đang phát triển (có lợi thế tuyệt đối về nguồn lực) thông
quốc gia, Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình vào lĩnh
qua bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất và yếu kém về kiến thức
vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Kim cương”. Theo Porter
công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối [55].
thì không một quốc gia nào có được khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết
1.1.3.2. Thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (17721823)
các ngành mà chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi
Học thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các
thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Theo ông, khả năng cạnh tranh của
quốc gia dựa trên nền tảng học thuyết về giá trị lao động. Theo học thuyết này thì ngoại
một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành
thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định đúng lợi thế so sánh. Nghĩa là việc
của quốc gia đó. Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri
chuyên môn hóa của mỗi nước phải dựa trên lợi thế khi đối chiếu so sánh hao phí lao động
thức mới thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. M. Porter cho rằng các nền kinh tế đều
cho mỗi đơn vị sản phẩm giữa các quốc gia. Muốn xác định lợi thế so sánh ta phải xác lập
phải trải qua 3 giai đoạn phát triển cạnh tranh, đó là: cạnh tranh dựa vào yếu tố sản xuất,
lợi thế tuyệt đối. Toàn bộ phân tích của D. Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự
cạnh tranh dựa vào đầu tư, cạnh tranh dựa vào đổi mới và sáng tạo. Các giai đoạn cạnh
khác nhau giữa các nước trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi
tranh phản ánh nguồn lợi thế đặc trưng, bản chất và quy mô của những ngành phải đối mặt
hỏi lao động đơn vị khác nhau.
với cạnh tranh quốc tế.
Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công
Việc phân chia các giai đoạn cạnh tranh chỉ mang tính chất tương đối và các quốc
nghệ như nhau: các nước phát triển có cung về tư bản nhiều hơn các nước đang phát
gia hay các địa phương không nhất thiết phải đi qua tất cả các giai đoạn, nhưng việc xác
21
22
định được một nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào sẽ là cơ sở để chính quyền địa
các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
phương hoạch định chính sách cũng như các doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phù hợp để
Ông còn đưa ra thêm 2 yếu tố bổ sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ. (Xem
sử dụng hiệu quả nguồn lực, nâng cao năng suất và vị thế cạnh tranh.
Michael E. Porter, 2008) [21].
Hình 1.1 Các giai đoạn phát triển cạnh tranh của Porter
Nền kinh tế định
hướng yếu tố
Nền kinh tế định
hướng đầu tư
Nền kinh tế định
hướng sáng tạo
Hiệu quả nhờ
chi phí đầu vào
Hiệu quả nhờ
đầu tư mạnh
Hiệu quả nhờ
đổi mới
Hình 1.2 Mô hình Kim cương trong năng lực cạnh tranh của M. Porter
SỰ
NGẪU
NHIÊN
CHIẾN LƯỢC
CÔNG TY, CẤU
TRÚC VÀ CẠNH
TRANH NỘI ĐỊA
ĐIỀU KIỆN
YẾU TỐ SẢN
XUẤT
CÁC ĐIỀU
KIỆN VỀ
CẦU
Nguồn: Porter (1990)
Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao
độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên
ưu thế quyết định sự thành công trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số
CÁC NGÀNH
CÔNG NGHIỆP
PHỤ TRỢ VÀ CÓ
LIÊN QUAN
CHÍNH
PHỦ
ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong
và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ
việc có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước,
nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành
phụ trợ. Như vậy, lợi thế cạnh tranh có thể hiểu là lợi thế về nguồn lực, cơ hội hoặc điều
kiện tự nhiên... mà một doanh nghiệp, ngành, quốc gia hay vùng lãnh thổ có thể tạo ra một
số ưu thế vượt trội về sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc tế
giúp cho các doanh nghiệp có được “Quyền lực thị trường” để thành công trong kinh
doanh quốc tế. Theo Michael.E Porter, lợi thế cạnh tranh của quốc gia, địa phương hay
vùng lãnh thổ có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngành và sản phẩm.
Một quốc gia, vùng lãnh thổ có lợi thế cạnh tranh tốt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các
ngành và doanh nghiệp thông qua việc sản xuất và cung ứng những sản phẩm ưu việt hơn
so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Ông cho rằng, bí quyết mà một quốc gia gặt hái
được sự thành công quốc tế trong một ngành nhất định nằm trong bốn thuộc tính lớn của
một quốc gia. Bốn thuộc tính này định hình nên môi trường cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh và được coi là các
yếu tố quyết định của mô hình, là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu,
Nguồn: Lợi thế cạng tranh quốc gia của Michael M. Porter
Qua mô hình kim cương, Michael M. Porter đưa ra 4 yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh và 2 yếu tố chi phối các yếu tố quyết định của một ngành bao gồm:
v Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành:
+ Chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa. Những điều kiện kinh tế,
chính trị xã hội của một quốc gia ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ chức và quản lý doanh
nghiệp cũng như đặc tính của cạnh tranh trong nước.
+ Các điều kiện về phía cầu. Thị trường trong nước với số cầu lớn và có những
khách hàng đòi hỏi cao và những cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ tạo ra khả năng
cạnh tranh cao hơn cho doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
+ Điều kiện về các yếu tố sản xuất. Bao gồm chất lượng lao động, vốn rẻ, cơ sở hạ
tầng mạnh và công nghệ cao trong khu vực hay quốc gia sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh
của ngành, của khu vực và của cả quốc gia.
+ Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Năng lực cạnh tranh của một ngành
phụ thuộc vào các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ.
23
24
v Các yếu tố chi phối các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngành:
Các công ty thành viên của cụm sẽ chia sẻ các yêu cầu và các mối quan hệ bên trong với
+ Vai trò của chính phủ. Chính phủ có thể tác động tới năng lực cạnh tranh của
nhà cung cấp và khách hàng. Các mối quan hệ bên trong công ty yêu cầu các dịch vụ bổ
ngành thông qua cả 4 nhóm nhân tố: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các
sung từ các nhà tư vấn, đào tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các công ty chủ chốt.
ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của
Cụm sẽ tạo ra lực lượng lao động, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối
ngành. Các tác động của chính phủ có thể theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các quỹ
· Đối với các yếu tố sản xuất và các ngành hỗ trợ và liên quan; chính phủ có
thể tác động thông qua chính sách thuế, vốn, trợ cấp, quy hoạch phát triển ngành,…
hỗ trợ và các bên hữu quan [47], [50], [51].
Ban đầu, Porter cung cấp các nguyên lý cụm cho các cụm quốc gia và quốc tế
· Đối với nhu cầu trong nước, chính phủ tác động bằng những quy định mang
nhưng sau đó đã nhận ra sự thích hợp cho các cụm vùng kinh tế trong nội bộ quốc gia.
tính chất định hướng nhu cầu như quy định tiêu chuẩn đối với từng mặt hàng trong ngành,
Một cụm giống như chuỗi giá trị trong sản xuất hàng hoá, dịch vụ, trong đó các ngành sản
các biện pháp kích thích hoặc kiềm hãm nhu cầu đối với một loại sản phẩm nhất định.
xuất được liên kết với nhau bởi dòng hàng hoá và dịch vụ mạnh hơn dòng liên kết chúng
· Đối với cơ cấu và môi trường cạnh tranh, sự tác động của chính phủ thể hiện
thông qua những quy định về thị trường tín dụng, chính sách thuế và các quy định về cạnh
tranh trong sản xuất, kinh doanh của ngành hàng cụ thể.
+ Sự ngẫu nhiên hay vai trò của cơ hội. Cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan
đến tình trạng sản xuất, kinh doanh hiện tại của ngành hàng nào đó tại quốc gia. Những cơ
hội có thể đến với mặt hàng có thể là: những cuộc khủng hoảng kinh tế, thiên tai, chiến
tranh ở các quốc gia, khu vực trên thế giới; sự tiến bộ về công nghệ sinh học; sự bãi bỏ các
hàng rào thuế quan hay phi thuế quan của chính phủ các nước đối với mặt hàng nào
đó…làm nhu cầu ở những nơi này tăng lên, đẩy giá cả thế giới lên cao hay ngược lại.
với phần còn lại của nền kinh tế. Các quan hệ trong cụm được phân thành 3 loại:
(1) quan hệ mua bán bởi sự tập trung và hội nhập dọc giữa quá trình sản xuất
chính với các đầu vào và phân phối hàng hoá và dịch vụ;
(2) quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh và các đối tác nhằm khai thác thông tin về
sản phẩm và qui trình, mở rộng sự cải tiến và các liên kết chiến lược; và
(3) quan hệ giữa thị phần và nguồn tài nguyên bằng sự chia sẻ công nghệ, lực lượng
lao động và thông tin.
Việc sử dụng khái niệm cụm như là công cụ để hiểu được quá trình phát triển sản
phẩm chủ lực ở cấp độ vùng và sự ảnh hưởng của nó đến việc định dạng và chuyển giao
Hiện nay, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước những
chính sách phát triển cụm và phát triển kinh tế vùng. Ở cấp vùng, các chính sách phát triển
cơ hội và thách thức lớn khi hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Làm thế nào để tận dụng tốt
cụm được hỗ trợ bởi các cơ quan phát triển vùng và gắn với các chiến lược phát triển địa
thời cơ cũng như có biện pháp ngăn chặn những tác động tiêu cực từ hội nhập là một câu
phương. Trong trường hợp này, sự tiếp cận cụm về nguyên tắc được sử dụng như là công
hỏi mà các quốc gia đều quan tâm. Câu trả lời là: mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cần phải
cụ phát triển về ngành sản phẩm và không gian liên kết hoạt động của ngành sản phẩm đó.
phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình trong mối tương quan với nền kinh tế thế giới.
