Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận về tổ chức tiền tệ thế giới và ngân hàng thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.17 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ- LUẬT
KHOA LUẬT



Tên đề tài: Các tổ chức quốc tế IMF, WB:
Lịch sử ra đời Chức năng, nhiệm vụ chính (trước
đây và hiện tại); Vai trò của IMF, WB đối với các
nước đang phát triển (tích cực, tiêu cực: xét
trường hợp của Argentina).
Lớp: K12504

Nhóm: 12

1


2


Mục lục

3


LỜI NÓI ĐẦU
Các tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế ra đời là một yêu cầu khách quan trên cơ sở
quan hệ ngoại thương và thanh toán quốc tế; không chỉ là yêu cầu khách quan về mặt
kinh tế mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển các mối quan hệ về chính trị,
ngoại giao và các quan hệ khác giữa các nước.


Trong quá trình phát triển của mỗi đất nước, nhu cầu ổn định cán cân thanh toán
quốc tế, nhu cầu về vốn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế, xã hội… là rất cấp
bách, nhất là đối với các nước đang phát triển. Nếu chỉ dựa vào tiềm lực sẵn có của
đất nước thì không thể giải quyết được những vấn đề này. Vì vậy, muốn đưa đất
nước phát triển trên tầm quốc tế chỉ có một cách duy nhất là hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong đó, việc gia nhập các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế có ý nghĩa rất quan
trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Do đó, các quốc gia
đều có xu hướng gia nhập các tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế với mục đích đẩy
nhanh tốc độ phát triển của mình bằng cách tìm kiếm sự hỗ trợ về vốn và kỹ thuật từ
các nước phát triển khác.
Trong đó Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chính là hai tổ chức
tài chính – tín dụng lớn và có vai trò quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Đồng thời các quốc gia nếu nắm rõ được cơ
chế hoạt động, biết nắm bắt, tận dụng được chính sách ưu đãi, nguồn vốn mà các tổ
chức này mang lại thì sẽ có một nguồn lực lớn để phát triển.

4


NỘI DUNG
I. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF-International Monetary Fund)
1. Lịch sử ra đời
IMF
Thành viên: 188 quốc gia
Trụ sở chính: Washington DC
Ban điều hành: 24 thành viên đại diện cho các nước hoặc các
nhóm nước
Nhân viên: Khoảng 2.503 từ 144 quốc gia
Tổng vốn cổ phần: 360 tỷ USD (tính đến 14/3/2013)
Nguồn vốn của IMF là do các nước đóng góp, các nước thành

viên có cổ phần lớn trong IMF là Mỹ (17,46%), Đức (6,11%),
Nhật (6,26%), Anh (5,05%), Pháp (5,05%).
Quốc gia vay nhiều nhất: Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland (tính
đến 7/3/2013)
Khoản vay dự phòng lớn nhất: Mexico, Ba Lan, Colombia (tính
đến 7/3/2013)

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF-International Monetary Fund) là một tổ chức quốc tế,
giám sát hệ thống tài chính toàn cầu thông qua hoạt động theo dõi tỷ giá hối đoái và
cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính các quốc gia khi có
yêu cầu.
Với sự tham gia của 44 quốc gia, IMF được thành lập trên cơ sở nghị quyết của hội
nghị Quốc tế về tiền tệ, tài chính của Liên hiệp quốc (UN-United Nations) vào năm
1944 tại Breton Wood. Hội nghị đã thành lập IMF thông qua hai dự án của Harry
Dester White - Người Mỹ và John Maynard Keynes - Người Anh. Từ ngày1/3/1947,
IMF chính thức đi vào hoạt động như là cơ quan chuyên môn của Liên hiệp quốc.
5


Trụ sở chính của IMF ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve. Từ
1945 đến nay con số thành viên của IMF lên tới 188 Quốc gia. Số lượng thành viên
tăng đều đặn, không có biến động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là không
thay đổi và ngày càng được củng cố.
2. Chức năng, nhiệm vụ chính
Từ khi thành lập, nhiệm vụ của IMF là để giúp đảm bảo sự ổn định trong hệ thống
tiền tệ quốc tế. Thể hiện trong ba chức năng cơ bản
a. Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các nước thành viên
Theo Hiệp định của IMF: “Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra
trên lãnh thổ của nước mình những hoạt động hối đoái giữa các đồng tiền của mình
với đồng tiền của những nước thành viên nào tôn trọng một sự cách biệt không quá

