Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN xã hội học CHUYÊN BIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.35 KB, 26 trang )

MỤC LỤC


A.LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới gần 2 thập kỷ qua đã làm thay đổi căn bản diện
mạo đời sống kinh tế – xã hội ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, sản phẩm của đổi mới đã phát huy hiệu quả của nó ở tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định cùng với việc nâng cao mức sống
của hầu hết các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, mức sống về vật chất và tinh
thần, lối sống và các khuôn mẫu ứng xử thay đổi theo chiều hướng tích
cực và tiêu cực, sự phân tầng và phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn làm
cho khoảng cách về lối sống giữa nhóm người giàu có và nhóm người
nghèo trong xã hội càng có sự khác biệt rõ rệt.Qua đó càng làm tăng nguy
cơ gây ra các căng thẳng và biến động xã hội, ảnh hưởng đến sự phát
triển bền vững của đất nước.

2


B.NỘI DUNG
I.Khái niệm, đối tượng nghiên cứu của xã hội học đô thị
1.Khái niệm xã hội học đô thị
1.1.Khái niệm đô thị
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu xã hội học, đô thị được
định nghĩa như sau: Đô thị là điểm dân cư tập chung với mật độ cao trong
phạm vi không gian – xã hội mang tính cụ thể về mặt lịch sử, lao động
chủ yếu trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Có vai trò thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội của một vùng lãnh thổ.

1.2.Đặc trưng của đô thị và sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn.
Đô thị là một kiến tạo lãnh thổ - xã hội, một hình thức cư trú mang


tính toàn vẹn lịch sử của con người, đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:
+ Là nơi tập trung số lượng dân cư lớn trên một phạm vi lãnh thổ
hạn chế. +Đại bộ phận dân cư sống ở đây làm việc trong lĩnh vực phi
nông nghiệp (công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ...).
+Là môi trường sống trực tiếp tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của xã hội và cá nhân.
+Đô thị giữ vai trò chủ đạo với các vùng nông thôn xung quanh và
với toàn xã hội nói chung
+ Tính độc lập, năng động xã hội của các thị dân rất cao.
+ Ở đô thị tồn tại tính ẩn dang trong giao tiếp.
+ Tại khu vực đô thị có nhiều tầng lớp, giai cấp xã hội khác nhau.
Sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn:
3


+ Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội: Ở đô thị đặc chung chủ
yếu là giai cấp công nhân, ngoài ra còn có các tầng lớp giai cấp khác nhau
như tư sản, thợ thủ công, viên chức, trí thức....Còn với nông thôn thì đặc
trưng chủ yếu là nông dân ngoài ra còn có các tầng lớp khác như phú
nông, địa chủ
+ Về lĩnh vực sản xuất: Ở đô thị có đặc trưng là sản xuất công
nghiệp, ngoài ra còn có các lĩnh vực khác như thương nghiệp, dịch
vụ....Còn đối với nông thôn đặc trưng chủ yếu rõ nét nhất là sản xuất
nông nghiệp, ngoài ra còn phải kể đến cấu trúc phi nông nghiệp bao gồm:
dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp mà có vai trò rất lớn đối với lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp
+ Về lối sống, văn hóa của từng cộng đồng: Nông thôn thường rất
đặc trưng với lối sống văn hóa của cộng đồng làng xã mà được phân biệt
rõ ràng với lối sống thị dân đặc trưng của khu vực đô thị. Đặc trưng này
thể hiện qua rất nhiều khía cạnh như: dịch vụ, giao tiếp, đời sống tinh

thần, phong tục tập quán, hệ giá trị,hành vi, cơ sở vật chất....
1.3.Khái niệm xã hội học đô thị.
Xã hội học đô thị là một nhánh của xã hội học chuyên biệt xét theo
cơ cấu lãnh thổ - xã hội, nghiên cứu lịch sử hình thành, các quy luật
chung cho sự hoạt động và phát triển của xã hội học đô thị với tư cách là
một chỉnh thể, bản chất và các quá trình biểu hiện của mối quan hệ xã
hội, các sự kiện, hiện tượng xã hội và các quá trình xã hội diễn ra trong
đời sống xã hội đô thị
2.Đối tượng nghiên cứu của xã hội học đô thị.
Xã hội học đô thị nghiên cứu đô thị như một cấu trúc được tạo nên
bởi hai nhóm thành tố cơ bản là không gian vật chất và tổ chức xã
hội.Trong đó không gian vật chất là môi trường không gian hình thể do
con người tạo ra, bao gồm không gian kiến trúc quy hoạch, cảnh quan đô
thị, điều kiện sinh thái tự nhiên.Không gian tổ chức xã hội là cộng đồng
dân cư sinh sống trên lãnh thổ đô thị với tất cả những thể chế luật lệ đang
hiện hành.
Xã hội học đô thị nghiên cứu mối quan hệ giữa không gian vật chất
và không gian tổ chức xã hội.Phân tích mối quan hệ này theo tương quan
tác động giữa một bên là môi trường sống, điều kiện sống còn một bên là
4


những con người hoạt động trong chính môi trường đó.Mục đích nhằm
đảm bảo cho sự vận hành và phát triển của các đô thị, đảm bạo sự liên kết
giữa hai thành tố này.
Xã hội học đô thị cũng hướng tới nghiên cứu mối quan hệ giữa xã
hội đô thị với các bộ phận khác của xã hội, được thể hiện thông qua lối
sông đô thị, các vấn đề phát triển của đô thị (hôn nhân, gia đình, giáo
dục...) qua đó hiểu được bản chất của xã hội đô thị , cộng đồng đô thị.
3.Một số quan điểm nghiên cứu của xã hội học đô thị

Quan điểm sinh thái học nhân văn: Quan điểm này nghiên cứu việc
cá nhân ở đô thị đã sử dụng không gian địa lý, không gian vật chất như
thế nào. Qua đó cho thấy việc sử dụng quỹ đất đai và tổ chức không gian
có ảnh hưởng đến mô hình ứng xử trong các quan hệ và tương tác xã
hội.Từ đó, hình thành nên những quan điểm về sự cư trú tách biệt. Quá
trình cư trú tách biệt tạo nên những mô hình tổng quát của sự tách biệt
trong các thành phố hiện đại đó là: mô hình vòng tròn đồng tâm, mô hình
rẻ quạt, mô hình đa hạt nhân.
Quan điểm tiếp cận đô thị như một hình thức tổ chức lối sống đặc
biệt, trường phái Chicago đã phác họa những đặc điểm chung trong xã
hội đô thị: đó là dân số quá đông, mật độ cư trú quá cao đã tạo ra một hệ
thống bị chuyên biệt hóa, các thiết chế bị hình thức hóa tạo nên các khuôn
mẫu của cư dân đô thị đó là:sự phân chia các chức năng, vai trò trong các
quan hệ xã hội, sự đa nguyên về giá trị và chuẩn mực, sự gia tăng các
xung đột xã hội....
II.Phân tầng xã hội ở đô thị.
1.Khái niệm phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội là sự phân chia mang tính cấu trúc thành các tầng
lớp/giai cấp xã hội dựa trên các đặc trưng về kinh tế, chính trị, và xã hội
không ngang nhau.

