Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Điều tra cây thuốc và các bài thuốc của đồng bào dân tộc thái, huyện quế phong, tỉnh nghệ an, nhằm bảo tồn tri thức bản địa và định hướng phát triển tài nguyên rừng bền vững (

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.24 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án.
Các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung và huyện Quế Phong nói
riêng có số lượng lớn, phân bố rộng, trình độ dân trí thấp, đời sống cơ bản đang gặp
nhiều khó khăn. Do đặc thù về vị trí địa lí nên người dân ở đây đang chịu nhiều thiệt
thòi. Các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là
vấn đề chăm lo sức khỏe của nhân dân. Dân số các đồng bào dân tộc thiểu số chiếm
một tỷ lệ lớn (90%) so với dân số toàn huyện, trong đó dân tộc Thái có 50.523 người,
chiếm khoảng 80%. Qua tìm hiểu thấy đồng bào Thái đang lưu truyền rất nhiều bài
thuốc chữa bệnh hay, thậm chí một số bài thuốc truyền thống còn chữa bệnh hiệu quả
hơn các phương pháp chữa bệnh tiên tiến khác.
Do dân cư phân bố chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa, giao thông cách trở, cơ sở
y tế nghèo nàn, thuốc tây vừa thiếu, giá lại đắt nên ở đây họ chủ yếu chữa bệnh bằng
kinh nghiệm của các ông lang bà mế. Đồng bào Thái gọi thầy thuốc là “Xây hạc may”.
Xây có nghĩa là thầy, hạc may nghĩa là rễ cây, “Xây hạc may” có nghĩa là người thầy
dùng cây để chữa bệnh. Trên thực tế, các ông lang bà mế không nhiều, các bài thuốc
chủ yếu chỉ truyền trong gia tộc, một số thầy lang không truyền lại được cho đời sau.
Như vậy, nguy cơ về việc thất truyền các bài thuốc là có thật và việc chữa bệnh của
đồng bào dân tộc Thái sẽ ngày càng khó khăn hơn.
Người Thái sống chủ yếu dựa vào nguồn cung cấp lương thực, thuốc men từ
rừng, đó là nguồn tài nguyên vô giá. Tuy nhiên, hiện nay nguồn tài nguyên rừng đang
bị tàn phá nghiêm trọng và ngày càng cạn kiệt. Nạn chặt phá rừng, khai thác không có
kế hoạch, ô nhiễm môi trường … đang diễn ra hàng ngày, song song với những vấn
nạn đó thì cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái cũng dần dần bị biến mất một cách
nhanh chóng.
Hiện nay, việc nghiên cứu cây thuốc ở vùng Tây Bắc Nghệ An nói chung chưa
được quan tâm nhiều, đặc biệt ở Quế Phong - một huyện vùng núi cao giáp Lào, nơi
chứa đựng một kho tàng cây thuốc và các bài thuốc dân gian có giá trị của dân tộc
miền núi, đây là nguồn tư liệu tốt cho nền y học nước nhà. Xuất phát từ thực tế đó
nên tôi chọn đề tài “Điều tra cây thuốc và các bài thuốc của đồng bào dân tộc Thái,
huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, nhằm bảo tồn tri thức bản địa và định hướng


phát triển tài nguyên rừng bền vững”
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Đánh giá tính đa dạng về cây thuốc tại huyện Quế Phong, đặc biệt tại Khu Bảo
tồn thiên nhiên Pù Hoạt; thu thập các bài thuốc dân tộc Thái trên địa bàn nghiên cứu
để bảo tồn tri thức bản địa.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
3.1. Ý nghĩa khoa học
1


Luận án đánh giá một cách có hệ thống các loài cây thuốc trên địa bàn
huyện Quế Phong, thu thập các bài thuốc, cung cấp tư liệu cho ngành dược, y học
cổ truyền Việt Nam.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Huyện Quế Phong bao trùm cả Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, có nguồn tài
nguyên thực vật đa dạng, phong phú, đặc biệt có nhiều loài thực vật làm thuốc giá trị.
Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu về thực vật học dân tộc tại huyện Quế Phong
nói chung và Pù Hoạt nói riêng chưa được quan tâm đúng mức, do đó cần phải
nghiên cứu cụ thể để phục vụ công tác bảo tồn.
Luận án ngoài việc thống kê, đánh giá tính đa dạng cây thuốc còn ghi chép các
bài thuốc của các ông lang, bà mế để lưu giữ cho thế hệ sau, bảo tồn tri thức bản địa.
Đề xuất và đã thực hiện việc bảo tồn một số cây thuốc có giá trị trên địa bàn
nghiên cứu.
4. Những điểm mới của luận án.
+ Điều tra lập danh lục 583 loài cây thuốc tại huyện Quế Phong được đồng bào
dân tộc Thái sử dụng để chữa bệnh.
+ Bổ sung 118 loài từ khu vực nghiên cứu vào từ điển Cây thuốc Việt Nam 2012.
+ Xác định, mô tả, bổ sung công dụng 15 loài cây thuốc quý có trong Sách Đỏ
Việt Nam (2007).
+ Thu thập 75 bài thuốc thuộc 16 nhóm bệnh khác nhau.

+ Mô tả đặc điểm sinh học, điều kiện sinh thái, công dụng của 64 loài cây
thuốc có giá trị.
+ Xác định thành phần hóa học của 2 loài cây thuốc hoa dẻ lông đen (Desmos
cochinchinensis) và cây dây lửa ít gân (Rourea oligophlebia).
+ Trồng bảo tồn cây lửa ít gân (Rourea oligophlebia) theo phương pháp bảo
tồn nội vi (in-situ) và bảo tồn ngoại vi (ex-situ).
5. Bố cục của luận án
Luận án gồm 120 trang, phụ lục 138 trang
Mở đầu
4 trang
Chương 1. Tổng quan tài liệu
23 trang
Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
6 trang
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
85 trang
Kết luận và kiến nghị
2 trang
Phụ lục
Danh mục các công trình nghiên cứu liên quan
2 trang
Tài liệu tham khảo
11 trang
49 trang
Phụ lục 1: Danh lục các loài thực vật làm thuốc
9 trang
Phụ lục 2: Ảnh một số loài cây thuốc.
16 trang
Phụ lục 3: Các hợp chất hóa học có trong các loài cây thuốc
Phụ lục 4: Các phiếu kiểm tra nồng độ acid uric các bệnh 8 trang

nhân bị bệnh gút.
2


Phụ lục 5: Các mẫu phiếu điều tra
Phụ lục 6: Danh sách các thầy lang trên địa bàn huyện Quế
Phong
Phụ lục 7: Các phổ của các hợp chất trong thân cây Hoa dẻ lông
đen
Phụ lục 8: Các phổ của các hợp chất trong cây Dây lửa ít gân

3 trang
6 trang
18 trang
16 trang

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu, sử dụng và bảo tồn cây thuốc một số nước trên thế giới
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc.
Trên thế giới, mỗi châu lục, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, đều có những nền y
học cổ truyền mang nét đặc trưng. Các nghiên cứu có mức độ khác nhau tùy thuộc
vào sự đầu tư và phát triển của quốc gia đó.
Theo Anon (1996), trong cuốn “Lịch sử liên đại cây cỏ” ấn hành năm 1878,
Charles Pikering đã chỉ rõ “ngay từ năm 4271 trước Công nguyên (TCN) người dân
khu vực Trung Cận Đông đã sử dụng nhiều loại cây (Sung, Vả, Cau Dừa,..v.v.) để
làm lương thực và chữa bệnh.
Vào đầu thập kỷ thứ II nhân dân Trung Quốc đã biết dùng các loài cây cỏ để
chữa bệnh như: Nước chè đặc; rễ cây Cốt khí củ (Polygonum cuspidatum); vỏ rễ cây
Táo tầu (Zizyphus vulgaris) …để chữa vết thương; dùng các loài nhân sâm (Panax)
để phục hồi ngũ quan, trấn tĩnh tinh thần, chế ngự cảm xúc, giảm thiểu kích động,

giải trừ lo âu, sáng mắt, khai sáng trí tuệ, gia tăng sự thông thái …
Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực
Đông Nam Á, Perry đã nghiên cứu và công bố hơn 1000 công trình khoa học về thực
vật và dược liệu được các nhà khoa học kiểm chứng (trong đó có 146 loài có tính
kháng khuẩn) và tổng hợp thành cuốn sách về cây thuốc vùng Đông Á và Đông Nam Á
"Medicinal Plants of East and Southeast Asia, 1985" .
Ngày nay, ước lượng có khoảng 35.000 – 70.000 loài trong số 250.000 300.000 loài cây cỏ được sử dụng, vào mục đích chữa bệnh ở khắp nơi trên thế giới.
Trong đó Trung Quốc có trên 10.000 loài, Ấn Độ có khoảng 7.500 loài, Indoonesia
có 7.500 loài, Malaysia có khoảng 2.000 loài, Nepal có 700 loài, SriLanka có khoảng
550-700 loài.
Theo WHO, mức độ sử dụng nguồn dược liệu ngày càng nhiều: Trung Quốc
tiêu thụ hết khoảng 700 ngàn tấn/năm, sản phẩm thuốc y học dân tộc đạt giá trị
khoảng 1,7 tỉ USD trong năm 1986. Tổng giá trị về thuốc có nguồn gốc từ thực vật
trên thị trường Châu Âu -Châu Mỹ và Nhật Bản 1985 đạt hơn 43 tỉ USD.
Song song với sự phát triển của Khoa học Công nghệ, con người đã khai thác
tinh dầu trong cây thuốc để phục vụ cho việc chữa bệnh rất hiệu quả. Các nước Trung
3


