Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần 1 năm 1873

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.71 KB, 46 trang )

THỰC DÂN PHÁP ĐÁNH CHIẾM BẮC KỲ LẦN THỨ
NHẤT NĂM 1873
Tài liệu tham khảo

Bố cục bài làm
- Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì.
Về phía thực dân Pháp.
Về phía triều đình.
Về phía nhân dân.
- Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873).
Bối cảnh.
Lực lượng.
Diễn biến.
Kết quả.
- Kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì (1873-1874).

1


- Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất ( 21-12-1873).
- Hiệp ước Giáp Tuất (1874).
- Kết luận.

1. Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh Bắc Kì.
* Phía thực dân Pháp:
Chiếm xong sáu tỉnh Nam Kì, thực dân Pháp phải đối phó với
sự nổi dậy của nhân dân, nhưng thời kì này không còn những cuộc
khởi nghĩa lớn như khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Trung Trực
như những giai đoạn trước. Trong khoảng 20 năm đầu ở Nam Kì
Pháp vẫn phải bình định, chinh phục những vùng đất đai đã chiếm
được để biến Nam Kì thành bàn đạp vững chắc cho việc mở rộng


chiến tranh tiến đánh Bắc Kì và Trung Kì sau này.
- Về chính trị :
Chúng ra sức củng cố bộ máy cai trị từ trên xuống dưới, thiết
lập bộ máy cai trị trực tiếp mang tính độc tài quân sự nằm trong tay
bọn sĩ quan Pháp. Đứng đầu là một viên Đô đốc nắm toàn quyền về
kinh tế, chính trị, quân sự. Dưới nữa là tham viện, chủ tỉnh, chủ
quận được lựa chọn trong hàng ngũ sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Còn
ở các thôn thì giao cho các quan lại tay sai người Việt cai quản.

2


- Về quân sự: Ngoài số quân hiện có, Pháp còn tăng thêm lực
lượng lính ngụy, mã tà để đảm bảo trật tự trị an. Mỗi quận có tới 50
mã tà, 100 lính tập, mỗi tỉnh có một tiểu đoàn lính tập do đích thân
người Pháp chỉ huy.
- Về kinh tế : Chúng duy trì và tăng mức thu các loại thuế thời
phong kiến, ở thời kì đầu đã tăng thuế 5 lần, chúng còn mở cảng Sài
Gòn để thu thuế… Chính quyền thực dân tịch thu ruộng đất hoang
bán cho địa chủ người Pháp và người Việt. Họ trở thành những
người sở hữu lớn, cung cấp hàng hoá cho Pháp xuất khẩu, đồng thời
tạo ra một tầng lớp ủng hộ người Pháp trong việc cai trị.
Pháp còn lập ra những tổ chức nghiên cứu để chuẩn bị cho
cuộc khai thác. Xuất hiện một số xí nghiệp sửa chữa cơ khí, kéo
sợi… nhưng hoạt động còn hạn chế.
- Về văn hóa - giáo dục: Chúng tuyên truyền cho văn minh và
sứ mệnh khai hóa của người Pháp. Mở trường để đào tạo đội ngũ
tay sai, chú trọng dạy chữ Việt cho người Pháp và ngược lại. Nho
học vẫn được duy trì song đã đưa chữ Pháp và chữ Quốc ngữ vào
giảng dạy, xuất bản sách báo, tuyên truyền đường lối, chính sách cai

trị, bước đầu tìm hiểu phong tục tập quán của người Việt.
Thực dân Pháp còn tìm cách hợp pháp hóa việc chiếm Tây
Nam Kì, bắt triều đình nếu không kí Hiệp ước mới thì phải sửa Hiệp
ước 1862, ghi vào phụ lục 3 tỉnh Tây Nam Kì thuộc Pháp.
* Phía Triều đình:

