TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
----------
ĐỀ TÀI TIỀU LUẬN
MÔN LUẬT CẠNH TRANH
THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUẢNG CÁO NHẰM
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
GVHD: TS. Trần Thăng Long
Sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thị Thảo Sương
Mssv: 33131023066
2. Lê Anh Phương
Mssv: 33121025090
Thành phố Hồ Chí Minh – Tháng 09/2015
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
ĐIỂM
LỜI MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là nền tảng của sự vận hành cơ chế thị trường, thúc đẩy và hợp lí hóa
sản xuất, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội và là động lực cho sự phát triển chung
cho toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên để cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo thực sự đem lại những lợi ích
như vậy, bản thân quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phải diễn ra trong
khuôn khổ và trật tự nhất định. Tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã sử dụng
nhiều công cụ, chính sách khác nhau để cạnh tranh. Trong sớ đó, pháp ḷt cạnh tranh
được coi là công cụ quan trọng nhất và là trung tâm cơ chế điều tiết cạnh tranh của một
nước. Pháp luật cạnh tranh trở thành một bộ phận cấu thành khung pháp luật kinh tế
điều chỉnh nền kinh tế thị trường, phối hợp đồng bộ và hài hòa với các qui định về nền
tự do và binh đẳng trong kinh doanh của hiến pháp, địa vị pháp lí của doanh nghiệp, các
điều kiện gia nhập và rút khỏi thị trường trong pháp luật đầu tư trong khuôn khổ của
hoạt động thị trường trong giao dịch dân sự và thương mại.
Một trong các lĩnh vực hoat động mà luật cạnh tranh điều chỉnh là hoạt động
quảng cáo, trong đó chủ yếu là hoạt động quảng cáo thương mại. Cùng với sự phát triển
của xã hội, nhận thức và sự hiểu biết của ngươi dân ngày một nâng cao, đòi hỏi hoạt
động quảng cáo thương mại ngày một phát triển về hình thức lẫn nội dung. Do đó, hoạt
động quảng cáo ngày nay diễn ra “khốc liệt” hơn giữa các doanh nghiệp hoạt động
trong cùng lĩnh vực. Và bên cạnh những hoạt động quảng cáo “chính thống”, thực hiện
trong khn khổ điều chỉnh của pháp luật thì vẫn có những hoạt động quảng cáo vi
phạm nghiệm trọng luật cạnh tranh, điều này đa gây tổn thất cho các Doanh nghiệp và
gây nhầm lẫn, thiệt hại cho người tiêu dùng qua các sự việc quảng cáo đã diễn ra trong
thời gian vừa qua.
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, sẽ tập trung làm rõ các hình thức quảng cáo
cạnh tranh khơng lành mạnh và các xử lý theo quy định của pháp luật.
MỤC LỤC
Phần nội dung................................................................................................................. 1
1. Những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh............ 1
1.1. Khái niệm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh........................... 1
1.2. Đăc điểm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh............................. 2
1.3. Phân loại quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh............................................ 3
2. Quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh............... 5
2.1. Quảng cáo so sánh............................................................................................... 2
2.2. Quảng cáo bắt chước........................................................................................... 6
2.3. Quảng cáo gây nhầm lẫn..................................................................................... 7
3. Thực tiễn thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh và những
vấn
đề
đặt
ra
dưới
góc
đơ
pháp
luật
cạnh
tranh
................................................................................................................................
9
3.1. Thực tiễn hoạt động quảng cáo cạnh tranh khơng lành mạnh
9
3.2. Ví
dụ
thực
tế
điển
hình
10
3.3. Phương
hướng
hồn
thiện
12
Phần kết luận.................................................................................................................. 16
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................... 17
1. Những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1.1. Khái niệm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một vấn đề cần quan tâm trong nền
kinh tế thị trường ngày càng phát triển, hành vi quảng cáo không chỉ đơn giản là hành vi
quảng cáo cho sản phẩm hay doanh nghiệp mà còn là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp, tổ chức cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh.
Quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một hành vi trong số các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, hiện nay khái niệm cạnh tranh không lành mạnh được ghi nhận
tại Khoản 4 Điều 3 luật cạnh tranh 2004 “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành
vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu
dùng”. Nhìn chung định nghĩa cạnh tranh khơng lành mạnh được ghi nhận trong luật
cạnh tranh 2004 tương tự như Điều 10bis Cơng ước Paris và pháp luật các nước có nền
kinh tế thị trường trên thế giới, đây được đánh giá là khái niệm mở. Các nhà lập pháp
nước ta có sự học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm từ các nước có nền kinh tế phát triển và
nền kinh tế có sự phát triển tương đồng với nước ta.
