Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Nghiên cứu các giải pháp phát triển trang trại huyện đại từ tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.16 KB, 57 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Nguyễn Thành Nam
Nguyễn Thành Nam

Tên đề tài:
Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN

NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG
TRẠI HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên nghành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ LÝ


Thái Nguyên, năm 2008

Thái Nguyên, năm 2008


LỜI CẢM ƠN

Lêi cam ®oan

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận

- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã

được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể, cá nhân. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn đến:
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy, cô giáo Trường Đại

được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn

học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên và khoa sau Đại học đã dạy bảo,

gốc.

giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS Phạm Thị Lý, người

Tác giả


đã tận tình hướng dẫn dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nhân viên phòng Nông nghiệp và PTNT,
Nguyễn Thành Nam

phòng Thống kê, UBND các xã, thị trấn và các hộ trang trại trên địa bàn huyện Đại
Từ đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Tôi vô cùng biết ơn gia đình, đồng nghiệp và các bạn gần xa đã giúp đỡ
động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2008
Tác giả

Nguyễn Thành Nam


1

danh môc c¸c b¶ng
STT

Tªn b¶ng

MỞ ĐẦU

Trang

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Biểu 01


Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc

43

Biểu 02

Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ

44

Biểu 03a

Một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế – xã hội huyện Đại Từ

46

Biểu 03b

Tình hình sản xuất ngành nông nghiệp

48

lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm

Biểu 04

Tổng số các trang trại và phân loại trang trại theo loại hình

50


bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.

sản xuất
Biểu 05

Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 của trang trại

Biểu 06

Hiện trạng sử dụng đất trang trại năm 2007

Biểu 7

Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất

Biểu 8

Vốn sản xuất của trang trại năm 2007

Biểu 9

Tình hình sử dụng lao động của các trang trại

Biểu 10

Thành phần xuất phát các chủ trang trại

Biểu 11

Chi phí sản xuất của các trang trại


Biểu 12

51

Biểu số 13 Thu nhập từ sản xuất Nông - Lâm - Nghiệp bình quân trang

Mức thu nhập bình quân lao động trong tuổi và nhân khẩu
của các trang trại năm 2007

những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng

Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho

58

đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và

61

thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất

63
65
69

78


phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng
để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nhà từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây,
vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm
chú ý, đặc biệt là sau khi Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP của Chính phủ ngày
2/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời thì kinh tế trang trại mới thực sự được
một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các

trại điều tra năm 2007.
Biểu 14

đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có

56

76
Tổng thu bình quân của một trang trại năm 2007 huyện Đại Từ

Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế

82

doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số
lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức
sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





2

3

Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô

+ Giá trị sản xuất của loại hình kinh tế trang trại đạt từ 2 - 3% tổng giá trị

đất đai lớn như ở vùng đồng bằng Sông Hồng hay vùng đồng bằng phía nam,

sản xuất nông nghiệp, tạo nên nguồn sản phẩm hàng hoá chính hướng tới xuất

nhưng tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc là nơi có nhiều điều kiện

khẩu.

ưu đãi về điều kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu…đặc biệt là vùng có truyền
thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh của người dân tương
đối cao. Huyện Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong
những năm qua sản xuất nông nghiệp của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ
quan trọng Nhưng để ngành nông nghiệp của huyện đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông
nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả

+ Thu nhập bình quân 100 triệu đồng/năm/trang trại, thu nhập người lao
động đạt 1 triệu đồng/tháng.
+ Tạo điển hình tiên tiến về thâm canh, chuyên môn hoá, ứng dụng khoa
học công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.

+ Phấn đấu 100% các chủ trang trại nâng cao tay nghề.

năng lao động của con người vùng miền núi này và mô hình kinh tế trang trại

- Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế trang trại và

là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại của huyện đã có nhiều

các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế trang trại, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp

thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với

nhằm phát triển kinh tế trang trại Huyện Đại Từ, vừa nâng cao thu nhập vừa

tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: Khả năng phát triển kinh tế trang trại của

giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường.

vùng đến đâu? làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã
hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: "Nghiên cứu
các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010"

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng: Các trang trại Huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Nghiên
cứu các vấn đề kinh tế- xã hội có liên quan đến việc phát triển kinh tế trang

2. Mục tiêu nghiên cứu:

trại của huyện Đại Từ, trong đó tập trung phân tích hiệu quả kinh tế, phân tích
những tồn tại và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại


- Mục tiêu chung:
+ Phấn đấu có 100 trang trại vào năm 2010, phấn đấu 50% số trang trại

Từ tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:

sản xuất kinh doanh chuyên ngành, chuyên môn hoá cao.
+ Hình thành rõ nét các loại hình trang trại như sau: Chăn nuôi gia súc,
gia cầm quy mô vừa, tiến tới quy mô lớn. Chuyên sản xuất giống. Chuyên sản
xuất chè chất lượng cao. Sản xuất, kinh doanh cây trồng, vật nuôi đặc sản

+ Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu tại 80
trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ.
+ Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành thu thập số liệu điều tra từ năm
2006-2007.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4

5


+ Phạm vi nội dung: Xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ còn nhiều vấn đề cần tiếp cận nghiên cứu. Tuy nhiên do
hạn chế về thời gian và trình độ nên tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu, đánh giá
sự phát triển của các trang trại.

CHƢƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
A. Cơ sở khoa học:

4 - Kết cấu của luận văn: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục luận văn được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu:
Chƣơng 2: Tình hình phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong
thời gian qua.

I. Cơ sở lý luận:
1. Quan niệm về kinh tế trang trại:
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế
kỷ XX, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô
hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm

Chƣơng 3: Các giải pháp để phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ
từ nay đến năm 2010.

tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các
nước Anh, Pháp, Nga nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đầu tiên
của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỷ đến nay kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở
những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các
nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy

mô sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc
biệt là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/98) về đổi mới quản lý
kinh tế Nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển,
phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình
công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích lũy về vốn, kinh nghiệm sản
xuất và kinh nghiệp quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông
nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp, tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng.
Kinh tế trang trại ra đời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

7

Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo
nhiều khía cạnh khác nhau.

- Về sở hữu, có những hình thức sản xuất dựa trên sở hữu nhà nước như:
Các khu sản xuất nông nghiệp tập trung thời đế chế La Mã; hoàng trang và
đồn điền trong các triều đại phong kiến ở trung Quốc; dồn điền thời Lê,


2- Bản chất của kinh tế trang trại:

Nguyễn ở Việt Nam....Đồng thời cũng có những hình thức sở hữu riêng của

Trong lịch sử phát triển của nông nghiệp các nước trên thế giới cũng
như ở nước ta đã từng tồn tại các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính
tập trung được tiến hành trên một quy mô diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản xuất nông
nghiệp truyền thống, phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ.

một người như Lãnh địa phong kiến và trang viên ở Châu Âu, điền trang, gia
trang ở Trung Quốc, Việt Nam...
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tác động và chi phối
của cơ chế thị trường, trình độ phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và
sự thay đổi lớn lao của quan hệ sản xuất xã hội đã tạo ra những điều kiện và

Trong phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, các hình thức sản

động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tập trung chuyển lên một

xuất nông nghiệp tập trung đã tồn tại ở nhiều nước. Thời đế quốc La Mã đã có

trình độ mới cao hơn với những biến đổi cơ bản về kinh tế, tổ chức và kỹ

sản xuất nông nghiệp tập trung với lực lượng sản xuất chủ yếu là tù binh và

thuật sản xuất so với các hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung

nô lệ. Thời phong kiến ở Châu Âu có các hình thức: Lãnh địa phong kiến và


trước chủ nghĩa tư bản.

trang viên. ở Trung Quốc thời nhà Hán đã có hoàng trang, điền trang, đồn
điền, gia trang. ở Việt Nam thời kỳ Lý, Trần, Lê, Nguyễn... có điền trang, ấp,
đồn điền .vv...

