Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Tổng quát hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.03 KB, 76 trang )

Chương 1: Tổng quát chung về hoạt động xuất khẩu hàng
hóa:
1.1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa:
Xuất khẩu hàng hóa là việc bán, cung cấp hàng hóa dịch vụ
cho bên nước ngoài trên cơ sở dung tiền tệ làm phương tiện thanh
toán.Không chỉ là những hoạt động mua bán thông thường mà
hoạt động xuất khẩu đòi hỏi sự tham gia của các chủ thể mang
quốc tịch khác nhau, hoạt động xuất khẩu không chỉ đơn thuần
mang lại lợi nhuận cho một hay một vài chủ thể tham gia vào hoạt
động này mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia. Hoạt động xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ,
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực sản xuất
trong nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2

. Các loại hình xuất khẩu hàng hóa

1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức mà nhà sản xuất giao dịch
trực tiếp với khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước
ngoài thông qua tổ chức của mình. Hình thức này thể hiện thông
qua: Đại diện bán hàng xuất khẩu; Chi nhánh bán hàng tại nước
ngoài.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là các nhà xuất khẩu trực
tiếp tiếp xúc với thị trường, tiếp cận được với khách hàng, nắm
bắt tình hình thị trường một cách trực tiếp từ đó đáp ứng nhanh
nhu cầu của khách hàng. Việc tiếp xúc trực tiếp với các thị trường
xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ tiếp thu kinh
nghiệm quốc tế, đồng thời với hình thức này các doanh nghiệp
xuất khẩu không phải chia sẻ quyền lợi của mình với các tổ chức
trung gian do đó có được lợi nhuận cao hơn.



1


Tuy nhiên hạn chế của thị trường này là doanh nghiệp xuất
khẩu sẽ phải chịu chi phí rủi ro lớn, cần có thời gian để thâm nhập
được thị trường, đồng thời thông tin về thị trường cũng có phần
hạn chế.
1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp: là hình thức khi doanh nghiệp thông qua
dịch vụ của tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến
hành xuất khẩu sản phẩm của nước mình ra nước ngoài. Trong
hình thức này doanh nghiệp có thể sử dụng các trung gian phân
phối như: công ty quản lý xuất khẩu, đại lý xuất khẩu, h•ng buôn
xuất khẩu…
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là: người mua bán hoặc
trung gian nắm rõ phong tục tập quán của thị trường do đó có khả
năng đẩy nhanh việc mua bán và giảm rủi ro cho các doanh
nghiệp xuất khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu cũng giảm được chí
phí thâm nhập thị trường do các tổ chức trung gian thường có sẵn
cơ sở vật chất, đồng thời doanh nghiệp xuất khẩu cũng sẽ có được
các thông tin về thị trường, về các đối thủ cạnh tranh thông qua
các tổ chức.
Nhược điểm của hình thức xuất khẩu này là: các doanh
nghiệp xuất khẩu không tiếp cận trực tiếp với thị trường, khách
hàng do đó ít có khả năng đáp ứng đúng các nhu cầu của khách
hàng tiềm năng. Bên cạnh đó doanh nghiệp xuất khẩu còn phải
đáp ứng các yêu sách của các tổ chức trung gian, phải chia sẻ lợi
nhuận với họ và cũng có thể bị họ lợi dụng về thông tin và vốn
mà mình cung cấp cho họ.

2


1.2.3 Buôn bán đối lưu
Là phương thức trao đổi trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu người bán đồng thời là người mua lượng hàng giao
đi và nhận về có giá trị tương đương.
Hình thức này thường được sử dụng khi các bên thiếu thị
trường, thiếu ngoại hối đặc biệt hình thức này cũng tránh cho các
doanh nghiệp được các rủi ro về ngoại hối
1.2.4 Tái xuất và chuyển khẩu
Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu
tạm thời hàng hoá từ bên ngoài vào, sau đó lại xuất khẩu sang một
thị trường thứ ba. Hình thức này có độ rủi ro lớn nhưng lợi nhuận
thu được cũng rất cao.
Chuyển khẩu là hình thức trong đó không có hành vi mua
bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu
kho b•i,…
1.2.5 Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá và dịch vụ có thể
chưa vượt qua ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của
nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng
hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, khách du lịch quốc tế…
Hoạt động này có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt được chi
phí bao bì, đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian
thu hồi vốn nhanh trong khi vấn có thể thu được ngoại tệ.
1.2.6 Gia công xuất khẩu:

