Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn tập đọc lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.05 KB, 25 trang )

UBND HUYỆN TÂN THẠNH
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 3

Tên tác giả: Nguyễn Thị Kiều Ngân
Đơn vị: Trường tiểu học Thị trấn Tân Thạnh

Tân Thạnh, năm 2016


PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
- Cấp cơ sở:..................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


-Cấp huyện:(hoặc Tỉnh)..............................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


LỜI NÓI ĐẦU
Để việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3 đạt hiệu quả cao trong môn Tiếng
Việt. Chúng ta cần phải làm sao đưa ra áp dụng phương pháp dạy phù hợp với đối
tượng của học sinh lớp mình nhất là những học sinh thuộc dạng trung bình yếu,
những học sinh học tập thụ động và nói chung trong quá trình đọc còn ê a, không
ngắt nghỉ đúng chỗ. Do đó, giáo viên chúng ta cần phải có biện pháp nhằm giúp các
em say mê hơn trong học tập nhất là phân môn tập đọc.

Bản thân tôi đã nhiều năm đều được chủ nhiệm lớp 3, đây là một điều kiện thuận lợi
khi đầu tư nghiên cứu soạn giảng, tìm phương pháp phù hợp với lứa tuổi và khả
năng của học sinh.
Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy Tập đọc là một phân môn thực hành.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực
đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng bộ phận cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “
đọc ”: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc hay. Dạy đọc là giáo dục lòng
ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh.
Thông qua việc đọc làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là
rất có ích, đọc là công cụ để học các môn học khác, sẽ bồi dưỡng cho các em lòng
yêu cái thiện, cái đẹp dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic có hình ảnh. Dạy
đọc không chỉ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn giáo dục tính cách, thị hiếu thẩm
mĩ cho học sinh . Như vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả các nhiệm vụ
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy đối với lớp học nào cũng có đối tượng
học sinh đọc chưa đúng , đọc còn ngắc ngứ ê, a, ngắt nghĩ hơi không đúng chỗ, đọc
chưa diễn cảm …... còn khá phổ biến. Để giúp những đối tượng học sinh này đọc
tiến bộ nên năm học này tôi đã chọn đề tài :“Một số biện pháp giúp học sinh học
tốt phân môn tập đọc lớp 3”
Bản thân tôi cũng đã biết có nhiều anh chị đồng nghiệp đã nghiên cứu đề tài


này. Nhưng mỗi trường, mỗi khối lớp, mỗi lớp đều có một thực tế khác nhau. Riêng
bản thân tơi chú trọng nghiên cứu và áp dụng những nội dung của đề tài này ở lớp 3
của mình trong năm học 2013-2014.Năm học 2015- 2016 này tôi tiếp tục áp dụng
và có bổ sung thêm vài giải pháp.
Những nội dung trong đề tài này nhằm giúp học sinh đạt hiệu quả cao vào cuối
năm về phân mơn Tiếng Việt nói riêng , trọng tâm là rèn kỹ năng đọc nhằm để hình
thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh để từ đó giúp các em học tốt các mơn
học khác.



NỘI DUNG
Phần 1: THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI.
Thực tế qua giảng dạy tơi nhận thấy nếu học sinh học khơng tốt phân mơn tập
đọc sẽ ảnh hưởng đến những mơn học khác. Tuy nhiên, năng lực đọc của học sinh
còn nhiều hạn chế, cũng như chất lượng giảng dạy của phân môn này vẫn chưa
cao, cụ thể như sau:
Đối với các năm học t2013- 2014 và năm học 2014-2015 kỹ năng đọc của học
sinh như sau:
Năm học

Lớp SS

Đọc hay, Đọc

Đọc

còn Đọc phát

diễn cảm đúng,

chậm

âm

rành mạch

còn


sai, còn
đánh vần

2013- 2014 3A3

31

10

11

(32.3%)

(35.5%)

15
2014- 2015 3A3 37

(40.6%)

12
(32.4%)

7
(22.6%)
7
(18.9%)

3
(9.6%)

3
(8.1%)

Năm học 2015 -2016 tơi tiếp tục được dạy lớp 3 .Qua thời gian giảng dạy các
em, đặc biệt là khi dạy phân mơn Tập đọc nhận thấy các em có biểu hiện đọc chư
đúng,tốc độ đọc chưa đảm bảo, đọc còn ngắc ngứ,ê,a…. Thống kê việc đọc giữa học
kỳ I lớp tơi như sau :


Lớp

SS

Đọc hay, Đọc đúng, Đọc

còn Đọc phát

diễn cảm rành mạch chậm

âm

còn

sai, còn
3A2

28

8
(28.6%)