5


2.Các tiêu chí xác định sự phân tầng xã hội ở đô thị.
Để xét sự phân tầng trong xã hội nói chung và xã hội đô thị nói
riêng, các nhà xã hội thường dựa trên tiêu chí:
Điều kiện nhà ở như sở hữu nhà, diện tích nhà, loại nhà, chất lượng
nhà, vị trí nhà, khu phụ....Hơn 60% các hộ giàu có sống trong nhà tư,
trong đó hơn 1/2 là nhà do ông bà để lại, hơn 1/3 còn lại sống trong nhà

bao cấp.Trong khi đó, chỉ có 28% các hộ nghèo sống trong nhà tư, 69%
các hộ còn lại sống trong nhà bao cấp.Về tích nhà thì mức chênh lệch
giữa nhóm người nghèo và nhóm người giàu là 4 lần về diện tích nhà và 5
lần về diện tích bình quân, những khác biệt đó còn mạnh hơn khi so sánh
các trang thiết bị trong khu phụ.Với sự hoạt động của cơ chế thị trường,
quá trình đô thị hóa đã bắt đầu công việc tổ chức lại địa lý xã hội các đô
thị, giá nhà và đất ở các đô thị tăng nhanh,nhiều hộ gia đình nghèo ở
trung tâm có xu hướng bán, nhượng, đổi nhà tư hoặc quyền sử dụng nhà
công để lấy một khoản tiền lớn để chuyển ra các khu vực xa trung
tâm.Còn những người giàu có muốn làm ăn kinh doanh thì tìm cách vào
sống ở trung tâm.Xu hướng này sẽ còn được tăng cường cùng với quá
trình chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường và quá trinh đô thị
hóa.Các chính sách về nhà ở, đất đai đô thị, vì thế cần phải đón trước xu
hướng mang tính quy luật này.
Tiện nghi trong nhà như tivi, xe máy, máy giặt, máy điều hòa,....ví
dụ như qua 5 năm đổi mới người dân Hà Nội đã có thể làm quen với
nhiều loại tiện nghi sinh hoạt vốn phổ biến trong đời sống đô thị trên toàn
thế giới.Đây cũng là dấu hiệu thường được dẫn ra để chứng minh cho
mức sống được nâng cao.Còn sự hiện diện và cách phân bố tiện nghi
trong các nhóm gia đình được xem như một dẫn chứng quan trọng về sự
khác biệt trong mức sống.Về số loại tiện nghi theo chiều tăng của mức
6


sống là cấp số nhân số loại tiện nghi trong gia đình.Cac hộ giàu không
chỉ quen thuộc hầu hết với tiện nghi hợp mốt và đắt tiền mà còn tỉ lệ phần
trăm sử dụng nhiều nhất.
Thu nhập gồm nguồn thu nhập, độ ổn định của nguồn thu nhập,
tổng thu nhập và thu nhập bình quân...Theo cơ cấu các nguồn thu nhập,
các gia đình Hà Nội hiện có 4 loại nguồn thu nhập chính như sau:

+Chỉ có tiền lương và các khoản phụ trợ cấp trong khu vực quốc
doanh chiếm 17.5%
+Lương và các khoản thu nhập từ các công việc phụ, làm thêm
chiếm 35.3%
+Lương và các khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất, buôn bán
kinh doanh ngoài quốc doanh chiếm 32.5%
+Chỉ có thu nhập từ hoạt động buôn bán, sản xuất, kinh doanh
ngoài quốc doanh 14,7%

Theo trật tự từ trên xuống có thể hình dung đây là các nấc thang trên con
đường dần thoát ly cơ chế bao cấp, kinh tế nhà nước để đến với kinh tế
thị trường mà trước mắt là nền kinh tế nhiều thành phần.Nếu gộp nhóm 4
loại thu nhập trên thành hai phần thì có 2 tỉ lệ gần ngang nhau, thể hiện sự
cân bằng tương đối giữa 2 khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế thị trường
trong giai đoạn hiện nay.Có thể dự báo rằng trong tương lai không xa tỉ lệ
này sẽ nghiêng nhiều về kinh tế thị trường,ngoài ra còn phụ thuộc vào xu
thế tư nhân hóa trong cơ cấu kinh tế và sự cải tổ bộ máy quản lý.Tuy
nhiên các con số và tỉ lệ nêu trên chỉ phản ánh được bước đầu của sự
phân tầng theo mức sông trong dân cư Hà Nội hiện nay.Vượt ra khỏi so
sánh cục bộ này, nhìn ra khu vực và trên thế giới thấy một sự thật là: Dù

7


đã có sự gia tăng đáng kể, mức sống của người dân thành phố hiện nay
vẫn chưa vượt qua mức nghèo khổ của các nước đang phát triển.
Chỉ báo chủ quan: Dựa trên tự đánh giá của chủ hộ và đánh giá của
điều tra viên.
Tóm lại, qua các nghiên cứu xã hội học đã hình thành lên nhiều
nguồn số liệu về thực trạng phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay. Song về

cơ bản, nghiên cứu và đo lường sự phân tầng xã hội ở nước ta thời gian
qua mới chỉ thực hiện được khái quát chung trên cả nước, chưa thể hiện
chi tiết được từng khu vực, vùng miền. Với thang đo 4 nhóm mức sống
để phản ánh sự phân hoá giàu – nghèo ở các địa phương, các vùng, hay
trong các nhóm xã hội nghề nghiệp. Các chỉ báo này nhiều khi được phân
tích và rút ra kết luận như là sự phân tầng xã hội. Nhiều nghiên cứu xã
hội học sau đó lại thường sử dụng chỉ báo này như một cơ sở lí luận để
phân tích và giải thích các biến số phụ thuộc khác. Sự phân tầng xã hội
theo quyền lực và uy tín hầu như không được đề cập đến. Thêm vào đó,
các công trình nghiên cứu còn không thống nhất về phân hạng và tên gọi
của các nhóm.
3.Phân tầng xã hội ở đô thị Việt Nam.
Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, mức sống của đại đa
số dân cư nước ta đã tăng lên đáng kể.Tỉ lệ hộ nghèo đói đã giảm khá
mạnh, từ khoảng 58% năm 1993 xuống còn 37% năm 1998.Tuy nhiên,
sự chênh lệch về mức sống ngày càng tăng tạo nên một sự phân tầng xã
hội rõ nét hơn giữa và trong các nhóm xã hội.Chẳng hạn như chênh lệch
chi tiêu giữa nhóm 20% người giàu nhất và 20% người nghèo nhất là 4,58
lần năm 1993 và 5,52 lần năm, 1998.Còn chênh lệch thu nhập thì cao
hơn.Năm 1998, chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20% người giàu nhất
và 20% người nghèo nhất là 11,26 lần.