3



Gia công quốc tế là một phương thức giao dịch kinh doanh
trong đó một bên (nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hay bán
thành phẩm của bên khác (bên đặt gia công) để chế biến ra thành
phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao gia công (phí
gia công). Trong đó những nước trình độ khoa học kỹ thuật còn
yếu, thiếu vốn, hạn chế về thị trường thường là những nước nhận
gia công còn các nước phát triển là những nước đặt gia công.
1.3 Vai trò & Lợi ích của việc xuất khẩu hàng hóa:
Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế là rất quan
trọng nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, xu thế toàn
cầu hoá, chuyên môn hoá sản xuất để tận dụng các lợi thế tuyệt
đối hay so sánh của mỗi quốc gia. Không chỉ có ý nghĩa về mặt
kinh tế hoạt động xuất khẩu còn có ý nghĩa quan trọng đối với
tình hình phát triển chung của một quốc gia.
+ Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ quan trọng
Ngày nay, việc dự trữ ngoại tệ nhất là các ngoại tệ mạnh là
điều rất quan trọng, vì trong quan hệ mua bán trên thị trường thế
giới hiện nay các nước đều sử dụng các ngoại tệ mạnh trong giao
dịch của mình. Trong điều kiện đất nước đang trong tiến trình
CNH - HĐH đất nước hiện nay thì nguồn thu ngoại tệ là rất quan
trọng vì ta có thể nhập khẩu các máy móc thiết bị công nghệ hiện
đại từ nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu phục vụ quá
trình CNH - HĐH đất nước. Đồng thời nguồn ngoại tệ có được sẽ
thoả m•n được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân và
góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
+ Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế so sánh
Trong xu thế chung của thế giới hiện nay là đang dần tiến tới
chuyên môn hoá trên phạm vi toàn thế giới thì việc khai thác được
4



lợi thế so sánh cuả mình là rất quan trọng. Đối với các nước đang
phát triển việc phát huy lợi thế so sánh của mình về giá nhân công
rẻ, về nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào là hết sức quan trọng
để bước đầu hội nhập với nền kinh tế thế giới. Xuất khẩu giúp 1
quốc gia khai thai thác có hiệu quả hơn các lợi thế của mình, phát
huy các lợi thế của quốc gia mình.
+ Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
định hướng sản xuất
Ngày nay, cùng với xu thế chung của các nền kinh tế, các
quốc gia ngày càng nhận thức rõ vai trò của hoạt động xuất khẩu
đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia mình. Sự chuyên biệt
hoá các ngành sản xuất để phục xuất khẩu phù hợp với lợi thế của
quốc gia mình đ• giúp các quốc gia có định hướng chiến lược đối
với các ngành sản xuất trong nước. Đây là một điều có ý nghĩa
quan trọng bởi lẽ việc lựa chọn các ngành sản xuất để có thể phát
huy lợi thế của quốc gia mình không phải là việc dễ làm và không
ít quốc gia đ• có những bước đi sai lầm trong việc hoạch định
chính sách phát triển kinh tế của quốc gia mình. Định hướng vào
các ngành sản xuất có lợi thế sẽ dần dẫn tới việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, nâng cao dần tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế
biến phục vụ xuất khẩu mang lại nguồn thu lớn từ hoạt động xuất
khẩu.
+ Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo thu
nhập và nâng cao mức sống của nhân dân
Để tập trung phát triển sản xuất phục vụ cho xuất khẩu thì
cần phải gia tăng lao động, để xuất khẩu có hiệu quả tăng được
khả năng cạnh tranh thì cần tận dụng lợi thế về lao động, hạn chế
được tỷ lệ thất nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, việc mở

rộng hoạt động xuất khẩu thường đi kèm với các việc xuất hiện
các khu công nghiệp các khu chế xuất. Các khu công nghiệp và
chế xuất đ• thu hút không chỉ các nhà xuất khẩu trong nước mà cả
5


các nhà đầu tư nước ngoài tham gia để tạo ra sản phẩm xuất khẩu
ra thị trường trên thế giới. Thực tế cho thấy việc mở rộng hoạt
động của các khu này đ• thu hut được một lượng lớn lao động ở
các địa phương, nhất là lao động dư thừa vào mùa nông nhàn.
Không những tạo việc làm cho người lao động mà hoạt động xuất
khẩu còn tăng thu nhập cho họ, giúp họ nâng cao chất lượng cuộc
sống.
+ Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của hàng hoá trong
nước trên thị trường thế giới, nâng cao vị thế của một quốc gia
trên trường quốc tế
Để có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu và không ngừng
nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thì đòi hỏi các nhà sản
xuất luôn phải biết tận dụng các lợi thế của mình đồng thời cũng
luôn phải đổi mới công nghệ, trang thiết bị phục vụ sản xuất để
tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao thì mới tăng được khả
năng cạnh tranh hàng hoá của trên thị trường thế giới. Chính sự
đầu tư đó sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao
có được lòng tin từ khách hàng trên khắp thế giới và tạo được chỗ
đứng trên thị trường thế giới. Việc các sản phẩm xuất khẩu có
chất lượng cao có được lòng tin từ phía khách hàng cũng là một
hình thức các quốc gia quảng cáo về quốc gia mình, giới thiệu về
quốc gia mình và với những sản phẩm chất lượng cao, có uy tín
các quốc gia sẽ nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
+ Hoạt động xuất khẩu mở rộng khả năng sản xuất và tiêu

dùng của một nước
Trong điều kiện sản xuất cố định
Đường ee là đường giới hạn khả năng sản xuất. Trên mỗi
điểm của đường ee, nền kinh tế sản xuất và tiêu dùng một khối
lượng x hàng hoá X và hàng hoá Y.