15
53.6%

3
10.7%

đánh vần
2
7.1%

Với trình độ học sinh của các năm học trước và năm học này như vậy nên trong
quá trình giảng dạy tôi tìm ra nguyên nhân như sau:
*Phía giáo viên:
-Sự chuẩn bị chưa chu đáo, việc đọc mẫu chưa chuẩn lắm, chưa diễn cảm để học
sinh đọc theo. Các thao tác trên lớp vẫn còn lúng túng kết hợp chưa nhuần nhuyễn,
chưa tìm ra phương pháp dạy học hợp lí, chưa tạo được hình thức học tập đa dạng để
giúp học sinh áp dụng kiến thức đã học ở các môn học khác vào phân môn Tập đọc.
-Phân phối thời gian các hoạt động trong tiết học chưa hợp lí dẫn đến tình trạng
có phần dạy quá sâu, có phần dạy sơ sài nhất là thời gian luyện đọc quá ít.Chưa quan
tâm hết đến các đối tượng mà còn tập trung chú ý đến một số học sinh đọc tốt trong
quá trình hướng dẫn học sinh luyện đọc và cảm thụ bài văn.
-Việc thiết kế bài dạy của tôi còn phụ thuộc nhiều vào nội dung câu hỏi sách
giáo khoa, gợi ý ở sách giáo viên và sách thiết kế, vì vậy bài soạn còn mang tính áp
đặt, đơn điệu chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh làm cho học sinh tiếp thu
một cách thụ động, ghi nhớ máy móc lời giảng của giáo viên.
*Phía học sinh:
- Do các em chưa đọc đúng chính âm, đọc thừa hoặc sót tiếng.Do các em đọc
chưa đúng ngữ điệu. Do các em đọc chưa rành mạch, còn phát âm theo phương ngữ
của địa phương và đọc còn ê, a, ngắc ngứ. Các em còn đọc lên, xuống giọng tùy tiện,

chưa biết cách ngắt các câu dài, đọc giọng đều đều, ngắt nghỉ giọng không đúng lúc,


đúng chỗ, không biết nhấn giọng ở những từ cần nhấn giọng.
- Đa số các em ở nhà ít đọc bài, nếu có đọc thì các em chỉ đọc bài qua loa, chiếu
lệ, chưa đọc kĩ và tìm hiểu bài trước khi lên lớp. Đến lớp các em chưa phát huy vai
trò cá nhân trong quá trình luyện đọc nhất là đọc thầm (vì đọc thầm đòi hỏi tính tự
giác là chủ yếu, trong lúc học sinh khác đọc thành tiếng thì một số em chưa theo
dõi).
-Do hoàn cảnh gia đình các em khó khăn, cha mẹ phải đi làm xa không gần gũi
để dạy dỗ con em mình.
Ví dụ: Lớp tôi có hai em thuộc đối tượng này:
1. Nguyễn Văn An
2. Trần Thị Thương
Từ những nguyên nhân trên, tôi nhận thấy cần phải có phương pháp rèn luyện
đọc cho học sinh của lớp mình để góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Tập đọc .


PHẦN II:GIẢI PHÁP
Qua thực tế dạy học nắm được tình hình, thực trạng của giáo viên và học sinh
cũng như những khó khăn trong công tác dạy và học, tôi nhận thấy để giúp các em
đạt được mục tiêu học tập và nâng cao chất lượng giảng dạy của bản thân, việc tích
luỹ và vận dụng một số giải pháp sau là vô cùng cần thiết:
1.Luyện đọc đúng:
Đọc đúng là tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác. Đọc đúng là
không đọc thừa hoặc sót tiếng, đọc đúng chính âm.Luyện đọc đúng sẽ tác động tích
cực tới trình độ ngôn ngữ, tư duy của học sinh. Vì vậy luyện đọc đúng giúp học sinh
hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em
cách nghĩ logic cũng như biết tư duy về hình ảnh sự việc.

1.1 Biện pháp giúp học sinh đọc không thừa tiếng hoặc sót tiếng:
Đối với học sinh đọc thừa hoặc sót tiếng , tôi sẽ hướng dẫn các em làm chủ tia
mắt khi đọc bằng cách dùng que trỏ hoặc đặt thước dưới từng câu để đọc.
1.2 Biện pháp luyện chính âm:
Cùng một lúc tôi phối hợp nhiều biện pháp để luyện chính âm cho học sinh:
-Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện theo mẫu: Tôi đã đưa cách phát âm
chuẩn các từ cần luyện đọc rồi yêu cầu học sinh phát âm theo.Phần này tôi không chỉ
áp dụng ở các tiết tập đọc mà chữa lỗi phát âm cho học sinh ở các môn học khác khi
có yêu cầu đọc.
- Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm:
+Đọc đúng phụ âm đầu: Ví dụ:
Không đọc là : “đèn bin” mà phải đọc là “đèn pin”.
Để giúp các em khi phát âm “b” và “p” tôi đã hướng dẫn các em như sau:
. Yêu cầu học sinh đặt lòng bàn tay trước miệng một tay đặt lên thanh quản .Khi
phát âm “b” các em sẽ cảm nhận được sự rung nhẹ của thanh quản và không thấy
luồng hơi phát ra.


. Yêu cầu ñọc “p” dây thanh quản thanh quản rung mạnh và có luồng hơi từ
miệng phát ra đập vào lòng bàn tay.
Hoặc không đọc là “sa” mà đọc là “xa”
. Yêu cầu học sinh cong đầu lưỡi lên khi phát âm “s” và đặt đầu lưỡi chạm một
hàm răng khi phát âm “x”.
+ Đọc đúng âm cuối: Ví dụ: Không đọc là “ Hoa lang ” mà đọc là “Hoa lan ”
hoặc không đọc là “ khác nước ” mà phải đọc là “ khát nước ”. Để chữa lỗi âm cuối
này tôi hướng dẫn học sinh quan sát vị trí của đầu lưỡi khi đọc “ng”, “c” là những
phụ âm gốc lưỡi , khi đọc “ lang ” “ khác ” lưỡi vẫn sát vào. Vậy đọc đúng “lan ” ,“
khát ” lưỡi phải đưa lên chạm vào hàm răng trên.
+Đọc đúng phần vần.Ví dụ: không đọc là “lí lựng” mà phải đọc là “lí luận ”.Tôi
nêu rõ cho học sinh biết vần “uân” có âm đệm “u” nên khi đọc tiếng “luận ” em phải

