Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận luật cạnh tranh khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.62 KB, 26 trang )

Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................................................2

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 1


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

LỜI NÓI ĐẦU
Khuyến mại là một trong những hoạt động thương mại được nhiều doanh
nghiệp áp dụng nhằm mục đích thu hút khách hàng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của
mình. Nếu quảng cáo là hình thức thỏa mãn tính hiếu kỳ bằng thông tin đưa ra cho
thị trường thì khuyến mại là việc dùng lợi ích vật chất để khuyến khích mua hàng.
Vì lẽ đó, có nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng hình thức xúc tiến thương mại này để
nhằm cạnh tranh, loại bỏ bớt đối thủ cạnh tranh một cách không lành mạnh.
Chính vì vậy đôi khi khuyến mại trở thành con dao hai lưỡi có thể mang lại
những tác động đột ngột không có lợi cho thị trường, do đó pháp luật đã quy định
một số cơ chế kiểm soát hoạt động này. Luật Thương mại 2005 đã quy định về hình
thức, chủ thể, cách thức tổ chức hoạt động khuyến mại của thương nhân và và Luật
Cạnh tranh 2004 (LCT 2004) đã quy định các hành vi được coi là hành vi khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Trong giới hạn của bài tiểu luận, nhóm chỉ tập trung nghiên cứu về những


hành vi được coi là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam.

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 2


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

I. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ KHUYẾN
MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
a. Khái niệm
Quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh Tranh 2004: “Hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.”
Và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được liệt kê tại Điều 39 LCT
2004 bao gồm 10 hành vi như sau:
“1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. Ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại
khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định.”
Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành
vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây
thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan.
Theo các nước châu Âu lục địa thì về bản chất hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là hành vi vi phạm quyền dân sự, các yếu tố cấu thành của cạnh tranh không
lành mạnh giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại.
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 3


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

b. Đặc điểm
• Hành vi canh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ
thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận.
Chủ thể kinh doanh trên thị trường chủ yếu là các doanh nghiệp theo nghĩa
rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một
cách thường xuyên và chuyên nghiệp. Trên phạm vi rộng, các quy định về cạnh
tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm doanh
nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự do (bác sĩ, luật
sư, kiến trúc sư,…).

Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh nghiệp khác. Để
thu được lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với các đối thủ hoạt động
trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm giành giật, thu hút khách về phía mình. Do đó
mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính đáng, phù hợp
với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh
có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế.
• Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối lập,
ngược các thông lệ tốt:
Các biện pháp dự phòng cho các trường hợp pháp luật chưa quy định về
hành vi cụ thể nhưng hành vi này lại xâm hại quyền cạnh tranh của tổ chức và cá
nhân kinh doanh khác lẫn quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng, nguyên tắc đạo
đức kinh doanh. Bên vi phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mặc dù biết hoặc buộc
phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của
mình nhưng vẫn cố tình vi phạm.
• Hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn
chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các đối
tượng khác.
Hậu quả hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt cho các tổ chức,
cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý
cạnh tranh của nhà nước mà không làm cản trở, sai lệch hay giảm tình trạng cạnh
tranh của thị trường như hành vi hạn chế cạnh tranh. Tùy thuộc vào pháp luật của
mỗi quốc gia cũng như quan điểm của các cơ quan xử lý sẽ có các hình thức nhìn
nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 4


Môn Luật Cạnh tranh


GV: TS.Trần Thăng Long

2. Khái niệm, các hình thức khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh
a. Khái niệm
Khoản 1 Điều 88 Luật Thương Mại 2005 quy định: “ Khuyến mại là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.”
Hiện vẫn chưa có quy định cụ thể về khái niệm hành vi khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, Luật Cạnh Tranh 2004 cũng chỉ liệt kê những hành vi
được coi là khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46. Tuy nhiên
từ khái niệm khuyến mại nêu trên có thể hiểu hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh là hoạt động xúc tiến thương mại của doanh nghiệp trong quá
trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại hoặc co thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
b. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Điều 46 LCT 2004 quy định những hành vi sau đây là hành vi khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
• Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng: hành vi này xảy ra khi
doanh nghiệp thực hiện khuyến mại bằng hình thức tổ chức giải thưởng
nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng giải thưởng đã
công bố trước đó.
Ví dụ: Doanh nghiệp khuyến mại mua hàng hóa có giá trị đơn hàng trên 10
triệu đồng thì khách hàng sẽ được tặng 1 điện thoại trị giá 1 triệu đồng. Nhưng sau
đó doanh nghiệp đã không thực hiện việc tặng điện thoại cho khách khi đáp ứng đủ
điều kiện của doanh nghiệp đưa ra.
• Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để
lừa dối khách hàng: trong trường hợp này hoạt động khuyến mại được

doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để làm cho khách hàng bị nhầm lẫn
về hàng hóa, dịch vụ.
Ví dụ: Doanh nghiệp tặng hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất lượng
cao hơn so với hàng hóa đang bán trên thị trường.

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 5


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

 Hai hành vi này được thực hiện với thủ đoạn đưa những thông tin gian dối
về giải thưởng, không trung thực về hàng hóa, dịch vụ hoặc gây nhầm lẫn để lừa
dối người tiêu dùng.
Bản chất lừa dối của hành vi khuyến mại là việc các doanh nghiệp đã không
trung thực về các lợi ích mà khách hàng sẽ được hưởng hoặc dùng các lợi ích đó để
tạo ra cho khách hàng sự nhận thức sai lệch về hàng hóa, dịch vụ. Những hành vi
như tổ chức và công bố công khai về giải thưởng song không có giải thưởng hoặc
giải thưởng không đúng với những gì đã công bố, hành vi khuyến mại bằng giải
thưởng không đúng với những gì đã công bố, hành vi tổ chức khuyến mại bằng
cách đưa hàng mẫu cho khách dùng thử với chất lượng cao cấp hơn nhiều so với
hàng hóa được mua bán hòng làm cho khách bị nhầm lẫn về chất lượng hàng hóa
đều bị xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
• Phân biệt đối xử với khách hàng như nhau tại địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Căn cứ quy định
này có những yếu tố sau đây cấu thành nên hành vi vi phạm:
Doanh nghiệp tổ chức khuyến mại trong một khu vực bao gồm nhiều địa bàn