1% chế độ đồng giá.”
Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ năm 1978 đến nay được gọi là hệ thống tỷ giá
thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này, IMF có vai trò lớn tác động đến chính sách quản
lý tỷ giá của các nước thông qua các điều kiện tín dụng. Mặc dù quản lý hệ thống
tiền tệ bằng nhiều cách gián tiếp nhưng IMF đã thực hiện chức năng này một cách có
hiệu quả.
b. Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán
Để thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế,
IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng khi họ gặp khó khăn
tạm thời về cán cân thanh toán. Khi một nước rơi vào tình trạng này buộc họ phải
giảm dự trữ ngoại hối hoặc đi vay để tài trợ cho các hoạt động này. Hậu quả là các
nước đó phải đối mặt với sức ép ngày càng tăng về tỷ giá hối đoái. Đây chính là lúc
IMF thực hiện chức năng của mình. Nếu gặp khó khăn về cán cân thanh toán, nước
đó có thể lập tức rút lại 25% phần vốn góp của mình bằng vàng hoặc ngoại tệ có thể
chuyển đổi.
c. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các nước
thành viên
Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là “thực hiện
sự giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên”. Đồng thời IMF có
quyền áp dụng các nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên cơ sở tôn
trọng chính sách của họ. Để thực hiện chức năng này, IMF tiến hành kiểm tra các
vấn đề tiền tệ quốc tế và phân tích các khía cạnh của chính sách đó có thể tạo ra tác
động đến hệ thống tỷ giá hối đoái.

6


Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời và hiệu quả đã
tăng lên do nhiều chuyển biến cơ bản trong nền kinh tế: tăng trưởng nhanh chóng của
thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế giới, gia tăng, chỉnh đốn tài khoản

vãng lai và cải cách kinh tế theo hướng trị trường của nhiều nước.
3. Vai trò của IMF đối với các nước đang phát triển
Tích cực: IMF với mục tiêu là tạo một quỹ tương trợ tài chính mạnh mẽ, thiết lập
duy trì sự ổn định tài chính nhằm cho vay khi có khủng hoảng kinh tế hay một quốc
gia có đồng tiền lạm phát. IMF sử dụng quỹ này để cho vay, giúp các quốc gia vượt
qua khủng hoảng kinh tế như trường hợp Hàn Quốc, Thái Lan (1998) và gần đây là
các nước trong khối EU như Hy Lạp và Bồ Đào Nha.
Tiêu cực: Riêng đối với các nước đang phát triển, IMF có phần ít quan tâm hơn. Một
phần do lượng vốn của các nước này rất ít, đồng thời ảnh hưởng của các nước này
trong hoạt động thương mại, tài chính quốc tế không cao. Theo thời gian thì với
những chính sách thoáng hơn, điều kiện thoáng hơn, các nước đang phát triển cũng
được vay với lãi suất rất thấp (0.5%). Với các khản vai này các nước đã phần nào vựt
dậy sau những thời kỳ đình trệ kinh tế, đương đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế
1997, thúc đẩy các nước nghèo phát triển.