tròn môi lại.
+ Đọc đúng các thanh .Ví dụ : không đọc là “em vẻ ”mà phải đọc là “em vẽ ”
Qua thời gian hướng dẫn cho học sinh luyện đọc đúng tôi nhận thấy các em tiến
bộ rõ rệt. Khi đọc các em phát âm rất chính xác không còn nhầm lẫn các tiếng có
phụ âm đầu tr/ch ; d/gi ; s/x... như lúc đầu nữa.
2. Luyện đọc nhanh:
Đọc nhanh không phải là đọc luyến thoáng. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi
nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Đọc nhanh giúp học sinh đọc trôi
chảy, lưu loát một phẩm chất của đọc về mặt tốc độ là việc đọc không ê, a, ngắc ngứ.
Ví dụ: Đối với bài : “Trận bóng dưới lòng đường” (Tiếng việt 3 – Tập 1, trang
54) thì hướng dẫn với giọng nhanh, dồn dập để thấy được không khí chơi bóng sôi
nổi của các bạn nhỏ.
Trận đấu vừa bắt đầu thì Quang cướp được bóng.// Quang bấm bóng nhẹ sang
cho Vũ. // Vũ dẫn bóng lên. / Bốn, / năm cầu thủ đội bạn lao đến. //
Để giúp các em luyện đọc nhanh , tôi hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng
cách đọc mẫu để học sinh theo dõi tốc độ đã định .Giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng


cách giữ nhịp đọc (khi giáo viên đọc mẫu) hoặc cho các em đọc nối tiếp trên lớp (khi
học sinh đọc từng câu) đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy. Giáo viên đo tốc độ đọc
bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính đọc trong thời gian bao
nhiêu phút (phần này tôi áp dụng khi học sinh đọc từng đoạn trước lớp) dưới hình
thức đọc cá nhân , nhóm. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn học sinh với giọng đủ lớn cho
mọi người nghe rõ .Để luyện cho đối tượng học sinh đọc nhỏ, khi các em đọc tôi tập
cho các em đọc to chừng nào bạn ngồi xa nhất lớp nghe mới thôi.
Áp dụng biện pháp này học sinh tôi giờ đọc biết làm chủ tốc độ. Khi đọc các
em biết xác định được tốc độ để các bạn trong lớp nghe hiểu kịp thời.
3. Luyện đọc đúng ngữ điệu:
Luyện đọc đúng ngữ điệu là giúp các em biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà
tác giả đã gởi gấm trong bài đọc, đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu, cảm thụ

của người đọc đối với tác phẩm. Ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc,là sự
lên cao hay hạ thấp giọng nói , giọng đọc, ngắt nghæ hơi đúng chỗ, đọc to hay nhỏ.
Để luyện đọc đúng ngữ điệu , tôi hướng dẫn các em ngắt giọng chỗ cần nhấn
giọng của câu (phần này tôi vận dụng khi học sinh đọc từng đoạn trước lớp)
Ví dụ: Với bài “Chú ở bên Bác Hồ” (Tiếng việt 3 – Tập 2, Trang 16) tôi hướng
dẫn học sinh đọc với giọng trầm lắng, pha chút trang nghiêm kết hợp với cách ngắt
nhịp, nhấn giọng kéo dài ở một số từ và cao giọng ở cuối câu hỏi để tạo nên âm
hưởng, biểu lộ sự xúc động, niềm thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của
người chú. Cụ thể:
Hai khổ đầu đọc thể hiện sự ngây thơ, tự nhiên, thắc mắc về người chú của bé
Nga (nhấn giọng ở từ in đậm, ngắt hơi ở dấu /, nghỉ hơi ở //)
Chú Nga đi bộ đội /
Sao lâu quá là lâu//
Nhớ chú / Nga thường nhắc//
Chú bây giờ ở đâu?//
Chú ở đâu,/ ở đâu?/


Trường Sơn dài dằng dặc?//
Trường Sa đảo nổi chìm?//
Hay Kon Tum, / Đắc Lắc?//
Khổ thơ cuối thì được đọc với giọng trầm buồn, xúc động, nghẹn ngào của bố,
mẹ Nga khi nhớ đến người đã hi sinh.
Mẹ đỏ hoe đôi mắt/
Ba ngước lên bàn thờ//
Đất nước không còn giặc/
Chú ở bên Bác Hồ.//
Nếu học sinh đọc không đúng ở những chỗ ngắt giọng hoặc nhấn giọng ở các từ
theo yêu cầu thì sẽ không thể hiện đúng thái độ, tình cảm, cảm xúc của nhân vật.
Khi học sinh được luyện đọc đúng ngữ điệu khi đọc các em đã làm chủ