khác nhau (doanh nghiệp có thể chia khu vực khuyến mại thành các địa bàn theo
khu vực địa lý, theo tiêu chuẩn thành thị, nông thôn hoặc theo nhóm khách hàng…
Khách hàng ở các địa bản trên phải đáp ứng các điều kiện như nhau để được
tham gia vào chương trình khuyến mại (ví dụ: khách hàng cần có số lượng hàng
hóa tiêu thụ giống nhau…).
Doanh nghiệp đã áp dụng cơ cấu lợi ích khác nhau theo địa bàn. Do đó dù
đáp ứng các điều kiện như nhau nhưng các khách hàng ở địa bàn khác nhau được
hưởng lợi ích khuyến mại không giống nhau.
Ví dụ: Cùng điều kiện là có đủ 3 nắp chai bia, các khách hàng ở nông thôn và
ở thành thị sẽ có cơ hội trúng những giải thưởng với giá trị khác nhau. Hành vi này
 Hành vi này bị xem là cạnh tranh không lành mạnh vì đã phân biệt đối xử
với khách hàng. Về nguyên tắc, khi khách hàng đáp ứng đủ những điều kiện
mà doanh nghiệp đặt ra và các điều kiện là như nhau thì họ có vị trí như nhau
trước doanh nghiệp. Một khi điều kiện giống nhau nhưng lợi ích được thụ
hưởng khác nhau thì doanh nghiệp thực hiện việc khuyến mại đã có thái độ
đối xử không công bằng đối với khách hàng.

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 6


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

Việc quy định hành vi phân biệt đối xử với khách hàng là cạnh tranh không
lành mạnh cho thấy pháp luật cạnh tranh không chỉ bảo vệ tổ chức, cá nhân kinh
doanh mà còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng. Tuy nhiên, trong quy định về hành vi này, pháp luật chưa làm rõ yếu tố như

nhau của khách hàng khi tham gia khuyến mại.
• Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng
đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó
đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình, để cấu thành hành vi vi phạm
cần phải xác định các yếu tố sau đây:
Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách dùng thử.
Để được tặng hàng hóa, khách phải chấp nhận đổi hàng hóa cùng loại do
doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng.
Với điều kiện này, đối tượng được tham gia khuyến mại chỉ là các khách
hàng đang giao dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Nói
cách khác, doanh nghiệp đã trực diện lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản phẩm
cùng loại của doanh nghiệp khác bằng cách tặng hàng hóa cho họ dùng thử với
mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi này bị coi là một
dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ một cách không chính
đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác.
Khi tham gia thị trường các doanh nghiệp được quyền tác động đến nhu cầu
của khách hàng bằng cách dành lợi ích vật chất, cung cấp các thông tin về sản
phẩm của mình để khách hàng có thể lựa chọn chúng trong vô số các sản phẩm
cùng loại khác. Trước rất nhiều sản phẩm cùng loại có khả năng đáp ứng cho cùng
một nhu cầu, doanh nghiệp chỉ có thể làm nổi bật sản phẩm của mình trước khách
hàng để cạnh tranh.
Trong khuyến mại không lành mạnh việc tặng hàng hoá cho khách hàng
dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp
khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình là toan
tính nhằm xoá bỏ hình ảnh của doanh nghiệp khác trong thói quen tiêu dùng đã có
của khách hàng để tạo thói quen tiêu dùng mới đối với sản phẩm của mình. Trong
thực tiễn, đã có những doanh nghiệp tổ chức chương trình khuyến mại tặng những
gói sản phẩm bột nêm với khối lượng 250g cho khách hàng với điều kiện khách
hàng phải cung cấp cho doanh nghiệp ít nhất là hai vỏ bao bột nêm do doanh
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh


Trang 7


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

nghiệp khác sản xuất. Có thể nói, đây là vụ việc điển hình cho chiến lược xóa bỏ
sản phẩm của doanh nghiệp khác trong nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
• Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.
Đây là quy định mang tính chất mở và dự liệu của pháp luật cạnh tranh.
c. Xử lý vi phạm
Các doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ bị phạt
tiền và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung kèm biện pháp
khắc phục. Đó là:
Điều 48 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP: Hành vi vi phạm về khuyến mại:
“1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với cá nhân hoạt
động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh theo quy
định có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để
chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố;
b) Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự chương trình khuyến
mại mang tính may rủi;
c) Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với thương nhân
có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng các quy định
về thông tin phải thông báo công khai hoặc không thực hiện đúng các quy định về
cách thức thông báo các thông tin phải thông báo công khai khi thực hiện khuyến

mại;
b) Không thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử
dụng hàng mẫu, dịch vụ mẫu khi thực hiện hình thức khuyến mại đưa hàng mẫu,
cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền hoặc không
thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng hàng hoá,
dịch vụ cung ứng cho khách hàng khi thực hiện hình thức khuyến mại tặng hàng
hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền không kèm theo việc mua,
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ;

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 8


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

c) Thu các khoản phí, lệ phí, tiền từ khách hàng hoặc yêu cầu khách hàng
thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào khác khi thực hiện hình thức khuyến mại
đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền;
d) Không tổ chức công khai việc mở thưởng chương trình khuyến mại mang
tính may rủi hoặc tổ chức mở thưởng chương trình khuyến mại mang tính may rủi
mà không có sự chứng kiến của khách hàng;
đ) Tổ chức mở thưởng chương trình khuyến mại mang tính may rủi có tổng
giá trị giải thưởng từ 100.000.000 đồng trở lên mà không thông báo cho cơ quan
quản lý nhà nước về thương mại có thẩm quyền theo quy định;
e) Tổ chức thi và mở thưởng không công khai hoặc không có sự chứng kiến
của đại diện khách hàng hoặc không thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền theo quy định khi thực hiện chương trình khuyến mại bán hàng, cung

ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao giải
thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố;
g) Không thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về thời
gian, địa điểm thực hiện việc đưa bằng chứng xác định trúng thưởng vào hàng hoá
đối với hình thức khuyến mại mang tính may rủi mà việc trúng thưởng được xác
định trên cơ sở bằng chứng trúng thưởng kèm theo hàng hoá;
h) Không thông báo công khai kết quả trúng thưởng trên ít nhất một phương
tiện thông tin đại chúng tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi tổ chức
chương trình khuyến mại và tại các địa điểm bán hàng thuộc chương trình khuyến
mại trong trường hợp thực hiện chương trình khuyến mại theo hình thức bán hàng,
cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao
thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố hoặc thực hiện chương trình khuyến
mại bằng hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương
trình mang tính may rủi;
i) Không thực hiện việc trao giải thưởng trong thời hạn quy định khi thực
hiện chương trình khuyến mại có trao giải thưởng;
k) Không xác nhận chính xác, kịp thời sự tham gia của khách hàng vào
chương trình khách hàng thường xuyên;
l) Không ghi đầy đủ các nội dung bắt buộc theo quy định trên phiếu mua
hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, phiếu dự thi, vé số dự thưởng, thẻ khách hàng hoặc

