Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS thị trấn tân t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.67 KB, 35 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển
nhanh và mạnh hơn bao giờ hết. Nền kinh tế tri thức đang chiếm vai trò
quan trọng tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Xu hướng tồn
cầu hố là xu hướng chung nổi bật mà bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng
chịu sự ảnh hưởng. Trong điều kiện ấy, một trong những vấn đề cơ bản
đặt ra là giáo dục, vì giáo dục tạo ra nguồn lực con người, nhân tố quyết
định thành bại của từng cá nhân và cả cộng đồng. Thực tế sinh động
trên thế giới đã chứng minh rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất
quan trọng và cần thiết, các nguồn lực khác cũng rất đáng quý nhưng
nếu không chú ý đến công tác giáo dục, không xây dựng được nguồn
lực con người đầy đủ phẩm chất đạo đức, sức khoẻ và trí tuệ thì các
nguồn lực khác cũng như khơng vì nó không được khai thác để phục vụ
cho đời sống con người.
Từ nhận thức sâu sắc về vị trí vai trị của công tác giáo dục.
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng công tác
giáo dục và coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục phải không
ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Mọi nội dung của đổi
mới giáo dục phải luôn hướng tới mục tiêu và yêu cầu là nâng cao chất
lượng giáo dục phải được thể hiện đầy đủ và đồng bộ trong hệ thống
giáo dục từ trung ương đến địa phương, từ quan điểm chung đến các
giải pháp, biện pháp cụ thể.Việc nâng cao chất lượng giáo dục phải
được thực hiện ở tất cả các yếu tố như chương trình giảng dạy, cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học, đội ngũ giáo viên, phương pháp giảng dạy,
các hoạt động bổ trợ nâng cao chất lượng giáo dục.
Là một cán bộ quản lý giáo dục ở một trường trung học cơ sở
(THCS), trong quá trình giảng dạy và công tác bản thân tôi thường
1



xuyên trăn trở, suy nghĩ tìm mọi cách để cùng tập thể sư phạm nhà
trường và lãnh đạo địa phương từng bước tháo gỡ khó khăn, khai thác
các điều kiện thuận lợi và các nguồn lực để áp dụng vào thực tế nhà
trường, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục là một vấn đề lớn, phong phú
cả về lý luận và thực tiến địi hỏi người nghiên cứu phải có sự hiểu biết
sâu rộng, thấu đáo, có trình độ lý luận và kiến thức thực tế phong phú.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ xin được đề cập đến
việc nâng cao chất lượng giáo dục cụ thể ở trường THCS Thị Trấn,
huyện Tân Thạnh mà tôi đang làm quản lý. Trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung ở nhà trường tôi đặc biệt quan tâm đến vấn
đề: hạn chế thấp nhất tỷ lệ học sinh bỏ học, một số biện pháp tổ chức
bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây là những vấn đề mà trường THCS Thị
Trấn đang đặc biệt quan tâm. Còn những vấn đề khác cá nhân tơi xin
được đề cập và nghiên cứu khi có điều kiện.
- Một trong những giải pháp hiệu quả để duy trì đạt chuẩn cơng
tác phổ cập THCS là phải phối hợp phương thức giáo dục chính quy và
khơng chính quy. Để làm tốt cơng tác phối hợp này, địi hỏi cán bộ quản
lý trường THCS phải có biện pháp tổ chức tốt công tác tuyên truyền
vận động đúng đối tượng nằm trong độ tuổi phổ cập THCS tham gia
học tập các lớp chính quy và khơng chính quy. Muốn đạt hiệu quả cao
và có ý nghĩa quyết định việc hoàn thành mức quy định đạt chuẩn phổ
cập THCS ở địa phương thì cần phải quan tâm đến việc giáo dục hạn
chế tỷ lệ học sinh bỏ học trong nhà trường. Nghĩa là phải làm cho
người học thấy được lợi ích thiết thực và nghĩa vụ của việc học tập.
Phải phối hợp được nhiều hình thức tuyên truyền, vận động, phải tranh
thủ được sự đồng tình, ủng hộ của chính quyền, các đoàn thể xã hội ở
địa phương, của tổ chức họ hàng và gia đình. Phải có biện pháp vận
động thích hợp để người học học hết cấp học, không bỏ học giữa chừng.
2