được sự thay đổi giọng nói, giọng đọc,biết đọc lên cao hay hạ thấp giọng nói , giọng
đọc, ngắt nghæ hơi đúng chỗ, đọc to hay nhỏ.
4. Kĩ năng đọc mẫu của giáo viên:
Khi dạy tập đọc ở lớp 3 tôi xác định phần đọc mẫu của giáo viên rất quan
trọng.Vì thế đòi hỏi ở người tôi cần có kỹ năng đọc thành thục nghĩa là phải đọc
được bài tập đọc với giọng cần thiết.
Khi tôi đọc mẫu toàn bài, gây cảm xúc, tạo hứng thú và tâm thế đọc cho học
sinh. Khi đọc câu đoạn, tôi đọc mẫu nhằm minh hoạ, hướng dẫn gợi ý hoặc “tạo tình
huống” để học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Hoặc là khi cần thiết, tôi
đọc mẫu từ, cụm từ, hỗ trợ học sinh yếu nhằm để học sinh nhận biết cách đọc, sửa
lỗi phát âm cho học sinh. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là tôi cần chuẩn bị kĩ năng này
như thế nào? Tôi không thể hình thành ở học sinh kĩ năng gì mà bản thân mình
không có, không thể luyện cho học sinh đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm khi mà bản
thân mình chưa xác định được bài văn cần đọc với giọng điệu như thế nào, tôi không
thể nhận ra được lỗi phát âm, giọng điệu sai lạc và cũng vì vậy không biết cách chữa
cho học sinh như thế nào cho đúng, cho hay. Chính vì vậy khi tiến hành dạy học tôi


chuẩn bị đọc mẫu ở nhà rất kĩ, xác định kĩ cách ngắt, nghỉ, giọng điệu của bài, luyện
đọc đúng chuẩn: đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đủ độ lớn, nhanh vừa phải và diễn
cảm. Khi đọc mẫu, tôi ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế, hứng thú nghe đọc
và yêu cầu học sinh đọc thầm theo dõi bài đọc.
Do đó khi soạn bài ,tôi phải xác định được những kỹ năng đọc cần có và luyện
tập cho mình thành thục những kỹ năng này tức là tôi làm trước những gì mà học
sinh phải làm trên lớp :đọc thành tiếng, giải nghĩa từ, trả lời những câu hỏi về nội
dung bài.
5. Hướng dẫn học sinh luyện đọc kết hợp với tìm hiểu bài :
Mục tiêu chuẩn kiến thức kĩ năng của phân môn tập đọc ở lớp 3 là học sinh đọc
đúng, rõ ràng, rành mạch, biết nghỉ hơi đúng lúc, đúng chỗ, giữa các dấu câu, các
cụm từ và hiểu được nội dung của bài. Do vậy, khi dạy phân môn Tập đọc tôi cần

tập trung vào các yêu cầu cơ bản này và cần vận dụng các phương pháp, hình thức
linh hoạt vào các bước luyện đọc cho học sinh. Cụ thể là hướng dẫn học sinh hình
thành kĩ năng đọc thành tiếng (ở đây tôi chú trọng cho học sinh luyện đọc từng câu,
từng đọan) và kĩ năng hiểu văn bản.
5.1. Hướng dẫn đọc từng câu :
Sau khi đọc mẫu, mục đích của tôi là cho học sinh đọc được như mẫu nên tôi
cho các em luyện đọc, đầu tiên là tôi cho học sinh nối tiếp nhau đọc từng câu, khi đó
tôi theo dõi để sửa lỗi phát âm cho học sinh, đồng thời tôi cho học sinh tự phát hiện
và luyện đọc đúng các từ khó. Hiện nay, tôi nhận thấy biện pháp này vẫn chưa chú
trọng nhiều. Tuy nhiên theo tôi, đây là một thao tác không thể xem nhẹ được, bởi vì
trong bước này các em thường được kết hợp luyện đọc một số từ khó, mà ở các lớp
dưới các em chưa được cung cấp. Theo chương trình Tiểu học ta biết rằng ở mỗi lớp,
học sinh chỉ được cung cấp một lượng vốn từ nhất định và càng lên lớp trên thì vốn
từ mới, từ khó càng được cung cấp nhiều hơn đòi hỏi cần phải có quá trình luyện đọc
để học sinh phát âm đúng. Hơn nữa, chỉ khi đọc đúng từ ngữ thì các em mới không
đọc câu ngắt ngứ, ê a, đọc văn bản mới trôi chảy được. Ở lớp tôi do ảnh hưởng cách


phát âm ở địa phương nên đa số các em phát âm sai phụ âm tr / ch, r / g và thanh
hỏi / thanh ngã, nên khi luyện đọc câu bên cạnh đọc các từ khó thì phần lớn tôi cho
học sinh luyện đọc các từ có lỗi sai mà các em thường gặp. Nhờ vậy, đến nay tình
trạng phát âm sai của lớp tôi đã hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó, luyện đọc từng câu
còn giúp học sinh lớp tôi tham gia tích cực vào quá trình luyện đọc, qua đó bộc lộ
được hứng thú của học sinh. Được đọc và nghe bạn đọc từng câu bằng trực giác học
sinh còn nhận thức được đơn vị nhỏ nhất của lời nói là câu và biết sử dụng câu diễn
đạt được trọn ý, từ đó các em cũng góp phần học tốt các môn học khác.
5.2. Hướng dẫn đọc từng đoạn :
Đây là bước tiếp theo sau khi tôi đã cho học sinh luyện đọc từng câu. Ở bước
này tôi cũng cho học sinh đọc từng đoạn trước lớp để các em phát hiện ra cách ngắt
nghỉ ở các câu dài, ở các dấu câu, từ cụm từ, đọc đúng ngữ điệu câu, đặt biệt tôi cho