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 9


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long


phiếu ghi nhận việc mua hàng hoá, dịch vụ sử dụng trong các chương trình khuyến
mại.
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với thương nhân
có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Thực hiện khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ mà không phải là thương
nhân theo quy định được quyền thực hiện khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ đó;
b) Thực hiện khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ của thương nhân khác mà
không có hợp đồng dịch vụ khuyến mại theo quy định hoặc thuê thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ của mình
mà không có hợp đồng dịch vụ khuyến mại theo quy định;
c) Không thông báo hoặc không đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền theo quy định trước khi thực hiện khuyến mại hoặc thông báo, đăng ký
không đúng quy định hoặc nội dung thông báo, đăng ký không trung thực;
d) Không thông báo hoặc không báo cáo kết quả thực hiện khuyến mại với
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định hoặc thông báo, báo cáo
không đúng thời hạn quy định hoặc nội dung thông báo, báo cáo không trung thực;
đ) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hoặc trì hoãn việc thực hiện
các nội dung của chương trình khuyến mại đã thông báo, cam kết với khách hàng;
e) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chương trình khuyến mại đã
thông báo hoặc đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;
g) Thực hiện khuyến mại có giá trị của hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến
mại vượt quá hạn mức tối đa về giá trị hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại theo
quy định;
h) Thực hiện khuyến mại bằng hình thức giảm giá có mức giảm giá hàng
hoá, giá cung ứng dịch vụ vượt quá mức giảm giá tối đa được phép đối với hàng
hoá, dịch vụ được khuyến mại theo quy định;
i) Thực hiện khuyến mại bằng hình thức giảm giá bán hàng hoá, giá cung
ứng dịch vụ xuống thấp hơn mức giá tối thiểu trong trường hợp giá bán hàng hoá,
giá cung ứng dịch vụ thuộc diện nhà nước có quy định khung giá hoặc quy định giá
tối thiểu hoặc giảm giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đối với hàng hoá, dịch

vụ thuộc diện nhà nước quy định giá cụ thể;

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 10


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

k) Thực hiện chương trình khuyến mại bằng hình thức giảm giá hoặc bằng
hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo việc tham dự chương trình
mang tính may rủi không đúng quy định về thời gian được phép thực hiện khuyến
mại;
l) Sử dụng vé số dự thưởng có hình thức giống hoặc tương tự với xổ số do
nhà nước độc quyền phát hành hoặc sử dụng kết quả xổ số của nhà nước để làm
kết quả xác định trúng thưởng khi thực hiện chương trình khuyến mại mang tính
may rủi;
m) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về việc trích nộp
50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp
không có người trúng thưởng sau khi thực hiện chương trình khuyến mại bằng hình
thức bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham gia các chương trình mang
tính may rủi theo quy định;
n) Chấm dứt việc thực hiện chương trình khuyến mại trước thời hạn đã công
bố hoặc đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xác nhận, trừ trường
hợp pháp luật cho phép hoặc trường hợp cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
xác nhận điều chỉnh thời gian thực hiện khuyến mại;
o) Thực hiện khuyến mại trái quy định về nguyên tắc thực hiện khuyến mại.
4. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các

hành vi vi phạm sau đây:
a) Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hoá, dịch vụ
hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép
cung ứng; hàng hoá không bảo đảm chất lượng theo quy định;
b) Sử dụng hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ cấm
kinh doanh; hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu
thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng; hàng hoá không bảo đảm chất lượng
theo quy định;
c) Khuyến mại rượu, bia hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người
dưới 18 tuổi;
d) Khuyến mại thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên hoặc sử dụng thuốc
lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức;

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 11


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

đ) Dùng thuốc chữa bệnh cho người (kể cả loại thuốc đã được phép lưu
thông) để khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại cho thương nhân kinh doanh
thuốc;
e) Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để
lừa dối khách hàng;
g) Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá không bảo đảm chất lượng theo quy
định làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng
khác;

h) Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
i) Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng;
k) Nội dung chương trình thi của chương trình khuyến mại theo hình thức
bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn
người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố trái với truyền thống lịch
sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.
5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với văn phòng đại
diện của thương nhân thực hiện khuyến mại cho thương nhân mà mình đại diện
hoặc thuê thương nhân khác thực hiện khuyến mại cho thương nhân mà mình đại
diện tại Việt Nam.
6. Phạt tiền gấp hai lần mức tiền phạt quy định từ khoản 1 đến khoản 5 Điều
này trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên địa bàn từ hai tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
7. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu tang vật đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm a, b, c, d, đ và g
khoản 4 Điều này.
8. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc tiêu huỷ hàng hoá vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định tại
điểm a và b khoản 4 Điều này;
b) Buộc huỷ bỏ kết quả đã mở thưởng và tổ chức mở thưởng lại đối với hành
vi vi phạm quy định tại điểm d, đ và e khoản 2 Điều này;

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 12


Môn Luật Cạnh tranh


GV: TS.Trần Thăng Long

c) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm
quy định tại điểm c khoản 2 và điểm m khoản 3 Điều này.”
II. PHÂN TÍCH VỤ VIỆC THỰC TIỄN VỀ HÀNH VI KHUYẾN MẠI
NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng:
Các doanh nghiệp tổ chức hoạt động khuyến mại nhằm thu hút khách hàng,
thông qua việc giành cho khách hàng những giải thưởng, từ đó nhằm thu hút khách
hàng chú ý đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Cách thức khuyến mại thông
qua việc dành cho khách hàng những giải thưởng được đưa ra dựa trên việc khách
hàng có trên tâm lý mong muốn có được giải thưởng. Doanh nghiệp dựa trên tâm lý
ham muốn giải thưởng của khách hàng khi tham gia mua hàng hay sử dụng dịch vụ
mà đưa ra những chương trình khuyến mại với giải thưởng rất lớn, rất hấp dẫn. Tuy
nhiên, thực tế khách hàng không có cơ hội nhận được những phần thưởng dùng để
khuyến mại hoặc những phần thưởng đó không đúng như chương trình khuyến mại
đã đề ra. Như vậy, trong các chương trình khuyến mại này đã có sự gian dối về giải
thưởng.
Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các doanh
nghiệp thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Trong vụ gian dối về giải thưởng
của công ty điện tử LG Việt Nam diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006
thì việc gian dối về giải thưởng thực hiện kín đáo, rất khó phát hiện. Giải thưởng
được đưa ra bao gồm chiếc xe Toyota trị giá gần 30.000 đô la (giải nhất), xe tải
Huyndai 1,5 tấn (giải nhì), xe máy Honda Dylan (giải ba). Chương trình bốc thăm
giải thưởng đang được diễn ra thì có một khách hàng tuyên bố lá phiếu 233 mà anh
ta đang giữ cuống vé không có trong thùng phiếu. Ban tổ chức để khách hàng đó
kiểm tra thùng. Quả nhiên trong thùng không có lá phiếu số 233. Và tất cả các tờ
phiếu từ số 200 trở lên do một số người khác nắm giữ đều không có trong thùng.
Khuyến mại gian dối về giải thưởng còn thể hiện thông qua trường hợp đưa
ra giá trị giải thưởng khuyến mại rất lớn nhưng thực hiện việc trao giải thưởng thì