3


Trong khi đó, triều đình dường như không còn nghĩ gì đến việc
chiến đấu giành lại những vùng đã mất mà vẫn tiếp tục thi hành
những chính sách thiểm cận. Vận nước lâm nguy đòi hỏi triều đình
phải có trách nhiệm, nhưng nhà Nguyễn chỉ tiến hành nhỏ giọt và
chậm chạp một số công tác phòng thủ như bổ nhiệm một số quan lại
đi trấn giữ những nơi xung yếu, xây thêm đồn lũy ở bến Thị Nại
(Quy Nhơn), đặt thêm đại bác, súng ống… Để rồi sau đó, lại tìm
cách ngăn cản, phá vỡ cơ sở kháng chiến của nhân dân, như giải tán
các đội dân binh, giáng chức hay tống giam những quan chức và sĩ
phu tham gia phong trào chống Pháp. Như vậy, triều đình vẫn
muốn đi theo con đường thương lượng để nhằm hạn chế sự “chém
cắt” của thực dân Pháp.
- Về nội trị : Sau năm 1867 tình hình Việt Nam càng rối ren,
triều đình nhà Nguyễn vẫn tăng cường vơ vét bóc lột nhân dân, vừa
để thỏa mãn nhu cầu ăn chơi xa xỉ, vừa để có tiền bồi thường chiến
phí cho Pháp. Tự Đức bắt xây thêm lăng tẩm, đền đài, miếu mạo.
Hết tứ tuần đại khánh của y, lại đến lục tuần đại khánh của Thái
hậu. Riêng vạn niên cơ, tức Khiêm lăng của Tự Đức, tập trung đến
3.000 lính, thợ, xây dựng từ năm này qua năm khác.
“Vạn niên là vạn niên nào,
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.

Ca dao

4


Lăng Tự Đức - Khiêm Lăng (dangvansinh.blogspot.com)
Trong khi đó nông nghiệp thì bê trễ, đê điều không được quan
tâm, nạn vỡ đê mất mùa xảy ra thường xuyên. Công nghiệp và
thương nghiệp cũng không có gì khác, chính sách “bế quan tỏa
cảng” trong thương nghiệp cũng như chính sách “công tượng” trong
công nghiệp đã kìm hãm sự phát triển của hai ngành này. Kết quả là
nền tài chính bị thiếu hụt, đời sống nhân dân bị kiệt quệ. Mâu thuẫn
xã hội càng sâu sắc, hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra ở
vùng đồng bằng như khởi nghĩa của Trần Vĩnh (Hà Đông), Đỗ Văn
Đạo, Nguyễn Văn Nam (Phúc Yên), Lê Văn Khuông, Đỗ Chuyên,
Nguyễn Nhiễm, Nguyễn Văn Đài (Bắc Ninh), Quản Thỏa, Quản Uy
và dư đảng của Tạ Văn Phụng (Quảng Yên)… Lợi dụng tình hình
đó, nhiều toán thổ phỉ, hải phỉ từ Trung Quốc sang cướp phá ở
nhiều nơi. Tình hình rối loạn càng tạo điều kiện cho thực dân Pháp
đem quân đánh Bắc Kì.

5


Để đối phó lại, nhà Nguyễn một mặt ra sức đàn áp nhân dân,
mặt khác cầu cứu nhà Thanh phái quân sang đánh dẹp các toán thổ
phỉ. Trước thực trạng đó, một số quan lại, sĩ phu yêu nước tiến bộ
đã đưa ra nhiều đề nghị cải cách về chính trị, kinh tế, ngoại giao
cũng như văn hóa - xã hội như Nguyễn Trường Tộ, Trần Đình
Túc…


Nguyễn Trường Tộ (chungta.com.vn)
Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện
Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình Công giáo. Ông
học thông Tứ thư ngũ kinh của Nho giáo, từng được ra nước ngoài
nên ông có cái nhìn mới mẻ trước thực trạng của đất nước. Ông đã
liên tiếp gửi lên triều đình Huế 30 bản điều trần đề xuất canh tân
xây dựng đất nước giàu mạnh. Các bản điều trần này đề cập đến
mọi lĩnh vực chủ yếu:

6


• Về kinh tế : Nguyễn Trường Tộ quan tâm đến công, nông,
thương nghiệp. Mở mang buôn bán trong nước và giao thương với
nước ngoài, mời các công ty nước ngoài đến giúp ta khai thác tài
lợi, sửa đổi chế độ thuế khóa sao cho “nước giàu dân cũng giàu”…
• Về mặt văn hóa - giáo dục : Nguyễn Trường Tộ đề xuất cải
cách phong tục, chủ trương coi trọng dân, sửa đổi chế độ thi cử, mở
mang học hành, thay đổi nội dung giáo dục, lấy quốc âm thay thế
chữ Hán…
• Về ngoại giao : Ông phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện
chính trị trên toàn thế giới thời đó, những mâu thuẫn quyền lợi giữa
Pháp với Anh và Tây Ban Nha, khuyên triều đình nên ngoại giao
trực tiếp với chính phủ Pháp để ngăn chặn sự xâm lược của bọn
Pháp bên này, chọn thời cơ lấy lại sáu tỉnh Nam Kì, xác lập tư thế “
làm chủ đón khách”…
• Về mặt quân sự : Nguyễn Trường Tộ cũng chủ trương “chủ
hòa” nhưng không chủ trương “chủ hàng”. Ông khuyên triều đình
cải tổ võ bị, trọng cả văn lẫn võ, đào tạo sĩ quan, mua sắm tàu

thuyền vũ khí, xây dựng phòng tuyến ở cả thành thị lẫn nông thôn…
Có thể khẳng định những bản điều trần trên nếu được áp dụng
thì sẽ biến Việt Nam thành một nước hùng cường, tạo nên chuyển
biến quan trọng trong lịch sử của dân tộc. Nhưng tất cả mọi đề nghị
canh tân của Nguyễn Trường Tộ cũng như các quan lại sĩ phu yêu
nước tiến bộ đều bị khước từ và nếu có thì cũng là chiếu lệ, lẻ tẻ, rời
rạc; chưa động chạm đến vấn đề cơ bản của thời đại là giải quyết hai

7


mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là giữa nhân dân ta với
thực dân Pháp và giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
- Về mặt đối ngoại: Kẻ thù đã trắng trợn chiếm đóng phần lớn
đất nước và ráo riết chuẩn bị thôn tính những vùng còn lại. Nhưng
triều đình nhà Nguyễn vẫn không có những biện pháp kiên quyết để
đối phó lại, chỉ tiến hành nhỏ giọt và chậm chạp, khước từ mọi đề
nghị canh tân, thủ tiêu những tiền đề mới của xã hội. Đó là trách
nhiệm lớn lao của nhà Nguyễn trước lịch sử dân tộc. Như vậy, triều
đình vẫn muốn dùng con đường thương lượng để nhằm hạn chế sự
“chém cắt” của thực dân Pháp.
2. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất 1873
Tình hình nước ta rất thuận lợi cho Pháp mở rộng xâm lược ra
Bắc Kì. Nhưng lúc này, tình hình ở chính quốc đang gặp nhiều khó
khăn, thất bại trong chiến tranh Pháp - Đức, một phần lãnh thổ bị
Đức chiếm đóng, sự uy hiếp của Đức với Pháp lúc này còn rất lớn
nên Pháp phải tăng cường phòng vệ. Thêm vào đó tình hình kinh tế,
chính trị Pháp chưa ổn định vì vậy Pháp không thể đi xâm chiếm ở
những nơi xa.
Ngược lại, bọn thực dân Pháp ở Nam Kì lại nôn nóng tiến

hành đánh Bắc Kì. Để thực hiện âm mưu mở rộng xâm lược, ngoài
việc củng cố cơ sở ở sáu tỉnh Nam Kì, thực dân Pháp còn tung gián
điệp đội lốt giáo sĩ hoặc thương nhân ra Bắc do thám tình hình, xúi
giục, tiếp tay cho những phần tử chống đối triều đình dưới danh