học sinh tập phân biệt lời nhân vật với lời người dẫn chuyện. Đối với những bài văn
xuôi, tôi thường hướng dẫn các em ngắt nghỉ phải trùng với ranh giới ngữ đoạn.
Ví dụ: Trong bài “Hội đua voi ở Tây Nguyên” (Tiếng việt 3 – Tập 2, trang 60),
tôi hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ như sau:
Những chú voi chạy đến đích trước tiên / đều ghìm đà, / huơ vòi / chào những
khán giả đã nhiệt liệt cỗ vũ / khen ngợi chúng. //
Hoặc: Vua hạ lệnh cho mỗi người trong làng nọ / nộp một con gà trống biết đẻ
trứng/ nếu không có thì cả làng phải chịu tội. //
(Cậu bé thông minh - Tiếng việt 3 – tập 1, trang 4)
Ở đây ngoài ngắt nghỉ ở các dấu câu tôi còn cho học sinh ngắt nghỉ ở các cụm
từ để tránh học sinh không đọc luông tuồng, không rõ ý.
Riêng đối với những bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một
tiết đoạn, khi luyện đọc tôi thường dự kiến những chỗ học sinh hay ngắt nghỉ sai để
xác định điểm cần luyện ngắt giọng.
Ví dụ: Trong bài “Nhà bố ở” (Tiếng việt 3 – Tập 1, trang 124) có đoạn:
Con đường / sao mà rộng thế /


Sông sâu / chẳng lội được qua/
Người / xe / đi như gió thổi/
Ngước lên / mới thấy mái nhà.//
Đây là bài thơ với thể thơ 6 chữ, nếu như chúng ta không hướng dẫn cách ngắt
giọng rõ cho học sinh thì các em sẽ dễ dàng lúng túng, dẫn đến ngắt nhịp sai, ngắt
nhịp theo ý của mình, chẳng hạn như ở lớp tôi đã có tình trạng ngắt nhịp sai như sau:
Con đường / sao mà / rộng thế/
Sông sâu/ chẳng / lội được qua/
Người xe đi / như gió thổi/
Ngước lên/ mới thấy /mái nhà.//
Hơn thế nữa, học sinh biết ngắt nghỉ đúng khi đọc, còn tăng thêm được tính
biểu cảm cho đoạn văn, đoạn thơ

Ví dụ: Khi học sinh biết cách đọc đúng được giọng điệu cũng như ngắt nghỉ
đúng ở đoạn thơ sau trong bài “Quạt cho bà ngủ” (Tiếng việt 3 – Tập 1, trang 23),
thì giá trị của đoạn thơ sẽ tăng lên nhiều, nó làm cho đoạn thơ mượt mà hơn, tình
cảm tha thiết hơn thể hiện được tình cảm yêu mến của bạn nhỏ dành cho bà của
mình.
Ơi / chích choè ơi//
Chim đừng hót nữa/
Bà em ốm rồi /
Lặng / cho bà ngủ.//
Và còn nhiều trường hợp đã cho thấy việc hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ trong
tiết dạy tập đọc là một việc vô cùng quan trọng.
Trong khi hướng dẫn học sinh luyện đọc đoạn tôi còn nhận thấy một vấn đề
quan trọng sau. Đó là việc lồng ghép hỗ trợ học sinh trung bình - yếu, học sinh còn
đọc ngắt ngứ, ê a trong bước này. Đối với đối tượng học sinh này tôi đã cẩn thận
hướng dẫn học sinh lần lượt đọc ngắt nghỉ theo từng cụm từ. Trước tiên, tôi đọc mẫu
cách ngắt nghỉ sao cho thật chuẩn, để các em tự phát hiện cách ngắt nghỉ rồi yêu cầu


các em dùng viết chì gạch chéo sau các từ cần ngắt. Nếu như học sinh vẫn chưa phát
hiện được tôi sẽ gọi học sinh giỏi đọc lại lần hai để học sinh xác định lại. Đồng thời,
tôi cho học sinh đọc lại nhiều lần và thường xuyên nhắc nhở học sinh ngắt nghỉ
đúng khi gặp dấu chấm, dấu phẩy để tạo thói quen cho các em khi đọc bài. Mặt
khác, do không có nhiều thời gian nên tôi còn tổ chức cho một số học sinh đọc hay,
đọc tốt hỗ trợ việc đọc của các em này trong thời gian đầu giờ hay thời gian rảnh,
bởi có câu “Học thầy không tày học bạn”. Các em sẽ theo dõi bạn mình đọc và nhắc
nhở các từ đọc sai, ngắt nghỉ sai, ngữ điệu sai… Đến nay tôi nhận thấy hiện tượng
học sinh đọc chưa trôi chảy, đọc ê a đã hạn chế rất rõ.
Ví dụ: Tôi hướng dẫn kĩ cách ngắt nghỉ sau các dấu câu, sau các cụm từ và yêu
cầu các em làm theo các bước như trên trong bài “Cửa Tùng” – Tiếng việt 3 – Tập 1,
để học sinh yếu dễ đọc hơn.

Bình minh,/ mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối / chiếu xuống mặt biển / nước
biển nhuộm màu hồng nhạt.// Trưa,/ nước biển xanh lơ/ và khi chiều tà thì đổi sang
màu xanh lục.//
Ngoài ra, bên cạnh việc luyện đọc ngắt nghỉ đúng, tôi còn rất chú ý đến việc
hướng dẫn học sinh đọc đúng tốc độ, chỗ đọc nhanh hay ngưng lâu hơn, không đọc
chậm quá hay nhanh quá, xác định và đọc đúng những từ cần nhấn giọng… Chẳng
hạn, khi đọc bài “Quê hương” (Tiếng việt 3 – tập 1, trang 79) thì tôi hướng dẫn học
sinh đọc với giọng nhẹ nhàng, thong thả, tình cảm, ngắt nhịp và nghỉ hơi hợp lí,
nhấn giọng ở các từ in đậm, kéo dài hơn ở các tiếng vần với nhau trong từng khổ
thơ như: ngày – bay, đồng – sông, nhỏ – tỏ, che – hè…
Quê hương / là con diều biếc /
Tuổi thơ / con thả trên đồng /
Quê hương / là con đò nhỏ /
Êm đềm khua nước / ven sông. //