1.1.3.4 Thuyết cụm phát triển của Michael E. Porter
1.1.3.5 Phát triển bền vững sản phẩm chủ lực
Năm 1980, lần đầu tiên trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (được Hiệp hội
Được phát triển bởi M. Porter (1990), lý thuyết cụm được sử dụng một các phổ
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế IUCN công bố), thuật ngữ "phát
biến trong việc hoạch định các chính sách công cộng và kinh tế. Cụm được tạo thành khi
triển bền vững" xuất hiện với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không
các lợi thế cạnh tranh kéo theo sự gia tăng, sự bố trí lại, sự phát triển các ngành, sản phẩm
thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã
tương tự vào trong một vùng nhằm tăng khả năng cạnh tranh bằng việc tăng năng suất,
hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Đến năm 1987, khái niệm này được phổ
khuyến khích các công ty mới cải tiến, thậm chí giữa các đối thủ cạnh tranh, tạo ra những
biến rộng rãi thông qua nội dung của Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our
cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. “Cụm là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành
Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới WCED (nay là Ủy ban
sản xuất, dịch vụ nhằm tận dụng các cơ hội qua liên kết địa lý” (Chritian Ketels, 2003).
Brundtland). Theo báo cáo này thì phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng
25
26
được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng
nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm thiểu tình trạng mất cân bằng trongthu
nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm hài
nhập thu nhập giữa thành thị và nông thôn.
hòa giữa phát triển kinh tế hiệu quả với xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ. Để
đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế xã hội, nhà quản lý, các tổ chức xã hội...
phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế xã
hội và môi trường.
2) Liên quan đến yếu tố tài nguyên: Phát triển sản phẩm chủ lực trong giới hạn khả
năng cho phép của tài nguyên, nguồn lực và hệ sinh thái.
Phát triển sản phẩm chủ lực phải góp phần giảm sử dụng năng lượng hóa thạch, hạn
chế sử dụng các hóa chất độc hại, giảm chất thải công nghiệp và làm sạch các khu vực bị ô
Sản phẩm chủ lực và sự phát triển bền vững
nhiễm, đồng thời ngăn ngừa việc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên tái tạo và nước;
Quá trình toàn cầu hóa đi đôi với tự do hóa thương mại phát triển nhanh chóng nhờ
chặn đứng phá rừng, xói mòn đất, rửa trôi chất màu và phá hủy hệ sinh thái, giảm đốt củi
sự thúc đẩy bởi các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đã làm thay đổi quan trọng diện
mạo của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội ở tất cả các nước. Quá trình này đã mang đến
nhiều cơ hội cũng như thách thức mới với nguy cơ phát triển thiếu bền vững. Do vậy, việc
và sử dụng phân gia súc.
3) Liên quan đến yếu tố lợi nhuận: Phát triển sản phẩm chủ lực phải tạo ra giá trị
một cách công bằng cho người tiêu dùng và các bên liên quan trong chuỗi giá trị.
phát triển sản phẩm chủ lực nhất thiết phải cân nhắc đến tính bền vững, lâu dài của chúng
Phát triển sản phẩm chủ lực cần bảo đảm khả năng sinh lời cho các doanh nghiệp
và đặt trong mối quan hệ tam giác “triple bottom line”, với 3 cạnh nối các đỉnh: kinh tế, xã
và các bên liên quan, tạo ra giá trị hữu dụng cao cho người tiêu dùng, đảm bảo nối kết
hội và môi trường.
giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các công ty lớn và các công ty đa quốc gia, công
Hình 1.3 Quan hệ giữa Con người – Tài nguyên – Lợi nhuận với Sản phẩm
nghiệp hóa, hiện đạt hóa và không ngừng tăng quy mô sản xuất hợp lý [42].
1.2. Phương pháp xác định và phát triển sản phẩm chủ chủ lực
1.2.1. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
1.2.1.1. Khái niệm tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một hoặc một số chỉ tiêu định lượng hoặc
định tính mà theo đó, người ta có thể nhận biết được sản phẩm nào có ưu thế trong sản
xuất, kinh doanh hoặc cạnh tranh trên thương trường để công nhận là sản phẩm chủ lực.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu thì có thể tiếp cận vấn đề này từ các
CON
NGƯỜI
khía cạnh như sau:
Một là, phải xem xét, đánh giá và lựa chọn sản phẩm chủ lực dựa trên cả hai nhóm
tiêu chí, tiêu chí cần và tiêu chí đủ.
Nguồn: Theo thiết kế sản phẩm
SẢN
PHẨM
CHỦ LỰC
1) Liên quan
người: Phát triển sản
đáp ứng các yêu cầu
hướng tới phát triển bền vững
TÀI
NGUYÊN
LỢI
NHUẬN
về xã hội và
đến yếu tố Con
phẩm chủ lực phải
công bằng.
Phát triển sản phẩm chủ lực sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động ở
+ Nhóm tiêu chí cần: là những yếu tố nội tại của một sản phẩm cụ thể nào đó mà
chúng có thể giúp sản phẩm đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội, đặc biệt là đáp ứng
được các mục tiêu của nhà quản lý như: có quy mô lớn, chiếm tỷ trọng cao, nộp ngân sách
lớn, giải quyết nhiều lao động... Khi một sản phẩm có đủ các yếu này thì sản phẩm đó
được coi là sản phẩm chủ lực.
+ Nhóm tiêu chí đủ: là những yếu tố mà sản phẩm chủ lực đòi hỏi về phía xã hội.
Chẳng hạn như: phải có tài nguyên, nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng thương hiệu, chính
27
sách hợp lý… Trên thực tế, khi các doanh nghiệp hay nhà nước đáp ứng tốt những đòi hỏi
này thì sản phẩm bình thường vẫn có thể trở thành sản phẩm chủ lực.
Có thể nói rằng, tiêu chí cần là mục tiêu cuối cùng mà một sản phẩm phải hướng
tới, còn tiêu chí đủ là những yếu tố mà “xã hội” phải quan tâm đảm bảo để sản phẩm đạt
đến mục tiêu của mình.
Hai là, khi xem xét, đánh giá lựa chọn sản phẩm chủ lực phải cân nhắc đầy đủ cả
hai tiêu chí, tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính.
28
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính đặc trưng của địa phương. Tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực phải thể hiện được những đặc trưng của từng vùng, miền. Đây là cơ sở phân
biệt một hàng hóa của địa phương này với hàng hóa của địa phương khác.
+ Tiêu chí phải bảo đảm dễ hiểu, dễ thực hiện. Xây dựng tiêu chí xác định sản
phẩm chủ lực không nên sử dụng các mô hình toán phức tạp, triết lý cao siêu hay viện dẫn
quanh co làm cho việc áp dụng tiêu chí vào thực tế gặp khó khăn phức tạp.
+Tiêu chí phải bảo đảm tính công khai. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực của địa
Mặc dù mọi phương pháp xác định sản phẩm chủ lực đều cố gắng lượng hóa đến
phương cần được xây dựng tập thể và công bố rộng rãi cho mọi đối tượng có liên quan đều
mức tối đa để có thể đưa ra kết quả khách quan, chính xác, nhưng trên thực tế không thể
biết. Việc xây dựng và công bố này nhất thiết phải được thực hiện ngay từ khi ban hành
quy tất cả các yếu tố kinh tế và xã hội thành các con số. Đó là chưa kể còn có nhiều biến
chương trình hay qui định về hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương. [2], [8]...
số khó lường có thể làm đảo lộn mọi tính toán. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng cả
1.2.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
hai loại tiêu chí định tính và định lượng. Tiêu chí định lượng dựa trên các số liệu thống kê,
Việc xây dựng tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có ý nghĩa rất quan trọng cả về
phân tích bằng các thuật toán, còn tiêu chí định tính chủ yếu dựa trên các yếu tố kinh tế,
chính trị, xã hội được xác định bằng kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia [37].
mặt giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Cụ thể:
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là thước đo giá trị nội tại và khách quan của
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cũng cần phải vận dụng linh hoạt, không cứng
hàng hóa. Nó phản ảnh trung thực về khả năng đáp ứng những đòi hỏi của thị trường, của
nhắc khi sử dụng các tiêu chí. Chẳng hạn, có tiêu chí về lý thuyết có thể định lượng như
xã hội cũng như của nhà quản lý. Thông qua các tiêu chí đánh giá, người ta có thể nhận
nhu cầu thị trường, giá trị thương hiệu, nhưng nếu không thể đo đếm, tính toán được các
biết được sản phẩm chủ lực đang sở hữu những tính năng, chất lượng gì và có khả năng
chỉ tiêu đo lường một cách chính xác thì đành phải sử dụng nó như là tiêu chí định tính,
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng tới đâu.
với vai trò đánh giá của các chuyên gia. Tuy vậy, khi xây dựng tiêu chí, cần cố gắng lượng
hóa cả các đánh giá định lượng và định tính thành điểm số để dễ so sánh và lựa chọn.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực còn là những yêu sách về phía xã hội và nhà
quản lý. Nếu đáp ứng được những yêu sách này thì sản phẩm sẽ đủ điều kiện trở thành sản
1.2.1.2. Yêu cầu đối với tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực
phẩm chủ lực. Như vậy, cũng có thể xem hệ thống tiêu chí đánh giá là khuôn mẫu cho các
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực chỉ bảo đảm được chất lượng tốt và khả thi khi
chính sách đầu tư về công nghệ, sử dụng tài nguyên, đào tạo tay nghề và các chính sách hỗ
nó thỏa mãn các yêu cầu sau:
trợ của Nhà nước.
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính định lượng. Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực có
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, khi được thừa nhận, là một văn bản có giá
thể xây dựng dưới dạng định tính hoặc định lượng. Tuy nhiên, để bảo đảm rõ ràng, minh
trị pháp lý, chi phối mọi hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh, nhà hoạch định chính
bạch thì các tiêu chí cần được lượng hóa. Những tiêu chí không thể lượng hóa được như
sách và nhà quản lý. Để phát triển sản phẩm chủ lực, các nhà sản xuất phải điều chỉnh
chỉ tiêu đánh giá độ mạnh của thương hiệu, biểu trưng văn hóa địa phương…thì cần có
công nghệ, tổ chức lại sản xuất và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hợp chuẩn. Sẽ
tiêu chí trung gian khác làm cơ sở đánh giá.
không còn tùy tiện, chủ quan xem thường qui chuẩn thường thấy ở đối tượng này. Nhà
+ Tiêu chí phải bảo đảm tính khách quan, khoa học. Tiêu chí xác định sản phẩm
chủ lực được xây dựng dựa trên các số liệu, dữ kiện khách quan, không áp đặt theo cảm
tính hay ý chí chủ quan của bất kỳ ai. Đồng thời nó còn phù hợp với qui luật vận động của
các yếu tố kinh tế, xã hội – văn hóa.
hoạch định chính sách và nhà quản lý sẽ lấy đó làm mục tiêu để định ra các biện pháp tổ
chức thực hiện thích hợp.
+ Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là một bản tuyên ngôn về chất lượng của
hàng hóa, thể hiện sự cam kết về trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà sản xuất với cộng
29
30
đồng, xã hội. Thông qua hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực, người tiêu dùng
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực đang xét càng quan trọng đối
hiểu được rằng nhà sản xuất sẽ làm gì, làm như thế nào và chịu trách nhiệm ra sao trong
với vùng vì nó đóng góp giá trị lớn và có sức tác động mạnh đến kết quả sản xuất kinh
việc cung cấp các tiện ích để thỏa mãn nhu cầu của họ ở chính trong sản trong phẩm của
doanh của toàn vùng.
các nhà sản xuất.
(2) Hệ số địa phương hóa của sản phẩm trong vùng (LQ ir )
+ Hệ thống tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực là bản tuyên bố sứ mạng của các
Hệ số địa phương hóa (Location Quotient ) giúp đo lường mức độ tập trung chuyên
doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh, có giá trị lâu dài về mục đích và giúp phân
môn hóa của vùng, miền hay địa phương về lĩnh vực khu vực i trong mối quan hệ với
biệt được doanh nghiệp này với những doanh nghiệp khác. Có thể gọi đó là phát biểu của
vùng lãnh thổ lớn hơn R (thường là một quốc gia) và trong toàn bộ nền kinh tế (tức là, tất
một doanh nghiệp về triết lý kinh doanh, những nguyên tắc kinh doanh, thể hiện niềm tin
cả các lĩnh vực của nền kinh tế của một quốc gia). Thông qua hệ số này, người ta thấy
và tầm nhìn của doanh nghiệp [2], [8], [16], [17], [37]....
được mức độ tập trung chuyên môn hóa của một ngành hay sản phẩm nào đó tại một vùng,
1.2.1.4. Nội dung các tiêu chí
miền hay địa phương so với mức độ tập trung chuyên môn hóa ngành, sản phẩm đó của
Xuất phát từ các vấn đề đã bàn luận trên đây, có thể thấy việc xác định sản phẩm
vùng lớn hơn hay trên cả nước ((Maggioni và Riggi năm 2008).
chủ lực của quốc gia, địa phương hay vùng lãnh thổ cần dựa trên các tiêu chí định lượng
Hệ số địa phương hóa được thể hiện theo công thức:
và định tính sau đây:
LQ ir =
v Nhóm tiêu chí định lượng:
Có tác dụng đánh giá khả năng sản xuất, mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
X ir / X Ir
X iR / X IR
(1.2)
Trong đó:
vùng và lợi thế cạnh tranh về mặt định lượng thông qua các số liệu thống kê hoặc điều tra
Xir: Giá trị sản lượng sản phẩm loại i của vùng, miền, địa phương r
thu thập được qua các thời kỳ. Nhóm này có 10 tiêu chí gồm:
X Ir : Tổng giá trị sản lượng trong vùng, miền, địa phương r
(1) Tỷ trọng của sản phẩm so với toàn vùng (ROV).
X iR : Giá trị sản lượng sản phẩm i toàn ngành (khu vực lớn hơn hay cả nước R)
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực vùng với tổng giá trị
XIR: Tổng giá trị sản lượng của cả nước (hoặc khu vực lớn hơn hay cả nước R)
sản lượng của vùng được tạo ra trong một thời kỳ xác định. Tiêu chí này phản ảnh mức độ
Thực tế nghiên cứu của các nước cho thấy nếu LQ <1, cho biết vùng, miền hay địa
tập trung lao động xã hội của sản phẩm tại một vùng, miền hay địa phương được thể hiện
phương đang xét có ít tiềm năng phát triển sản phẩm i; LQ> 1, cho biết vùng, miền hay địa
thông qua giá trị sản lượng, giá trị gia tăng....(Lindqvist et al, 2003; Karlsson, năm 2008;
phương đang xét nhiều hay ít tiềm năng phát triển sản phẩm i và khi LQ≥1,25, cho biết
Solvell et al, 2009). Tiêu chí này còn phản ảnh tầm quan trọng của sản phẩm chủ lực
vùng, miền hay địa phương đang xét có tiềm năng đặc biệt phát triển sản phẩm i để cạnh
thông qua sự đóng góp giá trị của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương.
tranh toàn cầu (Florida State University, 2010).
Tỷ trọng này được tính theo công thức :
R OV
OV P
=
x 100
OV R
Trong đó :
· OVP : Giá trị sản lượng của sản phẩm chủ lực
· OVR : Tổng giá trị sản lượng của toàn vùng
(3) Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm trong vùng (Grw).
(1.1)
Tiêu chí này cho biết mức độ tăng trưởng về sản lượng, giá trị sản lượng hoặc giá
trị gia tăng của sản phẩm chủ lực. Nó phản ảnh khả năng và triển vọng phát triển của hàng
hóa chủ lực trong tương lai.
Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm có thể nhận được từ số báo cáo hàng năm của địa
hoặc tính theo công thức :
31
Grw =
32
Tỷ trọng này được tính theo công thức :
OV 1 - OV 0
x 100
OV 0
(1.3)
R EX =
Trong đó :
OV 1 : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm xem xét
OV0 : Giá trị sản lượng hoặc sản lượng của sản phẩm tại thời điểm định gốc so sánh
Tiêu chí này có thể xem xét qua nhiều năm. Nếu tốc độ tăng trưởng trung bình càng
cao chứng tỏ sản phẩm chủ lực của vùng, miền hay địa phương đang xét càng có khả năng
và triển vọng tăng trưởng tốt, ổn định và bền vững.
EX P
x 100
EX R
(1.5)
Trong đó :
· EXP : Giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực
· EXR : Tổng giá trị xuất khẩu của toàn vùng
Nếu tỷ trọng này càng cao chứng tỏ tính chủ lực của sản phẩm đang xét càng mạnh
vì nó ảnh hưởng lớn đến thành tích xuất khẩu chung của toàn vùng.
(4) Hệ số vượt trội của sản phẩm (C Grw ).
(6) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu nội địa (RCA D )
Tiêu chí này phản ảnh khả năng vượt trội của hàng hóa chủ lực đối với toàn ngành
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của vùng về một sản
kinh tế. Nếu hệ số này càng cao chứng tỏ hàng hóa chủ lực đang xét giữ vai trò quyết định
phẩm cụ thể trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả nước về sản phẩm đó. Nếu tỷ
trong việc hình thành mức tăng trưởng chung cho toàn ngành.
trọng xuất khẩu của vùng về sản phẩm chủ lực lớn hơn tỷ trọng sản phẩm cùng loại đó
Công thức xác định hệ số vượt trội có dạng :
CGrw =
G RWi
G RWs
trong tổng xuất khẩu của cả nước thì vùng, địa phương đang xét được coi là vùng có lợi
thế so sánh về loại sản phẩm đó.
(1.4)
Công thức tính hệ số này như sau:
RCA D =
Trong đó:
G Rwi : là tốc độ phát triển của sản phẩm i
GRWs: là tốc độ phát triển chung của toàn bộ ngành (khu vực) kinh tế
Sử dụng hệ số vượt trội để đánh giá mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng sản phẩm i
đến toàn bộ ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ) sản phẩm i.
Nếu CGrw < 1, việc phát triển sản phẩm i sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm i trong
ngành nên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (kéo giảm tốc độ tăng
trưởng của ngành); Nếu CGrw >1, việc phát triển sản phẩm y sẽ làm tăng tỷ trọng giá trị sản
phẩm i trong ngành nên sẽ ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng ngành kinh tế (đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng của ngành).
(5) Tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm so với toàn vùng (REX)
Là tỷ lệ so sánh giữa giá trị xuất khẩu của sản phẩm chủ lực với tổng giá trị xuất
khẩu của toàn vùng. Tiêu chí này phản ảnh tầm quan trọng của sản phẩm chủ lực trong
lĩnh vực xuất khẩu thông qua mức đóng góp của nó trong tổng giá trị xuất khẩu của toàn
vùng cũng như khả năng đóng góp ngoại tệ cho địa phương thông qua sự đóng góp giá trị
xuất khẩu của nó vào thành tích chung của cả vùng, miền, địa phương.
EX ir / EX r
EX iN / X N
(1.6)
Trong đó:
EX ir : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của vùng, địa phương r
EXr: Tổng giá trị xuất khẩu của vùng, địa phương r
EX iN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của cả nước
EXN: Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả nước
Nếu hệ số RCA D lớn hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là có
lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i. Hệ số này càng cao thì lợi thế so sánh càng cao.
Ngược lại, nếu RCAD nhỏ hơn 1 thì vùng hay địa phương đang xem xét được coi là không
có lợi thế so sánh nội địa về sản phẩm i.
(7) Hệ số lợi thế so sánh hiện hữu thế giới của sản phẩm (RCAW)
Là chỉ tiêu phản ảnh khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa
chủ lực trong mối tương quan với mức xuất khẩu của cả thế giới về hàng hóa đó. Nếu tỷ
trọng xuất khẩu của quốc gia về hàng hóa chủ lực lớn hơn tỷ trọng hàng hóa đó trong tổng
xuất khẩu của cả thế giới thì quốc gia đó được coi là có lợi thế so sánh về hàng hóa đó.
33
34
Công thức tính hệ số này như sau:
RCA W =
Mức bảo hộ hiệu dụng làm tăng giá trị gia tăng trong nước và được tính toán bằng
EX iN / EX N
EX iw / X W
công thức:
(1.7)
ERP =
Trong đó:
AV PD - AV PW
AV PW
(1.9)
EXiN : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của quốc gia
Trong đó:
EX N : Tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia
AVPD : là giá trị gia tăng tính theo giá trong nước;
EXiw: Giá trị xuất khẩu sản phẩm i của thế giới
AV PW : là giá trị gia tăng tính theo giá thế giới.