rất nhỏ. Điển hình như chương trình khuyến mại của một công ty bia "bật nắp chai
trúng thưởng” diễn ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải
thưởng gồm 200.000 giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô BMW, không ai có thể chắc
chắn rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản
phẩm được bán trong đợt khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục trưởng
Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), trong tổng số 215 tỉ đồng giá trị hàng
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 13


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà các thương nhân đăng ký thì tổng số giá trị
giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng, tương đương 3% tổng số tiền đã
đăng ký cho chương trình khuyến mại . Như vậy, giá trị thật mà các doanh nghiệp
trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số được nêu ra trong chương
trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận được nhiều những phần thưởng có
giá trị từ các chương trình khuyến mại gian dối trên.
Khuyến mại gian dối về phần thưởng còn thể hiện thông qua việc cho khách
hàng được nhận phần thưởng nhưng phải kèm điều kiện mua kèm theo các hàng
hóa khác của doanh nghiệp. Trong bài báo "Đánh lừa người tiêu dùng bằng các
chiêu khuyến mại” đăng trên trang web báo Lao động ngày 23/12/2010 đã đưa ra
một trường hợp khuyến mại gian dối của siêu thị Vinaconex (Quang Trung – Hà
Đông – Hà Nội). Một khách hàng mua sản phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận
được phiếu cào trong chương trình khuyến mại "Mừng giáng sinh – Chào năm
mới”. Sau khi cào, khách hàng này trúng giải nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy
nhiên, khi đến lĩnh thưởng thì điều kiện lĩnh thưởng là: "Phiếu chỉ có giá trị lĩnh

thưởng khi khách hàng mang theo phiếu này và mua 01 chiếc áo Complet hoặc 01
bộ quần áo Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi xem quần áo
Comple để mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ 880.000
đồng đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức "có cho không cũng
không nhận”.
Như vậy, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thường
xuyên tổ chức hoạt động khuyến mại. Hình thức khuyến mại thông qua việc trao
tặng các giải thưởng cho khách hàng là hình thức thu hút được nhiều khách hàng
đến với doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện
chương trình khuyến mại, có thể gian dối trong việc trao giải thưởng cho khách
hàng. Một trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khuyến mại gian dối xuất
phát từ sự quản lý chưa chặt chẽ của các cơ quan chức năng, hoặc do các doanh
nghiệp thiếu đạo đức trong kinh doanh, vì hám lợi trước mắt mà quên nguồn lợi lâu
dài từ khách hàng.
Một ví dụ khác là giải thưởng khuyến mại của Công ty sữa Dumex. Nội dung
chương trình khuyến mại của Công ty sữa Dumex: khi mua bất kỳ hộp sữa nào của
công ty mà có chứa đựng muỗng vàng khách hàng sẽ được tặng một cuốn sổ tiết
kiệm bằng trọng lượng của bé và muỗng xanh sẽ được một biểu tượng cá heo vàng
với giá trị 10 triệu đồng
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 14


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

Gia đình anh Linh sau khi mở hộp sữa Dumex đã tìm thấy chiếc muỗng màu
xanh dương. Chiếu theo nội dung chương trình khuyến mãi, anh đã trúng giải nhì

có tên gọi "giải khởi đầu vàng" với phần thưởng là cá heo vàng trị giá 10 triệu
đồng. Ngày 9/11, gia đình anh đến nhận thưởng và được trao biểu tượng con cá heo
bằng vàng nhưng chỉ với trọng lượng 10 chỉ vàng 18k, trị giá hơn 6 triệu đồng.
Trả lời thắc mắc của anh Linh, phía công ty giải thích rằng, giải thưởng cá
heo vàng gồm 10 chỉ vàng 18k cộng với giá trị công nghệ chế tác của SJC, mẫu
thiết kế cá heo và đăng ký độc quyền của Dumex..., tất cả trị giá 10 triệu đồng.
Tuy nhiên, theo anh Linh, trên thông báo trúng thưởng ghi rõ "cá heo vàng
trị giá 10 triệu đồng" và "tất cả giải thưởng sẽ được trao bằng vàng 18k do công ty
mua". Vậy nên anh cho rằng, không lý do gì để công ty bắt người trúng giải phải
chịu chi phí về công chế tác và bản quyền mẫu như V.N.C đã lý giải.
Cũng theo anh Linh, hình một con cá heo dập dẹp với chữ Dumex in nổi là
mẫu mã thiết kế không khó, rất nhiều người có thể làm được chứ không phải chỉ có
công nghệ chế tác của SJC. Nếu tính tiền công thiết kế, chế tạo, đăng ký độc quyền
thành hơn 30% trong tổng giá trị giải thưởng "thì đáng phải suy nghĩ". "Với 100
giải thưởng huy hiệu cá heo cho chương trình khuyến mãi của công ty, tổng giá trị
"vô hình" của giải thưởng lên tới 300 triệu đồng", anh Linh tính.
Đối với giải nhất của chương trình khuyến mãi này, anh Linh cũng nêu ý
kiến: Quảng cáo trên truyền hình nêu rõ "bé nặng bao nhiêu ký, trúng ngay bấy
nhiêu ký vàng" nhưng trong tờ bướm thông tin lại có kèm thêm chú thích mâu
thuẫn "tối đa là 10 kg vàng". Dòng thông tin này được in nhỏ, lẫn với màu nền và
phải chú ý kỹ mới đọc được. Như vậy, nội dung quảng cáo của chương trình đã
không thống nhất, nội dung quảng cáo trên truyền hình chưa đầy đủ.
2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ
để lừa dối khách hàng
Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không đúng
về hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai
lệch mà mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ đó. Việc khuyến mại không trung thực
này tác động đến tâm lý "hám lợi” của người tiêu dùng, hay khách hàng mà khiến
họ tiêu thụ nhiều hơn hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Đồng thời, việc khuyến
mại sai lệch này cũng làm tác động xấu đến đối thủ cạnh tranh, làm giảm mức tiêu

thụ hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Điều này là do việc xuất hiện tâm lý so sánh
các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại với
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 15