Nhưng đối với bài : “Trận bóng dưới lòng đường” (Tiếng việt 3 – Tập 1, trang
54) thì không thể hướng dẫn với giọng đọc như trên mà phải hướng dẫn với giọng
nhanh, dồn dập để thấy được không khí chơi bóng sôi nổi của các bạn nhỏ.
Trận đấu vừa bắt đầu thì Quang cướp được bóng.// Quang bấm bóng nhẹ sang
cho Vũ. // Vũ dẫn bóng lên. / Bốn, / năm cầu thủ đội bạn lao đến. //
Cho nên, trong bước này giáo viên chú ý cần nghiên cứu kĩ bài để có những
cách hướng dẫn phù hợp.
5. 3. Tìm hiểu nội dung bài
Quá trình luyện đọc cho học sinh thường gắn liền với việc tìm hiểu bài. Đây là
bước quan trọng, rèn luyện tổng hợp các kĩ năng cho học sinh trong giờ Tập đọc. Vì
vậy, để dạy tiết học Tập đọc đạt kết quả, tôi luôn phải chuẩn bị chu đáo nhằm giải
quyết tốt nội dung, kiến thức trong tiết dạy và xử lí tốt các tình huống có thể xảy ra
trên lớp. Trước kia, tôi chỉ dựa vào hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa để hỏi, gợi
ý dẫn dắt các em tìm hiểu nội dung bài. Do vậy nhiều tiết học trở nên khô cứng chưa

thỏa mãn yêu cầu luyện đọc và hướng dẫn cảm thụ. Để đáp ứng với yêu cầu đổi mới
phương pháp, kích thích hứng thú và tạo điều kiện cho học sinh hoạt động tích cực,
trong quá trình tìm hiểu bài, tôi đã chuyển câu hỏi khó thành câu hỏi trắc nghiệm.
Ví dụ: Trong bài: “Mặt trời xanh của tôi” (Tiếng Việt 3 – tập 2, trang 126). Để
giúp học sinh dễ dàng trả lời câu hỏi khó, tôi chuyển câu hỏi sau đây thành câu hỏi
trắc nghiệm:
Vì sao tác giả thấy lá cọ giống mặt trời?
a. Vì lá cọ to, tròn.
b. Vì lá cọ có gân lá xoè như tia nắng.
c. Vì lá cọ to, tròn và có gân lá xoè như tia nắng.
Hoặc để giúp học sinh dễ dàng hiểu các câu hỏi dài, tôi thường chia nhỏ câu hỏi
đó ra thành từng ý dễ hiểu và sau khi học sinh trả lời xong thì tổng hợp lại. Nhờ vậy,
tiết học của lớp tôi trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, không nặng nề, khô khan, kích
thích sự tham gia xây dựng bài của cả ba đối tượng học sinh.


Ví dụ: Khi dạy bài “Người liên lạc nhỏ” (Tiếng Việt 3 – Tập 1, trang 112). Tôi
đã làm như sau: Từ câu “Hãy tìm những chi tiết nói lên sự nhanh trí và dũng cảm
của Kim Đồng khi gặp địch? Tôi chia thành hai ý, ý thứ nhất là: Tìm những chi tiết
nói lên sự nhanh trí của Kim Đồng khi gặp địch? Và ý thứ hai là: Hãy tìm những chi
tiết nói lên sự dũng cảm của Kim Đồng khi gặp địch?
Thực tế khi giảng dạy tôi nhận thấy học sinh thường gặp khó khăn, trả lời thiếu
ý, không rõ ràng câu hỏi này nhưng khi đã chia rõ các ý như trên thì các em đã trả
lời dễ dàng hơn.
Ngoài ra, đối với những câu hỏi phức tạp hơn, khó hơn tôi còn tổ chức cho học
sinh thêm hình thức thảo luận nhóm để học sinh có thể hợp tác với nhau, cùng nhau
tìm ra câu trả lời.
Ví dụ: Trong bài “Cuộc chạy đua trong rừng” (Tiếng việt 3 – Tập 2, trang
80 ), tôi cho học sinh thảo luận nhóm đôi câu hỏi sau:
Vì sao Ngựa Con không đạt kết quả trong hội thi?

Hoặc đối với câu hỏi: “Vì sao ông Cản Ngũ thắng ?” trong bài “Hội vật” (Tiếng
việt 3 – Tập 2, trang 58) tôi cũng cho học sinh giải quyết với hình thức như vậy.
Với cách làm trên đã giúp cho học sinh diễn đạt và khám phá ý tưởng của mình,
mở rộng suy nghĩ, hiểu biết và rèn luyện kĩ năng nói. Nó cũng cho phép học sinh có
cơ hội để học hỏi từ các bạn.
Hơn thế nữa, học sinh tiểu học nói chung cũng như học sinh lớp 3 nói riêng vẫn
là học sinh ở giai đoạn nhỏ, các em thường thích khen, động viên, cỗ vũ. Nắm được
đặc điểm này nên quan điểm của tôi trong dạy học là hạn chế những lời mang tính
chê bai, luôn động viên, khuyến khích học sinh khi các em đọc có tiến bộ hoặc trả
lời câu hỏi đúng nếu như học sinh còn trả lời câu hỏi chưa chính xác hay đọc còn
chậm, còn sai sót tôi cũng thường nhắc nhở, động viên để tạo cho các em tâm thế
yên tâm, tiếp tục hăng hái trong học tập.
6. Tổ chức trò chơi để kích thích hứng thú trong giờ học đồng thời dạy tập
đọc kết hợp với các môn khác :