Do tình hình giáo dục của mỗi địa phương có những đặc điểm và
điều kiện cụ thể khác nhau nên việc xây dựng kế hoạch và các bước tiến
hành cũng có những điểm khác nhau. Tuy nhiên vẫn có một đặc điểm
chung là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và hoàn thành các tiêu
chuẩn phổ cập THCS nhằm góp phần duy trì, giữ vững việc tổ chức
thực hiện phổ cập giáo dục trung học và góp phần giữ vững các tiêu
chuẩn về việc xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia.
- Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi và thi chọn học sinh giỏi
nhằm động viên khích lệ học sinh giỏi và giáo viên dạy giỏi góp phần
thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất lượng của công tác quản lý, chỉ đạo
của các cấp quản lý giáo dục, đồng thời phát hiện học sinh có năng
khiếu từng môn học để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn nhằm đào
tạo nhân tài cho đất nước.
Ngày nay chúng ta đang đứng trong một kỷ nguyên mới. Kỷ
nguyên của những giá trị nhân văn tốt đẹp, của trí tuệ cao và của những
bàn tay vàng, nguồn gốc trực tiếp tạo ra những của cải vật chất, văn hóa
và tinh thần có trách nhiệm cao. Giáo dục đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong chiến lược phát triển của một quốc gia, bởi giáo dục và đào
tạo là chìa khóa mở cửa để tiến vào tương lai. Đồng thời sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước địi hỏi giáo dục phải đào tạo nên
những con người năng động, tự chủ, sáng tạo, có nhân cách phát triển
tồn diện. Thực hiện tư tưởng ấy giáo dục đã và đang từng bước đổi
mới để đáp ứng những yêu cầu của xã hội.
Từ đó tơi đã đúc kết kinh nghiệm chọn đề tài “Một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THCS Thị trấn Tân
Thạnh” trong năm học 2015-2016 và những năm tiếp theo.
II. Lịch sử đề tài
- Bỏ học là hiện tượng xảy ra trong phạm vi nhà trường. Đó là

hiện tượng học sinh rời khỏi ghế nhà trường khi đang ở giai đoạn được
3


giáo dục thuộc cấp học mà học sinh đó được tuyển sinh. Bỏ học trước
hết là ảnh hưởng đến bản thân học sinh sau đó ảnh hưởng đến gia đình
và xã hội.
Đối với bản thân học sinh sẽ làm cho học sinh khơng có đủ những
kiến thức cơ bản để đi vào cuộc sống lao động sản xuất hoặc tiếp tục
học lên trên. Hiện nay, trong lao động sản xuất địi hỏi người lao động
phải có một trình độ nhất định về văn hố phổ thơng và trình độ về kĩ
năng nghề nghiệp. Bỏ học ở bậc trung học cơ sở cịn là gánh nặng cho
gia đình và xã hội. Gia đình phải tốn kém hơn về kinh tế, phải bỏ ra một
khoản tiền đầu tư thêm cho con em mình học lại, xã hội phải tốn kém
hơn về cơng sức và tiền của trong việc đầu tư sức lực và kinh phí để giải
quyết vấn đề nâng cao dân trí.
Mặt khác, học sinh bỏ học sẽ ảnh hưởng đến q trình thực hiện
mục tiêu giáo dục, sẽ khơng hồn thành chỉ tiêu của ngành mà Đảng và
Nhà nước đã giao. Ngồi ra cịn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của
xã hội, hiện tượng bỏ học mang tính chất xã hội thường xảy ra trong
mỗi trường học có nhiều nguyên nhân khác nhau. Học sinh thường có
học lực yếu kém hoặc thiếu căn bản dẫn đến lưu ban, bỏ học. Tóm lại,
học sinh bỏ học có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của đất nước,
nhất là ảnh hưởng đến mục tiêu hoàn thành phổ cập giáo dục ở địa
phương nói riêng, cả nước nói chung.
- Đối với mỗi bậc học đang trong thời kỳ phát triển, khả năng của
các em vơ cùng lớn. Chính vì thế tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh đem lại cho các em khả năng tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề,
tự chiếm lĩnh tri thức kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, hình thành ở học sinh
tính độc lập, sáng tạo và nhạy bén khi giải quyết vấn đề của thực tiển

phát huy tính tích cực của học sinh là chìa khóa nâng cao chất lượng
dạy và học.
4