8


nghĩa phù Lê để triều đình phải nhờ thực dân Pháp đem quân trợ
giúp.
Thương nhân Pháp lúc này cũng hoạt động ráo riết. Sau khi
thấy con đường sông Cửu Long không thể đi vào miền Tây Nam
Trung Quốc, chúng bắt đầu chú ý đến sông Hồng. Tên lái buôn
Đuy-puy, vẫn chở súng ống vào Vân Nam, Quý Châu (Trung
Quốc) bán cho bọn tướng tá nhà Thanh. Vì đi theo sông Trường
Giang thì sẽ xa xôi, tốn kém nên y đã thương thuyết với tướng tá
nhà Thanh cho đi theo Sông Hồng. Thay mặt “vương triều”, Tổng
đốc Lưỡng Quảng đã yêu cầu triều đình Huế cho Đuy-puy được
ngược sông Hồng. Y còn nhận được sự ủng hộ của quân Thanh ở
thượng du Bắc Kì. Bọn thực dân Pháp ở Nam Kì thấy đây là thời cơ
tốt để hành động, vừa gạt đối thủ của Pháp là Anh ra khỏi Bắc Kì,
vừa hợp pháp hóa việc chiếm 3 tỉnh Tây Nam Kì. Mặt khác, Đuypuy xin chính phủ Pháp ủng hộ việc kinh doanh, nhưng tình hình ở
chính quốc lúc này không đã không cho phép chính phủ Pháp (cũng
như ở Nam Kì) đáp ứng yêu cầu của Đuy-puy, dù có cũng rất hạn
chế.
Tình hình đó buộc Đuy-puy phải tự mình hành động. Y đi
Hương Cảng và Thượng Hải tháng 10 - 1872 sắm pháo thuyền, súng
ống và đạn dược, mộ quân lính rồi tháng 11 năm đó về tới Bắc Kì.
Lợi dụng việc triều đình Huế yêu cầu đem tàu ra vùng biển Hạ
Long đánh dẹp cướp biển và do nhiều nguồn tin, chủ yếu là của bọn

gián điệp đội lốt giáo sĩ cung cấp, thực dân Pháp đã nắm được tình

9


hình Bắc Kì đã phái tàu chiến ra Bắc hỗ trợ Đuy-puy. Được thể làm
càn Đuy-puy đã buộc Kinh lược sứ Lê Tuấn trong vòng hai tuần
phải xin triều đình Huế cho phép hắn được mượn đường sông Hồng
lên Vân Nam. Hạn hai tuần chưa hết và giấy phép cũng chưa có,
Đuy-puy đã nổ súng thị uy, tự tiện kéo đoàn tàu vào Cửa Cấm
ngược sông Hồng lên đến Hà Nội ngày 22 tháng 12 năm 1872.
Mặc dù chưa có lệnh của triều đình, nhưng trước những hành
động ngang trái của Pháp, quân dân đã đề cao cảnh giác, tích cực đề
phòng. Lệnh bất hợp tác được ban ra, nhân dân tích cực thực hiện,
không một ai chịu chỉ đường, mua bán, tiếp tế cho Pháp. Quân dân
nhiều nơi còn đóng cọc để ngăn chặn hay đánh đắm tàu thuyền của
địch đi lại trên sông. Nhưng nhờ có một số Hoa kiều buôn bán ở Hà
Nội, như Quan Tá Đường, Bành Lợi Kí… và quân Thanh đóng ở
Bắc Ninh giúp đỡ, Đuy-puy vẫn kiếm được một số thuyền nhỏ chở
hàng ngược sông Hồng lên buôn bán với Trung Quốc. Khi về, y còn
mộ thêm được một số lính trong quân đội Lưỡng Quảng lúc đó đang
đóng ở Bắc Kì. Có một lực lượng quân sự khá mạnh, Đuy-puy tỏ ra
hung hãn và hạch sách đủ điều: đòi được đóng quân trên bờ; đòi thả
những người cộng tác với y đã bị bắt giam; đòi có nhượng địa ở Hà
Nội; đòi được cung cấp muối và than để đưa lên Vân Nam buôn
bán; cho lính Pháp lên bờ bắt các quan lính và dân đem xuống tàu;
cướp thuyền gạo của triều đình ở bờ sông; khước từ lời mời thương
thuyết của Nguyễn Tri Phương…
Bối cảnh:


10


Lấy cớ giải quyết “vụ Đuy-puy” theo yêu cầu của triều đình
Huế, Thiếu tướng hải quân, Thống đốc Dupré đã cử ra Bắc Kì một
đoàn công tác đặc nhiệm đặt dưới quyền chỉ huy của Gác-ni-ê.