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, thông tin khuyến mại sai
lệch còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của khách hàng nếu như họ
không nắm bắt được thực chất của thông tin đưa ra khuyến mại.
Với phương thức khuyến mại không trung thực về giá của hàng hóa sản
phẩm, dịch vụ còn có một dạng hành vi phổ biến khác nữa là nâng giá hàng hóa,
dịch vụ lên thật cao rồi đưa ra chiêu thức khuyến mại giảm giá với các biển hiệu
quảng cáo rất ăn khách như "giảm giá 50 – 70%” hay "Đại hạ giá”… Khách hàng
những tưởng mua được hàng hóa với giá rẻ, nhưng thực tế lại bị "móc túi” một
cách trắng trợn mà không hề hay biết. Với chiêu thức rất đơn giản và phổ biến, các
doanh nghiệp tham gia chương trình khuyến mãi tự động tăng giá bán lên 10 – 15%
trước thời điểm diễn ra tháng khuyến mại, để đến khi vào chương trình khuyến mại
thì lại "giảm giá”.
Như vậy, doanh nghiệp vẫn đảm bảo được giá bán sản phẩm của mình, người
tiêu dùng thì lầm tưởng nhận được khuyến mại từ người bán. Một điểm đáng lưu ý,
các doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn gian dối này vừa "hợp pháp”, tức là không vi
phạm các quy định về tổ chức khuyến mại, lại vừa "qua mặt” được khách hàng.
Vậy nên, cần có những biện pháp quản lý giá hàng hóa một cách hữu hiệu để đảm
bảo quyền lợi của khách hàng và vạch trần được thủ đoạn gian dối của các doanh
nghiệp trong các chương trình khuyến mại.

Một thủ đoạn gian dối khác trong hoạt động khuyến mại cũng thường xuyên
được sử dụng là các doanh nghiệp liên tục đưa ra những chương trình "siêu khuyến
mại”, "giảm giá từ 50 – 70%” nhưng đi kèm với việc giảm giá này là chất lượng
hàng hóa, dịch vụ rất thấp. Ngoài ra, khuyến mại không trung thực còn thể hiện
thông qua việc gian dối trong việc thực thi cam kết khuyến mại từ phía doanh
nghiệp đối với khách hàng.
Tình trạng khuyến mại không trung thực, gây nhầm lẫn đối với khách hàng
về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng đang xảy ra rất đa dạng và rất khó phát
hiện. Các doanh nghiệp luôn nghĩ ra nhiều cách thức khác nhau để khách hàng
"mắc bẫy”, và đạt được mục đích bán hàng, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong quy định của Luật Cạnh tranh thì cấm những hành vi này, vì nó ảnh hưởng
đến lợi ích của khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Trên thực tế, những hành vi
khuyến mại gian dối gây ảnh hưởng đến lợi ích của cả người tiêu dùng và các
doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng vẫn diễn ra phổ biến. Hành vi này đã thể

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 16


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

hiện rõ bản chất lừa dối khách hàng thông qua hoạt động khuyến mại và cũng tạo
lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thông qua con đường "không lành mạnh”.
Một ví dụ điển hình cho hành vi này như sau: Vào ngày 31/7, anh Nguyễn
Bá Quỳnh A có đến siêu thị, cửa hàng Tech One tại địa chỉ 45 Hàng Bài (Hoàn
Kiếm, Hà Nội) thuộc Công ty TNHH Tech One Việt Nam, địa chỉ tại 113 Thái Hà,
Đống Đa, Hà Nội tìm hiểu để mua 1 chiếc Ipad 4. Tại đây, khi xem máy, nhân viên

cửa hàng có tư vấn về chương trình khuyến mại của hệ thống và khi khách hàng
mua sản phẩm của Tech One sẽ được ưu đãi khuyến mại tặng 01 chiếc Sim 3G
"Xài thả ga" trị giá 1,5 triệu đồng.
Anh Quỳnh A hoàn toàn bị thuyết phục bởi chương trình khuyến mại hấp
dẫn từ Tech One, anh đã quyết định chọn mua 01 chiếc Ipad 4 để sử dụng. Sau khi
sử dụng được khoảng 10 ngày, thì chiếc Sim 3G mạng Mobifone mà Tech One
tặng trị giá 1,5 triệu đồng nhận được tin nhắn của nhà mạng báo là Sim đã hết tiền.
Nghi ngờ về chiếc sim Tech One tặng không có giá trị đúng như quảng cáo
trước đó, anh Quỳnh A. đã liên hệ với bộ phận chăm sóc khách hàng của Tech One
tại địa chỉ 45 Hàng Bài để hỏi.
Đại diện bộ phận chăm sóc khách hàng của Công ty Tech One tên Sang cho
anh biết: “Số tiền 1,5 triệu sẽ được tính cộng cho khách hàng hàng tháng với thời
gian 12 tháng hay 24 tháng em cũng không rõ? Mỗi tháng khách hàng dùng Sim
phải nạp 30 nghìn đồng để hưởng khuyến mại dùng 2,4Gb?. Về chương trình
khuyến mại tặng sim 3G có giá trị 1,5 triệu đồng là do Tech One đã liên kết với nhà
mạng Mobifone để đưa ra chương trình khuyến mại này; và trong sim nhất định có
1,5 triệu được tính quy đổi ra dung lượng truy cập mạng".
Không hài lòng với cách trả lời của nhân viên bên Tech One, anh Quỳnh A.
đã trực tiếp liên hệ với bộ phận chăm sóc khách hàng của Mobifone để làm rõ việc
sim 3G mà mình được công ty Tech One khuyến mại có đúng là được hưởng 2,4Gb
mỗi tháng và trong sim có 01 gia trị bảo đảm là 1,5 triệu đồng hay không thì được
biết, chiếc sim mà siêu thị, cửa hàng Tech One tặng chỉ là sim thông thường.
Quản lý của siêu thị, cửa hàng Tech One tại địa chỉ 45 Hàng Bài cho biết,
đây là do nhân viên mới tư vấn cho khách hàng nên để xảy ra hiểu lầm. Còn việc
khuyến mãi mà Tech One đăng tải trên website chỉ là tặng sim 3G, người tiêu dùng
muốn sử dụng thì phải nộp tiền vào để duy trì tài khoản.