EX W : Tổng giá giá trị xuất khẩu của cả thế giới
Hệ số bảo hộ hiệu dụng có thể có giá trị âm, có thể có giá trị dương hoặc bằng 0.
Nếu hệ số RCAW lớn hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là có lợi thế so sánh
Hệ số này thường có giá trị âm đối với những ngành công nghiệp có thế mạnh xuất khẩu,
quốc tế về sản phẩm i. Hệ số này càng cao thì lợi thế so sánh càng cao. Ngược lại, nếu
bởi vì khi đó thuế nhập khẩu đối với ngành đó bằng 0, trong khi đó đầu vào sản xuất lại
RCA W nhỏ hơn 1 thì quốc gia đang xem xét được coi là không có lợi thế so sánh quốc tế
phải chịu thuế nhập khẩu. Việc tính toán AVPD và AVPW cần dựa vào bảng cân đối liên
về sản phẩm i.
ngành I/0.
8) Hệ số thương mại ròng của sản phẩm (NTR)
10) Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC)
Là chỉ tiêu phản ảnh mối tương quan giữa xuất và nhập khẩu của hàng hóa cùng
loại với hàng hóa chủ lực.
DRC là chỉ số thường được dùng để đánh giá lợi thế so sánh của ngành hàng thông
qua xem xét tính hiệu quả của nguồn lực trong nước được sử dụng để sản xuất ra sản
Công thức tính hệ số thương mại ròng:
EX - IM i
NTR = i
EX i + IM i
phẩm. DRC biểu thị tổng chi phí của các nguồn lực trong nước được sử dụng tương ứng
(1.8)
Trong đó:
với 1 đơn vị tiền tệ thu được từ sản phẩm đem bán. Do đó, DRC nhỏ hơn 1 có nghĩa là sản
phẩm có lợi thế so sánh và ngược lại. DRC càng nhỏ thì lợi thế so sánh càng cao.
Công thức tính:
EX i : Giá trị xuất khẩu sản phẩm i
DRC =
IMi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm i
Nếu hệ số NTR có giá trị lớn hơn 0 thì quốc gia đang xem xét có lợi thế so sánh ở
( PV - DIV - FIV )
FIV i
P i ( 1 )
PV i
sản phẩm i, còn nếu NTR nhỏ hơn 0 thì quốc gia đang xem xét không có lợi thế so sánh ở
Trong đó:
sản phẩm i. Giá trị NTR gần bằng 0 là tình trạng lợi thế không rõ ràng
PVi: Giá trị sản xuất của một đơn vị sản phẩm i
(9) Hệ số bảo hộ hiệu dụng của hàng hóa chủ lực (EPR)
DIV i : Giá trị đầu vào nội địa trong một đơn vị sản phẩm i
Hệ số bảo hộ hiệu dụng của một sản phẩm là chênh lệch giữa giá trị gia tăng tính
FIVi: Giá trị đầu vào nhập khẩu trong một đơn vị sản phẩm i
(1.10
)
theo giá trong nước của ngành sản phẩm đó và giá trị gia tăng tính theo giá thế giới rồi
P i : Giá nhập khẩu của một đơn vị sản phẩm i (tính theo giá nội địa)
chia cho giá trị gia tăng tính theo giá thế giới. ERP Là chỉ tiêu phản ảnh mức độ bảo hộ
Hệ số DRC>1 có nghĩa là phải tốn hơn 1 đồng chi phí nguồn lực trong nước để tạo
trong nước đối với hàng hóa chủ lực hoặc nguyên liệu đầu vào sản xuất hàng hóa chủ lực
thông qua thuế quan.
ra 1 đồng giá trị gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả. [10], [43], [46]
v Nhóm tiêu chí định tính:
35
Là các tiêu chí khó lượng hóa mà chỉ có thể dễ dàng thu thập thông tin thông qua
các phương pháp định tính như phỏng vấn, khảo sát....
Nhóm này có 5 tiêu chí gồm:
36
định mức độ đạt được của các tiêu chí trên. Do vậy, bên cạnh hệ thống các tiêu chí xác
định sản phẩm chủ lực, phải xây dựng khung thang điểm với điểm chuẩn tối đa cho hệ
thống tiêu chí cũng như từng tiêu chí cụ thể.
+ Về điểm chuẩn tối đa. Đây là biểu thị mức độ đạt được của hệ thống các tiêu chí;
(1) Qui mô thị trường
là cơ sở để đưa ra quyết định việc có công nhận một sản phẩm nào đó là sản phẩm chủ lực
Chỉ tiêu này cho biết qui mô thị trường tiêu thụ hàng hóa chủ lực rộng hay hẹp, nội
hay không (xét về mặt định lượng). Điểm chuẩn tối đa của hệ thống có thể là 10, 20, 50
địa hay quốc tế. Qui mô thị trường, đặc biệt thị trường quốc tế càng rộng lớn, nói lên khả
hoặc 100, tùy vào quyết định chủ quan của người xây dựng. Tuy nhiên, để đảm bảo việc
năng phát triển ổn định và bền vững của hàng hóa chủ lực trong tương lai lâu dài.
đánh giá chính xác đến mức phần trăm (1/100), cần chọn theo thang điểm ‘bách phân’, tối
(2) Ngành công nghiệp hoặc dịch vụ phụ trợ
đa là 100 điểm (thực tế nhiều địa phương trong nước đã làm).
Chỉ tiêu này phản ảnh bối cảnh tác động từ bên ngoài có thuận lợi hay không đối
+ Về điểm chuẩn tối đa cho từng tiêu chí. Đây là biểu thị mức độ đạt được của một
với quá trình sản xuất và cung ứng hàng hóa chủ lực. Ngành công nghiệp hoặc dịch vụ
tiêu chí cụ thể; là cơ sở xem xét mức độ đạt được về mặt định lượng của một yếu tố nào
phụ trợ càng đa dạng và phát triển thì hàng hóa chủ lực càng có điều kiện phát triển tốt.
đó. Do mỗi tiêu chí có mức độ quan trọng khác nhau nên khi xây dựng thang điểm chuẩn
(3) Mức độ lan tỏa đến các lĩnh vực, ngành nghề khác
cho mỗi tiêu chí, cần tiến hành theo phương pháp chuyên gia thông qua phỏng vấn bằng
Chỉ tiêu này lại cho biết sự phát triển của hàng hóa chủ lực sẽ có lợi cho những
bảng câu hỏi để thu thập thông tin, xử lý và tìm ra trọng số cho mỗi tiêu chí.
ngành nghề nào trong nền kinh tế. Mức độ lan tỏa càng lớn chứng tỏ vai trò của hàng hóa
Nếu gọi i (i=1,2,3,4,5...n), là các phương án trả lời cho mỗi câu hỏi trong thang đo
chủ lực càng quan trọng bởi sự tồn tại và phát triển của hàng hóa chủ lực đã góp phần
và cũng là trọng số của phương án lựa chọn; tỷ lệ người chọn trả lời phương án là r (r=%
quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế trong vùng.
của số người tham gia trả lời); vậy, trọng số của một tiêu chí cụ thể nào đó chính là ∑ir.
(4) An toàn và thân thiện với môi trường
Từ đó, nếu gọi t là tiêu chí thứ t (với t = 1,2,3,4,5...m) thì tổng trọng số của cả hệ thống
Sản xuất gắn với môi trường đang được xem là “vũ khí” tăng sức cạnh tranh của
các tiêu chi được biết là ∑∑ir. Bây giờ gọi P là tổng điểm chuẩn tối đa của hệ thống và P t
doanh nghiệp trên thương trường. Một ngành sản xuất không phá hủy cân bằng hệ sinh
là điểm chuẩn tối đa của tiêu chí. Vậy, điểm chuẩn tối đa của một tiêu chí được tính bằng
thái, không ô nhiễm môi trường tự nhiên, không ảnh hưởng đến sức khỏe cộng
công thứcsau:
đồng…được xã hội thừa nhận, pháp luật bảo vệ. Đây chính là điều kiện gần như tiên quyết
để phát triển hàng hóa chủ lực một cách bền vững.
(5) Chính sách ưu đãi của Nhà nước
Nội dung bao gồm ưu đãi trong sử dụng đất đai, vay vốn, thuế suất, đầu tư,…Một
ngành sản xuất nếu được nhiều chính sách ưu đãi sẽ có nhiều thuận lợi hơn cho cạnh
tranh, tổ chức đầu tư, sản xuất cũng như cung ứng sản phẩm ra thị trường. [2], [8], [16].
n
å ir
P t = P . mi =1 n
(1.11)
åå ir
t =1 i =1
1.2.2. Qui trình xác định sản phẩm chủ lực
1.2.1.5 Xây dựng khung thang điểm và xác định điểm chuẩn tối đa cho tiêu chí
Như phân tích ở phần trên, đánh giá và xét chọn sản phẩm chủ lực là một việc làm
Xây dựng hệ thống các tiêu chí để xác định sản phẩm chủ lực là việc làm cần thiết,
cực kỳ trọng đối với mỗi địa phương, doanh nghiệp. Nó góp phần nâng cao vị thế cạnh
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là cơ sở để xem xét các yếu tố lợi thế cạnh tranh, tiềm
tranh và bảo đảm sự tồn tại, phát triển một cách bền vững của mỗi địa phương cũng như
năng, nguồn lực cũng như các yếu tố liên quan đến điều kiện và môi trường kinh doanh
doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc đánh giá, lựa chọn sản phẩm chủ lực đòi hỏi phải
khác. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ, vì chưa có cơ sở định lượng để xác
được tiến hành một cách nghiêm túc, khách quan và khoa học.