Theo quan điểm một số nước trên thế giới như Hiệp hội Hoa Kỳ (AMA) đưa ra
khái niệm quảng cáo “Quảng cáo là hoạt động truyền bá thơng tin trong đó nói rõ ý đồ
của quảng cáo, tuyên truyền hàng hóa, dịch vụ của quảng cáo trên cơ sở thu phí quảng
cáo, khơng trực tiếp nhằm cơng kích người tiêu dùng”. Khái niệm này được đưa ra dựa
trên sự phát triển thực tại của nền kinh tế và hoạt động quảng cáo tại nơi đó. Cịn ở Việt
Nam đưa ra khái niệm quảng cáo tại Điều 4 Pháp lệnh 39/2001/PL-UBTVQH10
quy định: “ Quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ bao gồm có dịch vụ sinh lời và dịch vụ khơng mục đích sinh lời”. Như vậy
hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp là những nỗ lực nhằm tác động tới hành vi, thói
quen mua hàng của người tiêu dùng hay khách hàng bằng cách cung cấp những thông
điệp bán hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay dịch vụ của người bán nhằm thu
được lợi nhuận một cách hiệu quả nhất. Mặt hàng của hoạt động quảng cáo phong phú
và đa dạng gồm hàng hóa và dịch vụ.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
1
Theo quy định luật cạnh tranh 2004 khơng có quy định nào định nghĩa cụ thể
quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh nhưng tại Điều 45 có liệt kê danh sách những
hành vi bị cấm nhằm hạn chế hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh “1. So
sánh trực tiếp hàng hố, dịch vụ của mình với hàng hố, dịch vụ cùng loại của doanh
nghiệp khác; 2. Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách
hàng; 3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng”. Các nhà lập pháp
vẫn hay đưa ra một danh sách liệt kê thay cho khái niệm cụ thể, việc liệt kê này cụ thể
hóa những hành vi bị coi là quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh. Tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc thực hiện và kiểm tra hoạt quảng cáo của doanh nghiệp.
1.2. Đặc điểm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một trong các hành vi của cạnh tranh
không lành mạnh, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh có đặc điểm
chung giống với hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cũng có đặc điểm riêng biệt:
Thứ nhất, hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một hành vi cạnh
tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận.
Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp cũng chính là
hành vi cạnh tranh trong tương quan với doanh nghiệp khác. Để thu được lợi nhuận
doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với đối thủ hoạt động trong cùng lĩnh vực nhằm thu
hút khách hàng về phía mình. Chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo cạnh tranh không
lành mạnh là các doanh nghiệp thực hiện tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường
bao gồm: mọi tổ chức hay cá nhân tham gia tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên,
chuyên nghiệp.
Thứ hai, hành vi quảng cáo cạnh tranh khơng lành mạnh là hành vi có tính chất đối
lập, đi ngược lại các thơng lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, có thể hiểu là các
quy tắc xư sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh
trên thị trường. Các quy định về quảng cáo cạnh tranh khơng lành mạnh được hình
thành và hồn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã hội. Để có thể phán định
một hành vi có đi ngược lại những quy tắc xư sự chung trong kinh doanh, đòi hỏi cơ
quan xử lý hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh cần hiểu biết và đánh giá sâu
sắc về thực tiễn thị trường.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
2
Thứ ba, hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh cần được ngăn chặn khi
nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho đối tượng khác. Hành vi quảng cáo
cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây thiệt hại nhất định dù thiệt hại này đã xảy ra
hay chưa và hành vi này cần được ngăn chặn. Những thiệt hại cũng gắn liền với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên. Đặc điểm này mang ý
nghĩa về tố tụng và gắn liền với yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trên đây là đặc điểm chung của cạnh tranh không lành mạnh và quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, những đặc điểm riêng của quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh xuất hiện cụ thể trong từng hình thức quảng cáo riêng biệt.
1.3. Phân loại quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được chia ra làm 3 loại tùy thuộc
vào hành vi quảng cáo cụ thể, bao gồm: quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước, quảng
cáo gây nhầm lẫn.
•
Quảng cáo so sánh:
Theo Đại từ điển Black’s Law, quảng cáo so sánh được định nghĩa như sau:
“Quảng cáo so sánh là quảng cáo mà so sánh một cách đặc biệt nhãn hiệu hàng hóa
này với nhãn hiệu hàng hóa khác của cùng một loại sản phẩm”. Hiện nay, ở Việt Nam
chưa xây dựng khái niệm quảng cáo so sánh để hiểu một cách chung nhất: Quảng cáo
so sánh là quảng cáo trong đó có nội dung so sánh giữa hàng hóa, dịch vụ, khả năng
kinh doanh của một doanh nghiệp (người quảng cáo) với đối tượng cùng loại của một
hay một số doanh nghiệp cạnh tranh khác. Đây là hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh
khơng lành mạnh phổ biến nhất, vì lợi ích của mình và nhằm cạnh tranh khơng lành
mạnh với đối thủ mà bên đưa ra quảng cáo sẽ tìm cách so sánh hàng hóa, dịch vụ của
mình với bên đối thủ để hạ thấp hàng hóa, dịch vụ của đối thủ và thu hút khách hàng,
lợi nhuận về phía mình. Theo đó, hành vi quảng cáo này phải thỏa mãn ba dấu hiệu sau:
-
Thứ nhất: so sánh trực tiếp tức là các thông tin sử dụng trong quảng cáo
đủ để người tiếp nhận thơng tin quảng cáo có thể nhận thức được hàng hóa, dịch vụ
bị so sánh là hàng hóa, dịch vụ nào. Với dấu hiệu này có nhiều khả năng sẽ xảy tra
trong việc so sánh như: doanh nghiệp vi phạm điểm mặt, chỉ tên sản phẩm và doanh
nghiệp cụ thể muốn so sánh hay những thông tin đưa ra làm cho người tiếp nhận
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
3
thơng tin có khả năng xác định được loại sản phẩm, nhóm doanh nghiệp bị so sánh
mà khơng cần gọi tên các doanh nghiệp cụ thể;
-
Thứ hai: các hàng hóa, dịch vụ này phải cùng loại, tức chúng là các hàng
hóa, dịch vụ có chức năng, cơng dụng có thể thay thế cho nhau trên cùng một thị
trường nhất định;
-
Thứ ba: hàng hóa, dịch vụ bị so sánh là của doanh nghiệp khác.