Năm 1976, Việt Nam chính thức kế tục quy chế hội viên của IMF từ chính quyền
Việt Nam Cộng hòa và được quyền vay tại IMF với khoảng 200 triệu USD từ năm
1976 - 1981. Vào năm 1984, Việt Nam bắt đầu phát sinh nợ quá hạn với IMF. Trong
giai đoạn 1985 - 10/1993, IMF đình chỉ quyền vay vốn của Việt Nam mặc dù quan
hệ giữa Việt Nam và IMF được duy trì thông qua đối thoại chính sách dưới hình thức
đánh giá về kinh tế của IMF và các tổ chức tài chính quốc tế khác.
Việt Nam nối lại quan hệ tài chính với IMF vào tháng 10/1993. Từ năm 1993 - 2004,
IMF cung cấp cho Việt Nam khoản vay với tổng vốn cam kết 1.094 triệu USD và
được giải chi hơn 880 triệu USD.
Từ tháng 4/2004 đến nay, IMF không còn chương trình cho Việt Nam vay vốn
nhưng vẫn tiến hành nhiều hoạt động như tư vấn về chính sách và hỗ trợ kỹ thuật cho
Việt Nam hàng năm trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thương mại, cải cách
doanh nghiệp nhà nước, tiền tệ, ngoại hối, thanh tra ngân hàng, cải cách thuế (tư vấn
cho Bộ Tài chính), xác định mục tiêu lạm phát, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng
bố… Ngoài ra, cán bộ ngân hàng nhà nước và các ngành liên quan được tham dự các

khóa đào tạo, hội thảo ngắn hạn và được cấp học bổng dài hạn theo chương trình đào
tạo do IMF tổ chức.
7


Hiện nay cổ phần của Việt Nam tại IMF là 460,7 triệu SDR, chiếm 0,193% tổng khối
lượng cổ phần và có tỷ lệ phiếu bầu là 0,212% tổng số quyền bỏ phiếu. Việt Nam
thuộc nhóm Đông Nam Á với 13 nước thành viên.

II. Ngân hàng Thế giới (World Bank)
1. Lịch sử ra đời
Ngân hàng thế giới (WB-World Bank) là một tổ chức tài chính quốc tế, nơi cung cấp
những khoản vay nhằm thúc đẩy kinh tế của các nước đang phát triển.
Ngân hàng Thế giới trên thực tế bao gồm 5 tổ chức:
Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD) thành lập ngày 17/02/1945 theo tinh
thần Hiệp ước Bretton Wood và bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1946. IBRD hiện
có 187 quốc gia thành viên.
Công ty tài chính quốc tế (IFC) thành lập năm 1955. Hiện tại IFC có 182 quốc gia
thành viên.
Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) thành lập năm 1960. Hiện tại IDA có 169 quốc gia
thành viên.
Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư (ICSID) thành lập năm 1966. Hiện
tại ICSID có 144 quốc gia thành viên.
Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA) thành lập năm 1988. Hiện tại MIGA
có 175 quốc gia thành viên.
WB được thành lập tại hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 cùng với 3 tổ chức khác
trong đó có Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Mặc dù có nhiều nước tham dự Hội nghị Bretton
Woods Conference, nhưng Hoa Kỳ và Liên Hiệp Anh là có quyền lực nhất và chiếm ưu
thế trong các cuộc đàm phán.
Cả WB và IMF đều có trụ sở tại Washington DC, và có mối quan hệ gần với nhau.

2. Chức năng, nhiệm vụ chính
8


WB là ngân hàng đầu tư, đứng trung gian giữa nhà đầu tư và người vay, tức là vay
của người này để cho kẻ khác mượn. Các ông chủ WB là các quốc gia thành viên với
tiền góp vốn.
Chức năng, nhiệm vụ của WB được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện.
Cá nhân và công ty không được vay của WB và không phải quốc gia thành viên nào
cũng được WB cho vay. Chỉ có Chính phủ của các nước đang phát triển có thu nhập
quốc dân trên đầu người lớn hơn 1305 USD/ năm mới được vay của IBRD. Các
khoản vay này có lãi suất chỉ cao hơn lãi suất WB đi vay một chút. Chính phủ của
các nước nghèo có thu nhập quốc dân trên đầu người dưới 1305 USD/ năm (trong
thực tế là dưới 805 USD/ năm) được vay của IDA. Các khoản vay này sẽ không đòi
lãi suất và thời hạn có thể lên tới 35 đến 40 năm.
IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng
là cho vay dài hạn hoặc có thể cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự đảm
bảo đối với các nhà đầu tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào
dự án.
MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để
các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
ICSID thực hiện hoà giải và trọng tài giữa các nước thành viên và các nhà đầu tư
thuộc các nước thành viên khác. Việc sử dụng các phương tiện của ICSID là hoàn
toàn tự nguyện. Tuy nhiên, một khi đã đồng ý giải quyết với ICSID thì không một
bên nào được đơn phương từ chối phán quyết của ICSID.
3. Vai trò của WB đối với các nước đang phát triển (tích cực, tiêu cực)
Tích cực:
Ngân hàng thế giới là chủ nợ của khoảng 184 nước, huy động vốn từ các quốc gia
thành viên phát triển để chuyển đến quốc gia đang phát triển vay. đang phát triển trên
nhiều mặt và quan tâm đến những vấn đề mới như giới tính, phát triển định hướng