Ở mỗi bậc học việc bồi dưỡng học sinh giỏi là nền móng cho
chiến lược đào tạo người tài của đất nước. Trường THCS Thị trấn Tân
Thạnh nhiều năm qua đã xác định: “Nâng cao chất lượng giáo dục đại
trà và việc bồi dưỡng học sinh giỏi” là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, yêu cầu về chất lượng giảng dạy và hiệu quả bồi dưỡng ngày càng
đòi hỏi cao. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là cả một quá trình, phải có kế
hoạch cụ thể cho người dạy và cả người học.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối với đề tài này tơi chỉ nghiên cứu tìm ra một số giải pháp hạn
chế tỷ lệ học sinh bỏ học, biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi tại
trường THCS Thị Trấn trong năm học 2015-2016 nhằm giúp Thị Trấn
và các xã lân cận góp phần duy trì sĩ số và giữ vững các tiêu chuẩn
PCGD-THCS, PCGD trung học đã đạt, đồng thời để góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục tồn diện trong nhà trường phổ thơng hiện nay.
IV. Mục đích nghiên cứu
* Đối với việc hạn chế thấp nhất tỷ lệ học sinh bỏ học:
Qua đề tài tôi sẽ học hỏi được một số kinh nghiệm quản lý của
nhà trường về các biện pháp ngăn ngừa hiện tượng bỏ học của học sinh.
Từ đó lựa chọn bổ sung vào thực tế công tác quản lý ở đơn vị mình
đang cơng tác, nhằm đáp ứng, ngăn chặn học sinh bỏ học góp phần duy
trì và giữ vững trường đạt chuẩn quốc gia khi đến thời điểm kiểm tra
công nhận lại.
Thu thập và xử lý các số liệu về thực trạng học sinh bỏ học của
nhà trường trong những năm qua.
Xây dựng quy chế phối hợp với các ban ngành đồn thể, chính

quyền địa phương để có cơ sở tìm hiểu đối tượng học sinh cá biệt, học
sinh bỏ học và tìm ra các giải pháp tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao.
Biện pháp ngăn ngừa hiện tượng bỏ học của học sinh là cách làm
của người quản lý bằng những cơng việc cụ thể có quan hệ chặt chẽ và
5


thống nhất nhằm tác động đến các đối tượng có nguy cơ bỏ học để làm
cho hiện tượng bỏ học của học sinh không thể xảy ra trong phạm vi nhà
trường. Từ đó xây dựng kế hoạch, chỉ đạo phối hợp với đội ngũ giáo
viên, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và cộng đồng xã hội nhằm
giúp cho các em học sinh ý thức được tầm quan trọng của việc học.
Khuyến khích học sinh biết vượt lên mọi khó khăn của hồn cảnh để
vươn lên học tập thật tốt trở thành người có ích cho xã hội sau này.
* Đối với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi:
Nhằm kiểm nghiệm lại trên thực tế, việc tổ chức bồi dưỡng, đánh
giá việc vận dụng những kiến thức vào bồi dưỡng cho học sinh đã đảm
bảo, phù hợp với nhận thức của học sinh và kết quả đạt được trong thực
tế. Từ đó tìm ra các giải pháp chỉ đạo cụ thể hơn cho công tác bồi
dưỡng chất lượng đại trà và công tác bồi dưỡng học sinh mũi nhọn là
đối tượng học sinh giỏi các mơn văn hóa lớp 9 và những học sinh năng
khiếu ở các lĩnh vực khác. Ngồi ra, cịn tìm hiểu ngun nhân, tìm ra
các biện pháp khắc phục, kiến nghị với các cấp lãnh đạo, chính quyền
địa phương, cha mẹ học sinh tham gia hưởng ứng, tạo điều kiện thuận
lợi cho nhà trường tổ chức các hoạt động bồi dưỡng học sinh đảm bảo
hiệu quả cao nhất.