Lý luận cạnh tranh phân chia hành vi quảng cáo so sánh thành nhiều mức độ khác
nhau: so sánh bằng, so sánh hơn và so sánh nhất. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh 2004 cấm
mọi hành vi quảng cáo so sánh mà khơng phân biệt hình thức so sánh bằng, so sánh hơn
hay so sánh nhất.
•
Quảng cáo bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho
khách hàng.
Loại quảng cáo này bị cấm nếu thỏa mãn hai điều kiện sau: thứ nhất, về hành vi, phải là
hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác, tức là sao chép một phần đáng kể
hoặc toàn bộ các yếu tố cấu thành sản phẩm quảng cáo của doanh nghiệp, thường là các
đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; thứ hai, về mục đích là nhằm gây nhầm lẫn
cho khách hàng về doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
•
Quảng cáo gây nhầm lẫn:
Quảng cáo gây nhầm lẫn chia ra làm hai loại quảng cáo gian dối và quảng cáo gây
nhầm lẫn.
-
Quảng cáo gian dối có thể hiểu là đưa ra thơng tin sai những nội dung sai
lệch so với thực tế khách quan, từ đó lừa dối người tiêu dùng. Khi doanh nghiệp
muốn nhận được lợi nhuận cao nhất họ có thể đưa ra nhiều thông tin về sản phẩm
mà những thông tin đó có thể khơng có thật, khơng đúng về sản phẩm.
-
Quảng cáo gây nhầm lẫn không đưa ra thông tin sai nhưng nội dung
không đầy đủ không rõ ràng hoặc bỏ sót từ đó tạo ra sự hiểu lầm cho người tiêu
dùng. Khi doanh nghiệp muốn người tiêu dùng chú ý đến mặt hàng của mình thì họ
có thể đưa thông tin không đầy đủ, không cụ thể nhằm gây hiểu lầm nhất định về
mặt hàng và hiểu lầm đó có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
•
Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
4
Ngồi ra, tại Điều 109 Luật Thương mại 2005 cịn quy định các quảng cáo thương
mại khác bị cấm như quảng cáo làm tiếc lộ bí mật Nhà nước, phương hại đến độc lập,
chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự, an tồn xã hội; Quảng cáo có sử dụng sản phẩm
quảng cáo, phương tiện quảng cáo trái với truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần
phong mỹ tục Việt Nam và trái với quy định của pháp luật; Quảng cáo hàng hoá, dịch
vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc cấm quảng cáo; Quảng cáo
thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên và các sản phẩm, hàng hoá chưa được phép lưu
thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng trên thị trường Việt Nam tại thời điểm quảng
cáo;...
2. Quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
2.1. Quảng cáo so sánh
Quảng cáo so sánh là nội dung truyền thống của pháp luật cạnh tranh không lành
mạnh, q trình phát triển và hồn thiện các quy định về quảng cáo so sánh phản ánh
những đặc thù của q trình phát triển pháp luật về cạnh tranh khơng lành mạnh.
Theo ghi nhận tại Khoản 1 Điều 45 luật cạnh tranh 2004 thì cấm hành vi quảng
cáo so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ. Hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp thể hiện
qua những nội dung quảng cáo về một loạt hàng hóa, dịch vụ cạnh tranh hoặc đối thủ
cạnh tranh đã cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó. Nội dung đó có thể là lời nói, chữ viết,
hình ảnh, âm thanh…khiến người tiếp nhận quảng cáo (khách hàng, người tiêu dùng)
nhận thức về hàng hóa,dịch vụ và đối thủ cạnh tranh. Những trường hợp ám chỉ, suy
diễn sẽ không được coi là thuộc phạm vi so sánh trực tiếp (Điều 2c Chỉ thị
2006/114/EC).
Về bản chất hành vi quảng cáo so sánh nhằm cạnh tranh không lành mạnh có thể
được xem xét dưới góc độ lợi dụng uy tín hoặc cơng kích, gièm pha đối thủ cạnh tranh.
Quảng cáo so sánh gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh khi thu hút khách hàng về phía
mình thơng qua hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Về nội dung, quảng cáo so sánh bao gồm nhiều nội dung nhưng chủ yếu so sánh
về giá và quảng cáo so sánh về đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ như tính năng, công
dụng, chất lượng…đây là những nội dung mà khách hàng quan tâm khi lựa chọn hàng
hóa, dịch vụ.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
5
Về hình thức, quảng cáo so sánh bao gồm so sánh tương đối và so sánh tuyệt đối.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về quảng cáo so sánh tương đối và tuyệt đối nhưng
có thể thấy rõ nhất cấp độ so sánh của hai loại hình quảng cáo này hoàn toàn khác nhau.
Khi quảng cáo so sánh tuyệt đối đi kèm sự kiểm chứng, xác nhận của một bên thứ ba
độc lập, khách quan (hiệp hội ngành nghề, tổ chức tiêu dùng, cơ quan truyền thơng…)
thì đây là cơ sở kiểm chứng thông tin và đồng thời là cơ sở để xử lý vi phạm nếu có.