6


- Nếu một nước không có hoạt động xuất khẩu, nền kinh tế
chỉ được tiêu dùng số lượng hàng hoá sản xuất ra. Khi ấy, đường
giới hạn khả năng sản xuất cũng là đường giới hạn khả năng tiêu
dùng.
- Nếu một nước có hoạt động xuất khẩu. Giả sử nền kinh tế
sản xuất ở điểm a và hàng Y có thể đổi lấy hàng X qua con đường
xuất khẩu. Khả năng tiêu thụ bây giờ được biểu hiện bằng đường
thị trường đi qua điểm a. Độ dốc của đường thị trường chỉ ra
lượng hàng Y đổi lấy một đơn vị hàng hoá X trên thị trường thế
giới. Mặc dù sản xuất cố định ở a (một khối lượng x hàng X và y1
hàng hoá Y) mức tiêu dùng có thể ở bất kỳ điểm nào trên đường
thị trường.

(Biểu đồ 1)
Y
e

Đường giới hạn khả năng sản xuất
t

y1


a

y2

b

0

x1

e

x2

Biểu đồ 1
7

t

x


1. Trong điều kiện thay đổi
1.

Một cơ hội khác để mở rộng khả năng tiêu dùng của đất nước
thông qua xuất khẩu hàng hóa, đó là, lượng hàng hoá sản xuất
ra có thể thay đổi một cách có lợi dựa trên cơ sở giá cả trên thị
trường thế giới. Một nước có thể sản xuất ra những sản phẩm

hàng hoá có giá trị trên thị trường thế giới.
Nếu thay đổi điểm sản xuất từ a sang c bằng cách tăng mức
độ chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm Y. Tại điểm c, sản xuất
khối lượng x3 phẩm và y3 sản phẩm Y. Và hàng Y có lợi khi đổi
lấy hàng hoá X qua con đường xuất khẩu. Khả năng tiêu thụ bây
giờ được biểu thị bằng đường t't' qua điểm c. Độ dốc của đường
t't' chỉ ra lượng hàng Y đổi lấy một đơn vị hàng hoá X trên thị
trường thế giới. Cũng như bất kỳ điểm nào trên đường biểu diễn
khả năng tiêu dùng thị trường (khi có hoạt động xuất khẩu), cũng
có điểm tiêu dùng d trên đường t't' cho phép tiêu dùng nhiều hơn
cả hai loại sản phẩm (so sánh điểm b trên đường thị trường và
điểm d trên đường t't').

8


(Biểu đồ 2)

Y
t'
e
y3

c

t
d

y1
a

y2
b
x3
x1 e x2 t
Lợi ích của việc chuyển đổi từ tình trạng không có hoạt
động xuất khẩu (a), sang tình trạng ngoại thương (b) hay (d) là
những lợi ích của hoạt động ngoại thương đối với một quốc gia.
Khi việc sản xuất sản phẩm Y tăng lên cà sản phẩm X giảm
xuống, một quốc gia có thể chuyển tới những điểm như điểm (d)
bằng cách sản xuất nhiều hàng hoá Y là loại hàng mà quốc gia đ•
có lợi thế so sánh và đổi lâý sản phẩm bổ sung của hàng hoá X
qua hoạt động xuất khẩu.
+ Các nước có nền kinh tế quy mô nhỏ có thể và có lợi khi
tham gia hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá trong một nền kinh tế quy mô nhỏ.
9


P

S0
p1

E3

E1

p2

E2

E0
D0
D1

Biểu đồ 3
Hàng xuất khẩu của một nền kinh tế quy mô nhỏ là sự khác
nhau giữa hàng cung và cầu trong nước tính theo giá quốc tế.
Trên biểu đồ: D0 và S0 là đường cầu và đường cung trong
nước với một hàng hoá xuất khẩu điển hình. Sự cân bằng tự cung
tự cấp sẽ là điểm Eơ0 khi mà lượng hàng q0 được sản xuất và tiêu
thụ trong nước với giá p0.
Nếu hoạt động xuất khẩu xảy ra ở mức gia p1 (p1 > p0) sự
cân bằng tiêu dùng sẽ là E1 với lượng tiêu dùng q1, trong khi cân
bằng sản xuất ở E2 với lượng sản xuất q2. Sự chênh lệch giữa sản
xuất và tiêu dùng trong nước q2 - q1 sẽ được xuất khẩu.
Nếu nhu cầu trong nước chuyển sang Dơ1, sự cân bằng tiêu
dùng trong nước chuyển sang E3 với lượng tiêu dùng q3. Với
mức sản xuất trong nước không đổi E2 lượng hàng xuất khẩu q2 q3 sẽ tăng lên.
10