37
38
Qua nghiên cứu qui trình đánh giá, xét chọn sản phẩm của các địa phương tác giả
nhận thấy, để đảm bảo được yêu cầu này, ĐBSCL cần thực hiện theo qui trình với 4 giai
đoạn với các nội dung công việc chủ yếu như sau:
+ Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực cho toàn vùng. Bộ tiêu
chí này phải đảm bảo các yêu cầu chủ yếu như:
· Bảo đảm tính định tính và định lượng. Cần ưu tiên xem xét các tiêu chí định
Hình 1.4 Qui trình đánh giá, xét chọn sản phẩm chủ lực
lượng kết hợp cân nhắc một số tiêu chí định tính cần thiết.
· Bảo đảm cả điều kiện cần và điều kiện đủ. Tức Bộ tiêu chí phải vừa thể hiện
GIAI ĐOẠN
CHUẨN BỊ
rõ khả năng đáp ứng các yêu cầu của thị trường, đồng thời chỉ ra được những bức xúc, đòi
hỏi mà xã hội, địa phương cần hỗ trợ.
GIAI ĐOẠN THÔNG TIN
VÀ TIẾP NHẬN ĐĂNG KÝ
Để bảo đảm khách quan, khoa học, thiết nghĩ công việc này cần giao cho các nhà
nghiên cứu và chuyên môn trong từng lĩnh vực như sản xuất, kinh doanh, xuất nhập
Đủ chuẩn
Không đủ chuẩn
GIAI ĐOẠN
ĐÁNH GIÁ
Thiếu chuẩn
khẩu…phối hợp thực hiện.
+ Xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của vùng. Một sản
Không đủ chuẩn
LOẠI
BỎ
phẩm có thể chưa trở thành chủ lực của vùng do còn thiếu các điều kiện hỗ trợ cần thiết
như đầu tư, xây dựng và quảng bá thương hiệu…Do đó, các địa phương cần thống nhất
xây dựng chính sách ưu tiên, hỗ trợ chung để sản phẩm đó trở thành chủ lực của vùng.
HOÀN THIỆN
Để đảm bảo tính hiệu lực khi thực thi, việc hoạch định chính sách phải được các cơ
Đủ chuẩn
GIAI ĐOẠN CÔNG
NHẬN TÔN VINH
quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực tài chính, kế hoạch đầu tư, quản lý nhà nước
về sản xuất kinh doanh phối hợp với bộ phận chỉ đạo chung xây dựng.
+ Thiết kế các thủ tục đăng ký, mẫu biểu giấy tờ cần thiết. Cần hoàn thiện các qui
Nguồn: Tác giả tổng hợp và xây dựng
1) Giai đoạn chuẩn bị
Trong giai đoạn này, các địa phương thực hiện bước 1 của qui trình với công việc
chủ yếu là chuẩn bị về thủ tục mang tính pháp lý trên cơ sở phân tích điều kiện thực tế của
vùng cũng như của từng địa phương như:
+ Thành lập cơ quan chỉ đạo chung về đánh giá, xét chọn và hỗ trợ phát triển sản
phẩm chủ lực của toàn vùng. Để đảm bảo sự chỉ đạo một cách nhất quán, tránh việc mỗi
địa phương chỉ đạo thực hiện theo cách riêng vì lợi ích mang tính cục bộ, cần hình thành
một bộ phận chỉ đạo có tính độc lập. Bộ phận này có nhiệm vụ thống nhất về mặt hoạch
định chính sách, qui trình, thủ tục pháp lý, chỉ đạo và giám sát việc thực hiện đối với từng
địa phương. Ngoài ra, bộ phận này phải được các địa phương thừa nhận về pháp nhân và
đặt dưới sự quản lý chung của Ban chỉ đạo Tây Nam bộ.
định, hướng dẫn, mẫu biểu giấy tờ cần thiết…để làm cơ sở pháp lý và tạo ra tính thống
nhất trong chỉ đạo cũng như quản lý hành chính trong quá trình thực hiện.
Về thẩm quyền, các thủ tục này do bộ phận chỉ đạo chung soạn thảo và được các
địa phương phê duyệt.
2) Giai đoạn thông tin và tiếp nhận đăng ký
Đây là bước 2 của qui trình xác định với 2 công việc chủ yếu sau:
+ Công bố Chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của vùng. Cơ quan
truyền thông của bộ phận chỉ đạo chung thông tin toàn bộ nội dung chương trình, chính
sách hỗ trợ, các qui định, hướng dẫn đăng ký tham gia và Bộ tiêu chí đánh giá, xét chọn
sản phẩm chủ lực cho tất các doanh nghiệp, người sản xuất được biết thông qua các
phương tiện truyền thông phù hợp.
+ Tiếp nhận đăng ký và sàng lọc đối tượng tham gia chương trình. Nhằm bảo đảm
tính khả thi và tập trung, tránh dàn trải, bộ phận chỉ đạo tiếp nhận đăng ký của các doanh
nghiệp và tiến hành sàng lọc với 2 nội dung sau:
39
· Sàng lọc sản phẩm có triển vọng. Căn cứ Phiếu đăng ký của doanh nghiệp
40
4) Giai đoạn công nhận và tôn vinh sản phẩm chủ lực
tham gia Chương trình, bộ phận chỉ đạo có trách nhiệm tổng hợp, phân loại theo từng
Với bước cuối cúng này, Ban chỉ đạo căn cứ đề nghị của Hội đồng chuyên ngành
nhóm ngành kinh tế kỹ thuật và lên kế hoạch kiểm tra, khảo sát thực tế tại doanh nghiệp,
sẽ, xem xét ra quyết nghị công nhận sản phẩm chủ lực của vùng. Quyết nghị này phải
sau đó lên “Danh sách sản phẩm có triển vọng” để tiếp tục xem xét, hỗ trợ.
được UBND các địa phương phê duyệt và thông qua. Đây là căn cứ pháp lý để các doanh
· Sàng lọc doanh nghiệp có năng lực. Cũng trên cơ sở Phiếu đăng ký tham gia
nghiệp và nhà sản xuất hưởng hỗ trợ theo các cơ chế đặc thù của địa phương mình. Bên
của các doanh nghiệp, đồng thời căn cứ vào các điều kiện qui định ban đầu để tiến hành
cạnh đó, các sản phẩm chủ lực còn được tôn vinh và công bố, giới thiệu rộng rãi trên các
sàng lọc, chọn ra các doanh nghiệp có năng lực tham gia chương trình
phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương cũng như địa phương [2], [8], [16], [17]..
Danh sách các doanh nghiệp có năng lực và Danh mục sản phẩm có triển vọng
tham gia chương trình nhất thiết phải được các địa phương thông qua và phê duyệt.
3) Giai đoạn tổ chức đánh giá, xét chọn
1.3. Kinh nghiệm phát triển sản phẩm chủ lực của một vài quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á
Nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước Đông Nam Á có nét tương
Giai đoạn này, các Hội đồng chuyên ngành (do bộ phận chỉ đạo chung thành lập)
đồng về nhiều mặt như vùng kinh tế ĐBSCL của Việt Nam, đã rất khó khăn trong
căn cứ vào hệ thống tiêu chí (cả định tính lẫn định lượng), thang bảng điểm đã được phê
phát triển kinh tế vào đầu nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, gần đây đã phát triển vượt
duyệt để tổ chức đánh giá, xét chọn đối với các sản phẩm có triển vọng được bộ phận chỉ
bậc nhờ vào lựa chọn và phát triển sản phẩm/ngành sản phẩm phù hợp theo mô hình
đạo chung lựa chọn và các địa phương thông qua. Việc đánh giá, xét chọn ở giai đoạn này
cụm phát triển của M. Porter. Xin dẫn chứng 3 trường hợp điễn hình nhất như sau:
có thể dẫn đến 3 tình huống với 3 phương án giải quyết và thực hiện theo 2 bước sau:
Bước 3. Đánh giá sản phẩm chủ lực trên 2 nhóm tiêu chí định lượng và định tính:
1.3.1 Kinh nghiệm của Indonesia
Chính phủ Indonesia cho rằng, với một đất nước mà kinh tế nông nghiệp còn giữ
Phương án 1: Sản phẩm đạt tổng điểm chuẩn theo quy định thì được chuyển thẳng
vai trò chủ lực, nông dân và nông thôn vẫn còn là địa bàn quan trọng thì nhiệm vụ trước
sang giai đoạn 4 (Bước 5. công nhận và tôn vinh sản phẩm chủ lực của vùng và đầu tư
hết là phải có những chính sách tác động mạnh mẽ vào công nghiệp chế biến nông, lâm
phát triển bền vững).
sản. Chính phủ cũng đã tiến hành cải tổ lại khu vực kinh tế đồn điền nhằm mục đích tư
Phương án 2: Sản phẩm chủ lực không đạt yêu cầu theo điểm chuẩn quy định (cả
điều kiện cần và điều kiện đủ) thì bị loại ra khỏi Danh sách các sản phẩm có triển vọng.
nhân hóa một bộ phận quan trọng đồn điền của Nhà nước, thu hút đầu tư của tư bản nước
ngoài để mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất
Phương án 3: Sản phẩm chưa đủ điểm chuẩn theo qui định nhưng đã đảm bảo được
khẩu… Chính phủ khuyến khích tư bản tư nhân trong nước tham gia kinh doanh đồn điền
các điều kiện cần thì chuyển sang bước 4 (đầu tư hỗ trợ để bổ sung điều kiện đủ), sau đó
trên cơ sở Nhà nước cho vay vốn với lãi suất thấp, miễn giảm thuế kinh doanh và cho
sẽ xem xét đánh giá lại để quyết định chuyển sang giai đoạn 4 để công nhận, tôn vinh hoặc
phép phối hợp với Nhà nước để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Từ năm 1968, khuyến
loại bỏ ra khỏi Danh sách sản phẩm có triển vọng.
nông được Indonesia xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong đó, việc cung
Bước 4. Hỗ trợ để để bổ sung hoàn thiện sản phẩm chủ lực.
cấp lúa gạo, ổn định lương thực được xem như là mục tiêu chính của kế hoạch phát triển.