Trường hợp ngoại lệ của quảng cáo so sánh theo pháp luật Việt Nam ghi nhận trong
Nghị định số 37/2006/NĐ-CP cho phép thương nhân có thể thực hiện so sánh hàng hóa
của mình với hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong sản phẩm quảng cáo
thương mại sau khi có xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc sử
dụng hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ để so sánh.
Như vậy tính chất không lành mạnh của hành vi quảng cáo so sánh được đánh giá
theo hai hướng: lợi dụng tên tuổi, uy tín, lợi thế cạnh tranh của người khác hoặc cơng
kích, hạ thấp uy tín đối thủ cạnh tranh. Khi thơng tin quảng cáo chính xác những lợi thế
có thật của người này so với đối thủ cạnh tranh thì sẽ làm giảm chi phí, thời gian và
cơng sức tìm hiểu thơng tin của người tiêu dùng, góp phần minh bạch hóa thị trường.
Mặt khác khi doanh nghiệp có những lợi thế cạnh tranh chính đáng so với đối thủ, sẽ
khơng hợp lý khi ngăn cản người đó cơng bố chúng, nếu ngăn cản có thể gây ảnh hưởng
tiêu cực với cạnh tranh. Trong mối quan hệ đối lập về lợi ích giữa các doanh nghiệp
tham gia thị trường, quảng cáo so sánh ln có nguy cơ lệch hướng trở thành cạnh tranh
không lành mạnh, ảnh hưởng tới người tiêu dùng, làm mất uy tín doanh nghiệp. Nên
pháp luật cạnh tranh không lành mạnh cần đặt hành vi này trong sự giám sát chặt chẽ để
chống lại việc lạm dụng.
2.2. Quảng cáo bắt chước
Quảng cáo bắt chước được quy định tại Khoản 2 Điều 45 luật cạnh tranh 2004
“Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng”. Tính
chất khơng lành mạnh của quảng cáo bắt chước thể hiện ở việc lợi dụng thành quả đầu
tư lợi thế cạnh tranh của người khác gây hậu quả tạo sự nhầm lẫn khơng đáng có cho
khách hàng (người tiêu dùng). Nhầm lẫn có thể chia ra nhiều loại khác nhau như nhầm
lẫn về nguồn gốc, nhầm lẫn về liên hệ…
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
6
Nhầm lẫn về nguồn gốc: khi khách hàng tiếp nhận những quảng cáo giồng nhau
gây nên sự ngộ nhận rằng hai loại hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo thuộc cùng một
chủ sản xuất. Nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa chính là thương hiệu của sản phẩm, điều
tạo nên lòng tin cho người tiêu dùng, khi người tiêu dùng có nhầm lẫn về nguồn gốc của
hai loại hàng hóa dẫn tới nhu cầu tiêu dùng của họ bị tác động và gây hậu quả nhất định
đối với hàng hóa, dịch vụ bị nhầm lẫn.
Nhầm lẫn về liên hệ: khi hai loại hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo thuộc cùng
một nguồn gốc, người tiếp nhận quảng cáo vẫn có thể cho rằng giữa hai nhà sản xuất có
mối liên quan, liên hệ, cùng thuộc một tập đồn, có quan hệ đối tác hay ủy thác, nhượng
quyền. Hành vi này tạo dựng niềm tin khơng có thật cho người tiêu dùng nhằm thu hút
lợi nhuận cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động quảng cáo.
Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh còn xem xét quảng cáo bắt chước ở trường
hợp đặc biệt là bắt chước mù qng: tính khơng trung thực, tính khơng thiện chí thể
hiện ở chỗ người bắt chước khơng có sự nghiên cứu, đầu tư, sáng tạo, mà chỉ biết sao
chép một cách đơn giản thành quả của người khác, bất chấp thực tế rằng có những
phương thức cạnh tranh hiệu quả khác. Đây là hành vi lợi dụng đặc biệt, sản phẩm sao
chép không chỉ lặp lại các điểm cơ bản, quan trọng của sản phẩm mẫu, mà còn sao chép
cả chi tiết mỹ thuật… mà những chi tiết này hồn tồn có thể biến đổi, thay thế được.
Có thể do hiệu quả mà quảng cáo trước đó đạt được nên doanh nghiệp khác khi muốn
quảng cáo hàng hóa, dịch vụ đã chấp nhận bắt chước y hệt mẫu quảng cáo có sẵn, hành
vi có thể gây nên tác dụng xấu cho doanh nghiệp quảng cáo bắt chước khi gặp phải sự
phản ừng từ phía người tiêu dùng và doanh nghiệp quảng cáo trước đó.
2.3.Quảng cáo gây nhầm lẫn
Quảng cáo gây nhầm lẫn là loại hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh phổ biến nhất và thường gặp trong thực tiễn cuộc sống nhất. Quy định quảng cáo
gây nhầm lẫn tại Khoản 3 Điều 45 luật cạnh tranh 2004 “Đưa thông tin gian dối hoặc
gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây: a) Giá, số lượng,
chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng,
xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; b) Cách
thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; c) Các thông tin gian dối hoặc
gây nhầm lẫn khác”.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
7
Tính trung thực được đánh giá theo tác động đến đối tượng của hành vi quảng cáo
trực tiếp đặt ra là khách hàng và người tiêu dùng. Nhưng bên cạnh đó khơng thể phủ
nhận những tác động của quảng cáo gây nhầm lẫn đến đối thủ cạnh tranh khi khách
hàng mua sản phẩm dựa trên những trên những thông tin sai lệch và chịu thiệt hại nhất
định về kinh tế thì đồng nghĩa với việc các đối thủ cạnh tranh mất khách hàng này.