Hoa, Ấn Độ, Inđônêxia đã trở thành những nước sản xuất và chế biến tinh dầu có
khối lượng lớn. Các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Thụy
Sỹ, Nhật Bản…rất chú trọng việc nhập tinh dầu thô và tái xuất các sản phẩm đã qua
chế biến đem lại lợi nhuận khổng lồ. Điều này chứng tỏ rằng ở các nước công nghiệp,
phát triển cây thuốc phục vụ cho nền y học cổ truyền cũng rất mạnh. Cây thuốc là
loại cây kinh tế, cung cấp nhiều loài thuốc dân tộc và hiện đại trong việc bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe cho con người .
1.1.2.Vấn đề trồng bảo tồn cây thuốc trên thế giới.
Trước đại chiến thế giới lần thứ nhất, đảo Java của Inđônêxia đã trồng hương
lau (Vetiveria zizaniodes) để xuất khẩu sang châu Âu (chủ yếu xuất khẩu sang Đức,
Pháp, Anh). Hiện nay ở Philipin và Inddooxixia đã đưa loài dầu giun (Chenopodium

ambrosioides ) để làm thuốc. Tại Inđonêxia người ta đã trồng địa liền (Kaempferia
galanga ) tại miền Trung đảo Java và Miền tây đảo Sumatra đã đạt khoảng 2000 ha,
với sản lượng thân rễ tươi chừng 20.000 tấn/năm. Những năm gần đây Ấn Độ, đã
trồng và sản xuất Gừng (Zingiber officinale) với diện tích ngày càng tăng. Năm 1980
là 300.000 tấn, đến năm 1990 lên 500.000 tấn, năm 1998 lên tới 600.000 tấn, các
nước Trung Quốc, Inddooneexxia, Nigieria, Jamaica… là những nước sản xuất Gừng
nhiều nhất thế giới.
Hiện nay tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam của Trung Quốc,
nhiều nơi tại Nhật Bản cây màng tang (Litsea cubeba ) được coi là đối tượng gieo
trồng rừng và đã tạo ra thành những quần thể trên diện tích lớn để lấy quả cất tinh
dầu, làm dược liệu.
Theo P. Raven (1987) và Ole Harmann (1988), trong vòng hơn 100 năm trở lại
đây, có khoảng 1.000 loài thực vật đã bị tuyệt chủng, có tới 60.000 loài gặp rủi ro hay
sự tồn tại của chúng bị đe doạ vào thế kỷ tới. Trong số những loài thực vật đã mất đi
hoặc đang bị đe doạ gay gắt, có một tỷ lệ không nhỏ là thực vật làm thuốc. Để phục
vụ mục đích chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho con người, cho sự phát triển của xã hội và
để chống lại bệnh tật, thì sự kết hợp giữa Đông - Tây y, giữa y học hiện đại với Y học
cổ truyền của các dân tộc là điều cần thiết. Chính từ những kinh nghiệm của Y học cổ
truyền đã giúp cho nhân loại khám phá ra những loài thuốc có ích. Vì vậy, việc khai
thác kết hợp với bảo tồn các loài cây thuốc là điều hết sức quan trọng. Các nước trên
thế giới đang hướng về mục tiêu thực hiện chương trình quốc gia kết hợp sử dụng,
bảo tồn và phát triển bền vững cây thuốc.
1.2. Tình hình nghiên cứu, sử dụng và bảo tồn cây thuốc ở Việt Nam.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc.
Thời vua Hùng Vương dựng nước qua các văn tự Hán Nôm còn sót lại (Đại
Việt sử ký, Lĩnh nam chích quái liệt truyện, Long uy bí thư...) Đời nhà Lý (10101224) nhà sư Nguyễn Minh Không đã dùng nhiều cây thuốc chữa bệnh cho vua và
nhân dân, đến đời nhà Trần có nhiều danh y nổi tiếng như Phạm Công Bân, Tuệ Tĩnh.
Trong đó,Tuệ Tĩnh được gọi là “Vị thánh thuốc nam”, ông đã biên soạn bộ sách do
4



chúa Trịnh đặt tên “Hồng Nghĩa giác tư y thư” biên soạn bằng quốc âm, trong đó có
630 vị thuốc, giới thiệu 13 đơn thuốc chữa tạp bệnh, 37 đơn thuốc chữa bệnh thương
hàn (Thập tam phương thuốc gia giảm và tam thập thất tùy pháp) .
Đến thời vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Lê trung hưng, ở ngôi từ năm 1705 đến
năm 1729 thời vua Lê Dụ Tông lại được biết đến Danh y Hải Thượng Lãn Ông, tên
thực là Lê Hữu Trác (1720-1791). Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như “Y tông tâm
lĩnh” (1770), nay người ta gọi là “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” được viết trong vòng
10 năm, gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là
công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và “không chỉ có giá trị
về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học”.
Thời kỳ Tây Sơn (1788-1802) có Danh y Nguyễn Quang Tuân có tập “Nam
Dược”, “Nam dược chỉ danh truyền”, “La khê phương dược” ghi chép 500 vị thuốc
nam trong dân gian dùng để chữa bệnh. Danh y Gia Phan (1748 – 1817), ông là tác
giả các bộ sách “Liệu dịch phương pháp toàn tập” viết về bệnh truyền nhiễm; “Hộ
Nhi phương pháp tổng lục”, viết về Nhi khoa và “Lý Am phương pháp thông lục” về
Phụ khoa.
Thời nhà Nguyễn (1802-1884) có quyển “Xuân Đình y án kinh trị chủ
chứng‟‟ chuyên về bệnh ôn dịch và thời khí của Lê Kinh Hạp.
Thời Pháp thuộc (1884 – 1945), Y học cổ truyền Việt Nam bước vào thế kỷ
XX, khi mà triều đình nhà Nguyễn đã ký hiệp ước HARMAND (25/08/1883) biến
Việt Nam thành một nước thuộc địa. Trong giai đoạn này, ngoài những tác phẩm y
học biên soạn bằng chữ Hán Nôm như: “Vệ sinh yếu chỉ‟‟ (1901) của Bùi Văn Trung
ở Nam Định, “Bí truyền tập yếu‟‟ (1906) của Lê Tư Thúy ở Hà Nam, còn có những
tài liệu y học viết bằng chữ Quốc ngữ: “Việt Nam Dược học‟‟ của Phó Đức Thành,
“Nam Dược bộ‟‟ của Nguyễn An Cư, “Trung Việt Dược tính hợp biên‟‟ gồm 1500 vị
thuốc của Đinh Nho Chấn…
Giai đoạn từ năm 1945 đến nay đã có nhiều nhà khoa học, nhà thực vật học
nghiên cứu về cây thuốc, có nhiều tác phẩm như : “Thuốc Nam châm cứu‟‟ của Viện
Đông y (1960), 450 cây thuốc của Phó Đức Thành (1962), “Tính kháng khuẩn của

cây thuốc Việt Nam‟‟ của Nguyễn Đức Minh (1975), "Sổ tay cây thuốc Việt Nam"
của Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương (1980) đã giới thiệu 519 loài cây thuốc trong đó
có 150 loài mới phát hiện. Trong cuốn "Danh lục cây thuốc Miền Nam Việt Nam",
tập "Atlas cây thuốc" đã công bố về danh sách cây thuốc ở Miền Bắc là 1114
loài, Miền Nam là 1119 loài, trong cả nước đến năm 1985 là 1863 loài và dưới
loài, phân bố trong 1033 chi, 236 họ, 101 bộ, 17 lớp, 11 ngành, Năm (1993) tác
giả Trần Đình Lý và cộng sự cho xuất bản cuốn "1900 loài cây có ích ở Việt Nam".
Năm 2003, Đỗ Huy Bích và các công sự của Viện dược liệu đã giới thiệu 920
loài cây thuốc, 80 loài động vật làm thuốc và giới thiệu gần 1.000 bài thuốc chữa các
bệnh thường gặp trong bộ "Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam". Năm
2011, Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục hoàn thiện cuốn "Những cây thuốc và vị thuốc Việt
5


Nam" ông mô tả tỉ mỉ tên khoa học, phân bố, công dụng, thành phần hóa học của 792
loài cây thuốc chia theo các nhóm bệnh khác nhau. Năm 2012, Võ Văn Chi, đã cho
tái bản có bổ sung cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, gồm 2 tập, là công trình vĩ
đại ghi chép 4472 loài cây thuốc có ở Việt Nam. Tác giả Nguyễn Tập cũng đã có rất
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về cây thuốc như “Nguồn lợi cây thuốc trong
rừng Việt Nam ” , “Tổng quan về nguồn tài nguyên dược liệu Việt Nam”, “ Cẩm nang
cây thuốc cần được bảo vệ ở Việt Nam”,…các công trình đã công bố thực trạng dược
liệu ở Việt Nam, đồng thời mô tả chi tiết đặc điểm sinh học, công dụng, nơi phân bố của
các loài thực vật quý cần được bảo vệ như cây từ mỏng (Dioscorea membranacea), tỏa
dương (Balanophora laxiflora), thủy xương bồ lá to (Acorus macrospadiceus)…
Những năm gần đây đã có rất nhiều các nghiên cứu sâu về cây thuốc như công
trình “Nghiên cứu thành phần hóa học và tác dụng dược lý theo hướng điều trị loét dạ
dày của rễ cây sâm báo (Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr. Họ Bông
(Malvaceae)” của Đào Thị Vui (2007) . “ Nghiên cứu thành phần hóa học và một số
tác dụng sinh học của cây cao cẳng (Ophipogon confertifolius n.tanaka họ mạch môn
– convallariaceae”, Nguyễn Thị Vinh Huê (2009), “Nghiên cứu đặc điểm thực vật,