Sự phân tầng theo mức sống hiện nay cũng có liên quan với số
nhân khẩu và tỉ lệ phụ thuộc của hộ gia đình (tỷ lệ người ngoài độ tuổi lao
8


động so với người trong độ tuổi lao động).Tỷ lệ này của 20% hộ nghèo
nhất là 1,13;cao gấp đôi so với tỷ lệ của 20% hộ giàu nhất là 0,54.Ở đô
thị, người có học vấn càng cao, càng có nhiều khả năng thuộc vào nhóm

có mức sống cao và ngược lại.Trong những chủ hộ có học vấn đại học,
cao đẳng trở lên thì có 70% thuộc nhóm 20% hộ giàu nhất, chỉ có1,5%
thuộc nhóm 20% hộ nghèo nhất.Chi tiêu của hộ có học vấn đại học, cao
đẳng trở lên cao gấp 3,4 lần so với chủ hộ không có trình độ học vấn.
Biểu đồ việc làm và tỉ lệ thất nghiệp năm 2013-2014

Phân tầng xã hội về mức sống ở đô thị cũng liên quan rõ rệt theo
các khu vực kinh tế.Những người có khẳ năng có mức sống cao hơn
thường gắn với các khu vực nhà nước, khu vực chính quy và khu vực có
đầu tư nước ngoài.Có 75%-80% người làm trong khu vực nhà nước và
khu vực có đầu tư nước ngoài có mức sống thuộc nhóm 20% người giàu
nhất.Ngược lại, mức sống thấp hơn thường gắn với những người làm việc
trong khu vực ngoài nhà nước, khu vực phi chính quy, hộ sản xuất kinh
doanh nhỏ, hợp tác xã.Khoảng 40% những người lao động thuộc hộ sản
xuất kinh doanh, hợp tác xã, khu vực ngoài nhà nước thuộc vào nhóm có
mức sống dưới trung bình.3/4 người thuộc nhóm 20% nghèo nhất là lao
động trong hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, trong khi 60% người thuộc nhóm
20% người giàu nhất là làm việc trong 3 khu vực Nhà nước.
Phân tầng xã hội về mức sống cũng liên quan đến sự khác biệt về
khu vực và vùng kinh tế xã hội.97% dân số trong độ tuổi lao động thuộc
nhóm 20% người nghèo nhất là ở nông thôn.65% dân số trong độ tuổi lao
động thuộc nhóm 20% người giàu nhất là ở đô thị.Sự chênh lệch về mức
sống giữa thành thị và nông thôn là lớn hơn rất nhiều so với sự chênh
lệch này trong nội bộ mỗi khu vực.Xu hướng khác biệt theo vùng trong
sự phân tầng xã hội cũng được khái quát như sau: Phần lớn dân số trong
độ tuổi lao động thuộc nhóm 20% người giàu nhất sống ở cùng Đông
Nam Bộ(37%), đồng bằng sông Hồng(21%) và đồng bằng sông Cửu

9



Long(18%).Sông ở vùng miền núi phía Bắc chỉ có 7% và Bắc Trung Bộ
là 6%.
Phúc lợi xã hội và phân tầng xã hội.Trợ cấp phúc lợi xã hội là công
cụ mà nhà nước có thể sử dụng để làm giảm bớt những chênh lệch quá
lớn, bảo đảm công bằng xã hội hiện nay.Tuy nhiên, trợ cấp này còn
chiếm tỉ trọng rất thấp trong tổng thu nhập của dân cư khoảng 4,4%.Có
nghĩa dân cư Việt Nam chủ yếu có thu nhâp từ lao động cá nhân và gia
đình.Thu nhập do phân phối lại mang tính xã hội còn thấp.Trong việc
phân phối phúc lợi xã hội, chiếm tỉ trọng cao nhất là chi cho bảo hiểm xã
hội, bao gồm chi cho hưu chí và mất sức lao động(82,4%), tiếp theo là chi
cho bảo trợ xã hội(16%).Chi cho xóa đói giảm nghèo là 1,1%.Tương
quan giữa phúc lợi xã hội và phân tầng xã hội chỉ ra rằng hiện nay chủ
yếu là nhóm có mức sống trung bình và trên trung bình được hưởng phúc
lợi cao hơn nhũng nhóm khác.
Có thể nói, nơi nào kinh tế thị trường càng phát triển thì mức độ
phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo càng diễn ra mạnh mẽ.Phân tầng
xã hội là bạn đồng hành của kinh tế thị trường.Sự phân tầng xã hội được
thể hiện trên một loạt tiêu chí:thu nhập, chi tiêu, điều kiện nhà ở, tiện
nghi sinh hoạt, trình độ học vấn,...Như vậy, trong điều kiện kinh tế thị
trường ở đô thị, sự phân tầng xã hội trong dân cư thành thị ngày càng trở
nên sâu sắc.Nhóm hộ nghèo đang có xu hướng giảm dần và nhóm hộ giàu
tăng lên nhanh chóng.Tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch giữa giàu và
nghèo đang ngày càng lớn.
4.Nguyên nhân phân tầng xã hội ở đô thị.
4.1.Sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
a.Tác động của kinh tế thị trường
Hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đang trong quá trình chuyển
mạnh mẽ từ một nền kinh tế tập trung quan liêu ,bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Nền kinh tế thị trường đang dần

hình thành với đầy đủ bản chất và đặc trưng của nó, được điều tiết bởi
những quy luật khách quan như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy
luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ...Các quy luật này không chỉ
tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến
mọi vùng thành thị, nông thôn, mọi lĩnh vực trong đời sống và hoạt động
của con người.
10


Kinh tế thị trường với mục tiêu tối thượng của nó là hiệu quả kinh
tế đã tác động trực tiếp đến phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo.
Trong kinh tế thị trường, những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, người
sản xuất...càng hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích cho bản thân, cho
cộng đồng càng nhiều thì càng có điều kiện thuận lợi để phát triển càng
được xã hội tôn trọng, đánh giá cao và tôn vinh.Những cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp, người sản xuất, hoạt động không có hiệu quả, lãnh phí
nhân lực, của cải tiền bạc của nhân dân thì sẽ phá sản, bị xã hội coi
thường, lên án.
Kinh tế thị trường mà đặc trưng nổi bật là cạnh tranh gay gắt tất
yếu dẫn tới phân tầng xã hội, phân hóa xã hội.
Trong kinh tế thị trường, sự tồn tại hay phát triển của mỗi cá nhân, mỗi
nhóm xã hội là do chính họ quyết định.Trong quá trình cạnh tranh đó
cạnh tranh về mặt trí tuệ là cạnh tranh khốc liệt nhất và tạo ra sự phát
triển bề vững nhất.Ai có trí tuệ sẽ có cơ hội tồn tại và phát triển nhanh
hơn, bền vững hơn, có cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm, thu nhập, nâng
cao mức sống tốt hơn. Ai không có trí tuệ, trí thức sẽ khó có công ăn việc
làm ổn định và thu nhập cao.Người có kinh nghiệm, trí thức và có tay
nghề cao sẽ loại người có tay nghề thấp,không có kinh nghiệm, trí thức ra
khỏi cuộc chơi.Cơ chế thị trường tạo ra sự bình đẳng cho mọi người trong
cuộc sống cạnh tranh.Nhưng cơ hội đó chỉ có thể được phát huy một khi