cộng đồng, người dân bản xứ, cũng như cố gắng cung cấp hạ tầng cơ sở cần thiết cho
người nghèo.

Ngân hàng Thế giới là nhà tài trợ bên ngoài lớn nhất cho các nước về lĩnh vực
giáo dục
Ngân hàng Thế giới đã đảm bảo US$31 tỷ tiền cho vay và tín dụng, đang tài trợ cho
158 dự án giáo dục thuộc 83 nước. Ngân hàng đã cộng tác chặt chẽ với các Chính
phủ quốc gia, với các cơ quan Liên hiệp quốc, các nhà tài trợ, các tổ chức phi Chính
phủ và các đối tác khác để giúp đỡ các nước đang phát triển đang cố gắng đạt được
những mục tiêu về giáo dục cho mọi
9


người. Những mục tiêu này là nhằm đảm bảo cho tất cả các trẻ em, đặc biệt là các trẻ
em gái và những trẻ em có khó khăn đặc biệt được tới trường và có thể học hết
chương trình giáo dục cơ sở vào năm 2015.
Hiện nay, Ngân hàng thế giới đang tài trợ cho chương trình này US$1,3 tỷ để phục
vụ hơn 60 triệu học sinh ở 271 quận huyện với trình độ biết đọc biết viết còn thấp
trong số 18 trên 29 Bang ở Ấn Độ. Ở Brazil, El Salvador, Trinidad và Tobago, Ngân
hàng đang tranh đấu cho vai trò của các cộng đồng địa phương trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục bằng cách giúp họ đánh giá hoạt động của các trường học và
giáo viên địa phương.
Ngân hàng Thế giới là một trong số những nhà tài trợ bên
ngoài lớn nhất cho các nước về các chương trình y tế, phòng chống HIV/AIDS.
Ngân hàng Thế giới đã cam kết tài trợ hơn US$1,7 tỷ để chống lại nạn dịch
HIV/AIDS trên toàn Thế giới.
đã cùng liên kết với các chính phủ Châu Phi khởi xướng và thực hiện chương trình
HIV/AIDS đa quốc gia (MAP) cung cấp các nguồn trợ giúp đáng kể cho các tổ chức
xã hội dân sự vàcộng đồng. Rất nhiều tổ chức xã hội và cộng đồng đã phát triển
những quan điểm đổi mới về nhận thức đối với HIV/AIDS, mà các quốc gia khác

đang học hỏi và áp dụng vào các điều kiện địa phương.
Ngân hàng Thế giới đã cam kết cho vay trung bình là US$1 tỷ mỗi năm cho các dự
án về y tế, dinh dưỡng và dân số ở các nước đang phát triển hỗ trợ cho việc phòng
chống bệnh lao, bệnh sốt rét, suy dinh dưỡng ở trẻ em..
Ngân hàng Thế giới hỗ trợ mạnh mẽ trong hoạt động giảm nợ
Năm 1996, Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đề xuất và tiến hành
Chương Trình Trợ Giúp Các Quốc Gia Nghèo và Mắc Nợ Nhiều (HIPC) - để giảm
các món nợ nước ngoài cho các nước đang là con nợ rất lớn và nghèo nhất Thế giới.
Ngày nay 26 nước đã nhận được các khoản hỗ trợ để giảm bớt món nợ mà dự kiến
lên tới US$40 tỷ. Với các hình thức giảm nợ khác nhau, HIPC sẽ cắt khoảng 2/3 các
khoản nợ nước ngoài ở các nước này để làm giảm nợ của họ xuống dưới mức trung
bình đối với toàn bộ các nước đang phát triển. Nhờ vào sự giúp đỡ này, các nước trên
đang định hướng lại những ưu tiên ngân sách của họ đối với các lĩnh vực phát triển
nhân lực và xã hội chủ yếu.
Ngân hàng thế giới đang lắng nghe tiếng nói của những
người nghèo
10