thành phần hóa học và một số tác dụng sinh học của cây vọng cách Premna SP. thu
hái ở Nam Định”của Nguyễn Thị Bích Hằng (2010), „Nghiên cứu tác dụng trên bệnh
Gút thực nghiệm của cây hy thiêm (Siegesbeckia orientalis )” của Nguyễn Thị Thùy
Dương (2012), “Nghiên cứu thành phần hóa học và một số tác dụng dược lý của cây mạ
mân (Aganope balansae )” của Trần Quốc Toản (2012), Nghiên cứu thành phần hóa
học và một số tác dụng dược lý của loài trám hồng (Canarium bengalense) Hoàng
Thị Lê (2012) „Nghiên cứu tác dụng hạ Glucose huyết của rễ cây chóc máu nam
(Salacia cochinchinensis )” của Đỗ Thị Nguyệt Quế (2013) …
1.2.2. Tình hình điều tra, đánh giá, trồng bảo tồn, phát triển cây thuốc và
bài thuốc ở Việt Nam.
1.2.2.1. Tình hình điều tra, đánh giá
Từ năm 1961 đến năm 1985 là giai đoạn điều tra cơ bản, Viện Dược liệu tiến
hành điều tra dược liệu và công bố, ở Miền Bắc từ năm 1961 đến 1974 đã điều tra ở
1905 xã, thuộc 20 tỉnh và thành phố. Kết quả đã phát hiện được 1114 loài thực vật
được dùng làm thuốc.
Năm 1985, công tác điều tra cơ bản lần thứ nhất về dược liệu trên toàn quốc đã
được hoàn thành. Tổng số các địa phương đã được tổ chức điều tra bao gồm 2715 xã
- phường, thuộc 357 huyện - quận và 42 tỉnh - thành phố. Kết quả đã ghi nhận được
Danh lục cây thuốc gồm 1863 loài thực vật bậc cao cũng như bậc thấp được sử dụng
làm thuốc, thuộc 1033 chi, 236 họ, 11 ngành.
Sau khi kết thúc giai đoạn điều tra cơ bản lần thứ nhất, từ năm 1986 đến nay
công tác điều tra dược liệu không tiến hành một cách rộng rãi như trước kia. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ các đề tài nghiên cứu, Viện Dược liệu vẫn phối hợp với các
địa phương và các ngành có liên quan tiếp tục tiến hành công việc điều tra cây thuốc
6


tại các tỉnh Thanh Hóa, Hà Giang, Lào Cai… và đồng thời nghiên cứu sâu về khả
năng khai thác, tái sinh và phát triển nhiều cây thuốc có giá trị như Chè hoa vàng, Sa
nhân, Bảy lá một hoa, Sâm ngọc linh, Bình vôi…

Đến năm 2001, Viện Dược liệu đã tiến hành tổng hợp kết quả điều tra thu thập
cây thuốc, đã thống kê được 3850 loài thực vật và Nấm lớn có công dụng làm thuốc ở
Việt Nam.
Song song kết với các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong cùng
thời điểm từ năm 2001-2004, Nguyễn Tập chủ nhiệm đề tài nhánh
KC10.07.01 "Điều tra, đánh giá về tiềm năng và hiện trạng nguồn dược liệu Việt
Nam. Đề xuất các giải pháp khai thác hợp lý đi đôi với việc bảo vệ, phát triển và sử
dụng lâu bền” đã tiến hành điều tra ở một số vùng rừng của 7 tỉnh như: Bắc Kạn,
Đắk Lắk, Gai Lai, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Tuyên Quang tổng hợp toàn bộ
kết quả điều tra của Viện Dược liệu từ 1961 đến 2004, cùng với từ các nguồn tài liệu
đã được công bố, đã xây dựng được Danh lục cây thuốc Việt Nam (3948 loài), trong
đó chỉ có 500 loài là cây thuốc trồng hoặc cây trồng khác được sử dụng để làm thuốc
và có 136 loài nguy cấp cần được bảo vệ .
Càng về sau càng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu theo hướng trồng
và bảo tồn cây thuốc.Viện dược liệu (2008) đã thống kê 50 đề tài khoa học các cấp về
kỹ thuật trồng cây thuốc chủ yếu báo cáo kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc lĩnh
vực đánh giá các giải pháp kỹ thuật ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng dược liệu
để xây dựng qui trình kỹ thuật trồng và chế biến dược liệu sau thu hoạch, công bố kết
quả nghiên cứu của các đề tài thuộc lĩnh vực nhập nội cây thuốc, chọn tạo giống,
nhân giống, các giải pháp nâng cao chất lượng giống, xây dựng tiêu chuẩn giống, sản
xuất giống và đề xuất công tác quản lý giống cây thuốc, đồng thời thống kê kết quả
sau 20 năm nghiên cứu bảo tồn nguồn gen và giống cây thuốc, bảo tồn cây thuốc và
tri thức dân tộc của cộng đồng .
Tiếp đến, năm 2009 Viện Dược liệu đã công bố một số kết quả của các dự án
khai thác phát triển nguồn gen cây thuốc và định hướng phát triển (về sâm Việt Nam
(Panax); trinh nữ hoàng cung (Crinum asiaticum); các loài nấm dược liệu tại VN…) .
Hiện nay, công tác điều tra được tiến hành tại các tỉnh Lâm Đồng, Sơn La, Bình
Dương, Điện Biên, để tiếp tục đánh giá được tiềm năng và hiện trạng nguồn dược liệu.
Đến nay, đã có nhiều công trình điều tra về cây thuốc dân tộc của các nhà khoa
học trên khắp cả nước, theo thống kê sơ bộ của Nguyễn Bá Hoạt đã có một số kết quả

nghiên cứu như: cây thuốc của Người Dao (khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì): 579 loài
và 125 bài thuốc; người Mường (Cẩm Liên, Cẩm Thủy, Thanh Hóa): 206 loài và 32
bài thuốc; người Tày:(Vị Xuyên, Hà Giang): 292 loài; Người Tày - Nùng (Tràng
Đinhk, Lạng Sơn): 126 loài và 51 bài thuốc; Bản Mường (xã Vĩnh Lạc, Lục Yên, Yên
Bái): 40 loài và 40 bài thuốc; 85 bài thuốc của cộng đồng người Dao; 72 bài thuốc
của cộng đồng người H'Mông; 16 bài thuốc của cộng đồng người Thái và Khơ Mú;
11 bài thuốc của cộng đồng Bru - Vân Kiều...
7


1.2.2.2.Về công tác bảo tồn cây thuốc, phát triển nguồn dƣợc liệu:
Bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu đã được nhà nước quan tâm và đầu tư
mạnh, Nguyễn Bá Hoạt (2013) đã thống kê , đánh giá chi tiết và lập lý lịch 200 loài;
tiếp tục đánh giá và lập lý lịch cho 50 loài, trong đó có nhiều loài quí hiếm có nguy
cơ bị tuyệt chủng.
Nhiều cây thuốc đã được các nhà khoa học, các doanh nghiêp đầu tư nghiên
cứu bảo tồn và phát triển như: Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum), Chè hoa
vàng (Camellia chrysantha), Trinh nữ hoàng cung (Crinum asiaticum )...
Có khoảng trên 40 loài cây thuốc bản địa đã được trồng ở Việt Nam. Ở Yên
Bái,Thanh Hóa, Lào Cai, hàng năm cung cấp hàng nghìn tấn quế. Lạng Sơn, Cao
Bằng,Quảng Ninh: Cung cấp thảo quả; Sơn La, Hòa Bình: Cung cấp ý dĩ…
Hoạt động trồng cây thuốc đã được trồng nhiều tại các huyện miền núi khác nhau ở
trong nước như Hà Giang( Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì, Phó Bảng),
Lạng Sơn (Mẫu Sơn), Yên Bái (Văn chấn, Lục Yên), Lai Châu (Sìn Hồ), Lào Cai (Sa
Pa, Bát Xát, Bắc Hà), Quảng Nam (Trà My), Lâm Đồng (Đà Lạt), v.v…Có những
vung chuyên trồng cây thuốc như làng Nghĩa Trai (Văn Lâm, Hưng Yên) trồng đại
trà hơn 10 loài cây thuốc, vùng Mễ Sở, Đa Ngưu (Khoái Châu).Tại trạm nghiên cứu
trồng cây thuốc Sa Pa đã trồng thành công 3 vườn bảo tồn chuyển chỗ (ex situ) loài
5834 cây ngũ gia bì hương (Ancanthopanax gracilistylus), 7314 cây ngũ gia bì gai
(Ancanthopanax trifoliatus),1511 cây sâm vũ điệp (Panax bipinatifidus), 1979 cây

tam thất hoang (Panax stipuleanatus).
Đến 2015, trên phạm vi cả nước đã có nhiều vườn cây thuốc được xây dựng
trên các địa phương như: Nghệ An 1 vườn; Hà Nội 1 vườn; Vùng Sa Pa 8 vườn; khu
vực Vườn Quốc gia Bạch Mã 4 vườn; Yên Bái 2 vườn; Hòa Bình 1 vườn; Thanh Hóa
1 vườn; Lạng Sơn 4 vườn; Hà Giang 1 vườn; Vĩnh Phúc 1 vườn.
Tại các Vườn Quốc gia: Tam Đảo, Bến En, Cát Tiên, Ba Bể, Ba Bể, Cúc
Phương, đã trồng được 120 loài cây thuốc.
1.2.2.3. Về bài thuốc:
Tính đến năm 2007, trên cả nước đã tập hợp được 39.381 bài thuốc kinh nghiệm dân
gian gia truyền của 12.351 lương y.
Đến năm 2015 có nhiều bài thuốc đã được bổ sung, tuy nhiên chưa có tài liệu
tổng hợp cụ thể. Mặc dù công tác điều tra, đánh giá, trồng bảo tồn, phát triển cây thuốc
và bài thuốc ở Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, tuy nhiên chưa đáp ứng
được nhu cầu về dược liệu, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của chúng ta.
1.3. Tình hình nghiên cứu cây thuốc ở Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh có diện tích rừng lớn, phong phú và chứa đựng nhiều cây
thuốc. Các khu rừng chạy dọc theo dãy Trường Sơn và nhiều huyện miền núi được
đánh giá là một trong những trung tâm về đa dạng sinh học.