+ Hoạt động xuất khẩu là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế
Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất muốn phát triển sản
phẩm phải được tiêu thụ. Hoạt động xuất khẩu ở một quốc gia có
ảnh hưởng tích cực đến phát triển kinh tế. Biểu hiện:
Một là, xuất khẩu đưa đến việc sử dụng có hiệu quả hơn các
nguồn lực trong nước. Có thể do nhu cầu không lớn của thị
trường trong nước và không có hoạt động xuất khẩu, ở một nước
có tình trạng sử dụng không hết nguồn lực. Nhờ có hoạt động

xuất khẩu, nước này có thể chuyển từ điểm sản xuất không hiệu
quả bên trong đường giới hạn sản xuất sang điểm sản xuất có hiệu
quả trên đường giới hạn sản xuất.
Hai là, việc mở rộng hoạt động xuất khẩu đ• tạo ra sự phân
công lao động hợp lý và có hiệu quả. Đây là điểm quan trọng đặc
biệt đối với các đơn vị kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ. Phát huy lợi thế so sánh của mình các quốc gia sẽ
đào tạo đội ngũ cán bộ, đội ngũ lao động cho phù hợp từ đó dẫn
tới việc phân công lao động trên phạm vi toàn thế giới.
Ba là, hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện chuyển dịch quốc tế
công nghệ mới, phương pháp tổ chức kinh doanh mới… làm cho
hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Bốn là, thương mại quốc tế khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi cho đầu tư quốc tế. Trong trường hợp đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào một nước nào đó thì cùng với nguồn vốn nước
11


ngoài vào thường kèm theo kỹ thuật công nghệ mới, các chuyên
gia điều hành có kinh nghiệm tổ chức và quản lý kinh doanh.
Năm là, hoạt động xuất khẩu vũ khí chống độc quyền, bởi vì
chúng đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước tăng cường sức mạnh
kinh tế để đối phó cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài.
Có thể thấy rằng, hoạt động xuất khẩu đ• cung cấp, tạo những
điều kiện thuận lợi đối với quá trình phát triển kinh tế của một
quốc gia. Và trong xu thế thế giới hiện nay toàn cầu hoá, khu vực
khoá thì các quốc gia đều coi trọng phát triển thương mại quốc tế
nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Chương 2 : Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản Việt Nam sang thị trường EU

2.1 Tổng quan chung về thị trường nông sản EU
2.1.1 Khái quát về thị trường EU
Thị trường E.U (The European Union) là một thị trường
chung lớn nhất thế giới. Và trong tương lai gần đây thị trường
E.U sẽ ngày càng được mở rộng bằng cách hoà nhập các nền kinh
tế của các nước Đông Âu. Đây là một khối thị trường chung, thị
trường E.U phát triển vượt xa khỏi những hiệp định mậu dịch tự
do giữa các thành viên. Đây là một liên hiệp về hải quan và tiền
tệ, cho phép hàng hóa, dịch vụ, con người và vốn được di chuyển
một cách tự do điều hành bởi các định chế chung (Ủy Ban Châu
Âu, Nghị viện Châu Âu…), các hệ thống quy định luật lệ mang
tính hoà hợp chung và các chính sách phù hợp nhất. Tuy nhiên
12


E.U cũng là một thị trường bao gồm nhiều thị trường khác nhau.
15 nước thành viên, 15 khối dân số, văn hoá, kinh tế khác nhau….
Mặc dù chúng ta nói về E.U như một thị trường chung, tuy nhiên
chúng ta cũng cần phải quan tâm đến từng đặc điểm tính chất của
từng thị trường trong các quốc gia thành viên.
2.1.2 Một số đặc điểm chung về thị trường hàng hóa EU
2.1.2.1 Về tập quán và thị hiếu tiêu dung
EU là một thị trường rộng lớn. Thị trường EU thống nhất cho
phép tự do di chuyển sức lao động, hàng hóa dịch vụ và vốn giữa
các thành viên.
Mỗi quốc gia thành viên của EU lại có những đặc điểm tiêu
dung riêng. Do vậy có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất
đa dạng, phong phú về hàng hóa, dịch vụ. Trên thực tế có những
loại hàng hóa rất được ưa chuộng ở thị truuwòng Pháp, Italy, Bỉ
nhưng lại không được người tiêu dùng ở Anh, Ailen, Đan Mạch,

Đức đón chào. Giữa Eu cũ và các thành viên mới cũng có những
sự khác biệt về thị hiếu tiêu dùng. Tuy có sự khác biệt về thị hiếu
tiêu dùng giữa các thị trường các quốc gia trong khối EU nhưng
các quốc gia nằm trong khu vực Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu có
những đặc điểm tương đồng về kinh tế văn hóa. Trình độ về kinh
tế, văn hóa, xã hội các nước thành viên khá đồng đều, cho nên
người dân thuộc khối EU có những đặc điểm chung về thói quen
sở thích trong tiêu dùng. Điển hình như : đối với hàng may mặc
và giày dép, người dân Áo, Đức, Hà Lan chỉ mua hàng may mặc,
13