Những biến đổi có ý nghĩa quyết định dẫn đến sự thay đổi về chất của
hình thức sản xuất nông nghiệp mang tính tập trung trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm:

Các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các phương thức sản
xuất trước chủ nghĩa tư bản nêu trên có những điểm chung chủ yếu sau:

- Sự biến đổi về mục đích sản xuất chuyển từ tự cung, tự cấp là chủ yếu
sang sản xuất hàng hoá. Nông sản phẩm sản xuất ra trước đây chủ yếu là để

- Về mục đích sản xuất, các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung nói

đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ, thì nay trong điều

trên đều sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình thức sản

kiện kinh tế thị trường, được sản xuất ra chủ yếu là để bán nhằm tăng thu

xuất nông nghiệp truyền thống phân tán trên những diện tích ruộng đất nhỏ,

nhập và lợi nhuận.

song đều nhằm mục đích tự cung, tự cấp để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trực

tiếp. Việc trao đổi sản phẩm chỉ thực hiện với bộ phận sản xuất vượt qúa nhu
cầu tiêu dùng trực tiếp của những người chủ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Sự biến đổi về mặt sở hữu: Nếu như trong các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản có những hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung dựa trên sở
hữu nhà nước, có những hình thức dựa trên sở hữu riêng của một người chủ độc



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8

9

lập, thì nay trong điều kiện kinh tế thị trường hình thức sản xuất nông nghiệp tập
trung về cơ bản là dựa trên quyền sở hữu tư liệu sản xuất của một chủ độc lập.
- Sự thay đổi về cách thức tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất: Do mục
đích sản xuất hàng hoá nên ở đây sản xuất được tổ chức theo phương thức
tiến bộ hơn với kỹ thuật sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp
mang tính tập trung trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản.

Tại Việt Nam, trong những năm đổi mới, kinh tế trang trại đã hình thành
và phát triển nhanh trên nhiều vùng, đặc biệt là các vùng có bình quân ruộng
đất tính theo đầu người cao. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở

nước ta những năm qua là nhờ đường lối đổi mới của Đảng mà mốc quan
trọng có ý nghĩa hết sức to lớn là Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5- 4-1988 của
Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và sau đó là chính sách
giao ruộng đất ổn định cho hộ nông dân. Việc trả lại địa vị tự chủ về kinh tế

- Trong thời kỳ Pháp thuộc cùng với sự phát triển của các đồn điền tư

cho hộ nông dân và việc giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định và

bản tư nhân, những ấp trại vơi các quy mô khác nhau dựa trên sở hữu tư nhân

lâu dài là cơ sở quan trọng cho kinh tế trang trại mà chủ yếu là trang trại gia

và có mục đích chính là sản xuất nông sản phẩm để bán đã xuất hiện trên

đình ra đời và phát triển ở nước ta trong những năm qua.

nhiều vùng.

3. Khái niệm về kinh tế trang trại

Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, ngôn ngữ các nước đều có
những thuật ngữ để chỉ hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với những
biến đổi cơ bản so với các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong các
phương thức sẳn xuất trước chủ nghĩa tư bản như đã nêu khi chuyển sang
tiếng Việt thường được dịch là "Trang trại" hay " Nông trại".
“Trang trại" hay " Nông trại" thì có thể hiểu đó là những khu đất tương
đối lớn. Ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự chỉ huy
của một người chủ mà phần đông là chủ gia đình nông dân bao gồm cả nông
dân trong giai đoạn nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá và từng bước gắn

liền với kinh tế thị trường.
Như vậy có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường về bản chất
"Trang trại" hay " Nông trại" là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất
nông nghiệp mang tính tập trung trên một diện tích ruộng đất đủ lớn nhằm sản
xuất nông sản phẩm hàng hoá với quy mô gia đình là chủ yếu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Trong những năm gần đây ở nước ta cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản
lý Nhà nước và nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã quan tâm nghiên cứu về
kinh tế trang trại. Một trong những vấn đề được đề cập nhiều là khái niệm về
kinh tế trang trại.
Các cơ quan, các nhà khoa học và quản lý khi nghiên cứu kinh tế trang
trại hầu như đều đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại và coi đó là điểm xuất
phát để nghiên cứu về kinh tế trang trại. Tìm hiểu các khái niệm về kinh tế
trang trại đã được đưa ra trong những năm qua, tuy nhiên các ý kiến chưa có
sự thống nhất.
Về thực chất, "Trang trại" và "Kinh tế trang trại" là những khái niệm
không đồng nhất. Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản
xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của
trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là
chủ thể của các mối quan hệ kinh tế đó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





10

11

Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói mặt kinh tế của trang trại. Ngoài
mặt kinh tế, còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và mặt môi trường.
Về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó có các

Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở là vì trong nông, lâm,
ngư nghiệp ngoài trang trại ra còn có những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở
khác như: Nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hộ nông dân...

quan hệ xã hội đan xen nhau: Quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại,

Là một hình thức tổ chức sản xuất, trang trại không phải là một thành

quan hệ giữa chủ trang trại và những người lao động thuê ngoài, quan hệ giữa

phần kinh tế và theo cách phân định thành phần kinh tế như hiện nay thì các

người lao động làm thuê cho chủ trang trại với nhau...

chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh

Về mặt xã môi trường, trang trại là một không gian sinh thái, trong đó
diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng.
Như vậy có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế
trang trại. Tuy nhiên trong các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của trang trại


nông nghiệp đều có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại
nếu có đủ điều kiện.
Như vậy trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp là phù hợp vì quan niệm nêu trên đảm bảo đầy đủ các nguyên
tắc quy định.

thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại.

Mặt khác trang trại còn có những đặc điểm riêng mà nó phân biệt với các

Vì vậy trong nhiều trường hợp khi nói tới kinh tế trang trại, tức nói tới mặt

hình thức sản xuất cơ sở khác trong nông lâm, ngư nghiệp đó là: Mục đích

kinh tế của trang trại, người ta gọi tắt là trang trại.

sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá. Đó là điểm cơ bản của trang trại

Vậy khái niệm trang trại về mặt kinh tế như thế nào? Khái niệm này phải
thể hiện đươc những nét bản chất về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của
trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường.

yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn trong trang trại
được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Tư
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập.

Trước hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp.

Tư liệu sản xuất ở trang trại hoặc thuộc quyền sở hữu của người chủ độc lập,

hoặc quyền sử dụng của người chủ độc lập nếu tư liệu sản xuất đi thuê hoặc

Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực
tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông,
lâm, thuỷ sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép kín
với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm sản xuất
phân phối, trao đổi, tiêu dùng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

được tập trung với quy mô nhất định theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá; Các



được giao quyền sử dụng; Trang trại hoàn toàn tự chủ trong các sản xuất kinh
doanh, từ việc lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công
nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất, đến tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm..;
Chủ trang trại là người có ý chí và năng lực, có kiến thức và kinh nghiệm về
sản xuất nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại; Trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

13

trại có nhu cầu cao hơn nông hộ về ứng dụng KHKT, tiếp cận thị trường, thuê


ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc

mướn lao động và đều có thu nhập vượt trội hơn...

quyền sở hữu hay thuộc quyền sử dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được

Từ những nhận thức như trên. PGS.PTS Lâm Quang Huyên, Viện quy
hoạch và thiết kế nông nghiệp cho rằng: "Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở
sản xuất nông nghiệp, hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường từ

tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn
với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và
luôn gắn với thị trường".3

khi phương thức này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại

Đây chính là khái niệm đầy đủ về kinh tế trang trại.

được hình thành các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp, tự túc khép

4. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế - xã hội.

kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng
bước thích nghi với nền kinh tế thị trường".1

Bất kỳ một hình thức sản xuất nào cũng gây ảnh hưởng đến đời sống

Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang
trại nhưng lại sai lầm khi cho rằng nguồn gốc của các trang trại chỉ là xây

dựng từ kinh tế của các hộ tiểu nông.
Trong Nghị quyết số 03/2000/NQ - CP ngày 2/2/2000 về kinh tế trang
trại, Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: "Kinh

kinh tế xã hội nói chung. Là một thực thể kinh tế, các trang trại hình thành và
phát triển đã có những đóng góp không nhỏ cả về mặt tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn.
4.1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp - nông thôn.

tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông

Các ngành sản xuất đều có xu hướng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản

thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu

xuất khác: Tư liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông

quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng

nghiệp cũng vậy. Những năm cuối thế kỷ 17 ở các nước bắt đầu công nghiệp

2

rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản".

Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra được cơ sở, chức năng, hình thức sản
xuất của trang trại nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của
trang trại mang tính hàng hoá và đáp ứng nhu cầu thị trường. Chính vì vậy
năm 2004 các giảng viên của Trường Đại học kinh tế Quốc dân đã có quan


hoá đã có chủ trương chính thúc đẩy các quá trình tập trung ruộng đất, xây
dựng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn với hy vọng mô hình này
sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ hơn sản xuất gia đình phân tán.
Lúc đầu Marx cùng cho rằng đây là điều tất yếu trong quá trình công nghiệp
hoá nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nhưng trong tác phẩm cuối của mình

điểm: "Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm,
2

Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 22/2/2000 của chính phủ về việc kinh tế trang trại.

3

Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá-hiện đại hoá

Báo cáo chuyên đề: "Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác động của nó đến việc và thu nhập của lao
động nông thôn" - Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp- năm 2002.

ở Việt Nam- Nhà xuất bản quốc gia - năm 2000.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1







14

15

ông đã viết: "Ngay ở nước Anh nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất

xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu cung ứng đầu vào, đầu ra... Có thể nói, chưa

có lợi nhất không phải là các Xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các

bao giờ kinh tế trang trại được quan tâm đúng mức như những năm gần đây.

4

trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê". Sở dĩ như vậy là vì sản
xuất nông nghiệp có đặc trưng khác với công nghiệp ở chỗ là phải tác động
vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù hợp với hình thức tổ
chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn.

Tuy vậy, kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế
tự cung tự cấp sang một nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường, sự quá độ của nền kinh tế lại quy định tính đa dạng của nó, về trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, về sở hữu tư liệu sản xuất... Tính không

Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới

đồng đều về trình độ sản xuất, một mặt dẫn tới những hình thức tổ chức sản


bắt đầu cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trường không chỉ tác động

xuất khác nhau, mặt khác, dẫn tới sự không thống nhất của mỗi hình thức tổ

mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành nông nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay

chức sản xuất. Do vậy trang trại nước ta cũng không thể thuần nhất khi mà

đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức sản xuất trong nông

kinh tế còn trong thời gian quá độ. Đó cũng là một quy luật phát triển như quy

nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm

luật phát triển của các mô hình sản xuất khác mà thôi.

phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo hơn. Không chỉ là
các nông trại lớn, ngay cả các đơn vị sản xuất nhỏ như hộ gia đình cũng hiểu rõ
mục đích sản xuất của mình: Sản phẩm để bán chứ không phải để tiêu dùng.
Khi nông nghiệp đã có một bước chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông
dân đã giàu lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kỹ thuật ngày càng sâu
sắc, kinh nghiệm và khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng
cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức độ nhất định, thì cũng là lúc người kinh
doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp
mới, có quy mô lớn hơn, tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là họ bỏ vốn, lập nên
các trang trại, thuê nhân công và hoạt động như một nhà kinh doanh thật sự.

Như vậy, kinh tế trang trại là một thực thể khách quan, xuất hiện như là
kết quả của quá trình tích luỹ về vốn, kinh nghiệm, năng lực của người chủ
sản xuất, do tác động của cơ chế thị trường, mà trong đó, trang trại gia đình (với

một số ưu thế riêng sẽ được xem xét ở phần sau) là mô hình được lựa chọn số 1.
4.2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản
xuất nông nghiệp.
4.2.1. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy chuyên môn hoá sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp - nông thôn và phát triển kinh tế hàng hoá.
Như đã nói, đặc trưng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về

Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển

đất đai và tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vượt trội so với

kinh tế nói chung, phát triển nông ngiệp - nông thôn nói riêng, Chính phủ đã

sản xuất của hộ gia đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn

có khá nhiều văn bản quan trọng về các vấn đề: Đất đai cho trang trại, vốn sản

thiếu vốn và khả năng sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý, họ thường kết
hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó do sự tích luỹ về

4

các yếu tố vốn, đất đai, kinh nghiệm sản xuất thì các trang trại sẽ hướng theo

Kmarx. Toàn tập, tập 25, phần 2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

17

một vài loại sản phẩm do đó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Do

Cũng nhờ quy mô lớn, chuyên môn hoá cao, cùng với tính chất sản xuất

ảnh hưởng của các lợi thế về quy mô, ta sẽ thấy các trang trại ở trong cùng

hàng hoá mà sản phẩm của trang trại là những sản phẩm có giá trị cao. Thông

một vùng có điều kiện tự nhiên giống nhau sẽ trồng hay nuôi cùng một loại

thường thì người làm trang trại hiểu rõ mục đích sản xuất của mình là cung

cây, con như nhau, xây dựng các mô hình thâm canh, chuyên canh, tiếp cận

cấp cho thị trường nên họ chỉ chọn kinh doanh những loại cây, con sao cho có

các biện pháp canh tác hiện đại, từ đấy các vùng chuyên canh, vùng chuyên

hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Hơn thế nữa, sản

môn hoá hình thành, trở thành vùng cung cấp nguyên liệu rộng lớn cho các cơ


phẩm làm ra thường có giá thành cạnh tranh, chất lượng đồng đều, có khả

sở chế biến.

năng cung cấp với khối lượng lớn nên thường dễ được các cơ cở chế biến và

Đến khi sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao và
đồng đều. Vì mục đích kinh tế trang trại là thị trường: Sản xuất cái gì, khối
lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào... đều phải bắt kịp các tín hiệu của
thị trường. Vì thế các trang trại cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kỹ thuật
trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại
sẽ tăng tỷ lệ chăn nuôi, giảm tỷ lệ trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất
thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn.
4.2.2. Phát triển kinh tế trang trại sẽ làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp.
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...)
giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều
kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong
quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động
sản xuất. Với các hộ gia đình, chi phí cho các thiết bị này chiếm tỷ lệ quá lớn
so với thu nhập và giá trị sản phẩm làm ra, nên thông thường họ phải đi thuê,
tỷ suất lợi nhuận vì thế cũng thấp, khiến cho giá trị của cả ngành nông nghiệp

người tiêu dùng chấp nhận. Giá trị sản phẩm cao không chỉ đem lại thu nhập
cho chủ trang trại mà trong phạm vi toàn ngành, nó sẽ là phần đóng góp đáng
kể để gia tăng giá trị ngành sản xuất nông nghiệp.
4.2.3. Phát triển kinh tế trang trại đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn.

Sản xuất nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng, giá cả
nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định
tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản phẩm của
trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp
năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra sản
phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần
được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang
trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này
cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm...
Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: Sự phát triển của ngành này là động lực
phát triển của ngành kia.

giảm theo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




18

19

Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một


Theo số liệu thống kê năm 2006 trên địa bàn huyện Đại Từ vẫn còn đến

bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp - nông thôn tăng lên

hơn 70% lao động là ở nông thôn. (5) Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất

kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường.

nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần phạm vị ứng dụng của máy móc hiện

Như vậy, kinh tế trang trại không chỉ là lực lượng xung kích đi đầu trong
lĩnh vực sản xuất nông sản hàng hoá, mà còn là lực lượng đi đầu trong ứng
dụng khoa học công nghệ nông nghiệp, do đó là nhân tố cơ bản cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn nước ta. Điểm yếu
của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn là tính chất lạc hậu, manh mún,
phân tán của sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung, của tỉnh Thái Nguyên
và của huyện Đại Từ nói riêng (cho dù huyện Đại Từ vẫn là huyện có trình độ
thâm canh cao so với các huyện trong tỉnh Thái Nguyên) nên đã hạn chế khả
năng thay đổi cách thức sản xuất từ thủ công sang lao động bằng máy móc
hiện đại. Quy mô đất đai và vốn lớn của các trang trại sẽ khắc phục nhược

đại càng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu
vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông
nghiệp, như vậy là đã lãng phí một lượng lớn lao động nông thôn. Trong số
đó nhiều người thậm chí còn hoàn toàn không có cả việc làm. Một phần lao
động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại
không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà
của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê, trong
năm 2007 các trang trại của huyện Đại Từ đã thu hút, sử dụng 394 lao động
trong nông thôn.