8


Tài nguyên thực vật được tập trung chủ yếu ở vùng Tây Bắc và Tây Nam Nghệ
An, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời như Thái, Thổ, Tày,
Mường... Cuộc sống của người dân ở đây chủ yếu sống nhờ vào rừng, lương thực,
thực phẩm và cây thuốc.
Trong danh mục cây thuốc và vị thuốc thiết yếu của Bộ Y tế, Nghệ An có 41
loài nằm trong 206 loài cây thuốc mọc tự nhiên được khai thác và sử dụng. Nghệ An
cũng nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Tại Nghệ An đã có một số công trình nghiên cứu của giáo viên và học viên cao học
trường Đại học Vinh như “Điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng chúng của đồng
bào dân tộc Thái xã Yên Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An” của Tô Vương Phúc
(1996) đã thống kê được 223 loài cây, 81 họ với 113 bài thuốc chữa 29 nhóm bệnh, kế
tiếp là Nguyễn Thị Hạnh (1999): “Nghiên cứu các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc
Thái huyện Con Cuông, Tỉnh Nghệ An” đã công bố 554 loài cây thuộc 336 chi, 121 họ
của 4 ngành thực vật, ngoài ra còn có 154 bài thuốc chữa trị 16 nhóm bệnh khác nhau.
Đặng Quang Châu và Nguyễn Thị Kim Chi (2003) với đề tài “Đa dạng cây
thuốc dân tộc Thổ 3 xã Nghĩa Lâm, Nghĩa Yên, Nghĩa Mai, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh
Nghệ An” Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải (2003) với công trình “Điều tra cây
thuốc của đồng bào dân tộc Thái xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An” đã
thống kê được 93 loài cây thuốc thuộc 79 chi, 42 họ được sử dụng làm thuốc.
Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2004) với đề tài “ Một số dẫn liệu về cây
thuốc dân tộc Thổ xã Thọ Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An”, đã công bố 82 loài
cây thuộc 79 chi, được đồng bào thổ sử dụng chữa 15 nhóm bệnh .
Trần Thị Mai Hoa (2009) với đề tài “Điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng
chúng của đồng bào Thái xã Châu Thôn- Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An”, đã công bố
169 loài, 139 chi và 69 họ được nhân dân sử dụng làm thuốc với 15 nhóm bệnh.
Trong năm 2009, Sở Y tế Nghệ An và Viện Dược liệu Bộ Y tế thực hiện
một đề tài về cây thuốc Nghệ An và công bố trong tập “Cây thuốc Nghệ An”.
Đề tài đã mô tả và nêu giá trị chữa bệnh của 300 loài cây thuốc do nhà xuất bản
Nghệ An ấn hành.
Năm 2010, Phạm Hồng Ban đã công bố kết quả điều tra kinh nghiệm sử dụng
cây cỏ dùng làm thuốc của đồng bào Thái xã Châu Lý, huyện Quỳ Hợp, Nghệ An đã
thống kê được 238 loài cây thuốc thuộc 182 chi, 80 họ.
Năm 2013, theo kết quả của Viện Dược liệu, tại Kỳ Sơn, Nghệ An đã thống kê
được 136 loài và 102 bài thuốc của người người H'Mông.
Về thực trạng tình hình cây thuốc ở Nghệ An:

9



Tại Nghệ An, Tại Nghệ An, có 56 loài cây thuốc thuộc diện quý hiếm có nguy cơ
tuyệt chủng đã được thống kê, trong đó 3 loài trong tình trạng CR (Cực kỳ nguy cấp),
19 loài trong tình trạng nguy cấp (EN) và 34 trong tình trạng sắp nguy cấp (VU).
Có 15 loài đáng báo động như (Ngũ gia bì gai, Ba gạc lá to (Rauvolfia
cambodiana), Ba gạc lá mỏng (Rauvolfia micrantha.), Cẩu tích (Cibotium
barometz)… Đặc biệt, trong số những loài có giá trị cao nêu trên bị khai thác ồ ạt
như: Bách bộ đứng (Stemona saxorum), Bảy lá một hoa (Paris polyphylla), Hoàng
đằng (Fibraurea tinctoria), cây thuốc quý như Hà thủ ô đỏ (Polygonum multiflorum )
chỉ có trong rừng sâu thuộc xã Tri Lễ huyện Quế Phong, nhiều loài cây thuốc quý có
trữ lượng lớn ở Nghệ An suy giảm nghiêm trọng.
Hiện nay, tại Nghệ An, Công ty CP Dược liệu TH (thuộc Tập đoàn TH) đã triển
khai dự án “Bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu chất lượng cao gắn với phát triển
rừng bền vững”. Dự án có tổng mức đầu tư 3.200 tỷ đồng, trên tổng diện tích hơn
2.800ha tại vùng có khí hậu mát quanh năm như Mường Lống, huyện Kì Sơn.
Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 4 đang thực hiện mô hình phục hồi, nhân giống cây
dược liệu gồm Đẳng sâm (Codonopsis javanica), Atiso và đặc biệt là Sâm
Puxailaileng - một loại sâm quý giống như sâm ngọc linh ngay dưới chân núi
Puxailaileng thuộc địa phận xã Na Ngoi.
Ngoài ra còn một số hộ dân trồng dược liệu theo quy mô nhỏ lẻ như trồng kim
tiền thảo ở phường Quỳnh Trang (Thị xã Hoàng Mai), trồng cà dây leo ở xã Quỳnh
Bảng (huyện Quỳnh Lưu), xã Mã Thành (huyện Yên Thành).
Những năm gần đây với xu hướng “trở về với thiên nhiên” nên nhu cầu về dược
liệu cũng như thuốc từ dược liệu gia tăng. Nắm bắt xu hướng này, thời gian gần đây,
tỉnh Nghệ An cũng đã có những chủ trương, đường lối chính sách đúng đắn trong
việc xây dựng vùng trồng cây dược liệu.
Năm 2013, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn
gen cấp tỉnh thực hiện từ năm 2014 - 2020, giao Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ Nghệ An bảo tồn nguồn gen 3 loại dược liệu quý hiếm trên địa bàn

các huyện Quế Phong và Kỳ Sơn, bao gồm bảo tồn nguồn gen cây chè hoa vàng, cây
dây lửa ít gân (Rourea oligophlebia), cây đảng sâm (Codonopsis javanica) và Sâm
Puxailaileng.
1.4. Tình hình nghiên cứu, sử dụng cây thuốc và bảo tồn tri thức bản địa ở
huyện Quế Phong.
+ Về tình hình nghiên cứu:
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về cây thuốc ở huyện Quế Phong
như Lương Hoài Nam (2004) với đề tài “ Điều tra cây thuốc của đồng bào dân tộc
Thái thuộc xã Mường Nọc, Hạnh Dịch, Tiền Phong” đã công bố 220 loài 173 chi 81
họ với 21 nhóm bệnh, Trần Thị Mai Hoa (2009) với đề tài “ Điều tra cây thuốc và kinh
10


nghiệm sử dụng chúng của đồng bào Thái xã Châu Thôn- Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ
An”, đã công bố 169 loài, 139 chi và 69 họ được nhân dân sử dụng làm thuốc với 15
nhóm bệnh.
Phạm Hồng Ban, Đỗ Ngọc Đài (2012), đã nghiên cứu và công bố một số cây
thuốc dưới tán rừng khoanh nuôi của đồng bào Thái xã Hạnh Dịch, huyện Quế
Phong, tỉnh Nghệ An.
Năm 2015, Phạm Hồng Ban, Nguyễn Thượng Hải đã nghiên cứu về đặc
điểm sinh thái, khu phân bố, thành phần hóa học có trong cây Dây lửa ít gân
(Rourea oligophlebia ), người dân tộc Thái gọi là “Mú từn”, và đã trồng bảo tồn
tại huyện Quế Phong…
+ Về tri thức bản địa:
Bằng những kinh nghiệm dân gian của những người làm thuốc trong cộng
đồng, những tri thức về cây thuốc được truyền miệng và lưu truyền cho con cháu đời
sau, thế hệ nối tiếp thế hệ. Dần dần, các bài thuốc có tính độc đáo và trở nên thông
dụng trong phương diện chăm sóc sức khỏe người dân cộng đồng dân tộc mình và
những dân tộc anh em.
Đồng bào các dân tộc ở đây có nhiều kinh nghiệm quý trong việc sử dụng cây

cỏ sẵn có ở trên nương rẫy để đun lấy nước uống hàng ngày nhằm: nâng cao sức
khoẻ; thanh nhiệt giải độc; giải rượu; chữa viêm gan; viêm đại tràng; đau nhức xương
khớp, viêm khớp dạng ong đốt (bệnh gút); phục hồi ngay sức khoẻ cho phụ nữ sau
khi sinh...
Thực tế hiện nay, người giữ được những bài thuốc gốc còn rất ít. Một phần vì
các thầy lang dân tộc ở đây chủ yếu không biết viết, việc lưu giữ chỉ mang tính truyền
khẩu, nên một số bài thuốc quý đã từng chữa trị được bệnh đặc biệt những bài thuốc
chữa các bệnh nan y đang bị lãng quên từng ngày.
Qua trao đổi với người già có kinh nghiệm, trực tiếp đi lấy thuốc cho biết: Lấy
thuốc tốt nhất vào buổi sáng, giờ mão, giờ thìn tức khoảng 7-10 giờ sáng hoặc có thể
buổi chiều 2-4 giờ. Cố gắng chọn các hướng núi hoặc đồi đối diện với mặt trời nghĩa
là hướng dương và hái lá bằng 1 tay, hạn chế dùng kim loại như dao kéo.
+ Về bảo tồn cây thuốc:
Các ông lang bà mế cũng đã bắt đầu bảo vệ cây thuốc như tài sản riêng, không
làm chết cây, lấy một số cây con từ rừng về trồng cạnh nhà để tiện sử dụng khi xảy ra
bệnh thường gặp, đó là các loại cây chữa xương, rắn cắn, cảm gió, đau bụng.
Hiện nay, tại xã Hạnh Dịch đã có 5 khu vườn của người dân tự phát trồng và
bảo tồn dược liệu.
1.5. Điều kiện tự nhiên và xã hội huyện Quế Phong
Huyện Quế Phong được thành lập theo Quyết định số 52/CP ngày 19 tháng 4
năm 1963 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ), do chia tách từ huyện Quỳ
Châu (cũ) thành 03 huyện Quỳ Châu, Quỳ Hợp và Quế Phong. Lúc mới thành lập
huyện Quế Phong có 6 xã: Châu Kim, Châu Thôn, Cắm Muộn, Châu Hùng, Châu
11


Long và Thông Thụ; là huyện miền núi biên giới phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An; có
73,10 km đường biên giới tiếp giáp với huyện Sầm Tớ - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào. Đến nay huyện Quế Phong có 13 xã và 01 thị trấn.
1.5.1. Vị trí địa lý:

Tọa độ: Nằm trong khoảng 19o26‟ đến 20o vĩ độ Bắc, 104o30‟ đến 105o10‟ kinh Đông.
Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá; phía Nam giáp huyện Tương Dương; phía Đông giáp
huyện Quỳ Châu; phía Tây giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, Nước Cộng hòa Dân
chủ nhân dân Lào.
1.5.2. Diện tích, khí hậu
+ Diện tích: Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 189.543,43 ha, trong đó,
diện tích lúa nước trên 2.100 ha. Địa hình huyện Quế Phong khá phức tạp, chủ yếu là
đồi núi chiếm tới 70% diện tích tự nhiên.
+ Khí hậu: Chế độ gió: Có hai loại gió chính: Gió Đông Bắc và gió Tây Nam,
Huyện Quế Phong nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, huyện có 3 khu vực
với 2 tiểu vùng khí hậu khác nhau. Vùng cao mưa nhiều, độ ẩm lớn, nhiệt độ thấp.
Vùng thấp khí hậu ôn hoà, sự khác biệt lớn nhất giữa 2 vùng là mùa hè nhiệt độ ban
ngày vùng thấp thường cao hơn 2 đến 30C và độ ẩm không khí thấp hơn gây nên thời
tiết khô nóng. Nhiệt độ trung bình năm từ 22 đến 24 oC, nhiệt độ cao nhất trung bình
năm là 340C, nhiệt độ trung bình năm thấp nhất là 90C, nhiệt độ mùa hè từ tháng 4
đến tháng 10, thời tiết nóng ẩm nhiệt độ cao có ngày lên 38 đến 40 0C, nhiệt độ mùa
đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ xuống thấp 2-30 C.
1.5.3 Điều kiện xã hội
Theo Phòng Thống kê của UBND huyện Quế Phong, tại thời điểm tháng
6/2015, trên địa bàn huyện có 5 dân tộc cư trú, được phân phân bố như sau: Dân tộc
Khơ Mú: 1.970 người, dân tộc Mông: 2.850 người, dân tộc Kinh: 4956 người, dân tộc
Thái: 50.523 người, dân tộc Thổ khoảng 250 người. Điều kiên kinh tế đang gặp nhiều
khó khăn.
Chƣơng 2.
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Toàn bộ các loài thực vật làm thuốc, các bài thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở huyện
Quế Phong.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Xây dựng thành phần loài cây thuốc ở huyện Quế Phong, điều tra các bài thuốc của

đồng bào dân tộc Thái, phân tích và đánh giá đa dạng cây thuốc về: thành phần loài,
dạng thân, các bộ phận sử dụng, sự phân bố và các bệnh chữa trị.
12


2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phƣơng pháp phỏng vấn, điều tra
- Điều tra rộng rãi, phỏng vấn bà con dân bản của dân tộc Thái, đặc biệt là các
ông lang bà mế tại địa bàn nghiên cứu để sưu tầm các bài thuốc và cây thuốc sử dụng
theo kinh nghiệm dân gian, phỏng vấn tập trung các ông lang bà mế.
2.3.2. Phƣơng pháp thu hái, xử lí và bảo quản mẫu vật.
Mẫu vật được thu hái và xử lí theo phương pháp sau: Phương pháp điều tra
thực vật theo "Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật" của Nguyễn Nghĩa Thìn,
1997. Mẫu cây được đánh số hiệu và đặt trong một tờ báo cho vào túi nilon lớn
khoảng 20-30 mẫu, đổ cồn vào để bảo quản (xử lí sơ bộ tại địa bàn thu mẫu). Sau đó xử
lí lại và cho vào cặp mắt cáo để phơi khô dưới nắng hoặc dưới ánh điện. Xử lí, định danh
600 mẫu được lưu trữ tại phòng Thực vật Trường Đại học Vinh.
2.3.3. Phƣơng pháp giám định nhanh họ và chi ngoài thiên nhiên
Giám định nhanh họ và chi ngoài thiên nhiên theo tài liệu "Cẩm nang nghiên
cứu đa dạng sinh vật" của Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997.
2.3.4. Phƣơng pháp xác định tên khoa học
Mẫu được xác định chủ yếu dựa vào đặc điểm hình thái so sánh theo các tài
liệu của các tác giả chủ yếu sau: Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ 2003), Thực vật
chí Việt Nam (The Flora of Vietnam), Họ Bạc hà - Lamiaceae (Vũ Xuân Phương,
2002) , họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae (Vũ Xuân Phương, 2005), họ Na - Annonaceae
(Nguyễn Tiến Bân, 2000), họ Cói - Cyperaceae (Nguyễn Khắc Khôi, 2002), họ Trúc
đào - Apocynaceae (Trần Đình Lý, 2005), họ Đơn nem - Myrsinaceae (Trần Thị Kim
Liên, 2002), Từ điển cây thuốc của Võ Văn Chi (2012), những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam của Đỗ Tất Lợi (2011).
2.3.5. Phƣơng pháp chỉnh lý tên khoa học

Sau khi định loại, tiến hành kiểm tra và chỉnh lý tên khoa học theo theo tài liệu
"Từ điển cây thuốc" (2012) của Võ Văn Chi, "Cây thuốc và động vật làm thuốc"
(2003), Danh lục các loài thực vật Việt Nam (2001-2005).
2.3.6. Phƣơng pháp xây dựng danh lục
Để có các thông số phục vụ cho việc đánh giá, việc xây dựng danh lục hết sức
quan trọng. Trong bảng danh lục các taxa được sắp xếp theo cách sắp xếp của R. K.
Brummitt (1992).
3. Phƣơng pháp xử lý số liệu bằng toán xác suất thống kê
4. Xử lí mẫu thực vật và chiết tách thành phần hóa học
13


Chương 3.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá tính đa dạng về cây thuốc của người dân tộc Thái sử dụng ở
huyện Quế Phong
Qua quá trình điều tra, tại huyện Quế Phong đã thu thập xác định được 583 loài
thuộc 349 chi, 131 họ của 5 ngành thực vật là: ngành Thông đất (Lycopodiophyta),
Ngành Cỏ tháp bút (Equisetophyta), ngành Dương xỉ (Polypodiophyta), ngành Hạt trần
(Pinophyta), ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) (Phụ lục 1).
3.1.1. Đa dạng về bậc ngành
Thực vật được người dân tộc Thái huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An sử dụng rất
phong phú và đa dạng về cả thành phần loài, chi, họ và ngành. Tuy nhiên sự đa dạng
của thực vật ở khu vực nghiên cứu có sự phân bố không đều ở các Taxa, trong đó
chiếm ưu thế nhất thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) kém ưu thế thuộc ngành
Cỏ tháp bút (Equisetophyta) .
Sự đa dạng đó được thống kê và thể hiện rõ ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Đánh giá vị trí taxa của từng ngành so với toàn hệ
Họ
Chi

Loài
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Ngành
lượng
%
lượng
%
lượng
%
Lycopodiophyta
2
2
5
1
12
2
Equisetophyta
1
1
1
0,1
1
0,1
Polypodiophyta
17

11
20
6,9
37
6,9
Pinophyta
4
3
5
1
5
1
Magnoliophyta
107
83
318
91
528
91
Tổng số
131
100
349
100
583
100
3.1.2. Đa dạng về các lớp trong ngành Ngọc lan
Để giúp công tác nghiên cứu, bảo tồn cây thuốc đúng hướng, đồng thời xác
định rõ sự đa dạng của các loài thực vật trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), cần
thống kê so sánh sự đa dạng của giữa lớp (Magnoliopsida) và lớp (Liliopsida),kết quả

khảo sát được thể hiện qua bảng 3.2.
Bảng 3.2. Số lượng họ, chi, loài ở hai lớp trong ngành Ngọc Lan (Magnoliophyta)
Họ
Chi
Loài
Số
Số
Lớp
Số lượng Tỷ lệ % lượng Tỷ lệ % lượng Tỷ lệ %
Magnoliopsida 84
79
278
87
463
88
Liliopsida
23
21
40
13
62
12
Tổng
107
100
318
100
525
100
14



3.1.3. Sự đa dạng về số lƣợng loài trong các chi, họ
Bảng 3.5. So sánh các họ nhiều loài cây thuốc của dân tộc Thái huyện Quế
Phong(1) với số loài của hệ thực vật Việt Nam (2)
(2)
Tỷ lệ giữa (1) và
TT Họ
(1)
(2)
424
0,09
1
Euphorbiaceae 38
2

Lauraceae

33

246

0,13

3

Rubiaceae

28


400

0,07

4

Acanthaceae

27

207

0,13

5

Lamiaceae

23

145

0,16

6

Rutaceae

23


108

0,21

7

Fabaceae

20

470

0,04

8

Moraceae

20

118

0,17

9

Apocynaceae

18


170

0,11

10

Verbenaceae

18

131

0,14

Trong các chi, có hai chi có số loài cây thuốc nhiều, gồm 11 loài là chi
Ficus với các đại diện như ngái lông dày (Ficus hirta) chữa phong thấp, sung nằm
(Ficus prostrata) chữa thận, Rù rì quả lê (Ficus pyriformis ) chữa dạ dày, đại
tràng… Chi Cinnamomum, có 10 loài với các đại diện như Gù hương
(Cinnamomum balansae) chữa cảm cúm, Re xanh (Cinnamomum tonkinensis )
chữa thận, đau lưng, quế bời lời (Cinnamomum polyadelphum ) chữa mắt,…qua đó
để các nhà khoa học có định hướng nghiên cứu cây thuốc của 2 chi trên về công
dụng, thành phần hóa học, tính kháng khuẩn…
3.1.4. So sánh cây thuốc huyện Quế Phong với hệ cây thuốc Việt Nam
Huyện Quế Phong chỉ chiếm 0,1% so với Việt Nam nhưng có số loài thực vật làm
thuốc 583 loài chiếm 13% trong loài cây thuốc của cả nước, như vậy hệ thực vật được
người dân sử dụnglàm thuốc rất đa dạng, phong phú.
3.1.5. Đa dạng về dạng thân, nơi sống và cách sử dụng cây thuốc
3.1.5.1. Đa dạng về dạng thân cây của các cây thuốc được người dân huyện Quế
Phong sử dụng
Kết quả điều tra cho thấy, nhóm cây được sử dụng nhiều nhất là cây thân

thảo có 203 loài, chiếm 36% so với tổng số loài. Các cây thuộc nhóm này thường
sống dưới tán rừng, ven rừng, trảng cỏ, hoặc nương rẫy, ven đường; chúng tập
trung ở một số họ như: Asteraceae, Amaranthaceae, Apiaceae, Araceae và
15