Cách thức trao quyền để giảm nghèo đưa người nghèo trở thành trọng tâm của sự
phát triển và tạo điều kiện để người nghèo nam và nữ ngày càng có khả năng sống tự
túc, qua việc tiếp cận thông tin, hội nhập và tham gia, trách nhiệm, và khả năng tổ
chức tại địa phương. Hiện nay, Ngân hàng đang tài trợ giúp các dự án phát triển định
hướng cộng đồng với hơn US$2.2 tỷ trong các chương trình cam kết. Tại Indonesia,
15,000 làng và các nhóm cộng đồng đang lập kế hoạch đề nghị riêng của họ để nhận
tài trợ địa phương. Trong khi đó tại Benin có chương trình hợp tác của phụ nữ để bảo
vệ rừng và sử dụng rừng để tạo nguồn thu nhập chứ không phải là nguồn nhiên liệu.

III.


Ảnh hưởng của IMF, WB đối với kinh tế Argentina
Ra đời với mục tiêu rất cao đẹp là giúp đẩy mạnh phát triển và giữ ổn định cho nền
kinh tế thế giới, thế nhưng Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng quốc tế WB đã
không ít lần bị chỉ trích là vì từ khi được thành lập tới nay thường đưa ra những
điều kiện trói buộc ngặt nghèo cho những nước mà nó hỗ trợ.
Nghĩa là chỉ giơ tay giúp đỡ khi quốc gia nào chịu hứa sẽ thực thi những cải cách
kinh tế mà các tổ chức đồng ý. Nhưng những chính sách “một thích hợp cho toàn
bộ”, khiến nó trở nên không thích hợp hoặc không phát huy được tác dụng. IMF
cũng bị phàn nàn là đã tạo mối nguy hiểm về tâm lý, bởi nó khiến các chính phủ
(cũng như các công ty, nhà băng và các nhà đầu tư khác) hành xử một cách khinh
suất khi luôn tin rằng nếu mọi chuyện có trở nên tồi tệ thì đã có IMF bảo lãnh.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra ở châu Á vào cuối thập niên 90 và cuộc khủng
hoảng ở Argentina xảy ra vào đầu thập kỷ này, một vài nhà hoạch định chính sách đã
lên tiếng phát biểu cho rằng IMF chẳng có tác dụng gì và cần phải bị loại bỏ.
Những chỉ trích khác còn xoay quanh việc cáo buộc các nhà hoạch định chính sách
của IMF chỉ hỗ trợ những nền chuyên chính quân sự tư bản thân các tập đoàn
Mỹ và Châu Âu. Ngoài ra, quỹ hầu như tỏ ra lãnh đạm hoặc thù địch với các
quan điểm dân chủ, nhân quyền và quyền lao động của một số quốc gia. Chính
những chỉ trích này đã làm nổ ra một cuộc tranh cãi lớn và cũng chính là chất xúc tác
cho phong trào chống toàn cầu hoá.IMF vẫn luôn bị coi là công cụ phục vụ cho Mỹ
và các nước giàu trong khi ít quan tâm đến tiếng nói của những nước đang phát triển.
Những người phản đối IMF cũng cáo buộc những quy định ngặt nghèo của quỹ này
đối với những quốc gia như bắt họ phải thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng,
tăng thuế khi kinh tế còn yếu… khiến tình hình càng trở nên tồi tệ.
Argentina là một ví dụ, nước này được coi là mô hình của IMF vì bằng lòng tuân
theo với các đề xuất chính sách của IMF. Tuy nhiên Argentina đã phải trải qua một
cuộc khủng hoảng kinh tế khủng khiếp vào đầu những năm 2001. Người ta tin rằng
tình trạng đó là do IMF đã “cố vấn” Argentina thực hiện biện pháp hạn chế ngân
sách, trong đó xén bớt khả năng của chính phủ trong việc duy trì những cơ sở hạ tầng
11