giày dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ(azodyes).
Khách hàng EU đặc biệt quan tâm đến chất lượng và thừoi trang
của 2 loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang có ý nghĩa
quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đối với hàng giầy dép,
người tiêu dùng EU có xu hướng đi giầy vải. Xu hướng này càng
tăng lên, tỷ lệ với nhu cầu tiêu dùng giầy dép tăng lên hàng năm
của EU.Hai mặt hàng này thay đổ nhanh chóng đặc biệt về mẫu,
mốt. Đối với hàng thủy sản, người tiêu dùng EU không mua
những loại hàng thủy sản nhập khẩu bị nhiễm độc do môi trường
hoặc do chất phụ gia không được phép sử dụng. Đặc biệt, mặt
hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường EU hiện nay đang bị rào
cản kỹ thuật rất khắt khe khống chế nên gặp rất nhiều khó khăn.
Gần đây nhất Eu quy định dư lượng kháng sinh đối với tôm xuất
khẩu vào EU là 0%, một quy định mà không một nước nào có thể
đạt được.
Đặc biệt, người dân EU có sở thích tiêu dùng và thói quen sử
dụng các loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thê giới. Họ
cho rằng những nhãn hiệu này sẽ gắn với chất lượng sản phẩm và

có uy tín lâu đời, cho nên khi dùng sản phẩm mang nhãn hiệu nổi
tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng.
Vì vậy, trong nhiều trường hợp, mặc dù giá cả rất đắt nhưng họ
vẫn mua và không thích chuyển sang tiêu dùng những sản phẩm
không nội tiếng khác cho dù giá rẻ hơn rất nhiều.

14


2.1.2.2 Về kênh phân phối của liên minh châu âu
Hệ thống kênh phân phối của EU về cơ bản cũng như hệ
thống kênh phân phối của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn
và bán lẻ. Tuy nhiên, hệ thống này là một trong những hệ thống
kênh phân phối phức tạp nhất hiện nay trên thế giới, với sự tham
gia của rất nhiều thành phần: công ty xuyên quốc gia, hệ thống
các của hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập… trong số đó
nổi bật lên là vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Các công ty
này thường phát triển theo mô hình chiều ngang, gồm ngân hàng
hoặc công ty tài chính, nhà máy, công ty thương mại, các cửa
hàng.
Với sự hiện diện của các công ty ( hoặc tập đoàn) xuyên quốc
gia này, hệ thống phân phối của EU trở thành một tổ hợp rất chặt
chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Hai hình thức tổ chức phổ biến nhất
của các kênh phân phối trên thị trường EU là: theo tập đoàn và
không theo tập đoàn.
Theo kênh phân phối theo tập đoàn, các nhà sản xuất hoạc
nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hóa cho hệ thống
các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp cho
hệ thống bán lẻ bên ngoài. Ngược lại, trong kênh phân phối không
theo tập đoàn, các nhà sản xuất và nhập khẩu của một tập đoàn có

thể cùng lúc cung cấp hàng hóa cho hệ thống bán lẻ của nhiều tập
đoàn và các công ty bán lẻ độc lập khác.

15


Thông thường các siêu thị hoặc công ty bán lẻ độc lập trên thị
trường EU không mua bán hàng trực tiếp từ các nhà sản xuất
nước ngoài mà thường thông qua các “nhà bán buôn”-là các trung
tâm thu mua lớn của EU(xem bảng). Mối quan hệ bạn hàng này
không phải là ngẫu nhiên mà chủ yếu là vì những ràng buộc trong
quan hệ tín dụng, hoặc do mua cổ phần của nhau, do đó thương là
những quan hệ khá bền vững và lâu dài . Hơn nữa theo quan điểm
của các nhà phân phối châu Âu, mối quan hệ như vậy còn đảm
bảo sự ổn định nguồn hàng và chất lượng hàng, nhờ đó họ có thể
giữ được chữ tín với khách hàng-mục tiêu hàng đầu mà các nhà
kinh doanh EU luôn hướng tới. Kiểu liên kết này trong hệ
thốngkênh phân phối EU đã tạo nên những chuỗi mắt xích chặt
chẽ được gắn với nhau bằng các hợp đồng kinh tế, mà việc tiếp
cận và trở thành một trong các mắt xích đó không dễ dàng với các
nhà xuất khẩu Việt Nam vốn chỉ quen làm ăn chộp giật và theo
từng hợp đồng riêng biệt.
Các trung tâm thu mua lớn tại EU
2.1.3 Chính sách ngoại thương của Liên Minh Châu Âu
Đặc điểm cơ bản nhất trong chính sách ngoại thương của EU
là tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách
ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. Ủy ban châu Âu
(EC) là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong việc đàm
phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp
trong lĩnh vực này, buôn bán trong nội bộ khối EU được miễn