có những người có năng lực vận dụng nó- những người có tri thức, có
kinh nghiệm, vốn xã hội, và năng lực thực tế.Đó là một cuộc cạnh tranh
quyết liệt.Những ai không có năng lực vận dụng cơ hội đó sẽ bị rơi vào
những kẻ yếu thế.Trong nền kinh tế thị trường ai cạnh tranh giành thắng
lợi sẽ tồn tại và phát triển.Ngược lại họ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi nếu thất
bại.Cạnh tranh là một tác nhân dẫn tới phân tầng xã hội, phân hóa giàu
nghèo.
Kinh tế thị trường dẫn tới phân hóa xã hội, phân hóa mức sống,
phân hóa giàu nghèo.
Do yêu cầu của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp, người sản xuất
luôn phải mở rộng sản xuất, các tập đoàn phải tích tụ sản xuất, dần dần
hình các liên doanh, liên kết, các chủ kinh tế và để tồn tại, phát triển các
cơ sở sản xuất phải cạnh tranh lẫn nhau.Xã hội có sự điều chỉnh dân cư,
cơ cấu xã hội.Những nhóm xã hội người sản xuất có lợi thế về kinh tế, về
11


tiềm năng sẽ tồn tạo và phát triển và những nhóm yếu thế sẽ bị chèn ép,
bị phá sản.Điều đó dẫn tới việc phân hóa giai cấp, phân hóa các cố kết xã
hội, phân hóa mức sống và phân hóa lao động.
Kinh tế thị trường với việc mua bán, trao đổi sức lao động, hàng
hóa, tác động mạnh vào các quan hệ xã hội
Trong kinh tế thị trường, ai có nhiều tiền của, giàu sang, phú quý, thì sẽ
có cơ hội phát triển hơn, thỏa mãn được như cầu cuộc sống của
mình.Người có nhiều tiền thì sẽ được xã hội đáng giá cao và thừa
nhận.Ngược lại ai không có tiền, cuộc sống nghèo khổ, thì khó có cơ hội
phát triển, khó có cơ hội vươn lên ngang bằng về địa vị xã hôi so với
người giàu.Người giàu có cơ hội càng giàu lên, người nghèo có nguy cơ
càng nghèo đi và như vậy khoảng cách giàu nghèo càng dãn ra
b.Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trước hết diễn ra trong
lĩnh vực kinh tế, đấu tranh kinh tế
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trước hết tác động đến kinh
tế.Quá trình này ngày càng phát triển, đặc biệt kể từ khi nước ta gia nhập
WTO đến nay.Qúa trình này tác động và thu hút ngày càng mạnh đến mọi
người, mọi nhà, mọi linh vực kinh tế, mọi lĩnh vực sản xuất.Và đương
nhiên những cá nhân tổ chức xã hội nào năng động có nhiều lợi thế sẽ có
nhiều cơ hội vươn lên làm giàu và chiếm lĩnh những vị trí cao trong sản
xuất kinh doanh cũng như trong đời sống xã hội chính trị...Những cá
nhân tổ chức nào kém năng động, thụ động, ỷ lại hoặc trình độ tay nghề,
năng lực kinh doanh hạn chế đương nhiên sẽ rớ vào tầng lớp xã hội yếu
thế.
Hội nhập kinh tế dẫn đến đua tranh xã hội làm thay đổi, phân hóa
sâu sắc hệ thống giá trị.
Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội giao lưu, giao tiếp của
các nền văn hóa và điều đó tất yếu dẫn đến sự thay đổi các giá trị, chuẩn
mực xã hội truyền thống.Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm
thay đổi lối sống, phong tục, tạp quán, thói quen lạc hậu của các nhóm
dân cư, làm thúc đẩy sự phân hóa xã hội.Những nhóm dân cư có điều
kiện hưởng lợi sớm hơn, nhiều hơn từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
cũng sẽ có thay đổi, phá bỏ những tập tục thói quen lạc hậu, trói buộc
12


thay vào đó là lối sống văn minh, hiện đại...Những cộng đồng dân cư do
có ít điều kiện tiếp cận với tiến bộ khoa học hiện đại, với văn minh nhân
loại sẽ khó xóa bỏ các phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu, do đó khó
có cơ hội điều kiện vươn lên ngang bằng với các nhóm xã hội khác có
trình độ văn minh cao hơn.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đua tranh trí thức, trí

tuệ giữa các dân tộc, quốc gia, giữa các cá nhân, nhóm xã hội tất yếu sẽ
tác động đến đất nước và đô thị sẽ không nằm ngoài tác động đấy
Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, trong nền kinh
tế tri thức, ai có tri thức cao hơn, nắm giữ nhiều tri thức hơn, người đó sẽ
có cơ hôi phát triển, có khả năng sáng tạo và do đó sẽ dược đánh giá cao
được tôn trọng.Ngược lại, những người không nắm bắt được tri thức,
không sử dụng, không phát huy được tri thức trong sản xuất, đua tranh
kinh tế thì học sẽ bị thua thiệt, bị loại khỏi cuộc chơi.
4.2.Các hệ thống chính sách, thể chế pháp luật còn lỏng lẻo
Chế độ chính trị, hệ thống chính sách, thể chế pháp luật là những
yếu tố hết sức quan trọng tác động vào nền kinh tế xã hội nói chung và
vào xã hội đô thị nói riêng.Những yếu tố này là những đảm bảo quan
trọng để quá trình hội nhập, phát triển kinh tế thị trường.Quá trình phân
tầng, phân hóa xã hội sẽ luôn được diễn ra trong một khuôn khổ có thể
chấp nhận được.Tuy nhiên, môi trường pháp lý ở Việt Nam rõ ràng là
chưa hoàn thiện, chưa ổn định và có nhiều khiếm khuyết.Nhiều đạo luật
còn thiếu đang chờ bổ sung.Những cái đã có cũng cần được sửa đổi, hoàn
thiện thường xuyên.Tính khả thi của nhiều đạo luật và văn bản dưới luật
còn yếu.Điều này tạo ra nhiều khe hở cho các hành động thao túng pháp
luật, làm giàu bất chính.Đây là một trong những tác nhân tiêu cực, làm
gia tăng phân tầng xã hội một cách không bình thường.
4.3.Nguyên nhân về vùng môi trường tự nhiên, cơ sở hạ tầng.
a.Yếu tố nông thôn-thành thị
Yếu tố nông thôn-thành thị cũng là nguyên nhân tác động đến phân
tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo.Theo số liệu của Tổng cục thống kê,
năm 2006 thu nhập bình quân đầu người/tháng ở khu vực đô thị cao gấp
2,09 lần so với nông thôn.Ở thành thị năm 2006 chỉ còn 7,7% là hộ
nghèo, trong khi đó ở nông thôn là 17%.Phân hóa giàu nghèo ở nước ta
13