Quảng cáo gây nhầm lẫn tạo nên hậu quả xấu làm thị trường trở nên không minh bạch
và phúc lợi nền kinh tế bị tổn hại.
Quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối là hai loại quảng cáo khác nhau,
có nhiều quan điểm về hai loại quảng cáo này nhưng theo quy định luật cạnh tranh 2004
thì hai hành vi này được quy định trong cùng một điều luật với cách thức và chế tài xử
lý giống nhau. Điều 45 liệt kê nhiều nội dung quảng cáo có thể gian dối hoặc gây nhầm
lẫn và từ thực tiễn cho thấy các nội dung quảng cáo gây nhầm lẫn hoặc quảng cáo gian
dối thuộc các trường hợp sau: gian dối gây nhầm lẫn về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ bao
gồm giá cả, chất lượng, đặc điểm, khả năng và tình trạng cung ứng; gian dối, gây nhầm
lẫn về uy tín, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp; gây nhầm lẫn, gian dối về bản
chất của giao dịch.
Các hình thức quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối tồn tại trong mọi
lĩnh vực của nền kinh tế. Thực tiễn pháp lý ở nhiều nước cho thấy mỗi ngành kinh tế
phải có những chế định chống quảng cáo gian dối và quảng cáo gây nhầm lẫn đặc thù.
Trong ngành hàng không quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối thường liên
quan giá vé máy bay, trong ngành kinh doanh bất động sản quảng cáo gây nhầm lẫn và
quảng cáo gian dối thường liên quan đến diện tích bất động sản được bán, dịch vụ kèm
theo…Trong ngành bảo hiểm quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối thường
liên quan các ưu đãi dịch vụ bảo hiểm, cam kết trả bảo hiểm…
Bên cạnh tính chất cạnh tranh khơng lành mạnh thì hành vi này cịn xem xét dưới
góc độ pháp luật dân sự và pháp luật hình sự:
-
Xét dưới góc độ dân sự: việc cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm
lẫn trong quảng cáo không chỉ vi phạm nguyên tắc trung thực mà cịn vi phạm
ngun tắc tự nguyện vì khách hàng, người tiêu dùng đã thể hiện ý chí mua hàng
đối với sản phẩm mà người đó nhận biết khi xem quảng cáo thay vì sản phẩm thực
tế. Giao dịch xác lập tự sự nhầm lẫn do quảng cáo gây ra khi đó khơng phản ánh ý
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
8
chí đích thực của người mua sản phẩm, vi phạm tự do ý chí dẫn tới hợp đồng vơ
hiệu.
-
Xét góc độ hình sự: Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
quy định về tội quảng cáo gian dối tại Điều 168 “1. Người nào quảng cáo gian dối
về hàng hoá, dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xố án tích mà cịn vi phạm, thì
bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Người phạm tội cịn có thể bị phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ một năm đến năm năm” đây là cơ sở pháp lý cho những trường hợp
hành vi vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng đến người tiêu dùng và đời sống xã hội
nói chung.
3. Thực tiễn thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh và những
vấn đề đặt ra dưới góc đơ pháp luật cạnh tranh
3.1. Thực tiễn hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Cạnh tranh 2004 được xem là một bước tiến quan trọng, từng bước tiệm cận
với hệ thống pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, sau khi Luật đi vào thực tế, nhiều vấn đề gây
tranh cãi và đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng cũng như của các
bên liên quan, nhất là trong hoạt động quảng cáo.
Thực tế cho thấy, sau 10 năm đi vào cuộc sống, Luật Cạnh tranh 2004 vẫn thể hiện
vai trò một cách mờ nhạt và hiệu quả đem lại chưa được như kỳ vọng. Số liệu khảo sát
năm 2013 của Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công Thương) cho thấy, trong số 500 doanh
nghiệp được khảo sát, chỉ có 1,6% doanh nghiệp "hiểu rất rõ" Luật Cạnh tranh, trong
khi đó có tới 92,8% doanh nghiệp (DN) "chưa hiểu rõ" về luật này. Bên cạnh đó, Luật
Cạnh tranh cũng bộc lộ nhiều điểm còn bất cập và khó khăn khi đưa vào thực tế áp
dụng. Trong đó có hoạt động quảng cáo, với tư cách là một phần vô cùng quan trọng đối
với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp. Minh chứng là hoạt động quảng cáo
nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh đang ngày có xu hướng gia tăng. Số vụ việc bị điều
tra liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh tăng từ 20 vụ
(năm 2010) lên tới 33 vụ (năm 2011) và 37 vụ (năm 2012), đứng đầu danh sách trong số
các vụ việc điều tra về hành vi cạnh tranh quảng cáo không lành mạnh.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
9
Nguyên nhân phần lớn là do các DN mặc dù nắm rõ luật pháp nhưng vẫn cố tình
vi phạm nhằm đạt được mục tiêu marketing của mình. Nghịch lý nữa là một khi các DN
lớn bị kiện hoặc điều tra về các vi phạm về cạnh tranh, các hệ thống thông tin đại chúng
thường bị lôi vào cuộc. Cùng với việc rầm rộ đưa tin, thương hiệu và thông tin về sản
phẩm/dịch vụ của DN bị kiện xuất hiện khắp mọi nơi. Người tiêu dùng tăng mức độ
nhận diện thương hiệu và sản phẩm của doanh nghiệp bị kiện. Lợi ích cho việc
marketing dưới hình thức này thường áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp có hành vi
quảng cáo so sánh hoặc bắt chước. Trong khi đó, chi phí phạt hành chính theo Điều 35,
Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh từ
15.000.000 đến 50.000.000 và phạt bổ sung như tịch thu lợi nhuận từ việc hành vi vi
phạm, cải chính cơng khai chưa đủ tính răn đe và thấp hơn rất nhiều so với chi phí
marketing DN có thể tiết kiệm được.