16


hoàn toàn thuế hải quan và các thủ tục xuất nhập khẩu khác. Liên
minh châu Âu thực sự là một không gian kinh tế thống nhất và
mô hình “nhà nước Châu Âu” đang trở thành hiện thực, đặc biệt
khi hầu hết các nước thành viên sử dụng chung một đồng tiền.
Chính sách ngoại thương của EU bao gồm chính sách thương
mại tự trị(AUTONOMOUS Commercer) và chính sách thương
mại chung dựa trên nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh
bạch, có đi có lại, và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được
áp dụng phổ biến trong chính sách ngoại thương của Liên minh
Châu Âu là thuế quan, hạn chế về số lượng, hang rào kỹ thuật,
chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Về các quy chế nhập khẩu chung, để đảm bảo cạnh tranh
công bằng trong thương mại quốc tế, EU thực hiện các biện pháp:
chống bán phá giá (ANTI-dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và
chống hàng giả. EU đã ban hành chính sách chống bán phá giá và
áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán phá giá” để đấu tranh với tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh và bất bình đẳng trong buôn
bán với các nước ngoaì liên minh. Bên cạnh đó, các biện pháp
chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập khẩu
những hàng hóa được sao chép lậu và đánh cắp bản quyền.
2.1.4 Chính sách thương mại đối với mặt hàng nông sản
của EU
Các công cụ chính sách thương mại trong lĩnh vực nông
nghiệp được áp dụng tùy thuộc vào tình hình thị trường của từng
17



sản phẩm cụ thể. Tuy nhiên các hình thức chính là thuế linh hoạt,
thuế nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu và ứng trước vốn. Nếu giá cả
thị trường bên ngoài còn cao hơn giá cả trên thị trường EU thì
xuất khẩu có thể bị đánh thuế, nhập khẩu sẽ được trợ cấp.
Đối với hầu hết các mặt hàng nông sản được nhập khẩu từ
bên ngoài, không xây dựng biểu thuế cố định mà thường áp dụng
các mức thuế quan linh hoạt nhằm đảm bảo cho các nhà sản xuất
được hưởng những mức giá cao hơn giá thị trường thế giới.Các
mức thuế được tính bằng chênh lệch giữa giá CIF nhập khẩu, kể
cả chi phí vận chuyển trong EC, và làm cho mức cung của thế
giới tăng đến các mức giá mục tiêu. Trong trao đổi với các nước
không phải là thành viên, chế độ giấy phép được áp dụng, cả
những người xuất khẩu đều phải xin giấy phép tiến hành các giao
dịch.
Đối với nhập khẩu thì EC không áp dụng các hạn chế vêg số
lượng. Thay vào đó là các thỏa thuận về hạn chế xuất khẩu tự
nguyện được ký kết với các nước không phải là thanh viên trong
đó các nước này cam kết rằng xuất khẩu của họ vào EC sẽ không
vượt quá giới hạn quy định. Ngoài ra còn có các điều khoản cho
phép EC, trong những trường hợp ngoại lệ, áp dụng bất kỳ biện
pháp nào nhằm bảo vệ thị trường cộng đồng một khi xảy ra những
rối loạn nghiêm trọng.
Ứng trước vốn là công cụ chủ yếu hỗ trợ XK, nhằm đảm bảo
cho sản phẩm của EC có tính cạnh tranh cao. Những người sản
18


xuất được ứng trước vốn với quy mô bằng chênh lệch mức giá nội
địa ( bao gồm cả chi phí chuyên trở hàng hóa đến cảng) và giá
bán trên thị trường thế giới. Ngoài ra mức vốn ứng trước còn phụ

thuộc vào việc hàng hóa bán đi đâu và vào hoàn cảnh cụ thể.Các
mức vốn ứng trước là thống nhất cho toàn bộ cộng đồng và lấy từ
ngân sách nông nghiệp.
Tác động của các công cụ chính sách áp dụng đối với các sản
phẩm nông nghiệp được đánh giá như sau. Các mức thuế linh hoạt
có tác dụng hạn chế thương mại hơn so với thuế quan nhập khẩu
thông thường. Xét về mặt trung hạn hay dài hạn thì nước XK có
thể hạn chế tác động của thuế quan nhập khẩu bằng cách nâng
cao hiệu quả sản xuất tương đối, cắt giảm chi phí sản xuất. Điều
này không thể thực hiện được trong trường hợp thuế quan linh
hoạt bởi vì một khi giá chào hàng giảm xuống thì mức thuế linh
hoạt lại tự động tăng lên. Do đó bất chấp năng suất lao động tăng
lên, các nước XK tính gộp lại không thể gia tăng tỷ trọng của
mình trên thị trường EC, mặc dù tỷ trọng mỗi nước có thể thay
đổi.
Như vậy tác động của những công cụ chính sách ngoài EC
liên quan trực tiếp đến mức thuế linh hoạt và hình thức ứng trước
vốn cho XK. Các biện pháp này được áp dụng một cách tương
xứng đối với toàn bộ cộng đồng bất chấp có tình trạng dư thừa
hay thiếu hụt. Thuế linh hoạt sẽ có tác dụng hạn chế nhập khẩu
những mặt hàng có tình trạng dư thừa. Các mức thuế quan bảo hộ