quốc gia, kể cả ở những khu vực quan trọng như y tế, giáo dục và an ninh, cũng như
tư nhân hoá những nguồn lực quan trọng chiến lược của đất nước.
Trong suốt những năm 90, Argentina trở thành một của tổ chức quốc tế, đặc biệt đối
với IMF. Đây được coi như hình mẫu cho các nền kinh tế mới nổi noi theo. Tổ chức
Tiền tệ thế giới đã ủng hộ cho các chính sách kinh tế vĩ mô các cải cách quan trọng
trong nền kinh tế ( tự do hóa thị trường tài chính, tư nhân hóa, cải cách hệ thống tiền
lương…) của chính phủ Argentina. Bất chấp những con số cho thấy kinh tế tăng
trưởng bền vững, một phần lớn người dân không được hưởng lợi từ những thành quả
của nền kinh tế: trong suốt những năm 90, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tỷ lệ người
nghèo vẫn duy trì ở mức cao và sự bất bình đẳng trong xã hội ngày càng trầm trọng.
Điều này cho chúng ta thấy những con số đó đã được đánh giá quá cao so với giá trị
thật của nó, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho chính phủ
Argentina chủ quan vào những chính sách của mình trong suốt những năm 90. Khi
Argentina lâm vào khủng hoảng, tháng 11/2000 IMF hợp tác WB, IDB thông qua
chương trình hỗ trợ với quy mô lớn.IMF đồng ý cho Argentina vay tiền với điều kiện
nước này phải thắt lưng các chính sách tài chính, như không để thâm hụt ngân sách
và nâng lãi suất.Nhưng nó đã thất bại, chỉ hoạt động hiệu quả trong 2 tháng, sau đó
bắt đầu đi xuống.Những chính sách của chương trình này dẫn đến những cuộc biểu
tình và đình công kháp quốc gia.Vào cuối năm 2001, khi tình hình đất nước đang vô
cùng khó khăn với dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ còn đúng 2 tỷ. Để
tăng ngân sách, Tổng thống de la Rua quyết định người dân chỉ được rút tối đa
1000đô la một tháng. Ngay sau đó, IMF đã quay lưng lại với Argentina, tuyên bố
ngừng cấp các khoản cho vay mới với lý do chính phủ nước này không đáp ứng được
các đòi hỏi tài chính. Điều này đã khiến cho Argentina tuyên bố phá sản.Cướp bóc và
bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục nghìn người chết.
Cuộc khủng hoảng đã làm bùng lên sự chán ghét thể chế này ở Argentina và những
nước Nam Mỹ khác.Các nước này đổ lỗi cho IMF là nguyên nhân gây ra các vấn đề
kinh tế của khu vực.Xu hướng thiên tả của Mỹ Latinh hiện nay cùng với sự phát triển

của chính sách kinh tế khu vực độc lập với các sức ép của những tập đoàn lớn chính
là minh chứng cho quan điểm trên.Khi một quốc gia được IMF hỗ trợ đồng nghĩa với
việc phải chấp nhận những điều kiện ngặc nghèo cũng như các sách lược mà IMF đề
ra. Một kết quả không sớm cũng muộn sẽ đến với các nước này sẽ rơi vào một trong
ba tình trạng sau:
Thứ nhất: Tư hữu hóa tức là “hối lộ hóa.” Chỉ cần đồng ý bán rẻ các tài sản quốc hữu
hóa, lãnh đạo của các nước nhận viện trợ sẽ nhận được khoản hoa hồng 10%, và toàn
bộ số tiền đó sẽ được gửi vào một tài khoản bí mật của ngân hàng Thụy Sỹ. Làn sóng
tư hữu hóa trong những năm 1990 của Argentina, dưới thời tổng thống Menem, đã
làm nhiều người mất việc. Và do phần lớn các công ty tư nhân hóa thuộc lĩnh vực
dịch vụ nhu yếu như cung cấp điện, nước... nên các công ty này đẩy giá cả các mặt
hàng dịch vụ của mình cao hơn. Cuộc khủng hoảng của Argentina trở nên trầm trọng
khi nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản và ngày
càng có thêm nhiều người bịsa thải. Các khoản nợ của chính phủ cũng theo đó gia
tăng vì thất thu từ nguồn thuế thu nhập đánh vào doanh nghiệp
12


IV.