Jean Dupuis
(Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918 trang 470).
Bề ngoài với danh nghĩa giải quyết tại chỗ vụ Đuy-puy, nhưng
bên trong là để kiếm cớ can thiệp sâu vào vấn đề Bắc Kì. Ngày 13
tháng 10 năm 1873, phái đoàn Gác-ni-ê ra đến Cửa Cấm, rồi dùng
ghe máy đi tới Hải Dương, yêu cầu nhà chức trách ở đây cung cấp
thuyền đi sông để đoàn đi Hà Nội. Trên đường đi, Gác-ni-ê đã gửi
cho Đuy-puy chủ ý của mình.
Ngày 28 tháng 10 năm 1873, sau khi nhận được thư của
Gác-ni-ê, Đuy-puy liền đáp lại rằng ông ta và thuộc hạ cùng với các

11


thuyền buôn xin đặt dưới sự chỉ huy của Gác-ni-ê. Ngoài ra,
Đuy-puy còn vẽ sơ phác một bản đồ vùng đồng bằng Bắc Kì với
nhiều đường sông có thể đi từ cửa biển vào Hà Nội. Tới ngày 3
tháng 11, Đuy-puy trên tàu Manh Hào cùng thuộc hạ đón gặp ghe
thuyền của Gác-ni-ê, rồi cùng đi về Hà Nội.
Khởi hành từ Sài Gòn ngày 11 tháng 10 năm 11873, đoàn tàu
chiến của Gác-ni-ê ra đến Hà Nội ngày 5 tháng 11 năm 1873.
Nhiệm vụ của bọn thực dân hiếu chiến Nam Kì giao cho Gác-ni-ê
khi kéo quân ra Bắc là được toàn quyền hành động và tùy theo diễn

biến tình hình mà thiết lập chế độ bảo hộ hay chế độ thuộc địa.
Ngay khi đặt chân tới Hà Nội, Gác-ni-ê đã lộ rõ bộ mặt khiêu
khích, vào thành gặp Nguyễn Tri Phương, đòi được đóng quân trong
thành, mở cửa sông Hồng cho việc chuyên chở hàng hóa và buôn
bán, đòi tổ chức việc thu thuế, cho quân tự do đi canh gác các phố
xá và bắt bớ, đánh đập, hãm hiếp dân lành. Quan quân thành Hà Nội
nói mãi , Gác-ni-ê mới chịu ra đóng ở Tràng Thi, sau đó y làm tờ
cáo thị, cho dân biết rằng : “Bản chức ra Bắc Kì cốt để dẹp cho yên
giặc giã và để mở mang việc buôn bán”.
Gần nơi trú đóng và kho chứa hàng, cất giữ súng đạn của
Đuy-puy xảy ra đám cháy. Đuy-puy báo cáo với Gác-ni-ê là quan
chức Hà Nội ngầm cho người thiêu hủy những kho chứa hàng này.
Gác-ni-ê liền cho thủ hạ đi điều tra nhưng không tìm thấy chứng cớ
gì để quy trách nhiệm cho chức quyền Hà Nội về những đám cháy.
Đồng thời Gác-ni-ê gửi thư yêu cầu cầu Nguyễn Tri Phương phải trả

12


tự do ngay cho trưởng đồn canh đã mở cổng thành Hà Nội cho
Gác-ni-ê đi vào khi chưa có lệnh của cấp trên.
Nguyễn Tri Phương không đáp ứng yêu cầu của Gác-ni-ê và
theo lệnh của triều đình Huế, Nguyễn Tri Phương yêu cầu Gác-ni-ê
phải thi hành nhiệm vụ trục xuất đoàn người đi buôn Đuy-puy, còn
vấn đề tự do thông thương buôn bán thì cần phải chờ kết quả của
cuộc hội nghị giữa triều đình Huế và chính quyền Pháp ở Sài Gòn.
Triều đình Huế khi nghe tin Gác-ni-ê khiêu khích ở Hà Nội đã
đối phó lại nhưng rấy yếu ớt. Trần Đình Túc được cử ra Bắc đã cách
chức một số quan lại ở Hà Nội, ra bố cáo cấm nhân dân buôn bán,
giao thiệp với Pháp, vạch rõ trách nhiệm của Gác-ni-ê ra Bắc chỉ là