19


này có thể biến động rất mạnh từ năm này sang năm khác vì
chúng phụ thuộc trực tiếp vào giá cả thế giới.
Nói một cách chung nhất, tác động trực tiếp của chính sách
bảo hộ nói trên là đem lại lợi ích cho các nhà sản xuất, còn người
tiêu dùng của EC bị đánh thuế. Tuy nhiên sự bảo hộ như vậy chỉ

là bề ngoài vì nó không chỉ phụ thuộc vào mức thuế linhhoạt và
ứng trước vốn XK. Mà còn các biện pháp chính sách nông nghiệp
khác. Đây là hình thức bảo hộ danh nghĩa vì các mức thuế linh
hoatj và ứng trước vốn cho XK còn phụ thuộc vào các yếu tố tiền
tệ và tỷ giá hối đoái. Do các mức nói trên được tính bằng tiền tệ
châu Âu (EUR) trong khi thế giới lại tính bằng USD nên khi USD
lên cao hơn so với EUR thì các mức đó giảm xuống. Vì vậy trên
thực tế các mức thuế linh hoạt và ứng trước vốn có thể tăng hay
giảm tùy thuộc vào tỷ giáhối đoái mà không cần đến sự biến động
danh nghĩa của cả thế giới.
Cơ chế giá cả và kiểm soát đối với từng sản phẩm cũng có tác
động đến quan hệ thương mại đến các nước ngoài EC. Lý do là vì
chúng ảnh hưởng không chỉ đến các mức thuế quan linh hoạt và
ứng trước vốn mà còn tới số lượng, và từ đó tới nhu cầu nhập
khẩu và lượng hàng hóa dành cho XK. Do các cơ chế kiểm soát
nói trên là mức giá nội địa cao hơn so với mức giá trên thị trường
thế giới cho nên sản xuất có xu hướng gia tăng và tiêu dùng có xu
hướng giảm sút. Kết quả là nhập khẩu của EC có xu hướng giảm
xuống trong khimức cung XK tăng lên. Tuy mức giá chung cao

20


hơn mức giá thế giới, nhưng nhập khẩu lại có xu hhướng giá sút
vì tác động của các mức thuế quan lin hoạt, còn XK được khuyến
khích bởi cơ chế ứng trước vốn nên có xu hướng tăng lên.
2.1.5 Thị trường nông sản EU
Thị trường EU là một thị trường giàu tiềm năng đối với hàng
nông sản của VIệt Nam. Nhận định này dựa trên hai căn cứ sau
đây:

- Thứ nhất, tuy nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp của
thị trường EU chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập
khẩu của thị trường này, nhưng đó vẫn là một thị trường rất lớn,
các số liệu thống kê đều cho thấy rằng, bên cạnh việc vẫn đẩy
mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường thế giới,
nhưng để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của chính mình, EU
vẫn đẩy mạnh nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
- Thứ hai, với các định hướng phát triển nền nông nghiệp
hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và tăng cường tiềm
lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp…, đưa nhanh công
nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển
và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chúng ta sẽ nâng cao được chất
lượng và VSATTP của sản phẩm nông nghiệp.
Sự ra đời của Luật và các văn bản pháp luật bảo vệ môi
trường, cùng với những yêu cầu ngày càng cao của các thị trường
nhập khẩu về sản phẩm thân thiện với môi trường, ngành nông
nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng bảo vệ môi trường. Hiện
21


nay, ở nước ta các trang trại, các khu vực sản xuất hàng hóa lớn
theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hóa phù hợp với các tiêu chuẩn về chất lượng, VSATTP
và môi trường để đáp ứng nhu cầu của thị trường nhập khẩu còn
nhiều khó khăn. Nhiều tỉnh đang phát triển nuôi lợn xuất khẩu với
quy mô lớn: hệ thống chuồng trại và thức ăn đạt tiêu chuẩn, kỹ
thuất không có biến đổi gen chưa tốt lên làm hạn chế chất lượng,
phẩm cấp của sản phẩm.
Theo như phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, EU là một
thị trường xuất khẩu cực kỳ lớn đối với hàng nông sản Việt Nam,

nhưng chúng ta có khai thác được thị trường này và thị trường
nông sản thế giới nói chung hay không là tuỳ thuộc vào hai yếu tố:
Một là, phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường để tính toán khối
lượng nông sản sẽ sản xuất, và hai là, phải đáp ứng được những
yêu cầu ngặt nghèo về các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng nhập
khẩu đặc biệt là các quy định về chất lượng, VSATTP và môi
trường.
Sau nhiều năm nỗ lực mở rộng thị trường EU, nhưng năm
2002 hàng nông sản Việt Nam đã giảm thị phần so với các năm
trước, một phần là do một số mặt hàng nông sản mất giá quá mạnh
(cà fê, chè, hạt tiêu, gao,…) và phần khác là do những quy định quá
ngặt nghèo về các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng nông sản của
EU. Do đó, trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2005 trở đi Việt Nam
cần khôi phục thị trường này với hai nhiệm vụ quan trọng nhất là:

22


- Thứ nhất, căn cứ vào nhu cầu của thị trường EU để điều
chỉnh khối lượng hàng nông sản xuất khẩu, đặc biệt là đối với
những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như cà fê, hạt tiêu, gạo
và cao su…; đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu quả nhiệt đới, thịt gia
súc, gia cầm, và các loại thực phẩm chế biến khác.
- Thứ hai, về lâu dài là phải từng bước nâng cao chất lượng và
VSATTP của hàng nông sản Việt Nam, tạo ra nhiều nông sản thực
phẩm phù hợp với môi trường để đáp ứng được những đòi hỏi ngày
càng khắc khe của người tiêu dùng EU.
Làm tốt được các nội dung nói trên chúng ta đã nhanh chóng
triển khai, khôi phục thị trường EU đưa tổng kim ngạch xuất khẩu
có thể đạt 431,7 triệu USD tương đương với năm 1998, thậm trí đạt

500 triệu USD trong vài ba năm tới là có thể thực hiện được.
Thị trường EU có nhu cầu lớn đối với hàng nông sản xuất
khẩu của Việt Nam như đã nói trên và với ưu thế của hàng loạt
nông sản nhiệt đới, một khi đã đạt được những đòi hỏi về chất
lượng, VSATTP và môi trường cũng như các yêu cầu về tiêu chuẩn
kỹ thuật khác đối với hàng nhập khẩu, việc mở rộng thị trường EU
cho hàng nông sản Việt Nam có thể thực hiện được.
Theo chiến lược xuất khẩu của Bộ thương mại, dự báo triển
vọng xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường EU sẽ có hai
phương án sau:
- Phương án thấp, trên cơ sở đạt mức tăng trưởng bình
quân 11%/năm như trong giai đoạn 1996 - 2001 trên cơ sở đã hoàn
23


thành hoặc hoàn thành tốt việc khôi phục thị trường EU vào năm
2005 (đạt 430 - 500 triệu USD) như đã nói ở trên, thì kim ngạch
xuất khẩu hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường này sẽ đạt
khoảng 730 - 840 triệu USD vào năm 2010, tức là tăng khoảng
4,51 - 5,18 lần trong vòng tám năm tới.
- Phương án cao, đạt mức tăng trưởng bình quân 15%/năm
trên cơ sở đã đạt được 430 - 500 triệu USD vào năm 2005, thì kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường EU sẽ đạt khoảng
860 triệu USD đến 1 tỷ USD vào năm 2010, tức là sẽ tăng 5,31 6,17 lần trong vòng tám năm tới.
2.1.5 Những thách thức đối với Việt Nam trong xuất khẩu
hàng nông sản sang EU
Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU trong
những năm tới nhiều khả năng sẽ phải đối mặt với những thách
thức dưới đây:
- Thứ nhất, hệ thống các quy định hết sức ngặt nghèo về tiêu

chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá trong đó bao gồm: tiêu chuẩn chất
lượng, tiêu chuẩn về môi trường, tiêu chuẩn về VSATTP, tiêu
chuẩn an toàn cho người sử dụng, cũng như hàng loạt các biện
pháp và chế tài mà EU áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vi
phạm các biện pháp và chế tài mà EU áp dụng đối với hàng nông
sản nhập khẩu vi phạm các quy định của EU đối với hàng nông sản
nhập khẩu. Luật thực phẩm của EU nâng từ 10 chất kháng sinh bị
cấm năm 2002 lên 26 chất vào năm 2005. EU duy trì chính sách

24


"dư lượng = 0" đối với mười kháng sinh (năm 2005 là 26 kháng
sinh). Như vậy sẽ rất khó khăn đối với hàng nông sản thực phẩm
của Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường này.
Hiện EU đang hoàn thiện Quy trình GAP (Quy trình canh tác
nông nghiệp đảm bảo) và cũng đang xây dựng một nhãn hiệu duy
nhất cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ. Chính vì vậy mà trong
những năm tới, yêu cầu hàng nhập khẩu của thị trường EU sẽ là
hàng nông sản hữu cơ, tức là nông sản sạch (nông sản được sản
xuất theo quy trình GAP, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu và phân
hoá học,…). Hàng nông sản nhập khẩu vào thị trường này phải có
nhãn hiệu của thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ. EU sẽ sử dụng
GAP để kiểm soát dư lượng kháng sinh và thuốc trừ sâu có trong
hàng nông sản. EU cho rằng sản xuất nông nghiệp theo Quy trình
GAP không chỉ bảo vệ môi trường sinh thái, mà sản phẩm làm ra
còn đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và VSATTP.
Đối với các sản phẩm thịt gia súc, gia cầm phải tuân thủ Quy
đinh kiểm tra thú y. Quy định này sẽ ngày càng khó thực hiện vì
EU duy trì "dư lượng = 0" đối với 10 chất kháng sinh. Trong số 10

chất, có 7 chất gây ô nhiễm môi trường. Để đáp ứng được quy định
trên, sản phẩm thịt của Việt Nam phải tuân thủ rất nhiều chỉ thị của
Hôi đồng ủy ban Châu Âu, và các chỉ thị thường xuyên được EU
chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tế luôn biến đổi. Thêm
vào đó, thực phẩm chế biến còn phải tuân thủ Quy định chất phu
gia trong thức phẩm. Đây quả là một thách thức không nhỏ đối với
thực phẩm chế biến của ta xuất khẩu sang EU trong thời gian tới, vì
25


×