Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Bùng nổ dân số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.08 KB, 5 trang )

1- Sù bïng næ d©n sè:
Ngày 11/7, thế giới kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới, với chủ đề “Giới trẻ và sức
khỏe sinh sản”. Riêng chủ đề này cũng nói lên được mục tiêu trọng tâm cũng như niềm
kỳ vọng của thế giới dựa vào giới trẻ để cải thiện chất lượng dân số đang suy giảm
nghiêm trọng trên thế giới.
Hơn một nửa dân số thế giới ở độ tuổi dưới 25. Khoảng 3 tỷ trẻ em và những
người trẻ tuổi đang hoặc sẽ ở trong độ tuổi sinh đẻ nhưng do thiếu kiến thức, hiểu biết
nhất là ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thanh thiếu niên hầu như
không được trang bị kỹ năng sống và biết cách tự bảo vệ mình. Một nửa số ca nhiễm
HIV mới rơi vào giới trẻ. Mỗi ngày có 6.000 người nhiễm HIV ở lứa tuổi này và hàng
triệu thành niên khác đang phải sống trong đói nghèo, bị bóc lột và sống trong tuyệt
vọng bị xâm hại cả về thể xác lẫn tinh thần nhất là trẻ em gái. Dù đã có nhiều biện pháp
được tiến hành, song hiện vẫn có tới 218 triệu lao động trẻ em trên thế giới.
Hiện mỗi năm, dân số thế giới tăng thêm khỏang 78 triệu người, và cứ theo đà hiện
nay, đến năm 2050, sẽ có khỏang từ hơn 7 tỷ đến hơn 10 tỷ người trên trái đất. Tuy
nhiên, lại có đến 90% lượng dân số gia tăng lại ở các quốc gia đang phát triển; khiến
thế giới ngày càng đối mặt với nghịch lý đáng buồn là: các nước phát triển đối mặt với
tình trạng dân số già; còn các nước nghèo lại càng nghèo hơn do các nguồn lực không
đủ đáp ứng với số dân ngày càng phình to.
Tình trạng bùng nổ dân số và cuộc sống nghèo khó ở các nước đang phát triển đã làm
nảy sinh một xu hướng phổ biến là di cư. Theo báo cáo của Tổng thư ký LHQ Kofi
Annan, hiện gần 200 triệu người hiện đang sinh sống bên ngoài quê hương của họ, tăng
khoảng 25% kể từ năm 1990. Phần lớn người nhập cư tìm đường đến các nước giàu,
đứng đầu là châu Âu rồi đến Bắc Mỹ, châu Á. Di cư một mặt giúp cân bằng sự chênh
lệch giữa phát triển dân số và tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, mặt trái của di cư đang là vấn đề khiến cả thế giới, đặc biệt là châu Âu và
Mỹ phải đau đầu. Các vụ bạo lực bùng nổ tại Pháp khiến cả thế giới phải bàng hoàng
trước vấn nạn nhập cư. Người nhập cư, đặc biệt là thế hệ con cháu của người nhập cư,
lâm vào tình trạng nghèo khổ, bị phân biệt đối xử, không được học hành, không có cơ
hội tìm việc làm… và kết cục là bùng nổ xung đột.
Cùng với nạn nhập cư trái phép, thiên tai, dịch bệnh, xung đột đã khiến chất lượng dân