để xử lí và đuổi tên Đuy-puy, việc xong là phải rút. Nhân dân Hà
Nội đã chấp hành nghiêm chỉnh lệnh bất hợp tác của triều đình.
Quân Pháp ở thành Hà Nội lâm vào tình trạng nguy khốn. Các giếng
nước bị bỏ độc, ban đêm luôn sợ bị tấn công, nhiều kho thuốc súng
bị đốt cháy.
Để làm áp lực, Gác-ni-ê cho dàn quân trước thành và cho Đuypuy đưa thủ hạ đến bố trí trước một cửa thành khác. Ngày 9 tháng
11 năm 1873, Gác-ni-ê cử tàu Mang Hào đi gọi số quân đang nhổ
neo ngoài Cửa Cấm, đồng thời xin thêm viện binh của chính quyền
Pháp ở Sài Gòn và chính quốc. Nguyễn Tri Phương đã chịu trả tự do
cho trưởng đồn canh. Nhưng sau khi nhận được viện binh từ Sài
Gòn và Hương Cảng, Gác-ni-ê tự tuyên bố mở đường sông Hồng để
chuyên chở hàng hóa và buôn bán, thiết lập chế độ thuế quan mới,
dẫu cho phía quan quân triều đình có thuận hay không cũng mặc, cứ

13


theo lệnh của Súy phủ mà thi hành. Mặt khác, Gác-ni-ê bàn bạc với
Đuy-puy định ngày đánh thành và bắt Nguyễn Tri Phương giải vào
Sài Gòn. Sáng ngày 19 tháng đó, hắn đưa tối hậu thư buộc tổng trấn
thành Hà Nội là Nguyễn Tri Phương phải giải tán quân đội, giao
nộp thành, khai phóng sông Hồng. Không đợi trả lời, sáng sớm ngày
20 tháng 11 năm 1873, y ra lệnh nổ súng tấn công thành Hà Nội.
Lực lượng:
Thành Hà Nội là một thành lũy kiên cố, được xây dựng 70 năm
trước (từ thời vua Gia Long). Thành có hình chữ nhật, mỗi chiều dài
chừng nửa dặm, tường thành xây bằng đất, được gia công bằng
gạch, thành có năm cửa, trấn bởi hai tháp canh. Bao quanh thành là
một hào nước rộng, mỗi cửa được nối với bên ngoài bằng một cây
cầu, nhưng các cầu này không phải là cầu treo, nên con hào này

không có tác dụng ngăn cản.
- Về phía quan quân triều đình:
Trong thành đóng một số lượng lớn binh lính, đông tới 7.000
người, nhưng họ được tranh bị hết sức thô sơ, đa phần là gươm và
giáo, súng ống thiếu một cách trầm trọng, kĩ thuật bắn rất kém vì từ
lâu việc luyện tập đã bị sao nhãng.

14


Trang bị của quân triều đình (baodatviet.vn)
Một số được trang bị súng hỏa mai nhưng không được huấn
luyện để sử dụng. Trên mặt thành đâu đó có đặt súng thần công,
nhưng chúng lại là của hiếm, đến mức chúng được bố trí không phải
để phát huy hỏa lực mà để tránh mưa làm hư hại. Đã thế, việc tích
cực chuẩn bị mọi mặt để phòng bị trước sự tráo trở của Pháp cũng
không được chú ý đúng mức.
-Về phía nhân dân: Đón trước âm mưu xâm lược của địch, nhân
dân chủ động đốt phá kho đạn của Pháp ở bờ sông, chuẩn bị lực
lượng và vũ khí để chiến đấu.
-Về phía thực dân Pháp:
Riêng số quân của Gác-ni-ê gồm cả quân Pháp và quân ngụy
chỉ có 212 tên kể cả lính chiến và lính thợ. Còn vũ khí cũng rất ít,
ngoài số súng tay có hạn, chỉ có 11 khẩu đại bác, hai tàu chiến và
một tàu đổ bộ. Cộng với thuộc hạ của Đuy-puy gồm có 10 người
Âu, 30 người Á, 150 lính đánh thuê Vân Nam và một số lính Cờ
vàng.

15



Trang bị của lính Pháp (diepdoan.violet.com.vn)
Gác-ni-ê chuẩn bị đánh chiếm thành Hà Nội sau khi thấy những
yêu sách của mình không đe dọa được Nguyễn Tri Phương.