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 17



Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

Việc khuyến mãi “tặng sim 3G xài thả ga trị giá 1,5 triệu đồng” như Tech
One quảng cáo là chưa đúng sự thật. Đây phải chăng là cách mà Tech One "lừa
đảo" nhằm thu hút người tiêu dùng?
3. Phân biệt đối xử đối với khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại:
Nhà làm luật đã quy định hành vi này thuộc hành vi cấm trong Luật Cạnh
tranh. Hành vi này được hiểu là trong một chương trình khuyến mại chung, các
thương nhân đưa ra chương trình khuyến mại nhưng lại không khách quan, công
bằng, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau trong các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau.
Phân biệt đối xử được xem là hành vi đối xử không đồng đều với nhau trong
một nhóm người có nét tương đồng,hay một nhóm người được đáng ra phải hưởng
lợi ích như nhau theo một quy định cụ thể nào đó.
Địa bàn tổ chức khuyến mãi ở đây nghiên về vấn đề địa lý vùng miền, các
công ty không chỉ có thị phần ở một vùng địa lý nhất định mà mở rộng trên khắp cả
nước có khi còn ở cả nước ngoài. Ví dụ trụ sở chính nằm ở phía nam nhưng có chi
nhánh ngoài bắc và các cơ sở sản xuất miền trung. Do đó sẽ có quy định rõ địa bàn
hoạt động theo tỉnh thành cả nước, theo vùng miền thậm chí là ở qui mô nhỏ hơn
là theo các quận,huyện...
Chương trình khuyến mại là một hoạt động tổ chức do công ty thực hiện
nhằm thực hiện hành vi khuyến mại, chương trình có thể được bao hàm hình thức
khuyến mại, mỗi chương trình khác nhau sẽ có những hình thức khuyến mại khác
nhau, từ đó sẽ quy định cụ thể về khách hàng hay đối tượng nào sẽ được tham gia,
lợi ích nhận được là gì, thực hiện chương trình này ở đâu, ai là người thực

hiện,thời gian và cả dự toán chi phí...
Đây là hoạt động cho thấy rõ về sự vi phạm về lợi ích mà khách hàng khó có
thể nhận ra quyền lợi bị xâm phạm, hoặc có thể nhận ra sự khác biệt trong quyền
lợi nhận được nhưng nhiều khi khách hàng nghĩ rằng đó là sự may rủi mà không
nhận ra rằng quyền lợi của mình không được thực thi. Hiện tượng này diễn ra phổ
biến, nhiều doanh nghiệp xem đó là cách để quan tâm hơn đối với những khách
hàng lâu năm của mình, khách hàng ở những vùng có thị phần cao, doanh thu lớn,
khách hàng tiềm năng mà vô tình hay cố ý xâm phạm đến quyền lợi của khách
hàng khác. Đây là hoạt động bảo vệ lợi ích người tiêu dùng của luật cạnh tranh.

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 18


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

Tuy nhiên, Luật quy định rất chung chung gây ra cách hiểu không chính xác
về điều luật. Ở đây, cần phải làm rõ khái niệm "phân biệt đối xử”, "các khách hàng
như nhau”. Hành vi phân biệt đối xử tức là hành vi của thương nhân ưu ái khách
hàng này hơn khách hàng kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà
thực tế thì phải dành cho họ những lợi ích như nhau. Các khách hàng như nhau thì
cần được hiểu tiêu chí nào là như nhau.
Cần một cách hiểu rõ ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh.
Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, các doanh nghiệp đã cố tình "phân loại
khách hàng” để cho hưởng khuyến mại. Điển hình như: Chương trình khuyến mại
của mạng di động Vinaphone thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/ 2010, khuyến mại
nhân 100% số tiền nạp thẻ cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến

mại thực hiện trong 03 ngày như trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận
được tiền khuyến mại. Chỉ những khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc
khuyến mại thì mới được hưởng khuyến mại.
Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra đó là Vinaphone dựa vào tiêu
chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di động được hưởng khuyến mại và
tổng số thuê bao được hưởng khuyến mại là bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ
phía lãnh đạo của Vinaphone, đó là tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu
đãi cho khách hàng trung thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có
khi là những người vừa hòa mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có
sự phân biệt đối xử đối với khách hàng trong chương trình khuyến mại của
Vinaphone.
Tuy đây là một hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng trên
thực tiễn thì trường hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều kiện khách
quan của nền kinh tế đất nước và mong muốn chủ quan của các doanh nghiệp là
cần có thêm nhiều khách hàng và mở rộng thị trường của mình. Những trường hợp
phân biệt đối xử trong khuyến mại chủ yếu là hành vi xuất phát từ phía chủ quan
của thương nhân muốn dành những ưu đãi của mình cho những khách hàng lâu dài
và tin cậy của họ.
Một ví dụ điển hình khác cho hành vi này rõ nhất là sự phân biệt trong
khuyến mại với khách hàng ở thành thị và nông thôn. Cùng một chương trình dự
thưởng nhưng lại có quy định giải thưởng ở thành thị lại có giá trị cao hơn ở nông
thôn đó là sự phân biệt đối xử rõ nét nhất. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngược lại
khách hàng ở nông thôn lại được ưu đãi hơn, đó là cùng một khách hàng tiêu thụ
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 19


Môn Luật Cạnh tranh


GV: TS.Trần Thăng Long

sản phẩm A, tuy nhiên nếu ở nông thôn mua một sản phẩm A có giá B thì sẽ được
tặng một phần quà đi kèm tuy nhiên ở thành thị thì phải mua sản phẩm A có giá B
+1,hay có thể nói là mua số lượng nhiều hơn thì mới có thể nhận được quà tặng
đính kèm.
Do vậy không phải cứ khuyến mại là tốt, nhiều khi đó là con dao hai lưỡi,
nếu không biết sử dụng cho phù hợp,tránh tâm lý cảm giác phân biệt đối xử của
khách hàng, đó sẽ là thiệt hòi không nhỏ mà các doanh nghiệp thật sự phải lưu ý.
4. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng
đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng
đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.
Một trong những phương pháp để khách hàng nhanh chóng biết đến hàng
hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là việc cho khách hàng dùng thử hàng hóa, dịch vụ.
Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử sẽ tạo cơ hội cho khách hàng biết về sản
phẩm, cảm nhận được giá trị của sản phẩm, từ đó có thể sẽ tích cực tham gia sử
dụng sản phẩm của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp
khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình là một
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi này của doanh nghiệp xét ở góc độ
sâu xa, đó là hành vi nhằm làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ đó
để khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm thị phần
của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thực hiện chương
trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này phần nào tác động đến quyền tự do lựa
chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Việc pháp luật cấm các doanh nghiệp thực
hiện hành vi này là hoàn toàn xác đáng, bởi lẽ khi thực hiện khuyến mại như trên
đã tạo ra những hành động xấu tác động trực tiếp đối thủ của mình.
Ví dụ điển hình cho hoạt động cạnh tranh không lành mạnh này, đó là việc
mạng di động Viettel đã tố giác mạng di động MobileFone về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009, mạng di động Viettel đã nêu

rõ hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của mạng MoblieFone
tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán hàng lưu động với chương
trình "Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”.
Theo đó, khách hàng có sim của mạng khác (trong đó có Viettel), còn tài khoản
dưới 15.000 đồng và còn hạn sử dụng, có thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của
MobiFone có sẵn trong tài khoản 50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng,
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 20