Đây là bước có tính chất “dự bị” đối với những sản phẩm còn non điểm ở một vài
Nhờ chính sách khuyến khích sản xuất nông sản và cải tạo hệ thống lưu thông nông sản
tiêu chí đủ nào đó so với chuẩn qui định. Trong bước này các địa phương cần tập trung
như vậy mà công nghiệp chế biến của Indonesia đã có những bước tiến căn bản. Là nước
đầu tư hỗ trợ về mặt tài chính, công nghệ, quảng bá, tiếp thị…để các nhà sản xuất nâng
nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới, Indonesia bắt đầu tự túc được lương thực từ năm 1981.
dần chất lượng và thương hiệu đối với sản phẩm. Sau một thời gian, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ
Các loại cây công nghiệp được chú trọng phát triển để tiêu thụ trong nước và tham gia
được xem xét công nhận sản phẩm chủ lực của vùng (chuyển sang bước 5), ngược lại sẽ bị
xuất khẩu trên thị trường như: cà phê, ca cao, cao su, hồ tiêu hạt trắng và hồ tiêu hạt đen.
loại ra khỏi Danh sách sản phẩm có triển vọng.
41
42
Trong thời kỳ 19851996, Indonesia tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu dầu cọ, cao
chức thành các đồn rộng lớn. Ngay từ thập kỷ 60, Philippines đã tiến hành cuộc cách
su, sắn, hoa, trái cây, cơm dừa và dầu dừa, gỗ.
mạng xanh nhằm tăng năng suất cây trồng bằng cách áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
Những năm cuối thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, nền kinh
thuật như lai tạo ra các giống lúa cao sản, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu và xây
tế Indonesia bị thiệt hại nặng nề. Tình hình chính trị bất ổn và hạn hán xảy ra nghiêm
dựng hệ thống thủy nông. Đã từ lâu, Philippines là quê hương của giống lúa cao sản
trọng đã làm cho nông nghiệp nước này không phát triển được. Sau khi Chính phủ mới
tại châu Á; ở đây có Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) và là nước đi đầu trong
được thành lập (6/1999) kinh tế Indonesia nói chung và nông nghiệp nói riêng đã có dấu
việc áp dụng những giống lúa do IRRI tạo ra. Sản xuất lúa, dừa, mía là những ngành
hiệu phục hồi: chiến lược phát triển nông nghiệp mới của Indonesia thể hiện một cuộc cải
nghề có qui mô lớn và mang tính truyền thống. Trung tâm sản xuất lương thực của
tổ sâu sắc, đặc biệt là trong lĩnh vực lưu thông nông sản như: xóa bỏ độc quyền của Bulog
Philippines là vùng Mindacao, chiếm 34% diện tích Philippines, đóng góp 34% cho
trong nhập khẩu lúa mì, bột mì, đậu tương, tỏi và gạo; cắt giảm thuế quan với tất cả các
sản xuất nông ngư nghiệp của Philippines, Chính phủ đầu tư 1/3 ngân sách nông
hàng thực phẩm xuống mức cao nhất là 5%; cho tự do buôn bán giữa các vùng, loại bỏ
nghiệp xây dựng vùng này thành vùng sản xuất chuyên canh lúa. Ngành sản xuất dừa
những cản trở đối với việc buôn bán và vận chuyển một số hàng hóa, giảm các cản trở phi
là ngành chính trong nền kinh tế Philippines, đặc biệt trong việc thu ngoại tệ và tạo
thuế quan đối với thị trường nông sản, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh nhỏ có cơ hội
công ăn việc làm. Khoảng 90% lượng dừa của nước này được chế biến thành cùi dừa
tăng thu nhập; mở rộng tự do buôn bán thực phẩm, chuyển dần từ cơ chế hành chính sang
khô. Trong đó, 5% lượng cùi dừa khô là để xuất khẩu, 95% chế biến thành dầu ăn và
các công cụ tài chính, thị trường để quản lý lương thực và ổn định giá; đảm bảo giá sàn
dầu công nghiệp khác. Mía đường được trồng trên những đồn điền lớn, đường
theo mức thích hợp cho từng vùng để hỗ trợ nông dân, thay cho việc bảo hộ người tiêu
Philippines được nhập theo quota ưu đãi vào thị trường Mỹ.
dùng trước đây. Trong vụ thu hoạch khi giá xuống quá thấp Chính phủ sẽ mua vào bằng
Vì là một nước nông nghiệp, nên Philippines đã chọn phát triển ngành công
giá sàn để hỗ trợ cho nông dân; loại bỏ độc quyền phân phối phân bón và các vật tư thiết
nghiệp chế biến nông sản. Chính phủ Philippines đề ra ba mục tiêu của ngành công
bị nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm của các hợp tác xã chuyển đổi hệ thống hợp tác xã
nghiệp chế biến nông sản là bảo đảm xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, tìm các
thành các tổ chức kinh doanh hiện đại, hoạt động trên nguyên tắc cạnh tranh; Tăng cường
nguồn hàng nông nghiệp mới để xuất khẩu và tự sản xuất để thay thế nhập khẩu.
cho vay tín dụng đối với nông dân từ 1,4 triệu Rupi/ha lên hai triệu Rupi/ha, tổng lượng
Philippines quyết định thay đổi chính sách nông nghiệp từ bảo trợ sang tăng cường
tín dụng cho vay tăng từ 1,9 nghìn tỷ lên 3,4 nghìn tỷ; đẩy mạnh công tác nghiên cứu
cạnh tranh. Một loạt các chính sách phát triển nông nghiệp ra đời như:
giống, chấm dứt sự độc quyền của các công ty giống quốc doanh, khuyến khích các thành
Luật “hiện đại hóa nông, ngư nghiệp" (AFMA1998), cung cấp các chính sách
phần kinh tế tham gia thị trường này; nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thủy lợi
cơ bản cùng với các biện pháp để hiện đại hóa nông nghiệp và thủy sản. Luật này nhằm
nhằm nâng cao hiệu quả và năng suất trong nông nghiệp – nguyên liệu đầu vào của công
mục đích: (1) thực hiện các biện pháp theo tầm quan trọng của nông nghiệp và thủy sản
nghiệp chế biến nông, lâm sản [45].
(2) đảm bảo sự lãnh đạo mạnh mẽ của Bộ Nông nghiệp và (3) nâng cấp ngắn hạn và dài
1.3.2 Kinh nghiệm của Philippines
hạn khả năng hành chính của Bộ Nông nghiệp và các tổ chức liên quan.
Philippines là một trong số các quốc gia có lợi thế hơn trong công nghiệp hóa so
Dự án GMA là một kế hoạch trung hạn của Philippines (19992001) nhằm thực
với các quốc gia châu Á láng giềng khác. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ
hiện AFMA1998. Theo kế hoạch này, dự án lúa bao gồm: (1) thực hiện an ninh lương
trọng lớn trong GDP và là ngành kinh tế quan trọng, luôn đảm bảo sự ổn định cho kinh tế
thực quốc gia, (2) xóa đói giảm nghèo ở các làng nông nghiệp, (3) tăng thu nhập cho nông
xã hội của Philippines. Phần lớn sản xuất nông nghiệp là các loại cây trồng cho tiêu thụ
dân, (4) thực hiện nông nghiệp bền vững, và (5) nâng cấp khả năng của nông dân.
trong nước như gạo và ngô, và cây trồng để xuất khẩu như dừa, mía và chuối. Trước đây,
Chương trình nghị sự của Bộ nông nghiệp (2001) bao gồm 11 mục: (1) thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp thường được tiến hành theo quy mô nhỏ, nhưng hiện nay nó được tổ
việc thực hiện các quy định chủ yếu của đạo luật Hiện đại hóa nông nghiệp thủy sản năm
43
44
1997, (2) tăng cường các biện pháp chống buôn lậu và cải thiện môi trường đầu tư, (3)
chức nông dân và thiết lập mạng lưới phát triển nông nghiệp thích nghi với kiến thức
triệt để triển khai thực hiện Luật Thuỷ sản, (4) sắp xếp các cơ sở hạ tầng, bao gồm cả các
và văn hóa truyền thống của địa phương; (4) Cải thiện hệ thống quản lý trong nông
cơ sở thủy lợi và đường giao thông, (5) thiết lập một hệ thống tài trợ cho nông dân và
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản và sử dụng tài nguyên theo cách bền vững. Để đạt các
những người tương tự, (6) thảo luận về tài nguyên nước trong nông nghiệp, (7) xem xét
mục tiêu này, đầu năm 2002 Chính phủ Thái Lan đã dành ra 124 tỷ Bath (3 tỷ USD)
các dự án GMA, (8) xem xét ưu đãi trong thúc đẩy phát triển kinh doanh và tài chính, (9)
để cải thiện toàn diện nông nghiệp trong 2 năm (2002 2004). Trong đó chú trọng
xúc tiến phát triển ở Mindanao, (10) cung cấp hỗ trợ để tái lập các quỹ thuế dừa, và (11)
nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển loại giống tốt, mở rộng tưới tiêu, phát triển
củng cố tổ chức của nông dân (ASEANJAPAN CB Project).
công nghệ sinh học, phát triển các sản phẩm mới, đặc biệt khuyến khích và cho phép
Có thể nói đây là một tổ hợp các chính sách liên quan đến sản xuất, nghiên cứu
chuyển giao công nghệ, khuyến nông, phát triển kinh tế nông thôn, thương mại, tài
nông dân tham gia trực tiếp vào các kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn.