Gác-ni-ê (thanglonghanoi.gov.vn)

16


Ngoài ra, ngày 18 tháng 11, một đầu lĩnh của nhà Hậu Lê (tàn
dư ở vùng Thanh Hóa) đến gặp Gác-ni-ê tình nguyện làm nội ứng
trong thành Hà Nội để ám sát Nguyễn Tri Phương và đặt 2.000
thuộc hạ nằm vùng tại Hà Nội, dưới quyền chỉ huy của Gác-ni-ê và
Đuy-puy.
Diễn biến:
Sáng ngày 19-11-1873, Gác-ni-ê gửi tối hậu thư cho Tổng trấn
thành Hà Nội là Nguyễn Tri Phương đòi nộp thành. Cùng ngày,
Gác-ni-ê cùng Đuy-puy lên kế hoạch đánh thành Hà Nội, theo đó
thì:
Từ 6 giờ sáng ngày 20 tháng 11,các pháo thuyền Scorpion và
Espignole dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Balny đ’ Avricourt
bắt đầu pháo kích vào hai cửa thành phía Bắc và phía Đông cùng
các cơ sở trong chính quyền Hà Nội ; đặc biệt tập trung pháo kích
hướng về doanh trại chỉ huy của Tổng đốc Nguyễn Tri Phương,
dinh phủ của Tổng đốc Hà Nội và cột cờ. Tới 6:30 quân Pháp ngừng
pháo kích.

17



Thuyền trưởng Balny đ’ Avricourt
(vi.wikipedia.org)

Gác-ni-ê cùng phụ tá De Trentinian chỉ huy 25 thủy bộ binh với
hai khẩu sơn pháo, phối hợp với thủy binh của phó thuyền trưởng
Esmez tấn công cửa thành số hai (phía Nam). Và sẽ bắt liên lạc với
quân của Bain cùng với hai phụ tá Hautefeuille và Perrin sau khi
cánh quân này tấn công phá cửa thành số một (phía Đông). Cả hai
toán quân này tổng cộng có 90 người.
Đuy-puy bố trí quân và thủ hạ của mình sát gần cửa thành phía
Đông trong giai đoạn bắn phá của hai pháo thuyền. Ngay sau khi
ngưng pháo kích, toán binh lính đánh thuê Vân Nam và các thủ hạ
của y sẽ chiếm đóng lầu canh hình bán nguyệt nơi cửa thành phía

18


Đông rồi đóng chốt ở phía Bắc, chặn đường rút lui tháo chạy của
quan binh triều đình.
Không đợi trả lời, từ lúc 5 giờ sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873,
lực lượng phối hợp do Gác-ni-ê và Đuy-puy chỉ huy chuẩn bị lần
cuối trước khi đánh thành Hà Nội.

Pháo thuyền bắn yểm trợ cho quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội
(vi.wikipedia.org)
Đúng 6 giờ sáng, trên sông Hồng từ khoảng cách 1.200 m, với
lực lượng chừng 300 quân và 11 khẩu đại bác đặt trên hai pháo
thuyền, thực dân Pháp bắt đầu nã pháo vào thành Hà Nội, tới 6: 30
cuộc pháo kích ngưng.

Toán quân của Đuy-puy chiếm đóng cổng thành phía Bắc, trong
khi đó đích thân Đuy-puy chỉ huy một toán quân chiếm đóng lầu
canh hình bán nguyệt và mở cổng thành.

19


Thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội.
(vn.myblog.yahoo.com)
Đội quân đặc nhiệm của Gác-ni-ê chia làm hai cánh : cánh quân
thứ nhất do phó thuyền trưởng Bain de la Coquerie chỉ huy 30 binh
sĩ kèm theo một khẩu sơn pháo lấy từ tàu chiến Decrés kéo tới dàn
trận trước cổng thành phía Tây-Nam để nghi binh, giả tấn công vào
mặt này nhằm đánh lạc hướng quan binh trong thành. Cánh quân
thứ hai gồm có 27 thủy bộ binh do chuẩn úy Trentinian chỉ huy và
một đội thủy quân biệt phái 29 người, do phó thuyền trưởng Esmez
chỉ huy, cùng với 3 khẩu trọng pháo và 19 binh sĩ trù bị của tàu
Decrés, có nhiệm vụ tấn công vào thành từ cửa Đông - Nam. Trại
đóng quân ở Trường Thi do 10 binh sĩ canh giữ dưới quyền chỉ huy
của kĩ sư Bouille.
Gác-ni-ê dẫn đầu toán quân thứ hai tấn công mặt Đông - Nam.
Tháp canh mặt này bị chiếm ngay sau khi cổng thành bị phá vỡ,

20


toán quân của Gác-ni-ê tràn vào mà chỉ gặp những kháng cự yếu ớt
không gây thiệt hại đáng kể.