* Phát triển kinh tế trang trại góp phần tăng cường quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

điểm này.
Nói chung, trong điều kiện kinh tế thị trường, với yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên chính thức
của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì mô hình kinh tế trang trại là một
hướng đi đầy triển vọng cho nông nghiệp Việt Nam. Chắc chắn trong tương
lai, sự phát triển của nông nghiệp huyện Đại Từ phải bao gồm cả sự phát triển
của mô hình kinh tế trang trại.

Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất
xét ở 3 khía cạnh:
Một là: Nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn
thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế, rất
nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế,
những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước

4.3. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết đƣợc những vấn đề về
mặt xã hội và môi trƣờng.

đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần.
Hai là: Dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ

4.3.1. Phát triển kinh tế trang trại sẽ giải quyết được việc làm cho lực
lượng lao động nông thôn.

khoa học kỹ thuật mà trình độ kỹ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá
công nghiệp của huyện nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này,
máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20

21

và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự
phát triển của lực lượng phát triển sản xuất.

Huyện Đại Từ đóng góp của kinh tế trang trại sẽ là góp phần xây dựng
mới, tu sửa và mở rộng mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống đường xá nối các khu

Ba là: Kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối
quan hệ giữa nông dân - nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê
nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất chế biến - tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá. Tiếp theo đó là mối quan
hệ giữa các chủ trang trại và nhà cung cấp, cũng được nâng lên thông qua các
loại hình dịch vụ và chuyển giao kỹ thuật.

vực nông thôn khác nhau, nhất là các xã xa trung tâm thị tứ.
4.3.3. Phát triển kinh tế trang trại khai thác hiệu quả các nguồn lực.
Thực tế cho thấy trong các mô hình kinh tế các yếu tố nguồn lực thường
được sử dụng hiệu quả hơn so với kinh tế hộ. Không còn mang tính chất tự

sản tự tiêu, cơ chế thị trường buộc các "Doanh nghiệp trang trại" phải hạch
toán kinh doanh do đó vì lợi nhuận, các yếu tố đầu vào như đất đai, chi phí

4.3.2. Phát triển kinh tế trang trại thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng

mua giống, phân bón, trang thiết bị máy móc, thuê mướn nhân công... đều
được tính toán sao cho đem lại tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Rộng hơn, kinh tế

nông thôn.
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại
cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại.
Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp
với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề
chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...),
các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở
rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại.
Và vì không phải trang trại nào cũng có khả năng tự xây dựng hệ thống này
nên cần có những sự giúp đỡ của Nhà nước.

trang trại còn góp phần tích cực vào việc huy động tiền vốn đọng trong một
bộ phận lớn nông dân lâu nay vào sản xuất nông nghiệp.
4.3.4. Phát triển kinh tế trang trại góp phần cải thiện môi trường.
Đối với huyện Đại Từ, có 19 trang trại trồng rừng, các trang trại này đã
góp phần vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, một nền
sinh thái bền vững.
Tóm lại, mô hình kinh tế trang trại không chỉ là mô hình thích hợp với
sản xuất nông nghiệp huyện Đại Từ mà nó còn phù hợp với cơ chế thị trường

Đi đôi với việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất
là hệ thống cơ sở phục vụ đời sống nhân dân, hệ thống trường học, trạm xá,

chợ, các công trình văn hoá, thể thao... Một số thị tứ đã hình thành cùng với
sự phát triển kinh tế trang trại.

và đem lại những lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nhận thức
về vai trò của nó chưa đủ để chúng ta xây dựng được hệ thống các giải pháp
hiệu quả, bởi vì ta còn phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế trang trại nữa.
5. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại và tiêu chí xác định
trang trại:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




22

23

5.1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại:
Việc nghiên cứu những đặc trưng của kinh tế trang trại có ý nghĩa quan

ngay từ khi ra đời đã mang tính hàng hoá và càng ngày tính chất và trình độ
sản xuất hàng hoá của nó càng được nâng lên.

trọng trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn quản lý. Để xác định những


Các trang trại đều đi lên từ kinh tế hộ nông dân khi kinh tế hộ phá vỡ vỏ

đặc trưng của kinh tế trang trại, cần xuất phát từ những điểm khác biệt mang

bọc tự cấp, tự cung vốn có. Như quá trình hình thành và phát triển kinh tế

tính bản chất của kinh tế trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp

trang trại gia đình là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ sản

tập trung khác và so với kinh tế nông hộ. Điều này đòi hỏi phải xuất phát từ

xuất hàng hoá của trang trại đồng thời cũng là quá trình thu hẹp tính chất sản

khái niệm về kinh tế trang trại đã được trình bày ở trên. Với quan điểm như

xuất trực tiếp tự cấp, tự túc vốn có của kinh tế hộ nông dân.

vậy, kinh tế trang trại mang những đặc trưng cơ bản sau đây:
5.1.1.Phát triển kinh tế trang trại gắn với sản xuất nông, lâm, thuỷ sản
theo hướng hàng hoá và theo nhu cầu thị trường.

Đặc trưng về mục đích sản xuất hàng hoá là đặc trưng quan trọng nhất
của kinh tế trang trại, bởi vì mục đích sản xuất hàng hoá chi phối và ảnh
hưởng lớn, thậm chí quyết định tới các đặc trưng khác cuả kinh tế trang trại.

Kinh tế trang trại là hình thức kinh tế từng bước đưa nông dân từ hộ

Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu


nông nghiệp tự cấp tự túc lên các hộ nông nghiệp hàng hoá. Vai trò khách

tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị

quan mang tính lịch sử này của kinh tế trang trại gắn liền với tính hai mặt của

sản lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỷ suất hàng hoá của trang trại.

hộ nông dân, với trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp và sự giao lưu
hàng hoá giữa thành thị và nông thôn.

sử dụng của một người chủ độc lập.

Nông hộ vừa là gia đình- đơn vị trực tiếp tiêu dùng của xã hội, vừa là cơ
sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp sản xuất ra những sản phẩm tối cần thiết
cho cuộc sống có thể tiêu dùng trực tiếp. Do vậy sản xuất trực tiếp tự túc là
cái vốn có của kinh tế hộ nông dân. Các hộ nông dân muốn làm giầu phải
thoát khỏi tình trạng sản xuất tự túc và từng bước chuyển sang sản xuất hàng
hoá theo phương thức trang trại.

Trong các trang trại mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của chủ
trang trại trong trường hợp đi thuê hoặc được giao quyền sử dụng thì tư liệu
sản xuất đều thuộc quyền sử dụng của một người chủ độc lập.
Người chủ độc lập ở đây không phải là người chủ biệt lập, tách rời khỏi
các quan hệ liên kết và hợp tác với các chủ thể kinh tế khác. Người chủ độc

Như vậy các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trong nền kinh tế
thị trường mặc dù sản xuất ra khối lượng nông sản phẩm lớn hơn so với hình
thức sản xuất phân tán, song mục đích chủ yếu vẫn là nhằm đáp ứng nhu cầu

tiêu dùng trực tiếp của những chủ nhân của chúng, còn kinh tế trang trại thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5.1.2. Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền



lập ở đây là người hoàn toàn có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên như đã trình bày ở trên, tư liệu sản xuất trong trang trại
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập cũng có
nghĩa là những hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm nghiệp dựa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




24

25

trên sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể (nông, lâm trường quốc doanh, hợp
tác xã nông nghiệp...) thì không thuộc khái niệm trang trại.
5.1.3. Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư được tập trung tới quy
mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.

- Về trình độ chuyên môn hoá sản xuất trong các trang trại: Chuyên môn
hoá sản xuất của trang trại là quá trình gắn liền với việc chuyển phương
hướng sản xuất của trang trại từ sản xuất đa dạng, đa canh kết hợp trồng trọt
với chăn nuôi sang sản xuất chuyên canh, tập trung vào một vài nông sản

hàng hoá có lợi thế so sánh và khả năng sinh lời cao.