Hơn nữa, năng lực quản lý của Cục Quản lý cạnh tranh hiện vẫn còn yếu và thấp, cho
nên số lượng các vụ việc do Cục khởi xướng còn hạn chế. Thậm chí, sự nhận biết về các
quy định của Luật Cạnh tranh đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng cịn hạn chế
do đó những vụ vi phạm nhỏ, xuất hiện trên các kênh phát sóng địa phương sẽ bị bỏ
ngỏ, thiếu sự quản lý.
3.2. Ví dụ thực tế điển hình
a. Vụ việc Acecook kiện Masan lên Cục Quản lý cạnh tranh
Acecook kiện Masan lên Cục Quản lý cạnh tranh vì cho rằng quảng cáo mì “Tiến
Vua bị cải chua” vi phạm khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh cấm “so sánh trực tiếp
hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của DN khác” và Khoản 3
Điều 45 thì cấm “đưa thơng tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng” khi Masan
cho phát sóng một đoạn quảng cáo với hình ảnh so sánh một vắt mì màu vàng nhạt (vắt
mì Tiến Vua bò cà chua - sản phẩm của Masan) và một vắt mì màu vàng sậm (của một
DN khác) cùng với thơng điệp rằng nếu cho nước vào vắt mì mà “nước chuyển sang
vàng đục chứng tỏ sợi mì có nhuộm màu”. Bên cạnh đó, quảng cáo có sử dụng cụm từ
"phẩm màu độc hại " gây tâm lý hoang mang cho người tiêu dùng và phản ứng tiêu cực
với mì màu vàng sậm. Như vậy, Acecook có lập luận rằng, Masan đã "so sánh trực tiếp"
với sản phẩm của Acecook và đưa thông tin gian dối – tất cả vắt mì khiến nước chuyển
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
10
sang vàng đục đều có nhuộm màu và gây nhầm lẫn – tất cả các vắt mì màu vàng sậm
đều có chứa phẩm màu độc hại.
Tuy nhiên, để giải thích cho khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh cấm “so sánh trực
tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của DN khác”, thực tế
khơng có văn bản luật nào giải thích khái niệm "so sánh trực tiếp". Theo cách giải thích
của Cục Quản lý cạnh tranh, "so sánh trực tiếp" là phải "trực tiếp" mới vi phạm quy
định theo khoản 1 Điều 45. Quảng cáo này không hề nhắc tới Acecook nên không được
coi là "so sánh trực tiếp". Song trên thực tế, rất hiếm khi DN vi phạm việc trực tiếp đề
cập tới tên sản phẩm hoặc tên một DN khác. Vì vậy, việc hiểu luật theo cách này khiến
khoản 1 Điều 45 rất khó áp dụng vào xử lý vi phạm trong thực tế.
Để giải thích cho Khoản 3, Điều 45, Cục Quản lý cạnh tranh giải thích thuật ngữ:
“Gian dối hoặc gây nhầm lẫn” chỉ áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp gian dối hoặc
gây nhầm lẫn cho sản phẩm/dịch vụ của DN mình (khơng áp dụng cho sản phẩm của
DN khác) và bác bỏ đơn kiện của Acecook. Mặc dù, cách giải thích của Cục Quản lý
cạnh tranh là hồn toàn hợp lý trong trường hợp này. Tuy nhiên, trong thực tế, việc đưa
những thông tin sai bất kể đối với đối tượng nào hồn tồn có thể ảnh hưởng đến môi
trường cạnh tranh lành mạnh của DN, và nằm trong sự điều chỉnh, mục tiêu quản lý của
Luật Cạnh tranh. Chính vì vậy, cần có những văn bản giải thích rõ hơn và phù hợp với
thực tế để có thể xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trong môi trường cạnh
tranh khốc liệt của các DN hiện nay.