số càng suy giảm nghiêm trọng. Để nâng cao chất lượng dân số, không còn cách nào
khác là phải cân đối giữa tăng trưởng và phát triển dân số, nâng cao ý thức của người
dân về việc thực hiện kế họach hóa gia đình hợp lý. Cùng với việc giảm khỏang cách
phát triển, thì tăng cường đối thoại giữa các nền văn hóa, các tôn giáo cũng là một đòi
hỏi nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của xu hướng nhập cư hiện nay.
2- Mét sè vÝ dô:
• Thế hệ Tan-kai:
Là thuật ngữ chỉ thế hệ bùng nổ sinh của Nhật Bản ra đời vào thời kì từ năm 1947
đến 1949. Theo con số năm 2006, con số này là 6,38 triệu người và chiếm 5,3% tổng
dân số. Từ năm 1960 đến 1970, họ đã từng tham gia phong trào học sinh sinh viên sôi
nổi và có thể nói họ là những nhân vật chính đã tạo nên sự phát triển nhanh chóng của
kinh tế Nhật Bản. Năm nay, những người này bắt đầu về hưu. Do đó, phân tích của
Viện nghiên cứu kinh tế Samsung chỉ ra rằng, sau 5 năm nữa, số người về hưu ở Nhật
sẽ có triển vọng tăng thêm 50%
• Thoái trào của thế hệ bùng nổ sinh:
Lí do Hàn Quốc có sự quan tâm đặc biệt đến những người người thuộc thế hệ bùng
nổ sinh của Nhật Bản rất đơn giản và rõ ràng. Đó là bởi vì hiện tượng này sẽ xảy ra ở
Hàn Quốc trong nay mai. Thế hệ bùng nổ sinh Hàn Quốc, sinh vào những năm 1955 và
1963, lên đến con số hơn 7 triệu người. Thế hệ bùng nổ sinh của Hàn Quốc ra đời trong
thập kỉ sau cuộc chiến tranh Hàn Quốc 1950-1953. Thời điểm nghỉ hưu của những
người thuộc thế hệ bùng nổ sinh sẽ sớm bắt đầu và tiếp diễn trong thập kỉ tới. Trong bối
cảnh này, những nỗ lực hiện tại nhằm tiếp nhận những người thuộc thế hệ Tankai của
Nhật Bản đến Hàn Quốc có thể là bước chuẩn bị cho việc về hưu hàng loạt của những
người thuộc thế hệ bùng nổ sinh Hàn Quốc.
• Trung Quốc:” Bùng nổ dân số năm Hợi “
“Có sáu người trong bộ phận thì hai người đang mang bầu và dự kiến nghỉ sinh
vào tháng 7, trong khi mùa hè luôn là mùa bận rộn nhất”- ông Trương Kim, giám
đốc nhân sự của một công ty thiết kế web tại Bắc Kinh, Trung Quốc (TQ), cho
biết. Theo một báo cáo của AC Nielson, số người không dùng những biện pháp tránh
thai tại TQ trong năm 2006 tăng đột biến so với những năm khác kể từ hai thập kỷ qua.

Và sự bùng nổ dân số vào năm Đinh Hợi này là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Trong khi đó,
một cuộc khảo sát khác trên trang web “China talent” lại thống kê có đến 66% các công
ty TQ không chuẩn bị gì cho hiện tượng sụt giảm nhân sự đột ngột này. Theo kết quả
khảo sát, hơn một nửa số phụ nữ mang thai muốn có con trong năm nay vì tin theo tử vi
TQ. Theo luật pháp TQ, phụ nữ sau khi sinh được nghỉ ít nhất 90 ngày cộng với một
tháng trước khi sinh để khám thai, kèm theo những ngày nghỉ phép thông thường khác.
Từ đó, khoảng 43% các giám đốc nhân sự được hỏi thừa nhận thách thức lớn nhất trong
năm nay là sự bùng nổ trẻ em. Tình hình còn tồi tệ hơn khi khoảng 10% các bà mẹ trẻ
đang xem xét nghỉ việc sau khi sinh. Điều nay sẽ là một bất lợi không nhỏ đối với các
doang nghiệp, nhà máy tại TQ khi mà lượng nhân công ngày càng giảm mà công việc
năm Đinh Hợi này lại tăng nhiều hơn trước
• Tình trạng dân số ở Việt Nam:
Theo thống kê của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, mỗi năm, dân số Việt
Nam tăng thêm 1,3 triệu người, tức là tương đương dân số 1 tỉnh. Trong số các
nguyên nhân dẫn đến dân số tăng có việc tỷ lệ sinh con thứ ba đột nhiên tăng vọt.
Mấy năm trở lại đây, tỷ lệ sinh con thứ ba đột nhiên tăng vọt. Tính ra đã có tới 38
“điểm nóng” trong toàn quốc về việc phá rào, phá vỡ mô hình truyền thống “mỗi gia
đình chỉ dừng lại ở 2 con“ để sinh con thứ ba thậm chí thứ tư… chỉ với mong muốn
sinh được một cậu con trai nối dõi.
Phải chăng niềm vui có một đứa trẻ nối dõi từ bao đời nay vẫn tiếp tục ngự trị ở
mỗi người đàn ông như thể đó là một phần trách nhiệm của họ đối với dòng họ và
chính bản thân gia đình mình.
Thực ra mà nói đó cũng chỉ là một trong muôn vàn tình huống dẫn đến việc có đứa
trẻ thứ ba trong gia đình. Ở vùng biển, nếu nghề đi biển đòi hỏi những người đàn ông
mạnh khoẻ dầy dạn thì việc có con trai trong gia đình gần như bắt buộc. Đến đây vào
thăm những gia đình toàn con gái mới cảm nhận được gánh nặng đó, không phải chỉ về
mặt tâm lý mà chính là sức ép đối với miếng cơm, manh áo hàng ngày. Đành rằng phụ
nữ cũng có rất nhiều việc để làm, để kiếm sống nhưng nghề đi biển từ bao đời nay vẫn
là trọng trách không thể thay thế được của người đàn ông. Còn ở nông thôn nơi hơn
70% dân số đang sinh sống những năm trở lại đây khi kinh tế gía đình vươn lên chiếm