Trong nông nghiệp cũng như trong ngành sản xuất vật chất khác, sản
xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập
trung tới quy mô nào đó. Do đó ở các trang trại, sản xuất hàng hoá chỉ có thể
được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất... được tập trung tới

Để phản ánh trình độ chuyên môn hoá, có thể sử dụng chỉ tiêu: Cơ cấu
giá trị sản lượng của trang trại; Cơ cấu giá trị sản lượng hàng hoá của trang
trại.

quy mô cần thiết (đủ lớn). Đặc trưng này được quy định bởi chính đặc trưng

- Trình độ thâm canh trong các trang trại cũng được nâng dần từ thâm

về mục đích sản xuất của trang trại. ở các trang trại tư nhân, quy mô tập trung

canh truyền thống sang thâm canh kết hợp truyền thống với hiện đại rồi thâm

các yếu tố sản xuất lớn hơn hẳn so với các trang trại gia đình, còn các trang

canh hiện đại. Những chỉ tiêu chủ yếu có thể sử dụng để biểu hiện trình độ

trại gia đình mặc dù có quy mô lớn hơn nhiều so với kinh tế họ tự cấp, tự túc,

thâm canh là: Vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích; Vốn đầu tư cho những

song nói chung vẫn nằm trong khuôn khổ gia đình, chịu sự giới hạn nhất định

công nghệ sản xuất tiến bộ trên một đơn vị diện tích; Năng suất cây trồng vật


của các yếu tố sản xuất nội lực. Do vậy, sự tập trung các yếu tố sản xuất

nuôi.

(ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất, lao động...) ở đây dù theo yêu cầu sản
xuất hàng hoá song cũng có những giới hạn nhất định.

giản đơn với mục đích là tối đa hoá lợi ích và tăng thêm thu nhập cho gia đình

Đặc trưng về sự tập trung các yếu tố sản xuất của kinh tế trang trại có thể
biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu sau:

thì chủ trang trại vẫn điều hành sản xuất theo kiểu gia trưởng, song đã bắt đầu
đi vào bố trí, tổ chức sản xuất, ghi chép thu chi và hoạch toán đơn giản. Khi

- Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi
thì là số lượng gia súc, gia cầm...)

sản xuất hàng hoá là hướng chính, các phạm trù lợi nhuận, giá cả và cạnh
tranh ngày càng lôi cuốn trang trại đi vào kinh doanh nhằm đạt lợi nhuận
nhiều hơn thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn thích hợp nữa. Sản

- Quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của trang trại.
5.1.4. Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ dựa trên sự
chuyên môn hoá sản xuất, thâm canh, ứng dụng TBKHKT, thực hiện hoạch
toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận thị trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


- Về cách thức điều hành sản xuất: Lúc đầu sản xuất hàng hoá còn ít và



xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch
ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng công nghệ và quy trình thâm
canh... Do vậy quản lý và điều hành sản xuất ở đây được tiến hành trên cơ sở
những kiến thức cần thiết về nông học, sinh học và phương pháp điều hành
sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




26

27

Về hoạt động tài chính và hoạch toán của trang trại: Hoạt động tài chính

5.1.5. Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có

và hoạch toán của trang trại dần dần thay đổi. Lúc đầu khi mới đi vào sản xuất

kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh

hàng hoá, chủ trang trại thường ghi nhớ trong đầu hoặc có ghi chép, hoạch

doanh.


toán đơn giản lượng thu, lượng chi và phần thu nhập dôi ra đối với vài cây
trồng, vật nuôi chủ yếu. Khi sản xuất hàng hoá đã trở thành hướng chính, các
trang trại thường thực hiện hoạch toán giá thành và lợi nhuận đối với từng
cây, con hàng hoá. Đến khi trang trại kinh doanh gần như một doanh nghiệp
thì hoạt động tài chính đi vào chiều sâu, bao gồm các nội dung: Kế hoạch tài
chính, hoạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh...Hoạt động tài
chính và hoạch toán của trang trại ngày càng có vai trò quan trọng, đồng thời
cũng ngày càng phức tạp đòi hỏi phải có kiến thức và nghiệp vụ kế toán,

Người chủ trang trại là người có những tố chất cần thiết để tổ chức và
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Những tố chất cần thiết
và chủ yếu của chủ trang trại là: Có ý chí và quyết tâm làm giàu từ nghề nông;
Có năng lực tổ chức quản lý; Có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông
nghiệp, đồng thời có hiểu biết nhất định về hoạch toán, phân tích kinh doanh,
tiếp cận thị trường...
Những tố chất của người chủ trang trại nêu trên, về cơ bản không có ở
người chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, những tố chất ngày nói

hoạch toán nhất định.
- Về tiếp cận thị trường: Thái độ và hành động đối với thị trường của
trang trại cũng từng bước được thay đổi theo hướng ngày càng tiếp cận và gắn
kết với thị trường.

chung không phải hoàn toàn được hội đủ ngay khi trang trại mới hình thành
mà phần lớn các chủ trang trại, sự hội tụ các tố chất cần thiết cũng trải qua
một quá trình nhất định. Mức độ hoàn thiện của các tố chất cũng gắn liền với
các giai đoạn phát triển của trang trại.

Lúc đầu trang trại chưa quan tâm nhiều đến thị trường mặc dù đã sản
xuất theo hướng hàng hoá song tỷ trọng sản phẩm tự cung, tự cấp còn khá

cao. Nhưng khi trình độ sản xuất hàng hoá đã nâng lên thì các trang trại

5.1.6. Phát triển kinh tế trang trại giải quyết việc làm cho người lao
động:

thường xuyên quan tâm đến thị trường và tìm kiếm thị trường. Đến khi giai

Thông thường các trang trại trong nông, lâm, ngư nghiệp đều có quy mô

đoạn coi kinh doanh là lẽ sống của mình thì thị trường là khâu kết thúc, quyết

sản xuất lớn hơn hẳn so với quy mô sản xuất của hộ nông dân. Ngay trong các

định chu kỳ kinh doanh thì trang trại thường xây dựng và thực hiện linh hoạt

trang trại gia đình quy mô sản xuất cũng thường lớn hơn khoảng 3 lần so với

chiến lược kinh doanh nhằm đứng vững và phát triển trong cạnh tranh.

quy mô sản xuất bình quân của một hộ nông dân trong vùng. Điều này dẫn

Mức độ liên hệ và gắn kết với thị trường có thể xem xét thông qua chỉ
tiêu tỷ trọng chi phí trung gian trong tổng chi phí sản xuất của trang trại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



đến nhu cầu về lao động trong các trang trại đều vượt quá khả năng nguồn lao
động gia đình và do đó các trang trại đều có thuê mướn lao động.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




28

29

Quy mô thuê mướn lao động của trang trại trong các loại hình khác nhau
và phụ thuộc chủ yếu vào các loại hình trang trại và quy mô sản xuất của các

- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông lâm, thuỷ sản hàng
hoá với quy mô lớn.

trang trại.

- Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản

Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại đó là: Thuê lao

xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô

động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Trong hình thức thuê lao

sản xuất như: Đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản

động thường xuyên, trang trại thuê người lao động làm việc ổn định quanh


hàng hoá.

năm, còn trong hình thức thuê lao động theo thời vụ, trang trại chỉ thuê người
lao động làm việc theo thời vụ sản xuất.

- Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất,
biết áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới

Thông thường các trang trại tư nhân có quy mô sản xuất lớn thì thuê cả
lao động thường xuyên và lao động thời vụ, trong đó lao động thường xuyên

vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất
hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.

là chủ yếu. Các trang trại tiểu nông thuê cả hai loại lao động, nhưng lao động

* Tiêu chí định lượng:

thời vụ là chủ yếu, còn trang trại gia đình do quy mô sản xuất nhỏ hơn các
loại hình trang trại trên nên thường là lao động thời vụ.

Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại, không phải trang trại và để phân
loại các trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000 Liên Bộ Nông nghiệp và Phát

5.2. Tiêu chí xác định trang trại:

triển nông thôn, Tổng cục thống kê đã ra Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-

Không phải Nhà nước bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhưng vì


TCT; Sau đó ngày 4/7/2003 Bộ Nông nghiệp và PTNT ra Thông tư số

đến trước những năm 2000, do chưa có một sự thống nhất về khái niệm cũng

74/TT-BNN về việc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên tịch số

như tiêu chí xác định trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản

69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 hướng dẫn xác định tiêu chí kinh

xuất kinh doanh nhưng chủ trang trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc

tế trang trại5; Cụ thể như sau:

xin hưởng các chế độ hỗ trợ của Nhà nước. Thông thường các nhà thống kê
vẫn sử dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng mà tính định
lượng không cao và các chỉ tiêu này không được thống nhất trong cả nước.

* Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là kinh tế
trang trại
Hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ

* Tiêu chí định tính

hưu, các loại đô thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm

Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, đó là các
đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Thông tư số 74/TT-BNN về v iệc sửa đổi bổ sung mục III của thông tư liên t ịch số 69/2000/TTLT/BNNTCTK ngày 23/6/ 2000
5



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




30

31

nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm

3

Lâm nghiệp

nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.

II

Đối với trang trại chăn nuôi
Chăn nuôi đại gia súc: Trâu, bò…

* Tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại
1

- Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng
với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.

2

- Đối với hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm hàng
hoá của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản thì tiêu chí để xác định

3

trang trại là giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân 1 năm.
* Tiêu trí xác định kinh tế trang trại:

- Có thường xuyên > 50 con

- Chăn nuôi sinh sản
+ Lợn

> 20 con

+ Dê

> 50 con

Chăn nuôi gia cầm: Gà, vịt, ngan…

> 2000 con (không kể số đầu
con dưới 7 ngày tuổi)
> 2 ha


- Đối với chăn nuôi tôm thịt theo
> 1ha

Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có

xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí định lượng sau đây:
IV

triệu đồng trở lên/trang trại.

tính chất đặc thù như: Trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong,
giống thuỷ sản, thuỷ đặc sản thì tiêu chí xác định là giá trị sản
lượng hàng hoá bình quân một năm đạt từ 40 triệu đồng trở lên

2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.

5.3. Phân loại kinh tế trang trại
Phân loại theo
Phân loại theo loại hình sản xuất

Quy mô sản xuất của trang trại được xác định như sau:

quy mô

Phân loại theo chủ
thể kinh doanh

Quy mô


Nhỏ: < 2 ha

- Trồng trọt

Trang trại gia đình

Quy mô diện tích

Vừa: 2-5 ha

+ Trồng rừng

Trang trại tiểu thủ

Khá lớn: 5-10 ha

+ Trồng cây ăn quả

Trang trang tư nhân

I

Đối với trang trại trồng trọt

1

Cây hàng năm

> 2 ha


2

Cây lâu năm (Chè, cây ăn qủa…)

>3 ha

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Chăn nuôi lấy thịt

kiểu công nghiệp

Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được

Loại hình trang trại

- Có thường xuyên > 10 con

Chăn nuôi thuỷ sản
III

1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm phải đạt từ 40

- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa
Chăn nuôi gia súc: Dê, lợn…

hoá bình quân 1 năm, hoặc quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so

STT


> 10 ha



kinh doanh nông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




32

33

nghiệp.
Lớn: > 10 ha

0,53ha…, trong khi đó ở các quốc gia Châu á đều có dân số đông nên có ảnh
hưởng đến quy mô trang trại.

+ Trồng cây lâu năm

Chính vì vậy ở các nước Châu Á nói chung, hiện tượng tích tụ ruộng đất

+ Trồng cây lương thực, thực phẩm

diễn ra chậm nên tình trạng manh mún, phân tán ruộng đất cũng là một trong
+ Kinh doanh đặc thù


trở ngại trong vấn đề phát triển kinh tế trang trại.

- Chăn nuôi:

Đối với các nước Châu Âu, nước Mỹ thì trang trại bao gồm: Trang trại
gia đình; trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần và trang trại uỷ

- Thuỷ sản

thác cho người nhà, bạn bè quản lý, sản xuất. Trong đó trang trại gia đình là

- Trang trại kinh doanh tổng hợp

loại hình trang trại mà mỗi gia đình có tư cách pháp nhân riêng do người chủ
hộ hay một người có năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý, ở
nhiều nước phát triển, những chủ trang trại muốn được nhà nước công nhận

II- Cơ sở thực tiễn:

thì trình độ quản lý và tư cách pháp nhân phải tốt nghiệp các trường kỹ thuật

1. Kinh nghiệm phát triển trang trại của các nƣớc trên thế giới:

và quản lý nông nghiệp, đồng thời có kinh nghiệm qua thực tập lao động sản
xuất kinh doanh một năm ở các trang trại khác. Các chủ trang trại họ đều là

Tại nước Mỹ và các nước Tây Âu kinh tế trang trại đã xuất hiện từ

những chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, có trình độ học vấn, họ thường


những năm 1950, tuy nhiên ngày càng số lượng trang trại ngày càng ít đi, tại

xuyên liên hệ đối với các cơ quan khoa học để thu thập thông tin kinh tế kỹ

Mỹ năm 1950 có 5.648.000 trang trại đến năm 1992 còn 1.920.000 trang trại,

thuật, tham gia hội thảo khoa học. Đây là loại hình trang trại phổ biến còn các

diện tích trang trại bình quân của các trang trại ngày càng tăng, tại Mỹ diện

loại hình trang trại liên doanh, trang trại liên doanh cổ phần thì đây là loại

tích bình quân năm 1950 là 86 ha, đến năm 1992 là 198,7 ha 6. Tại Anh năm

hình trang trại có quy mô lớn, được chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao

1950 diện tích bình quân trang trại là 36 ha, đến năm 1987 là 71 ha 7. Tại các

động làm thuê là chủ yếu. Ở Mỹ và các nước Châu Âu thì nguồn vốn và lao

nước Châu á kinh tế trang trại chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên, dân số

động của họ có những thuận lợi hơn so với các nước Châu Á, các trang trại

nên có những đặc điểm khác với trang trại ở các nước Châu Âu về quy mô và

được mua chịu tư liệu sản xuất, được hỗ trợ vay vốn với lãi xuất thấp để mua

số lượng trang trại. Tại các nước Châu á do đất canh tác trên đầu người vào


tư liệu sản xuất. Về lao động và kỹ thuật, các trang trại ở Châu Âu và các

loại thấp trên thế giới như Đài Loan: 0,47 ha; Malaixia: 0,25 ha; Hàn Quốc:

nước phát triển tăng cường sử dụng máy móc hiện đại và mức độ cơ giới ngày
càng từng bước tiến tới tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá trong sản xuất,

6
7

A.A Connugin: Kinh tế nông trại M ỹ, Tr ường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Điền. Kinh tế trang trại trại t rên thế giới và ở Châu Á

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




34

35

trong các trang trại số lượng lao động trong nông nghiệp của gia đình cũng

theo, thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đồng thời có


như lao động làm thuê ngày càng giảm dần.

chính sách khuyến khích kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân trong

2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở trong nƣớc:

nông, lâm, ngư nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị
quyết Hội nghị lần 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VI tháng 3/1989.