Trong đa số trường hợp, thiệt hại cho người tiêu dùng do hành vi quảng cáo nhằm
mục tiêu cạnh tranh không lành mạnh rất khó để có thể ước lượng và người tiêu dùng
phải tự chịu thiệt hại trong trường hợp này.
b. Quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng của nhãn
hiệu điều hòa Envio của Panasonic Nhật Bản
Trong vụ điều tra quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng của nhãn hiệu điều hòa Envio của Panasonic Nhật Bản, Cục Quản lý cạnh tranh đã
điều tra và đưa đến kết luận rằng: Quảng cáo của Panasonic với tính năng “bất hoạt đến
99,9% vi khuẩn và nấm mốc” là không đúng thực tế, trong khi DN mới chỉ thử nghiệm
tác động kháng khuẩn với đối với 02 loại vi khuẩn là Staphylocccus và Escherichia
Coli. Tuy nhiên, nếu người tiêu dùng đã đưa ra quyết định là mua tủ lạnh của Panasonic
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
11
thay vì LG, thì mức thiệt hại của người tiêu dùng sẽ là mức kỳ vọng về sản phẩm và
không thể đưa ra được phép định lượng để tính tốn cụ thể cho tất cả người tiêu dùng bị
vi phạm.
Trong quy định về xử lý vi phạm, tại Điều 35 của Luật Cạnh tranh, đối với hành vi
"Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng", chế tài xử lý là phạt hành
chính từ 15.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng và có thể bị tịch thu tang vật, phương
tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; Buộc cải chính cơng khai, nhưng
khơng có quy định cụ thể về việc bồi thường cho người tiêu dùng trong trường hợp này.
Khi đó, người tiêu dùng muốn được bồi thường thiệt hại thì phải khiếu nại dẫn chiếu
đến Luật Bảo vệ người tiêu dùng hoặc kiện ra tòa theo quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng (quy định tại Chương XXI, Bộ luật Dân sự Việt Nam
năm 2005). Tuy nhiên, như đã nêu ở trên đây, mức thiệt hại trong trường hợp quảng cáo
nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh là rất khó chứng minh và mức thiệt hại cho một cá
nhân là nhỏ so với toàn bộ người tiêu dùng.
3.3. Phương hướng hoàn thiện
Sau gần 10 năm thực hiện, Pháp lệnh Quảng cáo đã bộc lộ nhiều hạn chế nhằm
tháo gỡ những hạn chế trên, Dự thảo Luật Quảng cáo đã được xây dựng và sẽ được
trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ hai, khai mạc vào ngày 20/10/2011. Dự thảo
Luật Quảng cáo được xây dựng với 5 chương, 47 điều, với mục tiêu điều chỉnh toàn
diện hoạt động về quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam, xác định những vấn đề cơ bản về
nội dung, hình thức quảng cáo. Sau khi ban hành Luật quảng cáo cùng với luật cạnh
tranh 2004 sẽ có sự thống nhất tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc kiểm sốt quảng cáo
nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh.
Hiện nay việc xử lý các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh nói chung và xử lý vi
phạm về quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh nói riêng cịn hết sức khiêm tốn.
Điều này có ngun nhân cả từ trong sự chưa hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng
như sự thiếu kinh nghiệm trong công tác đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh.
Trong thời gian qua, để triển khai Luật Cạnh tranh cũng như các quy định xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
12
như: Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15-09-2005 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Cạnh tranh; Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 quy định về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định 05/2006/NĐ-CP ngày 09-01-2006 về
việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội
đồng cạnh tranh; Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Nhưng để triển
khai có hiệu quả các quy định về cạnh tranh khơng lành mạnh, vẫn còn nhiều vấn đề về
mặt pháp lý cần phải được hoàn thiện như:
Thứ nhất, cần xác định lại bản chất “thương mại” của hoạt động quảng cáo, pháp
luật thương mại, pháp luật quảng cáo không nên điều chỉnh luôn cả hoạt động quảng
cáo phi thương mại như hiện nay. Điều này sẽ giúp cho hoạt động quảng cáo nói chung
và quảng cáo so sánh nói riêng được thông suốt, thuận lợi hơn về mặt quản lý nhà nước.
Nên điều chỉnh hoạt động quảng cáo so sánh tập trung trong một hoặc hai văn bản nhất
định, như Luật Cạnh tranh và một văn bản hướng dẫn thi hành Luật này có liên quan
đến quảng cáo so sánh. Các văn bản luật khác như: Luật Thương mại, Luật Quảng cáo
chỉ nên quy định cấm các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo
quy định của pháp luật cạnh tranh. Điều này sẽ giúp cho các quy định liên quan đến
quảng cáo so sánh được thống nhất và nâng cao vai trị và tầm quan trọng thích đáng
của pháp luật cạnh tranh trong xử lí các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, định hướng xây dựng những nội dung cụ thể của vấn đề quảng cáo so
sánh. Các nội dung đó bao gồm:
Định nghĩa quảng cáo, Vai trò của việc xây dựng một định nghĩa quảng cáo chuẩn
và có tính định hướng chung cho việc quy định cụ thể các nội dung của vấn đề này là
cần thiết. Trong định nghĩa quảng cáo so sánh tại Chỉ thị 84/450/EEC có đề cập đến “sự
làm nhận ra một cách trực tiếp” và “sự làm nhận ra một cách gián tiếp” nhưng lại
khơng giải thích thêm như thế nào là “sự làm nhận ra một cách trực tiếp/gián tiếp”.
Việc nêu ra “sự làm nhận ra một cách trực tiếp/gián tiếp” trong định nghĩa có mục đích
thơng tin về các cách thức thực hiện một quảng cáo so sánh và điều này khơng ảnh
hưởng gì đến khả năng áp dụng của các quy định pháp luật trên. Có thể đưa ra một định
nghĩa như sau: “Quảng cáo so sánh là quảng cáo làm nhận ra một hoặc một vài đối thủ
cạnh tranh hoặc các sản phẩm hay các dịch vụ cùng loại mà đối thủ cạnh tranh sản
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
13
xuất, cung ứng hay phân phối và đáp ứng được một số điều kiện khác do pháp luật quy
định”.