vai trò chủ đạo thì số con đông bỗng nhiên trở thành một lợi thế hơn so với những gia
đình có 1-2 con và không ít trường hợp dẫn đến thu nhập ít hơn, thua thiệt hơn và bao
vấn đề khác nữa.
Chỉ vài ví dụ trên đây thôi đã cho thấy hạn chế tỷ lệ sinh sản tự nhiên thông qua áp
dụng mô hình gia đình có 1-2 con không phải là điều dễ dàng. Đó là chưa nói đến tình
trạng không thực hiện triệt để các biện pháp phòng tránh thai dẫn đến việc sinh con
ngoài ý muốn không phải là ít. Tỷ lệ sinh ở Việt Nam đang dao động từ 1,6 đến 2,3%
tuỳ theo mỗi vùng miền, địa phương nhưng điều đó không có nghĩa cứ ở thành thị tỷ lệ
sinh thấp hơn ở nông thôn.
Mặt khác,tỷ lệ sinh con thứ ba trong đảng viên, cán bộ công chức và người dân năm
2004 đang gia tăng. Số con mong muốn của phụ nữ Việt Nam thay vì 2,1 con/người đã
tăng lên 2,4 con/người.Dân số phân bố chênh lệch lớn giữa các vùng: hai châu thổ sông
Hồng và sông Cửu Long có diện tích đất ít nhưng chiếm tới 43% dân số cả nước; trong
khi đó, hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chỉ chiếm 8,7% dân số nhưng diện tích chiếm
hơn 1/4 cả nước. Nhìn về tương lai xa, thực tế này đang cảnh báo: Sẽ có những dấu
hiệu bất ổn xảy ra trong phân bố lao động các vùng miền dẫn đến hiện tượng di dân kéo
về các tỉnh, thành phố lớn.
3-D©n sè vµ M«i tr êng:
Năm 1950, dân số Đông Nam Á là 182 triệu người, năm 1993 đã tăng lên tới 466
triệu người (theo tài liệu của Liên hiệp quốc), tăng gấp 2,5 lần. Những hậu quả do quá
trình tăng trưởng dân số ấy là rất nghiêm trọng.
Theo báo cáo của ESCAP thì ở châu Á - Thái Bình Dương có khoảng 300 triệu ha
rừng và là nguồn rừng nhiệt đới chủ yếu của thế giới. Theo ước tính, đến năm 2000,
rừng châu Á sẽ mất đi ít nhất là 72 triệu ha. Và nếu diễn ra ở khả năng xấu nhất thì số
mất đi sẽ là 280 triệu ha. Malaysia có tỷ lệ mất rừng cao nhất là 8% năm. Sau đó đến
Philippin 7% năm, Xri-Lanca 5% năm, Thái Lan 5% năm. Inđônêsia là nước có tốc độ
phá hủy rừng lớn nhất, khoảng 1 triệu ha năm. Thái Lan cũng có tình trạng tương tự.
Philippin 0,5 triệu ha năm. Malaysia 0,4 triệu ha năm. Dự báo nếu tốc độ mất rừng và
phá rừng như vậy cứ tiếp diễn thì rừng ở châu Aá sẽ bị xóa sổ trong vòng từ 12 đến 50
năm tới.Đông Nam Á còn phải đương đầu với nhiều thử thách mới do sự gia tăng dân