Thứ hai: tự do hóa thị trường tư bản. Trên cơ sở lý luận, điều này có nghĩa là dòng
vốn được chảy vào và chảy ra một cách tự do. Tuy nhiên, thực tế hai cuộc khủng
hoảng ở châu Á và Brazil cho thấy rằng, khi dòng vốn tự do chảy vào làm bùng nổ
thị trường BĐS, thị trường cổ phiếu và cả thị trường hối đoái thì khi xảy ra khủng
hoảng, dòng vốn chảy ra cũng rất nhanh và mạnh.Lúc này, lực chảy của nó lớn tới

mức khiến cho quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia lâm nạn bị kiệt quệ trong một thời
gian cực ngắn, chỉ vài ngày hoặc thậm chí có khi chỉ vài giờ. Và đó chính là thời cơ
để IMF chìa tay ra cứu vớt bằng các biến pháp như thắt chặt vòng quay chu chuyển
tiền tệ, nâng lãi suất tăng vọt lên tới mức hoang đường 30%, 60% rồi 80% khiến cho
các thị trường BĐS, chứng khoán…bị suy sụp, khả năng sản xuất công nghiệp bị phá
hủy, mọi nguồn tích lũy trong nhiều năm của xã hội bị tiêu hao một cách nhanh
chóng hơn bao giờ hết.
Thứ ba: định giá thị trường. Trong khi các quốc gia lâm nạn còn đang dở sống dở
chết do bị IMF đẩy đến bước đường này, thì lại cũng chính IMF đề xuất nâng giá
biên lên cao đối với các nhu yếu phẩm thường ngày của người dân như thực phẩm,
đồ uống và khí đốt. Lúc này, sự nổi giận của người dân có thể biến thành những cuộc
bạo động là điều hoàn toàn có thể hiểu được bởi nó chính là kết quả cuối cùng của
động thái này. Năm 1998, tại Indonesia, việc IMF cắt giảm nguồn trợ cấp thực phẩm
và nhiên lêu đã gây nên cuộc bạo động quy mô lớn.Với Bolivia, giá nước tăng cao đã
khiến cho người dân thành phố nổi loạn. Còn tại Ecuador, giá khí đốt leo thang đã
khuấy động sự rối loạn trong đời sống XH. Tất cả những điều này đã được các ông
trùm ngân hàng quốc tế tính toán kỹ từ trước.Và nếu dùng thuật ngữ của họ thì điều
này được gọi là “náo động xã hội” (Social Unrest). Mà kiểu “náo động XH” này có
một tác dụng hết sức tốt bởi nhờ nó mà các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế có cơ hội
hốt bạc từ nguồn tài sản quốc gia của những nước náo động do luồng tiền không giữ
được giá trị.
Nói chung những thành công của IMF rất hạn chế. Trong khi nó được tạo ra để giữ
ổn định cho kinh tế toàn cầu thì từ năm 1980 hơn 100 quốc gia đã phải trải qua cảnh
sụp đổ ngành ngân hàng khiến GDP giảm từ 4% trở lên, nhanh hơn bất cứ thời kỳ
nào trước đó trong lịch sử. Những phản ứng chậm trễ của IMF đối với các cuộc
khủng hoảng và thực tế là quỹ này thường có xu hướng chỉ đối phó hơn là ngăn ngừa
đã khiến nó buộc phải cải tổ.
Tài liệu tham khảo
/> />%BF_gi%E1%BB%9Bi
/>%87_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF

/>
13


14



×