Ở nước ta các hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung với tên gọi khác

Đến năm 1988 đã thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích các hộ, cá

nhau (Trại, ấp, thái ấp, đồn điền, điền trang…) đã xuất hiện ở Việt Nam từ

thể, tư nhân trong ngành nông, lâm ngư nghiệp đã tạo tiền đề cho sự phát triển

những năm đầu công nguyên và phát triển khá mạnh mẽ trong thời kỳ phong

kinh tế trang trại phát triển: Nhà nước thừa nhận sự tồn tại và phát triển của

kiến đặc biệt là thời kỳ Lý-Trần và thời kỳ nhà Nguyễn. Bắt đầu từ những

kinh tế hộ, cá thể, tư nhân; Nhà nước tạo điều kiện về môi trường thuận lợi

năm 1990 đến nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện những chủ

cho kinh tế cá thể, tư nhân, thừa nhận tư cách pháp nhân; Nhà nước bảo hộ về


trương, biện pháp nhất quán theo hướng tạo điều kiện cho kinh tế trang trại ra

quyền tài sản và thu nhập hợp pháp; vốn….việc liên tục hoàn thiện cơ chế,

đời và phát triển. Qua các kỳ đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, Đảng ta đã

chính sách của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát

thừa nhận sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khảng định chính sách

triển. Hiện nay chưa có số liệu công bố chính thức nhưng theo báo cáo của Bộ

khuyến khích tiểu thủ và kinh tế tư bản tư nhân. Điều đó đã tạo nên bối cảnh

Nông nghiệp và PTNT thì cả nước có khoảng 113.000 trang trại, chủ yếu là

ra đời và phát triển của kinh tế trang trại. Bằng các chủ trương, biện pháp

các trang trại gia đình.

thích hợp chúng ta đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển như: Trước
hết là sự thay đổi về các mối quan hệ kinh tế liên quan đến quyền sử dụng đất
đai, b 8ởi vì đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong sản xuất nông
nghiệp. Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã

Qua khảo sát tình hình phát triển kinh tế trang trại của các tỉnh phía Bắc,
có những đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội gần gũi với nước ta, chúng ta có
thể rút ra những nhận xét, kinh nghiệm thực tế, bổ ích để tham khảo và vận
dụng có chọn lọc vào điều kiện cụ thể của huyện Đại Từ tỉnhThái Nguyên.


hội chủ nghĩa, đất đai thuộc quyền sử hữu của ngừơi dân, không mua bán,

Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá, kinh tế trang trại ở các tỉnh phía Bắc đã

đồng thời chủ trương giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân là bước

hình thành và phát triển và đến khi đạt trình độ công nghiệp hoá cao, kinh tế

đột phá đầu tiên thúc đẩy hộ và kinh tế trang trại phát triển. Bước đi đầu tiên

trang trại vẫn tồn tại và đóng vai trò của lực lượng trong nền công nghiệp sản

là việc khoán sản phẩm theo nhóm và người lao động trong các hợp tác xã

xuất nông sản hàng hoá. Thực tế đã chứng minh kinh tế trang trại là loại hình

nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị 100/CT-TW của Ban bí thư Trung ương

tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, là lực

ngày 31-1-1981 đã từng bước khôi phục lại quyền tự chủ đối với sản xuất cho

lượng xung kích sản xuất nông sản hàng hoá.

hộ gia đình trong việc sử dụng đất và lao động của bản thân họ. Bước tiếp

3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên.

8 Phát triển kinh tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đ ình ở Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




36

37

Tỉnh Thái Nguyên là tỉnh có nhiều đất đai rộng lớn với nhiều loại địa

- Trước hết cần xoá bỏ ngay quan niệm về kinh tế trang trại là phải sản

hình và vùng khí hậu khác nhau: Đồng bằng, Trung du, miền núi, vùng cao.

xuất trên những diện tích đất đai rộng lớn nhất. Chúng ta nên nhận định trang

Thực tế cho thấy mô hình kinh tế trang trại ở Thái Nguyên trong những năm

trại từ tính chất sản xuất hàng hoá của nó.

qua sản xuất có hiệu quả. Các trang trại của tỉnh Thái Nguyên có quy mô nhỏ,
phổ biến quy mô bình quân trên dưới 1ha. Nhưng các trang trại của tỉnh Thái
Nguyên vẫn còn những tính chất cơ bản của kinh tế, như đảm bảo tỷ suất

- Phải nhanh chóng nâng cao trình độ cơ giới hoá trong các trang trại để

sản xuất không bị lạc hậu.

hàng hoá cao, khối lượng nông sản nhiều (khi các trang trại sản xuất chuyên

- Trong giai đoạn đầu, cơ cấu sản xuất của các trang trại còn hỗn tạp để

môn hoá từng mặt hàng ở vùng tập trung), vẫn thường xuyên được nâng cao

tận dụng mọi năng lực sản xuất hiện có, nhưng sau dần chuyển sang cơ cấu

trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp. Kinh tế trang trại ở Thái Nguyên

mang tính chuyên canh và một loại nông, lâm, đặc sản nhất định.

chủ yếu vẫn sản xuất theo phương thức gia đình. Trong những năm kinh tế
trang trại ở tỉnh Thái Nguyên phát triển ở tất cả các vùng kinh tế: Đồi núi,
đồng bằng, hàng năm tỉnh Thái Nguyên đã dành một nguồn kinh phí không
nhỏ để phát triển kinh tế trang trại, tạo cơ chế, chính sách về vốn, đất đai và
các điều kiện khác để thúc đẩy trang trại phát triển, đến nay toàn tỉnh Thái
Nguyên có 381 trang trại, chủ yếu là các trang trại gia đình. Để phát triển
trang trại trong năm qua tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện một số giải pháp như:
Quy hoạch xác định các khu vực phát triển kinh tế trang trại tập trung nhằm
hình thành vùng sản xuất tập trung, đáp ứng nhu cầu thị trường. Định hướng
phát triển cây trồng, vật nuôi chính , phát huy thế mạnh của từng vùng, đầu tư
vốn, khoa học kỹ thuật… phù hợp với điều kiện của từng huyện. Giải quyết
các vấn đề chuyển dịch đất đai tạo điều kiện cho các gia đình có quy mô đất
đai lớn để tập trung sản xuất. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, tạo mối liên doanh, liên kết

- Mô hình trang trại gia đình đang và sẽ là loại hình trang trại phổ biến

và thích hợp. Nó bao gồm trang trại gia đình tiểu chủ vừa sử dụng lao động
gia đình vừa thuê thêm lao động thời vụ và thường xuyên với số lượng khác
nhau, được Nhà nước chủ trương khuyến khích. Chính loại lao động tiểu chủ
là lực lượng lao động có nhiều tiềm năng sản xuất nông sản hàng hoá hiện
nay. Mô hình này có nhiều ưu điểm nổi bật:
+ Có khả năng dung nạp những trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các cấp độ công nghệ khác nhau
+ Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế khác nhau: Kinh tế gia đình,
kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác, kinh tế Nhà nước.
Các chính sách phát triển kinh tế trang trại của Nhà nước sẽ phải tạo điều

với kinh tế hợp tác xã và kinh tế nhà nước 9.
4. Bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế trang trại ở huyện Đại Từ.

kiện thuận lợi để các hộ gia đình nông dân có thể sản xuất theo mô hình này.
- Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện, từ yêu cầu

9

đặt ra của công nghiệp hoá, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo

Kết quả thực hiện Đề án phát triển kinh tế trang trại ở Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





38

39

những bài học của các tỉnh bạn, phát triển trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm,
cây lâu năm... ở những nơi có điều kiện xuất khẩu, trang trại trồng cây con
cần ít đất, trồng hoa, cây cảnh, làm nấm, nuôi cá cảnh, rắn, ba ba, nhím... có
thể đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Về vấn đề phân hoá thu nhập: Có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế trang
trại là "Lối làm ăn của người giàu", bởi những nông dân nghèo thì khó mà có
đủ vốn để làm trang trại, đồng thời cho rằng không nên khuyến khích loại
hình trang trại tư bản tư nhân vì nó có thể dẫn đến sự tư bản hoá sản xuất
nông nghiệp. Đúng là nhờ kinh tế trang trại, một bộ phận dân cư đã có mức
thu nhập cao hơn hẳn và cũng làm phân hoá giàu nghèo, nhưng thực tế là nó
không làm cho những người nghèo nghèo đi và cũng không làm tăng số người
nghèo, trái lại còn giải quyết việc làm cho một phần đáng kể lực lượng lao
động nữa. Hơn thế, nông nghiệp huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và
nước Việt Nam nói chung còn quá lạc hậu, thu nhập của người nông dân Việt

- Yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trang trại của huyện Đại
Từ.
- Hiệu quả kinh tế của các trang trại như thế nào?
- Giải pháp nào thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại ở Đại Từ?
II. Các phƣơng pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp thu thập số liệu:
- Thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu thống kê qua Niên giám thống kê
hàng năm của huyện.

+ Các thông tin, tài liệu có liên quan đến các vấn đề trang trại, kinh tế
trang trại, hiệu quả kinh tế trang trại trên thế giới và Việt Nam thu thập qua
báo chí, tạp chí, mạng Internet.