Tổ chức trò chơi học tập để tạo không khí vui tươi, hồn nhiên , nhẹ nhàng, sinh
động cho các em. Trong giờ Tập đọc, tôi thường hướng dẫn học sinh vào trò chơi.
Những trò chơi nhỏ mang nội dung học tập tuy chỉ tiến hành trong khoảng 4 – 5
phút nhưng rất hấp dẫn, hào hứng đối với học sinh và mang lại kết quả tốt cho bài
dạy.
Ví dụ: Khi dạy xong bài: “Giọng quê hương” (Tiếng việt 3 – Tập 1, trang 76,77
). Tôi cho các em thi đua đọc nối tiếp đoạn như sau:
Trong bài này có ba đoạn, tôi sẽ lập thành hai đội, mỗi đội ba em. Sau đó từng
đội sẽ thảo luận với nhau cách đọc hay và đứng lên thi đọc nối tiếp đoạn. Những học
sinh còn lại cùng với giáo viên nhận xét sau khi hai đội đã hoàn thành đọc bài đọc
của mình.
Nội dung nhận xét bao gồm: đọc đúng, đọc trôi chảy, ngắt nghỉ đúng chỗ, thể
hiện sự biểu cảm. Đội nào đạt được tốt các tiêu chí trên đội đó sẽ thắng và sẽ được
tuyên dương trước lớp.

Trong biện pháp này, phần lớn tôi lựa chọn cho các em những bài văn, bài thơ,
giàu xúc cảm mang phong cách nghệ thuật, tránh những văn bản mang tính hành
chính, chẳng hạn như lựa chọn các bài thơ: Quạt cho bà ngủ (Tiếng việt 3 – tập 1),
Nhớ Việt Bắc (Tiếng việt 3 – tập 1), Mặt trời xanh của tôi (Tiếng việt 3 – tập 1)…
hoặc các bài văn xuôi: Chiếc áo len (Tiếng việt 3 – tập 1), Nguời mẹ (Tiếng việt 3 –
tập 1)ï, Ông ngoại (Tiếng việt 3 – tập 1), Nhớ lại buổi đầu đi học (Tiếng việt 3 – tập
1) …
Với hình thức vừa dạy vừa tổ chức thi đọc ngay tại lớp, tạo không khí vui tươi,
phấn khởi giúp các em có hứng thú và say mê trong giờ học.
Tập đọc là một phân môn rèn cho học sinh phát triển kĩ năng đọc. Tuy nhiên,
nếu như giáo viên chỉ chú tâm vào việc dạy phân môn này mà không quan tâm đến
mối quan hệ với các mảng kiến thức khác thì việc đọc và hiểu của các em cũng như
công tác giảng dạy của mình sẽ có nhiều hạn chế. Ở tiểu học, phân môn Tập đọc
đóng một vai trò rất quan trọng, có thể nói nó chính là “nguyên liệu”, là “công cụ”


cần thiết cho các môn học khác. Nó góp phần cung cấp những hiểu biết về thiên
nhiên, xã hội, con người, cung cấp vốn từ, cách diễn đạt… góp phần rèn luyện nhân
cách cho học sinh. Bên cạnh đó, các môn học khác cũng có một tác động tích cực
ngược lại cho phân môn Tập đọc. Cụ thể là khi dạy các phân môn như Tập làm văn,
Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết… tôi tích hợp việc luyện đọc cho học sinh khi
yêu cầu các em đọc yêu cầu, nội dung bài tập đọc, nội dung bài chính tả… Tôi nhắc
các em hạn chế tối đa và chỉnh sửa ngay những từ, những chỗ các em đọc sai, ngắt
nghỉ không hợp lí. Đặc biệt là khi dạy phân môn này nếu gặp các từ mới, từ khó tôi
thường giải thích kĩ để khi học Tập đọc các em có gặp phải thì sẽ dễ dàng hiểu văn
bản hơn. Ngoài việc dạy tích hợp với những phân môn có mối liên hệ mật thiết như
trên thì tôi cũng chú ý tích hợp trong tất cả các môn học khác như Toán, Tự nhiên xã
hội, Đạo đức… vì tôi nghĩ muốn đọc tốt thì cường độ luyện tập phải cao, luyện mọi
lúc mọi nơi, luyện càng nhiều càng tốt và nội dung luyện tập phải được nhắc đi nhắc
lại nhiều lần trên những ngữ liệu khác nhau, được củng cố nhiều lần để thành kĩ xảo.

7. Phối hợp với gia đình phụ huynh học sinh và đoàn thể nhà trường :
* Phối hợp với gia đình phụ huynh học sinh :
-Tôi thường xuyên đến thăm gia đình học sinh của lớp đặc biệt là những học
sinh yếu, một tháng tôi đến nhà các em một lần để trao đổi với phụ huynh những vấn
đề còn hạn chế của các em. Qua trao đổi với cha mẹ học sinh thì gia đình sẽ biết tình
hình, trình độ học tập của con em mình. Từ đó phụ huynh sẽ biết được cách dạy bảo,
nhắc nhở con em mình học ở nhà, dần dần các em sẽ tiến bộ.
-Thăm gia đình, quan hệ gần gũi với phụ huynh học sinh. Từ đó, các bậc phụ
huynh nhận thấy rằng giáo viên, nhà trường rất gần gũi với gia đình, quan tâm thật
nhiều đến việc học tập của con em họ nên từ đó các bậc phụ huynh cũng chú tâm
hơn học hành, tương lai của các em.
-Đặc biệt, học sinh lớp có vấn đề gì như : Học sinh nghỉ học nhiều ngày, luyện
đọc không tiến bộ....Tôi tìm ngay đến nhà phụ huynh hoặc liên hệ ngay qua điện
thoại để trao đổi ngay tình hình học tập của các đối tượng học sinh đó.