diễn ra theo trục chính là nông thôn-đô thị song hành với nó là trục dân
tộc Kinh, Hoa-các dân tộc thiểu số khác, đồng bằng và rừng núi, vùng xa,
vùng sâu.
b.Cơ cấu nghề nghiệp
Cơ cấu nghề nghiệp cũng ảnh hưởng đáng lể đến thu nhập mức
sống, qua đó dẫn đến phân tầng, phân hóa xã hội.Những vùng nông thôn
chỉ phát triển thuần nông, độc canh cây lúa thường nghèo.Ngược lại,
những làng xã nào mà phát triển đa ngành đa nghề hoặc chuyển đổi canh
tác từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp hoặc nông thương hỗn hợp thì
dễ giàu.
Một cuộc khảo sát xã hội ở xã Ninh Hiệp và xã Cò Nòi năm 1977 cho
biết ở xã Ninh Hiệp số hộ giàu trong làng là 25%, khá giả là 40%, hộ
nghèo chỉ có 2%.Những năm gần đây hộ giàu còn tăng lên nũa.Ngược lại
tại xã Cò Nòi, một xã gần như thuần nông của tỉnh Sơn La cho biết tỉ lệ
hộ giàu chỉ có 0,7%, khá giàu 6,9%, Nghèo chiếm tới 38%.
Điều này không chỉ chứng minh ở các vùng kinh tế, địa lý khác nhau mà
còn đúng ngay cả trong một vùng.Xã Yên Thường ở trong đồng bằng
sông Hồng là một xã có 75% hộ sản xuất thuần nông và theo đó được xếp
là một xã nghèo
c.Yếu tố địa lý, môi trường tự nhiên
Yếu tố địa lý, môi trường tự nhiên là những điều kiện hết sức quan
trọng dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội.Cư dân sống ở
những nơi đất đai màu mỡ, thời tiết thuận hòa, thiên nhiên ưu đãi, giao
lưu thuận tiện sẽ có nhiều thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, vươn tới
cuộc sống no đủ, khá giả.Ngược lại, có nhiều khu dân cư sống ở địa hình
có nhiều sườn dốc,thời tiết khắc nghiệt, nhiều thiên tai, họ sinh sống rất là
khó khăn, lại phải thường xuyên chống chọi với thiên tai, dịch bệnh.Họ
rất khó có được cuộc sống no đủ khá giả.
d.Cở sở hạ tầng

Gắn với yếu tố địa lý, điều kiện tự nhiên là cơ sở hạ tầng.Những cư
dân ở vùng có cơ sở hạ tầng tốt, ven thị trấn,thành phố, điều kiện giao
thông thuận tiện, dịch vụ sản xuất, dịch vụ thương mại, dịch vụ sinh hoạt
tốt, sẽ có nhiều điều kiện giao lưu, học hành, phát triển nghề nghiệp.Họ
14


dễ vươn lên để có cuộc sống khá giả.Ngược lại những khu dân cư sống ở
những vùng cơ sở hạ tầng thấp kém, thường rơi vào nhóm xã hội nghèo.
4.4.Nguyên nhân do đặc trưng cá nhân
a.Nguồn gốc giai tầng xã hội.
Trong xã hội Việt Nam, dễ dàng nhận thấy phần lớn những gia
đình có địa vị kinh tế-xã hội cao có những điều kiện thuận lợi để duy trì
và phát triển hơn nữa địa vị kinh tế xã hội của mình.Theo đó, con em học
cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển, phần lớn các em đều có
nghề nghiệp ổn định, học vấn cao, chiếm lĩnh được những vị trí cao trong
xã hội.Còn con em tầng lớp lao động đi lên khó khăn hơn, đòi hỏi nhiều
nỗ lực hơn, nhưng tỷ trọng các em thành đạt và có mức sống cao cũng ít
hơn.Đối với những gia đình nghèo vốn liếng ít ỏi, học vấn thấp thì con
em họ có rất ít điều kiện để vươn lên.Họ ít được chăm sóc sức khỏe, khó
có điều kiện học hành để đạt được một học vị hay một chuyên môn nghề
nghiệp cao, do đó họ rất khó có thể kiếm được một chỗ làm việc tốt và
buộc phải làm những công việc bấp bênh, thu nhập thấp và không ổn định
đương nhiên là cuộc sống sẽ khó khăn hơn.
b.Trình độ học vấn
Trình độ học vấn của người nào đó càng cao thì triển vọng đi lên
của người đó càng tốt và ngược lại nếu trình độ học vấn của người nào đó
càng thấp thì sự thăng tiến của người đó càng khó khăn.Ở các nước phát
triển, trình độ học vấn giúp người ta chiếm lĩnh được những công việc
tốt, đưa lại thu nhập cao, theo đó là mức sống cao.

Thực tế chỉ ra rằng, những người có trình độ học vấn cao thường năng
động hơn những cá nhân có học vấn thấp.Nhờ có học vấn cao người ta có
thế nhận được những công việc có tính chuyên môn cao, họ có khẳ năng
vươn lên đảm nhận những công việc phong phú, phức tạp, đương nhiên
theo đó họ sẽ có mức sống cao, thu nhập cao.Những người có học vấn
thấp, rất khó đảm nhiệm những công việc phức tạp do đó họ buộc phải
làm những công việc đơn giản, thường là vất vả, lam lũ song có thu nhập
thấp, mức sống thấp.
Từ hai cuộc điều tra mức sống dân cư năm 1993 và 1998 cho thấy một
người thêm một năm đi học có khả năng giảm nguy cơ rơi vào hộ nghèo
từ 20% xuống còn 18% và đồng thơi tăng cơ hội vươn lên hộ giàu từ 20%
15


lên 23%.Điều này dễ hiểu bởi trình độ học vấn ảnh hưởng đến thu nhập
gia đình: Một hộ gia đình có trình độ trung cấp có mức chi tiêu cao hơn
mức trung bình gần 19% và nếu chủ hộ có trình độ đại học thì mức cao
hơn là 31%.Con số này là 29% nếu vợ và chồng có trình độ trung cấp và
48% nếu vợ và chồng có trình độ đại học
Trình độ học vấn thấp, kỹ năng tay nghề kém là nguyên nhân của nghèo
đói, ngược lại nghèo đói là cản trở lớn cho các thành viên gia đình nghèo
tiếp cận với dịch vụ giáo dục chất lượng.Số liệu thống kê cho thấy, tỉ lệ đi
học phổ thông trong nhóm giàu nhất/nghèo nhât là 4/1.
Học vấn cao dẫn đến thu nhập cao, mức sống cao không chỉ đúng với
việc xem xét trình độ học vấn trung bình của các thành viên trong gia
đình mà còn đặc biệt đúng với các chủ hộ gia đình.Kêt quả cuộc điều tra
mức sống toàn quốc năm 1998 chỉ ra rằng trong số 20% nhóm hộ giàu
nhất trong xã hội, đã có sự đóng góp của 70% nhóm chủ hộ có trình độ
học vấn đại học, cao đẳng trở lên, các chủ hộ thuộc nhóm còn lại chỉ
đóng góp vào 30%