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

tặng trong 12 tháng. Như vậy, có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây
ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh của MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của
mạng di động khác chuyển sang sử dụng dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại
không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng về pháp Luật Chống
cạnh tranh không lành mạnh.
Một vụ việc điển hình khác là vụ việc của Công ty Massan (Massan). Công
ty Massan tại thành phố Hồ Chí Minh đưa ra chương trình khuyến mại bột canh
nhưng để có gói bột canh này sử dụng người tiêu dùng có thể mang sản phẩm bột
canh đang dùng dở để lấy sản phẩm bột canh đang khuyến mại của Massan. Công
ty Unilever Bestfood đã khiếu nại tới Sở Công thương TP.Hồ Chí Minh, sau đó
chương trình này đã bị đình chỉ.
Đây là hành vi cho thấy rõ nét hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
Massan. Tặng hàng dùng thử bản chất là một hành vi khuyến mại thông thường của
các doanh nghiệp thường được thực hiện khi doanh nghiệp cho ra sản phẩm mới
mục đích là để người tiêu dùng ban đầu tiếp cận với sản phẩm mới của mình, hầu

hết các doanh nghiệp ngày nay đều dùng hình thức này để quảng bá sản phẩm. Đây
là một hành động tích cực mang đến lợi ích cho doanh nghiệp cũng như người tiêu
dùng có thể biết được những sản phẩm mà mình muốn sử dụng.
Tuy nhiên ở đây Massan lại đưa ra một điều kiện là người tiêu dùng phải đổi
gói bột canh đang dùng dở để lấy sản phẩm của mình là một hành động ảnh hưởng
đến sản phẩm của doanh nghiệp khác. Cái lợi mà Massan có được là khách hàng sẽ
biết đến sản phẩm của mình thông qua dùng thử sản phẩm từ đó khách hàng sẽ có
thói quen dùng sản phẩm của mình hơn. Hành vi này làm cho người tiêu dùng từ bỏ
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh thị phần đối thủ cạnh tranh sẽ giảm xuống, đây là
một hành động loại bỏ sản phẩm khác một cách trực tiếp. Tính cạnh bình đẳng
không có mà là đưa khách hàng vào thế ép buộc phải bỏ sản phẩm của nhãn hàng
khác bằng cách đánh vào tâm lý của người tiêu dùng.
Chương trình này của Massan đã bị ngưng thực hiện theo chỉ thị của cơ quan
nhà nước vì rõ ràng đã vi phạm đến tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Muốn có thị phần vươn xa hơn là dựa vào tính ưu điểm của sản phẩm mình, cách
quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại chứ không phải dùng cách loại bỏ đối
thủ như trên. Để khách hàng tự do lựa chọn sản phẩm của mình thì đó mới là một
hoạt động cạnh tranh lành mạnh và bền vững, vì cho dù có ép khách hàng mua mà
sản phẩm không đạt yêu cầu thì cuối cùng cũng sẽ bị loại bỏ ra khỏi thị trường. Đó
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 21


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

cũng là vấn đề mà chính sách cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp luôn tự hoàn
thiện mình để có thể đứng vững trên thị trường và vươn xa hơn nữa.

Loại hình khuyến mại này cũng đã không ít lần được các doanh nghiệp sử
dụng trong quá trình xúc tiến thương mại của mình. Đây là loại hình khi thương
nhân sử dụng sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đối thủ, thay đổi thói quen
người tiêu dùng, gây ra việc cạnh tranh không lành mạnh. Tuy vậy, loại hình này
được thương nhân sử dụng cũng xuất phát từ nguyên nhân thiếu hiểu biết về pháp
luật cạnh tranh mà thương nhân vô tình vi phạm pháp luật. Nhiều thương nhân chỉ
cho rằng đây là hành vi khuyến mại thông thường, cạnh tranh một cách lành mạnh,
do vậy đã dẫn đến việc vi phạm pháp luật. Cần có sự tuyên truyền sâu rộng pháp
luật cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh này để thương nhân và
người tiêu dùng hiểu rõ, tránh những vi phạm pháp luật không đáng có xảy ra.
III. KẾT LUẬN
Các doanh nghiệp ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tác dụng của khuyến
mại trong việc kích thích bán hàng, tiêu thụ sản phẩm và quảng bá thương hiệu.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, để đạt được doanh thu tối đa, rất nhiều doanh
nghiệp đã và đang thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh, đi ngược lại với các quy định của pháp luật. Có thể rút ra một số
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là mức xử phạt đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn quá
thấp. Theo quy định tại Điều 48 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP thì mức phạt tiền
cao nhất đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh chỉ là
50.000.000 đồng và mức phạt thấp nhất là 3.000.000 đồng. Như vậy, với lợi ích rất
to lớn thu được trong mỗi đợt khuyến mại của doanh nghiệp có hành vi khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì con số nói trên là không đáng kể; đồng thời,
nếu những doanh nghiệp vi phạm pháp luật cạnh tranh mà thu hút được nguồn
khách hàng, hay người tiêu dùng của doanh nghiệp đối thủ thì quả thật số tiền phạt
trên là không đáng kể gì. Như vậy, trên thị trường sẽ xuất hiện nhiều doanh nghiệp
cố tình vi phạm pháp luật cạnh tranh gây thiệt hại cho doanh nghiệp đối thủ để
nhằm tới những nguồn lợi ích to lớn cho mình.
Hai là, các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh chưa được các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết một cách nhanh chóng và triệt để. Trên thực tế, có rất nhiều

vụ việc vi phạm pháp luật cạnh tranh xảy ra nhưng thông thường các thương nhân
cùng nhau thương lượng để giải quyết, không có mong muốn giải quyết tại các cơ
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 22