(ASEANJAPAN CB Project).
chính và thị trường với nhiều chương trình, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu
Về công nghiệp, Thái Lan tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến với
quả và năng lực cạnh tranh cho ngành nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực quốc
sự phân bố đều khắp ở các địa phương. Công nghiệp chế biến lúa gạo của Thái Lan
gia và tăng trưởng xuất khẩu cho Philippines [54]
bao gồm hàng chục ngàn cơ sở xay xát lớn, vừa và nhỏ cộng với hệ thống kho chứa
1.3.3 Kinh nghiệm của Thái Lan
gạo, kho dự trữ, các xí nghiệp sản xuất bao bì đóng gói ở khắp các thị trấn, thành
Thái Lan là một nước nông nghiệp rất đặc trưng ở Đông Nam Á. Có thể nói, từ
phố, bến cảng. Mặt hàng gạo sấy của Thái Lan đang "một mình, một chợ" và Thái
thời cổ đại, cơ sở của nền kinh tế Thái Lan là nông nghiệp và đang phát triển với nền
Lan đang đẩy mạnh sản xuất mặt hàng này lên tới 30% khối lượng gạo xuất khẩu.
tảng là nông nghiệp. Từ cuối những năm 1980, cả Thái Lan đã được công nghiệp hóa
Công nghiệp mía đường, công nghiệp chế biến sắn của Thái Lan cũng khá phát triển
một cách nhanh chóng thể hiện ở giáo dục chất lượng cao và sự thịnh vượng của Thái
với sản lượng khoảng gần 4 triệu tấn sắn khô/năm. Đặc biệt, công nghệ chế biến trái
Lan. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng GDP cũng như xuất
cây và rau xuất khẩu của Thái Lan phát triển khá nhanh với rất nhiều chủng loại từ
khẩu trong nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là một trong những ngành kinh
dứa, xoài, dừa, chuối, bưởi, măng cụt, rau thơm và đặc biệt là đồ gia vị... Hiện nay,
tế chủ lực làm nền tảng cho phát triển kinh tế của quốc gia này. Sản xuất nông nghiệp
Thái Lan là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu rau quả chế biến
được phân bổ tập trung theo cụm ở rải rác khắp nơi trên lãnh thổ như: vải thiều, dâu
sang thị trường các nước Mỹ, Nhật, EU. Trồng và chế biến cao su cũng là ngành kinh
tây và các loại trái cây khác tập trung ở Bắc Thái Lan; lúa gạo, mía, sắn được trồng
tế có giá trị cao ở Thái Lan. Nhằm khuyến khích nông dân chế biến tập trung để nâng
nhiều ở khu vực Đông Bắc; khu vực Miền Trung Thái Lan nổi tiếng về lúa gạo xuất
cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh, Chính phủ
khẩu, nơi đây được mệnh danh là “Nồi cơm của Châu Á”. Tương tự, vùng quê phía
Thái Lan hỗ trợ cho nông dân sơ chế 100% mủ cao su trên cơ sở các hộ có nhu cầu sơ
Nam Thái Lan là nơi tập trung của các đồn điền cao su và dừa.
chế phải tự nguyện liên kết lại trong các tổ chức tự quản như tập đoàn, hợp tác xã,...
Về chính sách phát triển nông nghiệp, bắt đầu từ năm 1961, Chính phủ Thái
và đăng ký với Quỹ hỗ trợ trồng lại cao su (ORRAF) để được xem xét đầu tư nhà
Lan thiết lập các định hướng chính sách cho Bộ Nông nghiệp và các Tổ chức hợp tác
máy chế biến có qui mô, công suất thích hợp (nhà máy do ORRAF đầu tư 100% vốn
trong nông nghiệp theo từng thời kỳ 5 năm. Theo khuôn khổ này, các chính sách khác
và giao cho tập đoàn hoặc hợp tác xã tự quản lý). Hiện nay, Thái Lan là quốc gia có
nhau ở các cấp được triển khai thực hiện. Điển hình là trong Kế hoạch lần thứ 9 phát
nền công nghiệp chế biến cao su đạt trình độ cao và một trong những nước xuất khẩu
triển nông nghiệp Thái Lan (2002 – 2006) đưa ra 4 mục tiêu chủ yếu là: (1) nâng cao
cao su hàng đầu thế giới.
năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; (2) ổn định
Tuy nhiên, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong xu thế toàn cầu
nền kinh tế xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nông dân; (3) Tăng cường tổ
hóa, tự do hóa thương mại, nông nghiệp Thái Lan cũng phải đối mặt với nhiều khó
45
46
khăn: chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp diễn ra chậm, năng suất thấp, chi phí sản xuất
ra bài học kinh nghiệm từ sự thành công của một số quốc gia trong khu vực qua các
cao, giá nhân công tăng; cơ sở hạ tầng và trang thiết bị sản xuất kém, nhất là vùng
nghiên cứu trên đây như sau:
phía Bắc và Đông Bắc; các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác kém hiệu
quả...Để khắc phục tình trạng này, Bộ Nông nghiệp Thái Lan đã đưa ra chương trình
Một là, xác định đúng ngành, sản phẩm chủ lực lấy đó làm điểm khởi đầu để
tiến hành qui hoạch, xác lập chính sách hỗ trợ đúng trọng tâm, trọng điểm.
đầu tư theo chiều sâu để tăng cường khả năng cạnh tranh các mặt hàng chủ lực và đề
Hai là, phối hợp đồng bộ các chính sách và các giải pháp trong từng thời kỳ
ra các giải pháp thích hợp cho mỗi nhóm hàng xuyên suốt từ sản xuất, chế biến, tiêu
nhất định, đặc biệt đối với các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản, bước
thụ; chú trọng vào công tác nghiên cứu khoa học, tăng cường đầu tư cho thủy lợi và
đầu phải có chính sách bảo hộ và chương trình hỗ trợ đặc biệt như chương trình trợ
khoa học kỹ thuật. Chính phủ trợ cấp trực tiếp cho hoạt động sản xuất và tiếp thị của
giúp nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, vốn đầu tư... để tạo dựng thương
nông dân thông qua quỹ "Hỗ trợ chính sách cho nông dân", giảm thuế xuất khẩu nông
hiệu sản phẩm hoặc ngành hàng xuất khẩu chủ lực.
sản và nguyên liệu.
Để giúp ngành công nghiệp chế biến cạnh tranh trên thị trường quốc tế, Thái
Lan định hướng mạnh mẽ vào việc tăng chất lượng nông sản phẩm. Các nhà đầu tư đã
chấp nhận áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng "Hệ thống quản lý môi trường"
(EMS) cho các sản phẩm chế biến. Cố gắng này giúp sản phẩm của Thái Lan đạt tiêu
Bốn là, chú trọng phát huy các lợi thế so sánh hiện có để thực hiện chiến lược
phát triển sản phẩm chủ lực, tạo vùng và qui hoạch đầu tư đồng bộ cho các vùng sản
xuất chuyên canh tập trung sản xuất hàng hóa.
Năm là, chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất nông, lâm thủy sản.
Đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
chuẩn quốc tế như ISO/14000 và vượt qua các rào cản về kỹ thuật để vào thị trường
Sáu là, tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh sản xuất tiêu
quốc tế. Nhờ nổi tiếng về chất lượng, nông sản chế biến của Thái Lan đang cạnh
thụ xuất khẩu, phản ứng nhanh trước sự thay đổi nhu cầu và thị hiếu của thị trường
tranh quyết liệt chiếm dần thị phần của Indonesia và Malaysia. Bên cạnh đó, Chính
về hình thức, chất lượng của hàng hóa nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh, coi trọng
phủ Thái Lan tập trung khai thác thị trường các nước đạo Hồi với chủ trương xây
chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường mới.
dựng tỉnh Pattani (giáp biên giới Malaysia) thành trung tâm sản xuất thực phẩm cho
1.4. Kết luận chương 1
đạo Hồi của thế giới. Chính phủ Thái Lan đã đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng,
Sản phẩm chủ lực là những sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ chủ yếu giữ vị trí chủ
khuyến khích đầu tư bằng thuế, tín dụng ưu đãi, giúp các nhà đầu tư nghiên cứu thị
đạo trong phát triển kinh tế của một địa phương, một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Đây là
trường Ai Cập và Nam Phi, thống nhất với Indonesia và Malaysia về nhãn hiệu, qui
những sản phẩm vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa mang ý nghĩa về mặt văn hóa, tâm
tắc quản lý chất lượng thức ăn Hồi giáo của các nước ASEAN. Đến nay, 221 nhà máy
linh của cộng đồng xã hội. Trong môi trường kinh doanh với tính chất cạnh tranh ngày
sản xuất sản phẩm này của Thái Lan đã đi vào hoạt động [52].
càng khốc liệt như hiện nay, sản phẩm chủ lực đã trở thành nhân tố quyết định đến sự
1.3.4 Bài học rút ra cho Luận án
thành công trong phát triển kinh tế, xã hội của một địa phương, quốc gia hay vùng lãnh
Cò thể nói, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc xác định và phát
thổ. Vần đề đặt ra là, mỗi địa phương, quốc gia hay vùng kinh tế phải tìm ra những sản
triển các sản phẩm nông nghiệp cũng như xây dựng các ngành hàng công nghiệp bổ
phẩm có đủ điều kiện trở thành sản phẩm chủ lực để tập trung đầu tư phát triển, tránh tình
trợ như chế biến nông sản, lâm sản và thủy sản đã cho thấy sự cần thiết của việc xác
trạng phân tán làm suy yếu nguồn lực kinh tế dẫn đến suy giảm sức cạnh tranh của quốc
định đúng đắn ngành hàng, sản phẩm chủ lực trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của mỗi
gia. Muốn vậy, trước tiên cần có phương pháp phù hợp cho việc xác định sản phẩm chủ
quốc gia để có chính sách hỗ trợ phù hợp từ phía chính phủ nhằm tạo ra những động
lực với qui trình và tiêu chí đánh giá, xét chọn chính xác, đảm bảo tính khách quan, khoa
lực và xung lực cho sự phát triển bền vững của ngành và sản phẩm chủ lực. Có thể rút
học, thể hiện đúng tiềm năng, lợi thế và đặc trưng văn hóa của mỗi địa phương, vùng kinh
47
48
tế. Vấn đề còn lại là chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm chủ lực của các ngành, các cấp
đa số với hơn 90%, số còn lại là khme chiếm 6,4%, dân tộc Hoa, Chăm và dân tộc khác có
và hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
khoảng 3,6%. Theo nhiều nhà nghiên cứu, ĐBSCL là vùng đất có nhiều tiềm năng và lợi
Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, chương này đã hệ thống hoá lý luận về sản
thế mang tính đặc thù rất thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội nói chung, sản phẩm chủ
phẩm chủ lực, với phát triển vùng địa phương trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại
lực nói riêng. Để làm rõ vấn đề này, Luận án sẽ dựa theo mô hình kim cương của Michael
hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh nghiên cứu phương pháp xác định sản phẩm chủ lực và
E. Porter để phân tích những tiềm năng và lợi thế gần như có một không hai này.
đưa ra các tiêu chí để đánh giá xét chọn sản phẩm chủ lực trên địa bàn các vùng và địa
2.1.1 Điều kiện về các yếu tố sản xuất để phát triển sản phẩm chủ lực
phương, luận án có sử dụng các mô hình lý thuyết về lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, lý
2.1.1.1 Điều kiện về nguồn nhân lực
luận về phát triển kinh tế địa phương để luận giải và xác định các nội dung cơ bản về phát
Như đã nói ở phần trên, dân số ĐBSCL năm 2010hiện có 17,272 triệu người, chiếm
triển cụm sản phẩm chủ lực cho vùng và địa phương. Ngoài ra, Luận án cũng nghiên cứu
19,87% dân số cả nước và mật độ dân số là 426 người/km 2 , cao hơn trung bình chung cả
kinh nghiệm trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản của một số nước trong
nước (263 người/km 2 ). Dân số nông thôn ĐBSCL có 13,272 triệu người (chiếm 76,84%),
khối ASEAN có nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội để rút ra bài học cho
cao hơn rất nhiều so với cả nước (69,83%). Số người trong độ tuổi lao động của toàn vùng
Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng.