Tuy nhiên khi xét mối tương quan giữa trình độ học vấn mà mức giàu,
nghèo, chúng ta nhận thấy ở chúng có mối quan hệ hai chiều.Trình độ
học vấn cao, có thể mang lại thu nhập cao, mức sống cao.Ngược lại nhờ
có thu nhập cao, mức sống cao,các hộ gia đình mới có thể giành thời gian
và kinh phí thỏa đáng cho con cái họ đi học tiếp thu kiến thức.Sau đó
kiến thức lại cho phép người ta nắm bắt khoa học -kỹ thuật-công nghệ để
làm giàu hơn nũa cho mình.
Nguồn gốc giai tầng xã hội và trình độ học vấn là những yếu tố
quan trọng tác động đến phân tầng xã hội theo thu nhập và mức sống.Tuy
nhiên, điều đáng chú ý ở chỗ, trong hai yếu tố này thì học vấn thường lại
phụ thuộc vào nguồn gốc giai tầng xã hội.Những cuộc khảo cứu xã hội
học chỉ ra rằng, mặc dù một số con em của tầng lớp lao động có năng
khiếu và trí thông minh không thua kém gì con em thuộc tầng lớp xã hội
có địa vị cao song lại tỏ ra rất khó khăn trong việc nắm lấy bằng cấp, học
vị cao, điều này được giải thích theo 2 yếu tố:
+Hoàn cảnh cũng như điều kiện vật chất của những gia đình thuộc
tầng lớp nghèo không đủ điều kiện chu cấp cho việc học tập của con em
họ
16


+Sự hạn chế về kiến thức và những giá trí văn hóa của các bậc phụ
huynh trong những gia đình thuộc tầng lớp thấp...đã ảnh hưởng đến hiệu
quả giáo dục đối với con cái họ
c.Loại hình nghề nghiệp và trình độ nghề nghiệp.
Loại hình nghề nghiệp:
Chúng ta biết rằng, trong xã hội không phải loại hình nghề nghiệp
nào cũng mang lại thu nhập và uy tín xã hội như nhau, mà trong mỗi giai
đoạn, mỗi một xã hội cụ thể luôn có một nghề nghiệp nào đó mang lại thu
nhập cao hơn, qua đó mang lại mức sống cao hơn và uy tín nghề nghiệp

cao hơn so với những nghề nghiệp khác.Ở nước ta trong những năm gần
đây, ai cũng biết rằng ngành nghề có lợi thế nghề nghiệp thường mang lại
thu nhập cao hơn so với ngành nghề khác như ngân hàng, hải quan,hàng
không...
Trình độ nghề nghiệp:
Trình độ nghề nghiệp thường có quan hệ với lứa tuổi và thâm niên
nghề nghiệp, theo đó là học vấn của mỗi người với kinh nghiệm hiểu biết
và vị trí của họ.Qua số liệu điều tra cho biết độ tuổi trung bình của nhóm
hộ gia đình giàu ở Đồng bằng sông Hồng là 37,39 tuổi, cao hơn nhóm độ
tuổi trung bình của nhóm hộ gia đình nghèo xấp xỉ 4 tuổi.Điều này phản
ánh độ tuổi có liên quan đến kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, kỹ năng
lao động, có quan hệ chặt chẽ với với thu nhập, mức sống.
d.Số con và tỉ lệ lao động chính trong các hộ gia đình.
Nhiều cuộc điều tra xã hội học đã chỉ ra rằng gia đình đông con
thường dẫn đến đói nghèo.Ở đây có mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa số con
và đói nghèo.Số con của một gia đình nào đó càng lớn thì cuộc sống của
gia đình đó càng nghèo.Tăng một thành viên trong gia đình đặc biệt là trẻ
em và người già sẽ làm cho số tiề của người lớn kiếm được phải phân ra
nhỏ hơn do số người ăn theo tăng lên.
Năm 1998 con số trung bình /phụ nữ thuộc nhóm 20% nghèo nhất là
3,5% so với mức 2,1% con của phụ nữ thuộc nhóm 20% giàu nhất.Tỷ lệ
người ăn theo của nhóm nghèo nhất là 0.95% so với nhóm giàu nhất là
0,37%

17


Theo điều tra dân số Việt Nam năm 2004, số con trung bình/phụ nữ thuộc
20% nhóm nghèo nhất là 3,53 con, cao gấp 1,7 lần so với số con trung
bình/phụ nữ thuộc nhóm 20% giàu nhất(2,07%)

Khoảng 70% số hộ dân có năm con trở lên thuộc vào diện hộ nghèo,
trong khi đó ở các hộ có hai con trở xuống là khoảng 27%.
Tỷ lệ số lao động chính trong mỗi gia đình cũng góp phần tác động
đến phân tầng xã hội về thu nhập và mức sống.Trong một mặt bằng trình
độ nghề nghiệp tương tự nhau, những hộ gia đình có nhiều lao động
chính hơn sẽ làm ra nhiều của cải vật chất hơn, thu nhập cao hơn những
gia đình ít lao động chính lại phải đảm nhiệm nuôi dưỡng nhiều em nhỏ,
người già, người khuyết tật.
e.Yếu tố sức khỏe
Yếu tố sức khỏe cũng góp phần tác động đáng kể đến thu nhập,
kèm theo đó là mức sống, phân hóa giàu nghèo.Một người có sức khỏe
tốt có thể làm được nhiều việc hơn, năng xuất lao động cao hơn, bền bỉ
hơn, theo đó mức sống khá hơn.Tất nhiên, thu nhập và mức sống cũng tác
động đến việc chăm sóc sức khỏe.Nếu một người nào đó hay một hộ gia
đình nào đó có thu nhập cao, mức sống cao, thì họ sẽ dành ra một phần
thu nhập thỏa đáng cho việc chăm sóc sức khỏe, từ đó nâng cao hơn nữa
sức lao động và sẽ có sức khỏe lại làm ra nhiều của cải.Một người hay
một hộ gia đình có nhiều người ốm đau nhiều, thì họ khó có thể tạo ra
được nhiều thu nhập, qua đó nguy cơ nghèo là khó tránh khỏi.
f.Các nhóm yếu tố khác
Vị thế xã hội: Bao gồm nơi làm việc và chức vụ đảm nhận.Các
nghiên cứu cho thấy những cá nhân làm việc trong lĩnh vực có lợi thế
nghề nghiệp sẽ có thu nhập cao hơn cùng với những người tương tự như
họ nhưng phải làm việc ở các nghề nghiệp khác.Vị thế xã hội là một yếu
tố quan trọng quyết định hộ thu nhập gia đình.Thực tế những người làm
việc trong cơ quan quyền lực Nhà nước thường có mức sống cao hơn so
với người dân bình thường.
Quan hệ xã hội:Là một yếu tố hết sức quan trọng trong quá trình
thăng tiến cũng như vươn lên làm giàu.Những hộ gia đình giàu thường có
nhiều mối quan hệ qua đó họ nhiều cơ hội hơn để làm giàu.Người nghèo