Chiến trường Hà Nội1873 (diepdoan.violet.com.vn)

Đích thân Nguyễn Tri Phương lên cửa thành phía Nam để trực
tiếp chỉ huy quân sĩ chiến đấu, ông bị trúng đạn ở bụng. Nhưng chỉ
sau một giờ giao chiến, quan binh triều đình tan rã, thành Hà Nội bị
quân Pháp chiếm.
Kết quả:
Tổng đốc thành Hà Nội là Nguyễn Tri Phương bị một thợ máy
của chiếc tàu Lào Kay là Dillốre bắt giữ rồi giao cho Gác-ni-ê, thực
dân Pháp cố tình cứu chữa để mua chuộc, ông đã xé băng, nhịn ăn
mà chết.

21


Nguyễn Tri Phương (1800 – 1873)
(Lịch sử 11 Nâng cao, trang 231)
Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng bị trúng đạn chết. Quan khâm sai
Phan Đình Bình bị bắt làm tù binh. Trong số những người bị thực
dân Pháp bắt tại trận có cả hai người con trai của Phan Thanh Giản
là Phan Tôn và Phan Liêm. Đặng Siêu, lãnh binh Nguyễn Đăng
Nghiễm bị quân Pháp bắt rồi đem xuống tàu giải về Sài Gòn cùng
hai người con của Phan Thanh Giản. Hơn 2.000 quân triều đình bị
bắt làm tù binh. Về phía quân Pháp, chỉ có một lính đánh thuê Vân
Nam bị chết do một sĩ quan Pháp bắn nhầm.
Sau khi chiếm xong thành Hà Nội, tranh thủ lúc triều đình Huế
còn đanh hoang mang, tự hãm minh trong thế bị động thương

22


thuyết, quân Pháp nhanh chóng mở cuộc đánh chiếm các thành lân

cận Hưng Yên (23-11), Phủ Lí (26-11), Hải Dương (3-12), Ninh
Bình (5-12), Nam Định (12-12).

Thực dân Pháp đánh thành Hải Dương(3-12-1873)
(vi.wikipedia.org)

23


Quân Pháp hạ thành Ninh Bình

Quân Pháp hạ thành Nam

Định
(4-12-1873), (diepdoan.violet.vn)

(12-12-1873), vi.wikipedia.org)

Như vậy, chỉ trong vòng không đầy một tháng, do sức kháng
cự yếu ớt của quan quân triều đình, nhiều tỉnh thành lớn nhỏ ở Bắc
Kì đã bị quân Pháp chiếm đóng.
3. Kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì.
Mặc dù thành Hà Nội bị chiếm, quan quân triều đình tan rã,
nhưng nhân dân vẫn tiếp tục kháng chiến.

24


Tại Hà Nội, ngay từ phút đầu khi giặc nổ súng đánh chiếm
thành Hà Nội, quân dân ta đã chống trả quyết liệt.

Tại cửa Ô Thanh Hà, dưới sự chỉ huy của viên Chưởng cơ,
khoảng 100 binh lính triều đình đã chiến đấu và hi sinh đến người
cuối cùng (sau này Ô Thanh Hà được đổi tên thành Ô Quan
Chưởng).

Cửa Ô Quan Chưởng (Hà Nội) thế kỉ XIX
(Lịch Sử 11 Nâng cao, trang 231)
Sau khi thành Hà Nội thất thủ, nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục
chiến đấu, dưới sự chỉ huy của một số văn thân sĩ phu yêu nước. Tú
tài Phạm Lý tổ chức những người trong huyện Thọ Xương đánh
giặc nhưng không đạt kết quả. Ở Hà Nội một số tổ chức mang tên
Nghĩa Hội được thành lập bao gồm các nhà nho, những người lao
động, buôn bán… và cả một số người làm công cho Pháp chuyên lo

25


×