*Phối hợp với đoàn thể nhà trường :
-Tôi liên hệ với thư viện mượn đồ dùng để cho các em có đủ dụng cụ học tập,
tạo điều kiện thuận lợi nhất giúp các em không chán nản bỏ học hay lơ đãng trong
học tập mà còn có sự tin tưởng, hứng thú, say mê học tập hơn lúc trước.
-Kết hợp nhà trường liên hệ hội khuyến học chính quyền địa phương. mạnh
thường quân để hỗ trợ đồ dùng học tập cho học sinh.


PHẦN 3 : KẾT QUẢ
Các biện pháp trên đã giúp những đối tượng học sinh đọc chưa đúng, đọc còn
ngắc ngứ ê a, ngắt nghĩ hơi không đúng chỗ, đọc chưa diễn cảm ….. lớp 3 tôi chủ
nhiệm năm học 2015 - 2016 có những kết quả khả quan đáng kể như học kỳ I lớp có
3 em đọc còn chậm, 2 em đọc phát âm sai,còn đánh vần. Áp dụng các biện pháp này
thì những học sinh này tiến bộ rất nhiều.

Đến giai đoạn học kỳ I và hiện tại tháng 4/ 2016 kết quả đọc của học sinh lớp
tôi như sau :
Lớp

SS

Đọc hay, Đọc đúng,

Đọc còn Đọc phát

diễn cảm rành mạch chậm

âm

còn

sai, còn
đánh vần
3A2

28

12
(42.9% )

16
(57.1%)

0


0

Tóm lại:
Những biện pháp trên đã giúp các em có nhiều chuyển biến: khả năng đọc
đúng, đọc hay, đọc trôi chảy, hiểu tốt bài tập đọc đã tiến bộ rõ rệt. Trong tiếthọc, các
em phát huy được tính chủ động, tích cực, không khí lớp học hào hứng, sinh động,
giờ học nhẹ nhàng, hiệu quả hơn.


KẾT LUẬN
Tóm lại, để có kết quả tốt về chất lượng đọc của học sinh lớp 3 giáo viên cần
phải rèn luyện kỹ năng đọc đúng tức là phải đọc đúng chính âm, không đọc thừa
hoặc sót tiếng , từ đó các em sẽ tiến tới đọc nhanh là phải rèn luyện cho các em đọc
trôi chảy, không đọc ê a, ngắc ngứ, phải ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, làm chủ tốc độ theo
yêu cầu của từng bài. Để biểu lộ đúng thái độ tình cảm, cảm xúc của tác giả đã gửi
gấm trong bài đọc, giáo viên phải rèn luyện cho học sinh đọc đúng ngữ điệu và sau
cùng để học sinh hiểu được bài giáo viên cần làm cho học sinh nắm được tên bài
đọc, tìm hiểu từ ngữ trong bài bằng cách phát hiện từ mới, từ quan trọng . Một biện
pháp hữu hiệu khác để tạo không khí nhẹ nhàng là tôi luôn cho học sinh tham gia trò
chơi thi đua đọc giữa các nhóm. Đồng thời, tôi còn chú trọng đến việc dạy tích hợp
phân môn Tập đọc với các môn học khác để có thể đem lại hiệu quả cao hơn.
Việc tăng cường luyện đọc ở nhà bằng cách kết hợp với phụ huynh học sinh
nhằm nhắc nhở tạo điều kiện tốt cho các em chuẩn bị tốt bài học ở nhà cũng góp một
phần giúp cho học sinh học tốt phân môn Tập đọc.
Trong thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, phương pháp,
bí quyết nghề nghiệp riêng của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất
lượng dạy và học. Sau khi áp dụng những giải pháp trên vào lớp tôi đang dạy, tôi
nhận thấy kĩ năng đọc của học sinh lớp tôi đã có tiến bộ .
Những biện pháp này có thể trao đổi với các bạn đồng nghiệp khối 3 trong
huyện cùng thực hiện.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển giáo viên Tiểu học “Đổi
mới phương pháp dạy học ở Tiểu học” NXB Giáo dục.

2.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, “SGK Tiếng việt 3 – Tập 1, 2” NXB Giáo
dục.

3.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, “SGV Tiếng việt 3 – Tập 1, 2” NXB Giáo
dục.

4.

Nguyễn Trại (chủ biên) “Thiết kế bài giảng Tiếng việt 3 – Tập 1, 2”
NXB Hà Nội.

5.

Thế giới trong ta, cơ quan của Trung Ương hội tâm lí – giáo dục
Việt Nam, 9 – 2003.

MỤC LỤC



Lời mở đầu:
Phần 1: Thực trạng đề tài
Phần 2: Giải pháp
Phần 3: Kết quả
Kết luận
Tài liệu tham khảo

trang 1-2
trang 3-5
trang 6-18
trang 19
trang 20
trang 21



×