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

quan chuyên trách về chống cạnh tranh không lành mạnh. Việc thương lượng cùng
nhau giải quyết những vụ việc xảy ra khi có sự xâm hại đến quyền lợi giữa các
thương nhân xuất phát từ tâm lý ngại kiện tụng, giải quyết lòng vòng gây tốn kém
về tiền, của lãng phí thời gian.
Một nguyên nhân khác, chính là sự thờ ơ của người tiêu dùng đối với những
sai phạm của các thương nhân. Bởi, trên thực tế những người tiêu dùng thường là
những cá nhân đơn lẻ, khi bị xâm hại quyền lợi cũng rất khó tìm ra phương thức để
bảo vệ quyền lợi cho mình, khi mà trong thực tế những vụ vi phạm pháp luật cạnh
tranh chưa được giải quyết một cách triệt để.
Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp bị cạnh tranh không lành mạnh cũng
không thiết tha và cảm thấy nản lòng khi tốn thời gian và tiền bạc vào việc kiện cáo
lòng vòng mà kết quả có khi lại không như mình mong muốn. Thay bằng việc nhờ
vào pháp luật xử lí những hành vi vi phạm thì các doanh nghiệp này lại dùng những
chiêu bài khác "chơi xấu” lại đối thủ, điển hình như việc cạnh tranh giữa các mạng
di động thời gian gần đây. Việc trả đũa lại đối thủ vô hình trung lại tạo thành một
vụ việc vi phạm pháp luật cạnh tranh mới. Nếu tình trạng này kéo dài, thị trường sẽ
trở nên hỗn loạn. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần phải xử lý triệt để các
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, tạo niềm tin cho người tiêu dùng và ổn định
thị trường.

Ba là, do pháp luật thiếu cơ chế bảo đảm quyền lợi cho khách hàng đứng ra
đấu tranh chống lại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong thương
trường vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận mà thương nhân có những hành vi vi phạm
pháp luật cạnh tranh, trong đó có hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động khuyến mại. Việc thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động khuyến mại sẽ làm xâm phạm đến lợi ích của doanh nghiệp trên thị trường và
cũng gây ra thiệt hại đối với lợi ích của khách hàng hay người tiêu dùng nói chung.
Về quy định của pháp luật cạnh tranh có quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của
khách hàng tại Điều 58 khoản 1 và Điều 65 khoản 1 Luật cạnh tranh năm 2004.
Theo đó, tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại
do hành vi vi phạm quy định của pháp luật cạnh tranh có quyền khiếu nại đến cơ
quan quản lý cạnh tranh. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định thêm những cơ
chế khác để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng triệt để hơn
nữa. Xét trên bình diện khía cạnh xã hội, các doanh nghiệp bao giờ cũng là một bên
có tiềm lực kinh tế. Do vậy, khách hàng hay đặc biệt là người tiêu dùng nhỏ lẻ thì
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 23


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

càng yếu thế hơn so với doanh nghiệp. Khi xảy ra tranh chấp, việc khách hàng
tham gia vụ việc và đi đến cùng để giành lại phần thắng về phía mình là một điều
rất khó khăn.
Bốn là, sự hiểu biết về pháp luật cạnh tranh còn hạn chế trong đời sống cộng
đồng. Đầu năm 2009, khi Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành khảo sát các doanh
nghiệp về mức độ hiểu biết Luật cạnh tranh thì có trên 70% doanh nghiệp Việt

Nam không biết nội dung của văn bản luật này. Số lượng doanh nghiệp hiểu biết về
những hành vi cạnh tranh bị cấm, mức xử phạt khi vi phạm, thủ tục giải quyết vụ
việc cạnh tranh. Đối với hoạt động khuyến mại, các doanh nghiệp chỉ cần biết là
khi kinh doanh thì cần tiến hành hoạt động khuyến mại chứ không biết rõ bản chất
của hoạt động khuyến mại là gì, những hoạt động khuyến mại nào bị cấm, thủ tục
để tiến hành một chương trình khuyến mại như thế nào. Thực tế, có rất nhiều doanh
nghiệp tổ chức chương trình khuyến mại nhưng hầu như không để ý đến các thủ tục
pháp lý để thực hiện chương trình đó. Nhiều doanh nghiệp tiến hành những hoạt
động khuyến mại bị cấm nhưng cũng không hề biết và cứ thản nhiên thực hiện. Bên
cạnh đó, nhiều doanh nghiệp khác không biết những hoạt động khuyến mại đó là vi
phạm pháp luật cạnh tranh và cho rằng đó là những "chiêu khuyến mại” của đối
thủ, chứ không hề biết đó là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, họ cũng không tự
bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp của mình được.
Năm là, công tác quản lý việc thực thi pháp luật cạnh tranh còn yếu
kém. Công tác quản lý thực thi pháp luật cạnh tranh là việc xem xét các doanh
nghiệp hoạt động có đúng với khuôn khổ của các quy định của pháp luật cạnh tranh
không. Công tác quản lý việc thực thi pháp luật cạnh tranh còn nhiều hạn chế bởi
rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Đầu tiên, phải kể đến tính phức tạp
trong việc quản lý những hoạt động của các doanh nghiệp nhằm mục tiêu cạnh
tranh, đặc biệt là trong hoạt động khuyến mại. Việc quản lý được tất cả các chương
trình khuyến mãi của các doanh nghiệp là rất khó khăn. Thêm vào đó, ý thức thực
thi công vụ của các đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý cạnh tranh còn chưa cao.
Điển hình như rất nhiều tuyến phố tại Hà Nội treo bảng biển, băng rôn chương trình
khuyến mãi giảm giá trong thời gian rất dài vi phạm các quy định của pháp luật
canh tranh mà không hề bị xử lý. Bên cạnh đó, phải kể đến công tác hậu kiểm các
chương trình khuyến mại hầu như bị bỏ ngỏ. Trên thực tế, rất nhiều chương trình
khuyến mại với phần thưởng rất lớn nhưng sau khi chương trình kết thúc thì không
rõ phần thưởng đó có ai nhận được hay không hoặc có xem xét đến tính gian lận
trong việc trao giải thưởng không hoặc có thực hiện đúng quy định nộp 50% giá trị
Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh


Trang 24


Môn Luật Cạnh tranh

GV: TS.Trần Thăng Long

khuyến mại vào ngân sách nhà nước khi không có người trúng thưởng ở một số loại
hình khuyến mại…

Nhóm 19 – Đề tài: Khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Trang 25


×