Zingiberaceae... Nhóm thứ 2 là nhóm cây thân gỗ, có 154 loài chiếm 26% so với
tổng số loài và ở những họ như: Euphorbiaceae, Lauraceae, Rutaceae... Nhóm này
gồm những cây sống ở ven rừng, rừng sâu, rừng thứ sinh hoặc ở khu rừng trồng.Tiếp
đến là cây thân bụi có 130 loài chiếm 22% so với tổng số loài, nhóm này chúng
thường sống các đồi núi, rừng tái sinh và ở một số họ: Acanthaceae, Caesalpiniaceae,
Malvaceae và Myrsinaceae... Nhóm chiếm tỷ lệ thấp nhất là nhóm cây thân leo, thân
bò có 96 loài chiếm 16% so với tổng số loài và tập trung ở một số họ như:
Cucurbitaceae, Menispermaceae, Vitaceae... Nhóm này bao gồm những cây sống ở
vùng đồi, trong rừng hoặc nương rẫy, khe suối.
3.1.5.2. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống
Qua phân tích đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc cho thấy mỗi loài cây
thuốc có đặc điểm phân bố theo môi trường sống rất phong phú và phức tạp. Có những
cây sống ở những vùng núi cao, hay vùng núi thấp hay trong khu rừng nguyên sinh, thứ
sinh... lại có những cây sống ở vách núi đá vôi, hốc đá ẩm hay sống nhờ trên thân cây
khác... Một số khác thì sống ở gần nước khe suối, ven biển, ruộng ẩm; và cũng có thể ở
ven đường đi, nương rẫy...
3.1.5.3. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận khác nhau
Những loài cây thuốc sống ở rừng bao gồm những cây thuộc nhóm gỗ, bụi, leo
sống dưới tán rừng, ven rừng... với số lượng là 378 loài. Đối với những loài cây thuốc
sống ở môi trường này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chữa trị bệnh cũng như
việc thúc đẩy quá trình tái sinh và phục hồi rừng. Tiếp theo là các loài cây thuốc
thường sống ở đồi (đồi núi, trảng cây bụi, núi đá) nhóm này chủ yếu thuộc nhóm có
dạng cây thân gỗ, thân leo trườn,…với 114 loài. Nhóm cây sống trong vườn, nương
rẫy chủ yếu là nhóm có dạng cây thân thảo có số loài là 58 loài, một số lớn trong

nhóm này là do các ông lang bà mế đưa về trồng để bốc thuốc chữa bệnh. Như vậy số
lượng cây thuốc được trồng để chữa bệnh chưa nhiều, người dân chủ yếu vào rừng
để tìm cây thuốc. Cuối cùng là môi trường sống gần nước như ven khe suối... có số
loài bắt gặp là ít hơn cả, chỉ có 40 loài, nhóm này chủ yếu là những cây thân thảo.
3.2. Những cây thuốc bị khai thác nhiều, cây thuốc trong Sách đỏ Việt
Nam 2007 cần đƣợc bảo vệ tại huyện Quế Phong
Cây thuốc bị khai thác nhiều do các nguyên nhân khác nhau: Do tần suất sử
dụng cao, có trong nhiều bài thuốc như cây Hoa dẻ lông đen(Desmos
cochinchinensis), cây thuốc bán sang Trung Quốc như Bách bộ đứng (Stemona
saxorum), Chè hoa vàng (Camellia chrysantha ),cây ngâm rượu bán thành sản
phẩm hàng hóa như cây Dây lửa ít gân(Rourea oligophlebia)…
Những cây thuốc này đã có nhiều tác giả đề cập đến như Võ Văn Chi
(2012), Đỗ Tất Lợi (2011), tuy nhiên để giúp cho công tác bảo tồn và phát triển
bền vững cần mô tả bổ sung chi tiết, bổ sung các công dụng…
3.2.1. Mô tả, bổ sung công dung những cây thuốc bị người dân khai thác nhiều
để tạo cơ sở cho công tác bảo tồn và khai thác bền vững
16


Kết quả đã mô tả bổ sung công dụng 64 loài cây thuốc có giá trị, nhưng được sử dụng
nhiều và khai thác mạnh tại địa phương gồm các nhóm bệnh : ngoài da , thầ n kinh,
đường tiêu hóa , gãy xương, cảm cúm, bê ̣nh về hô hấ p , thận nhóm bện khác và thuốc
bổ .
3.2.2. Hiện trạng những cây thuốc quý trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 cần được
bảo vệ tại huyện Quế Phong.
Hiện nay, tại Khu dữ trữ sinh quyến Miền Tây Nghệ An có 78 loài quí hiếm,
trong đó có 71 loài nằm trong Sách Đỏ Việt Nam 2007; 19 loài có tên trong Nghị
định 32/ 2006 CP, và 8 loài có trong Danh lục đỏ IUCN. Tại huyện Quế Phong (bao
gồm cả Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt) có 15 loài cây thuốc có trong Sách Đỏ Việt
Nam 2007, nhưng người dân địa phương vẫn tiếp tục khai thác, cần có biện pháp

tuyên truyền cho người dân đặc biệt các hội đông y, có phương án bảo tồn, khai thác
hợp lí. Để có cơ sở khoa học cho công tác bảo tồn và khai thác bền vững mô tả chi
tiết, hiện trạng bổ sung các công dụng người dân địa phương sử dụng mà các tác giả
Võ Văn Chi, Đỗ Tất Lợi chưa đề cập đến.
3.2.3. Bổ sung danh lục cây thuốc Việt Nam.
Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (2012) có 4472 loài cây thuốc, tuy
nhiên có 118 loài tại huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An chưa được đề cập.
3.3. Các bài thuốc của ngƣời dân tộc Thái ở huyện Quế Phong
3.3.1. Các nhóm bệnh được người dân tộc Thái huyện Quế Phong chữa trị bằng cây
thuốc dân tộc
Bảng 3.11. Sự đa dạng về các nhóm bệnh được chữa trị bằng cây thuốc ở
huyện Quế Phong.
Nhóm
bệnh
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Các nhóm bệnh
Bệnh do thời tiết (cảm nóng, cảm lạnh, đau
đầu…)
Bệnh về tiêu hoá (Dạ dày,tả, lị, ngộ độc, giun

sán…)
Bệnh ngoài da (nhiễm trùng, lở, mụn nhọt…)
Bồi bổ sức khoẻ
Bệnh về thần kinh (bại liệt, thần kinh…)
Hô hấp (ho, phế quản, phổi…)
Trẻ em (suy dinh dưỡng, giật mình…)
Động vật cắn (sên, vắt cắn..)
Bệnh về xương (gãy xương, bong gân…)
Bệnh về thận (sỏi thận, lợi tiểu, viêm thận…)
Bệnh về gan (gan, da vàng…)
17

Số loài
120
118
93
41
34
24
24
23
19
15
15


12
13
14
15

16

Bệnh về răng
Bệnh của phụ nữ ( xông đẻ, bổ dưỡng…)
Bệnh về mắt
Bệnh ung thư
Các bệnh khác

14
13
10
7
50

3.3.2. Một số bài thuốc được đồng bào dân tộc Thái sử dụng, cần được lưu giữ
để bảo tồn tri thức bản địa:
Qua phỏng vấn trực tiếp của các ông lang, bà mế, đồng thời qua kênh thông tin của
hội đông y, các em học sinh người nhà của các ông lang, bà mế, các đồng nghiệp là
người bản địa, bằng phương pháp phỏng vấn, điều tra qua phiếu, kết quả thu được 75
bài thuốc có giá trị
3.3.3. Đa dạng về phương pháp bào chế thuốc
Có 3 cách bào chế thuốc của đồng bào Thái tại địa bàn nghiên cứu gồm cách sử
dụng thủy hỏa chế với 392 loài như cây nàng hai (Dendrocnide sinuata), sắc uống hạ
sốt, bọ mẩy (Clerodendrum cyrtophyllum ) sắc uống chữa kiết lị…thứ hai là dựng
tươi với 195 loài như cây quan âm (Vitex trifolia) giã tươi đắp chữa thần kinh, cây
náng (Crinum asiaticum ) xay lá tươi uống chống ung thư. Sao vàng nóng đắp với 12
loài, như (Huperzia serrata, Cyathea podophylla)
3.3.4. Một số kết quả ban đầu về kiểm nghiệm thực tế và cơ sở khoa học của các
bài thuốc dân tộc
3.3.4.1. Kết quả điều tra thực tế hiệu quả của các bài thuốc chữa bong gân, sai

khớp, gãy xương.
Các bài thuốc dân tộc chữa bong gân, sai khớp, gãy xương có hiệu quả rất tốt. Để
xác định được hiệu quả của các bài thuốc này chúng tôi đã điều tra, phỏng vấn 32 ông
lang, bà mế, và 116 bệnh nhân họ chữa trị trên 24 bản thuộc 9 xã thuộc Khu bảo tồn
Pù Hoạt kết quả cho thấy: Cây thuốc chữa bong gân, sai khớp, gãy xương được đồng
bào dân tộc Thái tại KBTTN Pù Hoạt sử dụng rộng rãi và rất hiệu quả, tác dụng
nhanh (90/116 bệnh nhân khỏi bệnh trong vòng 7 ngày đối với bong gân sai khớp).
3.3.4.2. Kết quả kiểm chứng bài thuốc chữa viêm khớp dạng ong đốt (bệnh gút)
Người dân tộc Thái gọi bệnh gout là viêm khớp dạng ong đốt, vì các triệu chứng
cơ bản giống bệnh gout như cảm giác ấm, đau, sưng và yếu ở các khớp, thường là
khớp ngón chân cái sau đó đau sưng ở các khớp đặc biệt sưng tấy đỏ ở ngón chân
cái như ong đốt. Bệnh này đã được nhiều thầy lang sử dụng bài thuốc (73), dùng
đậu xanh (Vigna radiata) để nguyên vỏ nấu nhừ, mỗi ngày ăn 1 bát trong vòng 30
ngày. Vì đây là loại bệnh gặp rất nhiều ở thời điểm hiện nay, cách sử dụng bài
thuốc dễ dàng, nguyên liệu thông dụng và không gây tác dụng phụ nên bài thuốc
đã được phổ biến kiểm nghiệm ở một số bệnh nhân, bằng cách kiểm tra nồng độ
axit uric trong máu trước khi sử dụng bài thuốc, mọi sinh hoạt ăn uống bình
18