thường có ít mối quan hệ, tự ti đóng mình, không mạnh dạn mở mang các
18


mối quan hệ, do đó ít nhận được sự giúp đỡ từ người khác để phát triển
sản xuất, từ đây cái vòng luẩn quẩn nghèo đói mãi đeo bám.
Nguồn lực sản xuất( Vốn,kinh tế):Ở xã hội nước ta, vốn là yếu tố
hết sức quan trọng giúp người lao động phát triển sản xuất.Người nào có
nhiều vốn, nhiều nguồn lực sản xuất, thường có cơ hội vươn lên làm
giàu.Ngược lại người nào, hộ nào vốn tài chính ít thường không có cơ hội
phát triển làm giàu, do đó vẫn thuộc mức nghèo của xã hội.
Đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán:Truyền thống văn hóa là yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến lối sống, cách suy nghĩ của mỗi người, đo
đó nó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến chi
tiêu trong gia đình vì vậy nó ảnh hưởng gián tiếp đến khẳ năg làm giàu
hoặc dẫn đến nghèo đói.
Người Kinh thường năng động, tháo vát hơn những người dân tộc ít
người khác ở vùng sâu, vùng xa.Một số dân tộc ít người, bị chi phối bởi
các phong tục lạc hậu, họ ngại đổi mới, ngại giao tiếp, tâm lý trông chờ ỷ
lại,là những vật cản để họ vươn lên thoát nghèo.
Tình trạng hôn nhân cũng là một yếu tố tác động đến phân tầng xã hội,
phân hóa giàu nghèo ở nông thôn.Rõ ràng những gia đình hạnh phúc,toàn
vẹn sẽ có cơ hội vươn lên thoát nghèo tốt hơn so với các gia đình đổ vỡ.
5.Tác động của phân tầng xã hội ở đô thị
5.1.Tích cực
Trong bối cảnh chuyển sang một nền kinh tế thị trường ở nước ta,
phân tầng xã hội như là hệ quả của quá trình thực hiện sự công bằng xã
hội, đã và sẽ tiếp tục góp phần thúc đẩy tính năng động xã hội trong mỗi
cá nhân, mỗi nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác các cơ để
phát triển vượt lên.Nó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh ngày càng

quyết liệt, qua đó sàng lọc và tuyển trọn ra những người đủ năng lực và
phẩm chất cần thiết để trở thành thành viên của nhóm vượt trội, động lực
cho sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực hay một địa phương.
Sự phân tầng xã hội phát triển có thể dẫn đến hình thành một cơ cấu xã
hội mới theo vị thế, bổ sung hoặc thay thế cho cơ cấu-giai cấp, và tiếp
đến là các hình thức liên kết xã hội mới, trong đó một tầng lớp trung lưu
mới ở đô thi hay một tầng lớp khá giả ở nông thôn có thể đóng vai trò
những nhân tố mới trong tiến trình phát triển sắp tới.
19


5.2.Tiêu cực
Sự phân tầng xã hội càng làm tăng nguy cơ cách biệt giàu-nghèo
ngày càng dãn rộng.Những cơ hội phát triển cho người giàu sẽ nhiều
hơn.Những khác biệt như vậy diễn ra trước hết trong lĩnh vực kinh tế sau
đó sẽ lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục, chăm sóc sức khỏe,nhà ở
và các dịch vụ cơ bản khác....Những thành quả của công cuộc đổi mới,
không phải tất cả các nhóm xã hội sẽ được thụ hưởng tương xứng với sự
đóng góp của họ.Rõ ràng đó là những hệ quả không mong muốn khi
chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
theo đuổi nguyên tắc công bằng xã hội.Và một khi bất bình đẳng xã hội
vượt qua một mức nào đó sẽ có thẩ gây nên những bất ổn, tiêu cực và
xung đột xã hội.
Trong điều kiện quá độ sang kinh tế thị trường, hiện tượng phân
tầng xã hội thường có những biểu hiện bộc phát, cực đoan.Sự đối lập, đôi
khi đến mức tương phản giàu nghèo trong đời sống cũng đặt ra nhiều vấn
đề mà xã hội phải có trách nhiệm lưu tâm.Xuất hiện những nhóm người
dễ bị tổn thương trong xã hội cơ chế thị trường như: những hộ gia đình
nghèo, phụ nữ, trẻ em, người già, dân nhập cư tự do... và đặc biệt khi
nhóm người nghèo này lại rơi vào một số gia đình là đối tượng quan tâm

của các chính sách xã hội thì vấn đề càng trở nên phức tạp hơn.
Trên bình diện lối sống, phân tầng xã hội góp phần tạo ra sự đa
dạng trong các hình mẫu lối sống.Đáng lưu ý là sự phát triển của lối sống
tiêu dùng trong bộ phận dân cư khá giả, đặc biệt trong nhóm giàu
mới.Trong khi đó nhóm người nghèo bị bần cùng hóa, cũng sẽ hành động
không như xã hội mong đợi.Ở cả hai cực của sự phân hóa đó đều chứa
đựng nguy cơ gây ra bấn ổn định xã hội.
Những tác động về mặt tâm lí, tư tưởng, niềm tin, về công bằng xã
hội, một khái niệm vốn gắn bó với mô hình chủ nghĩa xã hội trước đây
trong đại bộ phận dân cư.Bên cạnh đại bộ phận dân cư chấp nhận tính tất
yếu của phân tầng xã hội, vẫn còn một bộ phận nhỏ coi đó là hiện tượng
không bình thường, khó chấp nhận,và dễ tạo ra một tâm lý xã hội bi quan
trước tác động của cơ chế thị trường.
6.Giải pháp khắc phục mặt tiêu cực của phân tầng xã hội đô thị.
6.1.Tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các tầng lớp dân cư, phát triển con
người và phát triển nông thôn.
20


Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
khuyến khích mọi tầng lớp dân cư tham gia đầu tư sản xuất kinh
doanh.Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn sự phân biệt đối xử đối với các
thành phần kinh tế khác nhau, người dân vẫn chưa có được niềm tin đầy
đủ khi đầu tư vào sản xuất.Môi trường kinh doanh thiếu tính ổn định và
thiếu minh bạch là căn nguyên của sự trì trệ trong sản xuất và nảy sinh
nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực, vì vậy nó cản trở cả tăng trưởng kinh tế
và làm gia tăng bất bình đẳng.
Cần tạo ra mặt bằng pháp lý chung đối với mọi thành phần kinh
tế.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phải được hiểu là sức mạnh tự
thân do tính ưu việt của thành phần kinh tế đó so với thành phần kinh tế

khác do đó mà lợi thế cạnh tranh trong môi trường pháp lý là như
nhau.Các chính sách về thị trường lao động, tín dụng, tiêu thụ sản
phẩm,bao gồm cả hoạt động ngoại thương cần được thống nhất cho mọi
thành phần kinh tế
Môi trường kinh doanh bình đẳng trong một nền kinh tế thị trường
tự nó tạo ra động lực cho đầu tư.Đầu tư công cộng có một ưu thế và vai
trò đặc biệt trong việc giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội, do nó có khẳ năng kết hợp những lợi ích trước mắt và
lâu dài, giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng
trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo.Lợi thế cạnh tranh từ một quốc gia
cũng như cơ sở đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong những thập kỷ
tớ phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người.Sự phân hóa giàu nghèo cũng
có nguyên nhân một phần lớn bởi sự khác biệt về trình độ học vấn nói
riêng và sự phát triển con người nói chung.
Phát triển con người cũng nhìn nhận từ hai phía:Vừa phải xóa đói giảm
nghèo, hỗ trợ người nghèo, đặc biệt các nhóm bị thiệt thòi, đồng thời phải
khuyến khích sự vượt trội, làm giàu chính đáng, hợp pháp, góp phần tạo
lực đẩy cho sự tăng trưởng kinh tế và phát triển con người.
Nâng cao học vấn và dân trí có ý nghĩa trước mắt và lâu dài.Tăng
cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề
nhằm giúp cho người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với
những đòi hỏi thường xuyên biến đổi của thị trường lao động.Cải cách
giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu
21


phát triển kinh tế đất nước.Tăng đầu tư cho giáo dục bằng nhiều nguồn
khác nhau, trong đó đầu tư từ ngân sách cần tăng lên 15-20% như các
nước khác.

Phát triển nông thôn là một trong những chính sách đặc thù,ưu tiên
của Nhà nước ta.Nhìn từ góc độ tăng trưởng và công bằng xã hội bao
gồm:
+Khuyến khích đa dạng hóa nông ngiệp, nhằm tạo ra nhiều việc
làm phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
+Ưu tiên đầu tư vào kỹ thuật nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông
thôn.
+Khuyến khích dịch chuyển lao động ra khỏi ngành nông nghiệp
+Phát triển công nghiệp nông thôn, chú trọng xây dựng các điểm
đô thị ở các vùng nông nghiệp
+Có chính sách ưu đãi về tài chính, tiêu thụ sản phẩm đối với khu
vực nông nghiệp, tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn cho nông dân, đặc
biệt là các hộ nông dân nghèo.
+Thực hiện triệt để giao quyền sử dụng đất lâu dài
6.2.Hoàn thiện các chính sách phân phối và phân phối lại có tác động
trực tiếp đến việc tạo lập công bằng xã hội và điều tiết quá trình phân
hóa xã hội.Trong đó có hai chính sách quan trọng là chính sách thuế và
chính sách tiền lương.
Chính sách thuế và các biện pháp quản soát hợp lý góp phần điều
chỉnh thu nhập, phân bổ sử dụng ngân sách cho các mục tiêu xã hội, phát
triển con người giảm bớt những sự phát triển quá lớn giữa thành thị và
nông thôn, đồng bằng và miền núi, giữa các vùng miền, các nhóm xã
hội....Chính sách thuế cũng phải khuyến khích các hoạt động kinh doanh
và tạo cơ hội cho tầng lớp nghèo có khả năng tăng thu nhập.Cần giảm
hoặc miễn thuế đối với các hoạt động nông nghiệp, kinh doanh nhỏ hoặc
các dịch vụ tự làm của người lao động.Đối với các hoạt động kinh doanh
lớn, công cụ thuế không chỉ có tác dụng phân phối lại mà còn có nghĩa là
những khoản tái đầu tư trong tương lai.

22



Chính sách tiền lương, đặc biệt tiền lương trong khu vực hành
chính sự nghiệp cần được cải cách sao tiền lương phản ánh đúng giá trị
của sức lao động.Từ đó có thể chính thức hóa các nguồn thu nhập, loại
trừ các hình thức thu nhập không chính thức ngoài lương, vừa không thể
kiểm soat được, vừa là kẽ hở cho các loại hình tham nhũng và lãng
phí.Lúc đó tiền lương mới thực sự là đòn bẩy khuyến khích nâng cao hiệu
quả, năng suất và chất lượng lao động, mới có cơ sở kinh tế để duy trì trật
tự và kỷ cương trong kinh tế.
Hoàn thiện các hệ thống chính sách xã hội, anh sinh xã hội, bảo
hiểm xã hội, đặc biệt là đối với tâng lớp nghèo, những người dễ bị tổn
thương do những biến động kinh tế.Nhà nước cũng cần taọ điều kiện để
tầng lớp nghèo tiếp cận các nguồn tài chính, cũng như tạo cơ sở để đảm
bảo cho họ giải quyết các khó khăn khi gặp bất trắc.
6.3.Hoàn thiện môi trường pháp lý và thể chế
Hoàn thiện môi trường pháp lý, thể chế,cải cách hành chính, làm
trong sạch bộ máy Nhà nước nhằm ngăn ngừa sự làm giàu bất hợp pháp,
chống tham nhũng và phát huy dân chủ cũng là những giải pháp nhằm tạo
lập cơ sở xã hội và thể chế cho tăng trưởng công bằng.

23


C.KẾT LUẬN
Tóm lại, cùng với quá trình đổi mới, kinh tế thị trường đã tác động
mạnh mẽ đến các đô thị Việt Nam, đem lại nhiều mặt tích cực cho xã hội,
đó là sự phong phú hàng hóa, phương tiện sinh hoạt cho nhân dân.Mức
sống về vật chất và tinh thần của nhân dân tăng cao, lối sống và khuôn
mẫu thay đổi theo chiều hướng tích cực.Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực

thì quá trình đổi mới và kinh tế thị trường càng đào sâu hố phân tầng xã
hội giữa nhóm người giàu và người nghèo trong xã hội.Từ một hiện
tượng diễn ra chậm chạp, lẻ tẻ, bị che lấp bởi chủ nghĩa bình quân chia
đều sự nghèo khổ đã trở thành một hiện tượng diễn ra ngày càng rõ nét.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước đã tiến hành đổi mới về mọi
mặt mà trước hết là tư duy; các nhà khoa học đã nghiên cứu, rà soát một
cách kỹ lưỡng những vấn đề lý luận có tính chất thời sự cũng như nhiều
vấn đề lý luận khác. Kịp thời tổng kết, khái quát hóa những vấn đề mới
mẻ, đa chiều của thực tiễn, mạnh dạn đưa ra những kiến giải lý luận có
tính thuyết phục và trách nhiệm.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Giáo trình Xã hội học chuyên biệt.Trường đại học Lao động-Xã hội.
.

2.Nguyễn Đình Tấn.Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội. Sách chuyên khảo
Nxb. Chính trị Quốc gia.Hà Nội,1999.
3.Luận văn.net.
4.123doc.net.

25


×