Nam thấp so với thu nhập của nông dân các nước trong khu vực và trên thế

+ Các báo cáo Nghị Quyết, số liệu cơ bản tình hình kinh tế xã hội của

giới, vì thế để đuổi kịp họ về trình độ sản xuất, về mức sống dân cư, về khả

tỉnh, huyện, xã nghiên cứu thu thập tại Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng

năng cạnh tranh của nông sản, thì kinh tế trang trại là sự lựa chọn số một, sự

Thống kê huyện Đại Từ.

lựa chọn đúng đắn và hiệu quả.

+ Các đề án, báo cáo tổng kết hàng năm về hoạt động của trang trại trên
địa bàn huyện Đại Từ.

B. Phƣơng pháp nghiên cứu:

- Thu thập tài liệu sơ cấp: Bằng cách điều tra qua bảng được soạn sẵn

I. Các vấn đề mà đề tài cần giải quyết:
Để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Đại Từ theo đúng định
hướng, phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của trang trại trong nền kinh tế thị
trường thì các vấn đề mà đề tài cần tập trung giải quyết đó là:
- Trong những năm qua kinh tế trang trại ở Đại Từ đã phát triển như thế nào?


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



đính kèm với báo cáo.
2. Công cụ xử lý số liệu:
Thông tin và số liệu sau khi thu thập sẽ được tính toán theo mục đích của
đề tài trên chương trình tính toán Exel.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




40

41

3. Phương pháp phân tích số liệu:

- Tổng thu nhập/1 lao động.

- Phương pháp thống kê mô tả: Được dùng tính, đánh giá các kết quả

- Giá trị sản xuất/ 1 trang trại bình quân.

nghiên cứu.

- Số lượng lao động thuê ngoài/lao động.


- Phương pháp phân tổ, thống kê, phân thành các tổ để đánh giá.
- Phương pháp so sánh: Xử lý số liệu tính toán ra các chỉ tiêu số tương
đối, chỉ rõ nguyên nhân biến động của hiện tượng.

Trong đó:
+ Giá trị sản xuất là giá trị toàn bộ sản phẩm thu được trong một đơn vị,
trong một năm hay một chu kỳ.

- Phương pháp dự báo.

+ Thu nhập của các trang trại là phần thu nhập thuần tuý của người sản

III. Hệ thống chỉ tiêu phân tích:

xuất, gồm cả công lao động trang trại và lợi nhuận mà trang trại có thể nhận

* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất của trang trại:

được trong một năm hoặc một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
+ Tổng giá trị sản xuất/1 đơn vị diện tích, tổng giá trị sản xuất/1 lao động

- Tổng khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm.

là giá trị sản xuất được tạo ra bởi một công lao động, một đơn vị diện tích.

- Tổng giá trị sản xuất.

+ Tổng thu nhập/1 đơn vị diện tích, tổng thu nhập/1 lao động là thu nhập


- Tổng chi phí sản xuất.

tính trên một công lao động, một đơn vị diện tích.

- Thu nhập bình quân 1 năm của trang trại.

* Hiệu quả môi trường:

- Tỷ suất sản phẩm hàng hoá bằng giá trị sản phẩm hàng hoá/ tổng giá trị sản

- Diện tích rừng đã trồng/ trang trại.

xuất.

- Số trang trại có hệ thống xử lý phân thải.
* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế trang trại:

- Diện tích cây ăn quả trồng mới/ trang trại.

- Tổng giá trị sản xuất/1 đơn vị diện tích:
- Tổng giá trị sản xuất/1 lao động.
- Tổng thu nhập/1 đơn vị diện tích:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





42

43

+ Vùng II: là vùng của dãy núi thấp có độ cao: 150 - 300m

CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

+ Vùng III: là vùng thung lung hẹp song song với dãy Tam Đảo

HUYỆN ĐẠI TỪ TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI GIAN QUA

Tổng diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc được thể
hiện ở biểu 01.

2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu:

Biểu 01: Diện tích của huyện theo cấp độ cao tuyệt đối và độ dốc

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên:

Độ cao

Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Có diện tích tự
nhiên là 57.790 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp: 14.689 ha (chiếm

STT


25,42 %), đất lâm nghiệp: 27.814 ha (chiếm 48,13 %). Dân số toàn huyện trên
165 vạn người, có gần 37.000 hộ sản xuất nông nghiệp.
+ Vị trí địa lý:
Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích
đất tự nhiên: 57.790 ha. Với có toạ độ địa lý: 210 30’ đến 21050’ độ vĩ Bắc,
105032’ đến 105042’ độ Kinh đông.
Phía Tây giáp Tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Phú Thọ

tuyệt đối
(m)

Diện

Tỷ lệ

Độ dốc

Diện tích

Tỷ lệ

tích (ha)

(%)

(o)

(ha)


(%)

1

< 100

25 123

43.45

<8

15 500

26,82

2

100 – 300

22 087

38.21

8 – 15

6 343

10,97


3

300 – 700

7 179

12.42

15 – 25

13 528

23,40

4

> 700

3 401

5.90

> 25

22 419

38,81

Nguồn: Báo cáo diện tích của huyện trong báo cáo kinh tế xã hội huyện Đại Từ


Phía Đông giáp huyện Phú Lương và thành phố Thái Nguyên.

+ Khí hậu chia hai mùa rõ rệt: mùa mua từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô
từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

Phía Bắc giáp huyện Định Hoá.

- Khí hậu nhiệt độ trung bình năm: 22.90C

Phía Nam giáp huyện Phổ Yên.
+ Địa hình: Đại Từ là huyện có địa hình tương đối phức tạp thể hiện
đặc trưng của vùng trung du miền núi Đông Bắc, địa hình có thể chia làm 3
vùng khác nhau:

- Nhiệt độ cao nhất trung bình năm: 27.20C
- Nhiệt độ thấp nhất trung bình năm: 20.00C
- Luợng mưa trung bình năm: 1 872 mm/nam

+ Vùng I: là vùng địa hình của dãy Tam Đảo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




44


45

- Độ ẩm không khí trung bình: 78 - 86 (%)

1.1.1.3 Đất trồng cây hàng năm khác

- Lượng bốc hơi trung bình: 985,5mm/năm

1.1.2

Đất trồng cây lâu năm

1.2

Đất lâm nghiệp

28.020,98

1.2.1

Đất rừng sản xuất

14.238,02

1.2.2

Đất rừng phòng hộ

2.187,13


1.2.3

Đất rừng đặc dụng

11.595,83

- Đất Feralit phát triển trên phù sa cổ: 1.3036 ha chiếm tỷ lệ 22,55 %

1.3

Đất nuôi trồng thuỷ sản

- Đất phù sa Gley phát triển trên đất phù sa cổ: 13.247 ha chiếm tỷ lệ

2

Đất phi nông nghiệp

2.1

Đất ở

2.1.1

Đất ở tại nông thôn

2.1.2

Đất ở tại đô thị


2.2

Đất chuyên dùng

2.2.1

Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp

2.2.2

Đất quốc phòng

2.2.3

Đất an ninh

2.2.4

Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp

2.2.5

Đất có mục đích công cộng

- Thổ nhưỡng: Trên địa bàn huyện đều được hình thành bởi 8 nhóm,

955,87
8.266,34


trong dó có 4 nhóm đất chính là:
- Đất xám mùn trên núi có: 16.400 ha chiếm tỷ lệ 28,37%
- Đất Feralit phát triển trên đất đỏ biến chất: 15.107 ha chiếm tỷ lệ
26,14 %

22,94 %

Biểu 2: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Đại Từ
Đơn vị tính: Ha
STT

Mục đích sử dụng đất

Diện tích

Tổng diện tích đất tự nhiên

57.705,47

1

Đất nông nghiệp

45.311,45

1.1

Đất sản xuất nông nghiệp

16.375,98


1.1.1

Đất trồng cây hàng năm

8.109,64

1.1.1.1 Đất trồng lúa
1.1.1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7.123,84

914,49
8.910,86
2.747,7
2.679,10
68,6
2.731,28
38,7
377,06
0,85
520,93
1.793,74

29,93




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×