thường, 30 ngày sau khi áp dụng bài thuốc kiểm tra lại kết quả đều có tác dụng rất
tốt. Tất cả các bệnh nhân kiểm chứng đều có nồng đọ axit uric giảm rõ rệt
3.3.4.3. Xác định thành phần hóa học có trong thân cây hoa dẻ lông đen
(Desmos cochinchinensis) và cây dây lửa ít gân (Rourea oligophlebia )
Trong quá trình điều tra thấy đa số các ông lang bà mế đều sử dụng cây hoa dẻ
lông đen (Desmos cochinchinensis) trong các bài thuốc của họ để chữa nhiều bệnh
khác nhau như dạ dày (bài 65), đau bụng, thần kinh (bài 65), viêm phổi (bài 38),
ghẻ lở (bài 17), ung thư, u hạch (bài 61)…, vì vậy để tìm hiểu nguyên nhân tại sao
cây hoa dẻ lông đen (Desmos cochinchinensis) được sử dụng nhiều, chúng tôi tiến
hành phân tích thành phần hóa học trong thân cây, kết quả cho thây có 3 hợp chất

như sau :
Công thức các hợp chất A)1-oxo-4α,7α-eudesmanediol; B)2,3- đi hydroxy-1metoxy-noraporphin; C) axit 3,4-dimetoxycinnamic là:
OH
13
6

11

5 4

7

HO

OH

H
10

8

1

9
12

O

(Chất A)


MeO

3

7

2

3

1
4

2

MeO

9

COOH

HO

2

3

3a

8


H3CO

NH
6a

1a
11

7
7a

10

5

5

1b

1

11a

6

4

8
9


(Chất B)

(Chất C)

Trong đó có chất Axit 3,4-dimetoxycinnamic được sử dụng trong hương
vị, màu chàm tổng hợp và một số dược phẩm, cũng là một loại tự ức chế sản xuất
bởi các bào tử nấm để ngăn chặn sự nảy mầm, có khả năng diệt khuẩn.
Lá cây Hoa dẻ lông đen có các hợp chất chủ yếu là sesquirerpen và các hợp
chất monotepen, trong đó các hợp chất sesquirerpen có tác dụng hoạt tính diệt
bào “in vitro” và một số khác có khả năng chống bướu ung thư “in vivo”, từ đó
chúng ta có thể giải thích tại sao người dân địa phương sử dụng lá hoa dẻ lông
đen nấu uống để chữa ung thư.
Tại thời điểm nghiên cứu, trên địa bàn huyện Quế Phong, cây dây lửa ít gân
(Rourea oligophlebia) bị khai thác nhiều. Người dân tộc Thái gọi cây dây lửa ít
gân là cây “Mú từn”. Theo kinh nghiệm của người dân địa phương khi lợn ăn cây
này nó sẽ bị kích thích thần kinh mạnh, tiếng dân tộc Thái gọi “Mú từn” là “lợn
tỉnh”, người ta sử dụng thân cây này ngâm rượu thành sản phẩm hàng hóa đặc sản
của huyện Quế Phong, có tác dụng cường dương, tăng cường sinh lực, tuy nhiên
nếu nấu uống, hoặc uống nhiều sẽ bị rối loại thần kinh. Vì khai thác mạnh nên cây
dây lửa ít gân ngày càng khan hiếm, trước đây cây mú từn rải rác khắp nơi, nhưng
sau khi người dân địa phương chặt ngâm rượu bán thành sản phẩm hàng hóa loài
cây này chỉ có trong rừng sâu của một số xã như Thông Thụ, Hạnh Dịch, Nậm
Nhó, do đó đã trồng bảo tồn nguyên vị (in situ) và bảo tồn chuyển vị (ex situ),
19


đồng thời đã nghiên cứu về thành phần hóa học có trong cây dây lửa ít gân
(Rourea oligophlebia) để khuyến cáo sử dụng đối với loài cây này.
Dây lửa ít gân(Rourea oligophlebia Merr.) có các hợp chất sau:

5'
6'
8

HO 7

1

O 2

9

5

10 4

OH

3'

OH

28
21

1'
2'

6


29
4'

18

O

OH O
4''

5''

O

HO
1''' HO 3''

6''' 5'''

H3C
HO

4'''

O
HO

2''

13

8

25

17

11
9

2

O

26
16

14 15

10
7

1''

OH

HO

2'''

3'''


19

1

6''

24
23

12

3

27

22
20

rutin

HO

3

4

5

6


β-sitosterol

29
28
21
12
1

19

HOH2C

O

4'

HO
HO

5'
3'

2'

O

3

4


5

23

13

25
26

16

8 14
15

10

6'

27
24

17

11
9

2

22

20

18

7
6

1'

OH

-sitosterol-3-O--Dglucopyranozit

Quercetin

,

,,
OH
,,
5
O
4,, OH
2,,
O
OH
,4
,,
,,
1

3

,

,
3 OH

6

5

,
6
8

H3CO

O

O

,

2

1

2

9


7
6

3

10
5

OH

4

OCH 3

,,,

1

5,,, 6,,,
O 3,,, ,,, OH
4
,,,
2
OH
OH

O

3,7- dimethoxy quercetin 4‟- O- [α-Lrhamnopyranosyl- (1  2) -β-D1-(2,6-hydroxyhexacosanoyl)glucopyranosit

glycerol
Hợp chất rutin có hoạt tính chống oxy hoá và làm bền thành mạch máu , nó
còn có hoạt tính kháng nấm.
Hợp chất β-sitosterol có tác dụng làm giảm áp lực lên cơ trơn bàng quang, cơ
vòng quanh niệu đạo…, do đó có thể cải thiện các triệu chứng như dòng chảy nhỏ,
tiểu yếu, sau khi tiểu xong còn nhỏ giọt, tiểu bị gián đoạn…, có thể giúp việc tiểu tiện
diễn ra dễ dàng, nhanh chóng, giảm thiểu chứng tiểu buốt.
20


Hợp chất -sitosterol-3-O--D-glucopyranozit có tác dụng tốt trong chuyển
hóa đường huyết
Hợp chất Quercetin có vai trò kháng oxy hóa rất tốt và ức chế phát triển tế bào ung thư.
Hợp chất 1-(2,6-hydroxyhexacosanoyl)-glycerol có khả năng chống sốt rét và
đau xương.
Như vậy, trong các hợp chất trên chưa phát hiện được hợp chất nào có tác
dụng kích thích thần kinh, cường dương như cách sử dụng của người dân tộc
Thái, tuy nhiên các hợp chất này khi ngâm rượu có thể có tác dụng như mong
muốn nhưng chưa có cơ sở khoa học để chứng minh. Ngoài ra trong các cây
thuốc tại địa bàn nghiên cứu đã có nhiều loài được các nhà khoa học nghiên cứu
về hoạt chất để có cơ sở kiểm chứng tác dụng của cây thuốc trong các bài thuốc.
(Phụ lục 3)
3.4. Vấn đề bảo tồn tri thức bản địa, và phát triển tài nguyên rừng
bền vững
Muốn bảo tồn tri thức bản địa về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm thuốc của
người dân tộc Thái huyện Quế Phong cần phải nghiên cứu phong tập quán, nét văn
hóa của người dân bản địa, điều tra thu thập mức độ sử dụng các bài thuốc dân tộc để
có cơ sở đề xuất các phương án bảo tồn thích hợp.
3.4.1. Thống kê số lƣợng ngƣời sử dụng thuốc dân tộc Thái trên địa bàn huyện
Quế Phong.

Bảng: 3.14. Tỷ lệ số người dùng thuốc dân tộc ở các xã trên địạ bàn huyện.