Về chủ thể thực hiện được phép tiến hành hoạt động quảng cáo. Nên quy định rõ
ràng và cụ thể những đối tượng nào được phép thực hiện hoạt động quảng cáo. Pháp
luật cạnh tranh Việt Nam nên quy định cụ thể hơn các chủ thể: nhà sản xuất, nhà cung
ứng dịch vụ và nhà phân phối hàng hóa/dịch vụ đều được tham gia hoạt động này để:
tránh gây phân biệt đối xử giữa các thành phần thương nhân; không gây ra một lỗ hổng
khi không điều chỉnh những quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được thực
hiện bởi một trong các chủ thể nêu trên.
Về mức phạt của hành vi vi phạm pháp luật khi thực hiện quảng cáo so sánh nhằm
cạnh tranh không lành mạnh. Điều 35 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 30/09/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh phải được sửa
đổi lại mức phạt cao hơn để góp phần răn đe các doanh nghiệp và phù hợp với thực
trạng quảng cáo tại Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại. Vấn đề bồi thường thiệt hại
do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không được quy định cụ thể mà Luật lại
dẫn chiếu đến pháp luật dân sự (Điều 117 Luật Cạnh tranh). Như vậy, vấn đề khởi kiện
đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng
theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự năm 2005.
Cần xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi
cạnh tranh không lành mạnh gây ra và theo quy định tại Điều 9 Bộ luật dân sự năm
2005. Đồng thời cần xác định rõ những loại chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
không lành mạnh. Khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh tranh quy định: “Trường hợp khơng
nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các
bên có liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc tịan bộ
nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có thẩm quyền”. Việc giải quyết đơn kiện tại Tồ Hành chính đối với
Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó có hành vi
cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện theo pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
14
án hành chính. Vấn đề đặt ra là Tồ Hành chính sẽ xem xét lại tồn bộ vụ việc từ đầu,
xem xét lại cả nội dung và thủ tục cạnh tranh đã được áp dụng bởi các cơ quan tiến hành
tố tụng cạnh tranh hay chỉ xem xét về mặt hình thức. Giá trị pháp lý của Quyết định giải
quyết khiếu nại của Toà án như thế nào. Điều này cần có văn bản hướng dẫn cụ thể của
Tồ án nhân dân tối cao, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa Cơ quan quản lý cạnh tranh
với Toà án trong việc xem xét, giải quyết đơn khởi kiện.
Thứ năm, về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với Tòa án trong việc xử
lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thực tế ở Việt Nam, Tịa án chưa có nhiều
kinh nghiệm trong việc xử lý hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, chính vì thế, việc
phối kết hợp giữa Tòa án với Cơ quan quản lý cạnh tranh khơng lành mạnh trong q
trình xử lý các vụ kiện địi bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh gây ra là rất cần thiết.
Thứ sáu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh. Đấu tranh với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là nhiệm vụ khá mới mẻ
đối với Việt Nam nhưng lại là lĩnh vực mà nhiều quốc gia trên thế giới rất có kinh
nghiệm. Trong bối cảnh ấy, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm nước ngoài trong việc
xử lý các vấn đề về cạnh tranh trong đó có cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết.
Trong thời gian tới Bộ Thương mại cần có các chương trình hợp tác nghiên cứu, học tập
trao đổi kinh nghiệm với các nước có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực pháp luật
cạnh tranh nói chung và trong việc đấu tranh chống hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh nói riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam
và các cán bộ của cơ quan ấy có thêm kiến thức, năng lực và trình độ để xử lý các vấn
đề mà thực tiễn Việt Nam đặt ra.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
15
KẾT LUẬN
Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã gây ảnh hưởng xấu đến môi
trường cạnh tranh hiện nay. Khi nền kinh tế của Việt Nam đang hội nhập việc quảng cáo
cho các doanh nghiệp là cần thiết nhưng việc quảng cáo đảm bảo tính trung thực cần
được chú ý. Pháp luật nước ta cần bổ sung đầy đủ hơn nữa về pháp luật cạnh tranh
chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
16
1.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng cạnh tranh, Hà Nội, 2011
2.
Luật Cạnh tranh năm 2004.
3.
Nghi định 116/NĐ_CP/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều luật cạnh
tranh ngày 15 tháng 9 năm 2005
4.
Pháp lệnh 39/2001/PL-UBTVQH10
5.
TS. Phạm Văn Lợi Ths. Nguyễn Văn Cương, Nghiên cứu trao đổi Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về hành vi cạnh tranh khụng lành mạnh, Tạp chí Tạp chí
số 2/2006, Phát hành năm 2006.
6.
Một số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do cục quản lý cạnh tranh xử lý.
Cổng thông tin điện tử Cục quản lý cạnh tranh_Bộ Công thương.
7.
Trương Hồng Quang, Một số vần đề về hành vi quảng cáo so sánh theo pháp
luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng 08/2010.
Tiểu luận: Thực tiễn về thực hiện quảng cáo
nhằm
cạnh tranh không lành mạnh
Trang
17