có khoảng 10,129 triệu người, chiếm 58,64% dân số, trong đó số lao động có việc làm
chiếm tới 76,2%.
Chương 2
Bảng 2.1. Dân số và lao động ĐBSCL so với cả nước giai đoạn 2006 – 2010
2008
Đơn vị tính: 1000 người
2009
2010
THỰC TRẠNG XÁC ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM
CHỦ LỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI GIAN QUA
Dân số và lao đông
2006
2007
Cả nước
Tổng dân số
83.311,2
84.218,5
85.118,7
86.025,0 86.927,7
2.1. Tiềm năng và lợi thế phát triển sản phẩm chủ lực ĐBSCL
Dân số nông thôn
60.265,4
60.472,2
60.445,6
60.440,3 60.703,3
ĐBSCL còn được gọi là miền Tây Nam Bộ, có diện tích tự nhiên khoảng 4 triệu
DS từ 15 – 60 tuổi
44.904,5
47.160,3
48.209,6
49.322,0 50.392,9
51,9
53,7
54,6
Km 2 (chiếm 12% diện tích tự nhiên cả nước), là vùng đất trù phú nhất Việt Nam và cũng
Lao động có việc làm
là một trong 13 đồng bằng châu thổ lớn hàng đầu thế giới. Nằm trong tiểu vùng sông
Mekong, ĐBSCL có 3 mặt tiếp giáp biển; phía Đông Bắc giáp Thành phố Hồ Chí Minh và
Tổng dân số
vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ, Tây và Tây Nam giáp Campuchia và Vịnh Thái
Dân số nông thôn
Lan; Đông và Đông Nam giáp Biển Đông. Nếu đối chiếu khoảng cách sang các nước xung
Dân số trong tuổi lao động
quanh thì ĐBSCL chiếm vị trí trung tâm của Đông Nam Á, rất thuận lợi cho các hoạt động
Tỷ lệ lao động có việc làm
52,8
54,8
55,5
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2010
giao thương, vận tải bằng đường bộ, đường không cũng như đường biển với các nước
55,5
56,4
ĐBSCL
16.946,9
13.426,1
17.042,0
13.451,2
17.129,5
13.440,4
17.199,9 17.272,2
13.257,1 13.271,9
9.354,8
9.772,7
9.895,2
10.046,2 10.128,7
56,2
56,7
trong khu vực. Địa giới hành chính của ĐBSCL được xác định bởi 12 tỉnh và 1 thành phố
Theo số liệu trong bảng 2.1, dân số ĐBSCL đã tăng từ 16946,9 ngàn người năm
thực thuộc Trung ương, gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà
2006 lên 17272,2 ngàn người năm 2010, tăng 1,92% cả giai đoạn (thấp hơn tốc độ trung
Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và Tp. Cần Thơ.
bình cả nước tăng 4,34% cả giai đoạn). Trong đó, dân số nông thôn có chiều hướng giảm
Theo số liệu thống kê chính thức từ Tổng cục thống kê, dân số ĐBSCL năm 2010 có
và người trong độ tuổi lao động có việc làm cũng tăng và luôn cao hơn trung bình chung
khoảng 17,272 triệu người chiếm 19,87% dân số cả nước. Trong đó, người kinh chiếm đại
của cả nước (từ 52,8% năm 2006 lên 56,7% năm 2010). Tuy nhiên, lực lượng lao động đã
49
50
qua đào tạo chuyên môn còn rất thấp với tỷ lệ cao nhất năm 2010 là 7,9%, tăng hơn so với
gồm đất than bùn (vùng rừng U Minh), đất xám trên phù sa cổ (cực Bắc của ĐBSCL) và
2005 (7,2%). Trong khi đó tỷ lệ này của cả nước là 14,46% và 12,5%. Đứng đầu là ĐBSH
đất đồi núi (phía TâyBắc ĐBSCL).
với 20,7% năm 2010 so với 16,5% năm 2005.
Nhìn chung, đất đai ở ĐBSCL rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và các loại
cây trồng, đặc biệt trồng lúa là thế mạnh gần như tuyệt đối của vùng đất này.
Bảng 2.2. Lao động đã qua đào tạo các vùng giai đoạn 2006 2010
Vùng lãnh thổ
2006
2007
2008
2009
2010
Cả nước
12,5
13,6
14,3
14,8
14,6
Trung du và miền núi phía Bắc
16,3
17,8
18,1
20,9
20,7
Đồng bằng sông Hồng
10,1
11,0
12,2
13,2
13,3
Bắc Trung bộ và duyên hải MT
11,0
12,0
13,1
13,5
12,7
Tây Nguyên
11,0
12,0
11,4
10,9
10,4
Đông Nam bộ
19,6
21,4
22,5
19,6
19,5
7,2
7,9
7,8
7,9
7,9
Đồng bằng sông Cửu Long
Bảng 2.3. Diện tích lúa theo các vùng trên cả nước giai đoạn 2006 – 2010
1.171,2
TD &
MNPB
661,0
Đơn vị tính: 1000 ha
BTB&
TN &
DHMT
ĐNB
1.206,9
511,8
3.683,1
1.158,1
671,9
1.188,7
505,6
3.858,9
1.153,2
658,8
1.210,3
519,0
7.437,2
3.870,0
1.155,5
670,4
1221,0
520,3
7.513,7
3.970,5
1.150,1
664,2
1214,6
514,3
Năm
Cả nước
ĐBSCL
ĐBSH
2006
7.324,8
3.773,9
2007
7.207,4
2008
7.400,2
2009
2010
Nguồn: Tổng cục thống kê 2010
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Như vậy, về dân số và lao động ĐBSCL có thế mạnh về các ngành nghề không đòi
Qua số liệu thống kê các năm giai đoạn 2006 – 2010 cho thấy, đất trồng cây hàng
hỏi chuyên môn kỹ thuật cao nên phù hợp với điều kiện sản xuất đơn giản, công nghệ sản
năm của ĐBSCL chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu là đất trồng lúa, chiếm trên 90%
xuất thấp và thâm dụng lao động.
(chiếm đến 52% của cả nước; gấp 3,3 lần đồng bằng sông Hồng và Bắc trung bộ duyên
2.1.1.2 Điều kiện về tài nguyên thiên nhiên
hải Miền Trung). Đất chuyên canh các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày khoảng
1) Tài nguyên đất
150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000 ha, chiếm khoảng 8,2% diện tích tự nhiên
Tổng diện tích ĐBSCL có khoảng 4,0 triệu ha, trong đó khoảng 2,60 triệu ha được
của toàn vùng..
sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 65,6%; khoảng 0,5 triệu
Bảng 2.4 Diện tích một số cây trồng quan trọng giai đoạn 2006 – 2010
ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có rừng chiếm khoảng 43% và tỷ lệ che phủ rừng chỉ
chiếm 5%. Ngoài ra, ĐBSCL còn có vùng bãi triều đứng đầu cả nước với diện tích khoảng
480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn và nước
lợ. Theo các nhà khoa học đất thì ĐBSCL có 4 nhóm đất chính: nhóm đất phù sa sông vời
Loại cây trồng
1. Cây ăn quả
các loại
khoảng 1,2 triệu ha, tập trung chủ yếu ở vùng trung tâm ĐBSCL; nhóm đất phèn với
khoảng 1,6 triệu ha, bao gồm cả các loại đất phèn nhiễm mặn nặng và trung bình, trong đó
2. Cây mía
2007
2008
2009
2010
Cả nước (ha) 764.400
Trong đó
778.500
775.500
774.000
776.300
ĐBSCL (ha) 276.896
281.675
279.049
255.348
258.918
Tỷ trọng (%)
2006
36,18
35,98
32,99
33,35
Cả nước (ha) 288.100
36,22
293.400
270.700
265.600
266.300
66.792
64.032
62.990
61.843
ĐBSCL (ha)
69.496
đất phèn tập trung tại Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và vùng trung tâm bán đảo
Tỷ trọng (%)
24,12
22,76
23,65
23,72
23,22
Cà Mau; nhóm đất nhiễm mặn có khoảng 0,75 triệu ha, khó cung cấp nước ngọt từ hệ
Cả nước (ha) 134.870
136.600
141.000
144.900
147.000
ĐBSCL (ha) 107.896
109.269
112.760
115.941
117.544
thống sông ngòi nên chỉ trồng được lúa vào mùa mưa, còn mùa khô nhiều nơi được
chuyển sang nuôi tôm nước mặn và lợ; và các loại đất khác chỉ với khoảng 0,35 triệu ha,
2. Cây dừa
Tỷ trọng (%) 80,00
79,99
79,97
80,00
79,96
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê và Thống kê kinh tế xã hội các tỉnh, thành ĐBSCL 2010