số, do đô thị hóa và công nghiệp hóa gây ra.
Manila (Philippin) do sự hoạt động của 900 nhà máy đã tạo ra một lượng chất thải
khổng lồ đổ vào hồ La-nu-ga hồ lớn nhất Đông Nam Á. Toàn bộ hồ bị ô nhiễm gây
chết cá hàng loạt. Năm 1964, sản lượng cá hàng năm của hồ này là 320.000 tấn, thì
năm 1982, sản lượng chỉ còn 128.000 tấn.
Băng-Cốc (Thái Lan) do hậu quả của gia tăng dân số và việc khai thác quá mạnh
nguồn nước ngầm trong lòng đất, đã dẫn đến việc lún đất ở thành phố. Chỉ trong vòng
26 năm, (1960 - 1986), mặt bằng của thành phố lún xuống 160cm.
Sự gia tăng dân số tất yếu dẫn tới sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá hủy các
trật tự môi trường.
• Rừng
Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, rừng nước ta bị tàn phá một cách
nhanh chóng. Trong vòng 50 nǎm qua, diện tích rừng nước ta đã bị giảm hơn một nửa,
từ 19 triệu ha xuống còn 9 triệu ha, bình quân mỗi nǎm 200 ngàn ha. Nguyên nhân của
tình trạng trên, ngoài khai thác gỗ và các loại lâm sản một cách bừa bãi, còn do nhu cầu
lương thực cho số dân tǎng quá nhanh đòi hỏi phải phá rừng mở rộng diện tích canh
tác. Một số dân tộc ít người có tập quán du canh, du cư, rừng sau khi đốt phát thành
nương rẫy chỉ gieo trồng được vài ba vụ là lại phải di chuyển sang nơi khác phá rừng
làm nương rẫy mới.
• Khoáng sản
Nếu tài nguyên, khoáng sản không được khai thác hợp lý sẽ tàn phá môi trường, gây
hậu quả xấu đến sự phát triển kinh tế và đời sống sức khỏe con người. Tác động lớn
nhất của khai thác khoáng sản đến môi trường là của các mỏ, bãi thải, khí độc, bụi và
nước thải. Bãi thải không có các công trình xử lý đã làm trôi lấp ruộng, vườn, sông
suối, làm ô nhiễm nguồn nước, gây bụi. Gần một nửa số người bị bệnh bụi phổi (lao
silicosis) tập trung tại vùng khai thác than Quảng Ninh. Nồng độ bụi tại các nơi khảo
sát đều lớn hơn giới hạn cho phép 30-100 lần.
• Biển
Hệ sinh thái cửa sông ven biển là một vùng có ý nghĩa quan trọng và là đối tượng
chịu sự biến động của cả hai yếu tố tự nhiên và nhân tạo. Con người là nguyên nhân

chủ yếu làm tổn hại môi trường ven biển. Các vùng cửa sông và nước nông chịu sự ô
nhiễm do nước thải từ các thành phố đông dân, các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp, do
thǎm dò dầu khí ở các thềm lục địa, do bốc dỡ hàng, đặc biệt là các sản phẩm dầu từ
các hải cảng. Việc khai thác bừa bãi rừng ngập mặn để xây dựng các ao nuôi trồng thủy
sản, lấy gỗ làm nhà, cung cấp củi đốt và làm than...làm tǎng sự phá hủy do sóng, thủy
triều và bão. Các công trình thi công ven biển, việc khai đào cát, khai thác đá bãi biển
gây ảnh hưởng đến địa mạo bờ biển.
• Môi trường nước
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều nên tài
nguyên khá phong phú. Số lượng sông suối có chiều dài trên 10km đạt tới con số 2.340
nghĩa là bình quân cứ 141km
2
có một sông. Khoảng 66% số sông suối có diện tích lưu
vực dưới 100km
2
.
Hầu hết các xí nghiệp công nghiệp và các thành phố lớn của nước ta đều được xây
dựng trên bờ các con sông lớn và bờ biển. Nước thải chưa được xử lý đổ trực tiếp ra
sông, ra biển. Theo tính toán, hằng nǎm, hoạt động công nghiệp của nước ta đã thải ra
khoảng 290 ngàn tấn các chất độc hại vào môi trường nước.
4-Tr¸ch nhiÖm cña c«ng d©n trong viÖc h¹n chÕ sù bïng
næ vÒ d©n sè:
Dân số nước ta đã vượt qua ngưỡng 83 triệu người và việc tiến đến con số 90 hay
100 triệu người không còn là một điều xa vời nữa. Trong khi diện tích đất canh tác bị
thu hẹp dần, tỷ lệ thất nghiệp vẫn tiếp tục tăng, gánh nặng dân số đang trở thành quá tải
là thực tế mà từ nhà quản lý đễn người dân cần biết. Đó cũng là trách nhiệm xã hội của
mỗi người dân cũng như toàn thể cộng đồng. Là những công dân chúng ta cần:
• Nghiêm chỉnh thực hiện “Luật hôn nhân và gia đình năm 2000” và chính sách
dân số - Kế hoạch hoá gia đình của Nhà nước: không kết hôn sớm, không sinh
con ở tuổi vị thành niên, thực hiện mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con.

• Tích cực tuyên truyền, vận động gia đình và mọi người xung quanh thực hiện tốt
“Luật hôn nhân và gia đình năm 2000” , chính sách dân số - kế hoạch hoá gia
đình của nhà nước.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×