KS

HD

TT

TP

TL

CT

CM

MN

NG

QP

X1

S2

Nhóm 1

0,75


0,88

0,84

0,76

0,85

0,75

0,88

0,76

0,88

0,89

0,82

0,0034

Nhóm 2

0,74

0,82

0,86


0,77

0,83

0,79

0,82

0,77

0,85

0,88

0,81

0,0018

Nhóm 3

0,72

0,83

0,86

0,79

0,85


0,81

0,88

0,76

0,88

0,89

0,83

0,0029

Nhóm 4

0,76

0,86

0,83

0,73

0,81

0,85

0,86


0,79

0,82

0,86

0,82

0,0018

Nhóm 5

0,79

0,81

0,86

0,83

0,82

0,79

0,81

0,8

0,81


0,88

0,82

0,0008

Nhóm 6

0,81

0,81

0,83

0,77

0,85

0,81

0,88

0,76

0,88

0,89

0,83


0,0019

Nhóm 7

0,66

0,78

0,79

0,72

0,81

0,76

0,82

0,76

0,82

0,81

0,77

0,0023

Nhóm 8


0,61

0,61

0,65

0,62

0,63

0,65

0,72

0,71

0,68

0,64

0,65

0,0015

Nhóm

21



Nhóm 9

0,71

0,88

0,84

0,79

0,85

0,81

0,88

0,76

0,88

0,83

0,82

0,0029

Nhóm 10

0,6


0,81

0,67

0,76

0,85

0,81

0,82

0,76

0,88

0,86

0,78

0,0070

Nhóm 11

0,75

0,8

0,82


0,77

0,82

0,81

0,81

0,76

0,83

0,85

0,80

0,0009

Nhóm 12

0,62

0,6

0,62

0,78

0,61


0,81

0,68

0,75

0,61

0,61

0,67

0,0061

Nhóm 13

0,62

0,77

0,68

0,71

0,62

0,67

0,81


0,76

0,81

0,79

0,72

0,0049

Nhóm 14

0,75

0,82

0,83

0,79

0,81

0,81

0,83

0,72

0,83


0,86

0,81

0,0016

Nhóm 15

0,75

0,85

0,82

0,76

0,83

0,82

0,86

0,73

0,85

0,85

0,81


0,0020

Nhóm 16

0,52

0,42

0,61

0,56

0,76

0,59

0,67

0,61

0,66

0,67

0,61

0,0079

X2


0,70

0,77

0,78

0,74

0,79

0,77

0,81

0,75

0,81

0,82

*Các xã: (KS: Kim Sơn, HD: Hạnh Dịch, TT: Thông Thụ, TP: Tiền Phong,
TL: Tri Lễ, CT: Châu Thôn, CM: Cắm Muộn, MN: Mường Nọc, NG: Nậm Giải, QP:
Quang Phong, X1: tỷ lệ % người dân trong 10 xã sử dụng thuốc dân tộc để chữa các
nhóm bệnh, ví dụ: nhóm 1 là nhóm bệnh do thời tiết (cảm nóng, cảm lạnh, đau đầu…)
82% người dân sử dụng thuốc dân tộc để chữa với độ phân tán S2 là 0.0034, X2 là tỷ lệ
% người dân trong 10 xã, thị trấn được khảo sát sử dụng thuốc dân tộc, ví dụ xã Kim
Sơn có 70% người dân sử dụng thuốc dân tộc để chữa bệnh.
3.3.4.2 Thực trạng của cây thuốc tại huyện Quế Phong và vấn đề bảo tồn và
phát triển tài nguyên rừng bên vững.
Qua quá trình nghiên cứu, thực trạng cây thuốc tại huyện Quế Phong bị khai

thác mạnh và di chuyển theo dòng chảy sau:
1.Nguyên liệu từ rừng  Người khai thác  Đại lý tiêu thụ  Lạng Sơn  Trung Quốc.
2.Nguyên liệu từ rừng  Người khai thác  Thầy thuốc nam  Người tiêu dùng.
Trong hai loại dòng chảy đó thì dòng(1) làm tài nguyên cạn kiệt, khai thác ồ ạt,
chưa có chế tài hợp lí để ngăn chặn, giá cả thất thường và rẻ mạt. Dòng chảy (2) cây
thuốc được người dân khai thác từ rừng, sau đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng.
Đây là kênh tiêu thụ chủ yếu của cây thuốc tại đây. Người tiêu dùng ở đây chủ yếu là
người dân đang sinh sống tại địa phương. Tất cả các dòng chảy đều đang sử dụng
nguyên liệu từ rừng vì vậy tài nguyên rừng cạn kiệt nhanh chóng, cần phải tái tạo
nguồn nguyên liệu bằng cách trồng bảo tồn. Trong dòng chảy về dược liệu gần như
không có các công ty chế biến dược liệu tại Việt Nam thu mua vì khai thác nhỏ lẻ
22


không ổn định, chất lượng và bảo quản không đúng quy trình,giá cả các loài dược
liệu phụ thuộc rất nhiều vào thương lái.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận.
1. Qua điều tra ban đầu, hệ thực vật làm thuốc ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An đã xác
định được 583 loài với 349 chi, 131 họ của 5 ngành thực vật là Equisetophyta,
Lycopodiophyta, Polypodiophyta, Pinophyta, Magnoliophyta; ngành Ngọc Lan chiếm
ưu thế với 91% tổng số loài. Các họ nhiều loài nhất là: Euphorbiaceae, Lauraceae,
Fabaceae, Rubiaceae , Asteraceae, Acanthaceae …
2. Cây thuốc được đồng bào dân tộc Thái huyện Quế phong sử dụng đa dạng, sử dụng
nhiều bộ phận của cây để chữa trị 16 nhóm bệnh khác nhau
3. Qua khảo sát 9 xã, 01 thị trấn cho thấy tỷ lệ người dân sử dụng cây cỏ làm thuốc
chiếm trên 70%.
4. Lưu giữ được 75 bài thuốc của đồng bào dân tộc Thái huyện Quế Phong sử dụng.
Mô tả bổ sung công dụng 64 loài cây thuốc sử dụng phổ biến khai thác nhiều, 15 loài
có trong Sách Đỏ Việt Nam và hiện trạng khai thác, bổ sung 118 loài vào từ điển cây

thuốc Việt Nam (2012) của Võ Văn Chi.
5. Xác định được trong thân cây hoa dẻ lông đen có các hợp chất các hợp chất 1-oxo4α,7α-eudesmanediol; 2,3- đi hydroxy-1-metoxy-noraporphin; axit 3,4dimetoxycinnamic,cây dây lửa ít gân (Rourea oligophlebia Merr.) có hợp chất rutin,
β-sitosterol,-sitosterol-3-O--D-glucopyranozit,Quercetin,1-(2,6hydroxyhexacosanoyl)-glycerol, dimethoxy quercetin 4‟- O- [α-L- rhamnopyranosyl(1  2) -β-D- glucopyranosi.
6. Bước đầu kiểm chứng được hiệu quả của một số bài thuốc của người dân tộc Thái
hiện đang sử dụng.
Kiến nghị:
Về công tác nghiên cứu khoa học:
+ Tiếp tục đầu tư nghiên cứu về cây thuốc Miền Tây Nghệ An.
+ Tiếp tục nghiên cứu sâu về hai chi có nhiều loài cây thuốc là Cinnamomum, họ
Lauraceae và Ficus họ Moraceae về hoạt tính sinh học.
Về công tác bảo tồn:
+ Trồng bảo tồn tại chỗ các loài có trong Sách Đỏ 2007, và các loài bị khai thác nhiều
tại huyện Quế Phong.
+ Quy hoạch vùng dược liệu mới, phân khu vực trồng dược liệu theo nhóm bệnh đã
được phân chia theo tài liệu Đỗ Tất Lợi.
23


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1.Nguyễn Thƣợng Hải, Phạm Hồng Ban, Nguyễn Nghĩa Thìn, (2011) “Đa dạng
thực vật làm thuốc 2 xã Nậm Giải và Châu Kim ở Vùng đệm khu Bảo tồn Pù Hoạt
huyện Quế Phong tỉnh Nghệ An” Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất hệ thống bảo tàng
Thiên nhiên Việt Nam,Tr193-196.
2.Nguyễn Thƣợng Hải, Phạm Hồng Ban, Đỗ Ngọc Đài, (2011) “Đánh giá và
nghiên cứu để góp phần sử dụng và phát triển nguồn gen cây thuốc khu bảo tồn thiên
nhiên Pù Hoạt” Tạp chí Khoa học Lâm Nghiệp. Tr 1704-1709.
3. Nguyễn Thƣợng Hải, Phạm Hồng Ban, Đào Thị Minh Châu, Nguyễn Nghĩa
Thìn, (2013) “Đánh giá đa dạng tài nguyên cây thuốc ở hai xã Thông Thụ và Hạnh
Dịch, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An” Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ,
Tr191-194.

4. Phạm Hồng Ban, Nguyễn Thƣợng Hải, “Cây thuốc truyền thống của đồng bào dân
tộc Thái ở hai huyện Quỳ Hợp và huyện Quế Phong, miền núi tỉnh Nghệ An”, (2013)
Hội thảo quốc quốc gia lần thứ 5 Viện Sinh thái Tài nguyên Sinh vật, Tr 939-944.
5. Nguyễn Thƣợng Hải, Phạm Hồng Ban, Đào Thị Minh Châu, Nguyễn Nghĩa
Thìn, (2013) “Đa dạng cây thuốc được đồng bào dân tộc thái sử dụng chữa bệnh dạ
dày tại huyện Quế Phong thuộc khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt tỉnh Nghệ An”, Hội
thảo quốc quốc gia lần thứ 5 Viện Sinh thái Tài nguyên Sinh vật, Tr 1017-1019.
6. Đào Thị Minh Châu, Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn Thƣợng Hải, Trần Minh
Hợi,(2013)“Đánh giá vai trò của lâm sản ngoài gỗ trong đời sống cộng đồng ở khu
vực khe Bu, vùng đệm vườn quốc gia Pù mát” Hội thảo quốc quốc gia lần thứ 5 Viện
Sinh thái Tài nguyên Sinh vật, Tr 974-981.
7. Nguyễn Thƣợng Hải, Phạm Hồng Ban, Hoàng Danh Trung, Nguyễn Nghĩa
Thìn, “Cây thuốc được đồng bào dân tộc thái sử dụng chữa gãy xương và bong gân,
sai khớp tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, huyện Quế Phong tỉnh Nghệ An” Tạp
chí Khoa học Công nghệ Viêt Nam Tr 491-496.
8. Trần Đăng Thạch, Nguyễn Thƣợng Hải, (2014)“Thành phần hóa học của thân
cây Hoa dẻ lông đen (Desmos cochinesis) họ Na (Annonaceae)” Tạp chí Khoa học,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Tr 553-558.
9. Nguyễn Thƣợng Hải, Phạm Hồng Ban, Hoàng Danh Trung,(2014) “Some study
results on the use of medicinal plants by the Thai ethnic minority in Pu Hoat nature
reserve area, Nghe An province, Viet Nam,” Khon Kaen Agriculture Journal.
10. Đào Thị Minh Châu, Hồ Thị Phương, Nguyễn Thƣợng Hải, 2014. “Thực
trạng khai thác tài nguyên rừng của người dân tộc Đan-lai trong vùng đệm Vườn
quốc gia Pù Mát”. Kỷ yếu Hội nghị khoa học lần 9 - Đại học Khoa học Tự nhiên
Tp.HCM. Tháng 11 năm 2014.
Các đề tài khoa học đã tham gia:
24


1.Nghiên cứu đề xuất mô hình bảo tồn và phát triển bền vững lâm sản ngoài gỗ nhằm

phục vụ phát triển kinh tế xã hội ở Khu dự trữ sinh quyển Miền Tây Nghệ An.(2013),
Đề tài cấp Tỉnh,(Thư ký).
2. Bảo tồn nguồn gen cây Mú từn ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, (2015) Đề tài
cấp Tỉnh,(Thành viên).

25


×