6



PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng đề tài
1. Hạn chế tỷ lệ học sinh bỏ học
Trong những năm gần đây được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp uỷ Đảng, phịng Giáo dục và Đào tạo Tân Thạnh, của chính
quyền địa phương, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ quản lý,
giáo viên, nhân viên trong nhà trường và học sinh của toàn trường. Nên
nhà trường đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học trên tất cả các mặt giáo
dục, cụ thể là:
Bảng thống kê so sánh tỷ lệ học sinh bỏ học trong 3 năm khi
nghiên cứu tổ chức thực hiện:
Năm học
Khối

2012-2013

2013-2014

TSHS: 156
Khối 6

Bỏ

học:

1

(0,63)
TSHS: 177
Khối 7


Khối 8
Khối 9

Bỏ

học:

(0,56)
TSHS: 141
Bỏ học: 2(1,4)
TSHS: 145

1

2014-2015

TSHS: 169

TSHS: 202

Bỏ học: 1 (0,6)

Bỏ học: 1 (0,5)

TSHS: 150

TSHS: 160

Bỏ học: 1 (0,7)


Bỏ học: 0

TSHS: 172

TSHS: 137

Bỏ học: 3(1,7)
TSHS: 133

Bỏ học: 0
TSHS: 163
7


Bỏ học: 0 (0)
TSHS: 619
Cộng

Bỏ

học:

(0,64)

4

Bỏ học: 1 (0.8)

Bỏ học: 1 (0.6)


TSHS: 624

TSHS: 662

Bỏ học: 6 (0,9)

Bỏ học: 2 (0,3)

Dựa vào bảng thống kê đối chiếu tỷ lệ học sinh bỏ học ở các khối
lớp có chiều hướng giảm dần theo từng năm học so với tổng số học sinh
hằng năm. Tuy nhiên qua theo dõi học sinh bỏ học thì nhận thấy rằng tỷ
lệ bỏ học ở các khối lớp hằng năm vẫn cịn. Nhìn chung hằng năm vẫn
cịn một vài khối lớp tỷ lệ bỏ học cao hơn 1%, nhất là ở khối lớp 8. So
với quy định trường đạt chuẩn quốc gia thì tỷ lệ bỏ học hằng năm của
tồn trường khơng q 1%. Năm học 2014-2015 tơi đã áp dụng một số
giải pháp và hạn chế được tỷ lệ học sinh bỏ học từ 0.9% (năm học
2013-2014) giảm cịn 0,3 (năm học 2014-2015). Để khắc phục tình
trạng học sinh bỏ học đạt hiệu quả qua từng năm học chắc hẳn ban giám
hiệu và tập thể giáo viên nhà trường đã áp dụng nhiều biện pháp rất
thiết thực hữu hiệu phù hợp với điều kiện tình hình thực tế của nhà
trường và của địa phương.
Trong quá trình nghiên cứu và nắm bắt tình hình thực tế nhằm
mong sao có được những giải pháp tổ chức thực hiện đạt hiệu quả, bản
thân tơi đã tìm ra những ngun nhân cơ bản dẫn đến học sinh bỏ học
như sau:
Một là: Do trình độ tiếp thu kiến thức chậm chưa nắm rõ được
kiến thức cơ bản có liên quan từ chương trình học ở các khối lớp trong
một cấp học. Nhất là đối với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa
hàng năm nên chương trình học ở các khối lớp ln thay đổi và nâng

cao kiến thức vì thế một số học sinh không nắm bắt và theo kịp được
chương trình học. Từ đó sức học yếu dần cảm thấy thua kém bạn bè,

8


dẫn đến chán nản, sợ đi học, dối gia đình, dối nhà trường trốn học và
cuối cùng bỏ học.
Hai là: Một số giáo viên bộ môn giảng dạy chưa đạt hiệu quả cao
trong từng tiết học, do chưa thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy
học vì thế phương pháp truyền thụ kiến thức còn hạn chế, chưa tạo sự
hứng thú đam mê đối với học sinh trong giờ học làm cho học sinh khó
hiểu, khó nắm được kiến thức trọng tâm bài nên khơng thích tiếp tục
học những bộ môn ấy, dẫn đến học không đều giữa các môn nên bi
quan bỏ học.
Ba là: Do bản thân học sinh (HS) khơng ham thích học nữa, chỉ
nhận thức học hết bậc tiểu học, biết đọc, biết viết là đủ rồi. Thậm chí
khi lên lớp 6 học được một thời gian nhưng ham chơi bỏ tiết và cuối
cùng bỏ học
Bốn là: Một số phụ huynh còn hạn chế trong việc nhận thức, cho
nên khi thấy các em có thể giúp đỡ được gia đình thì bắt các em nghỉ
học để đi xin việc làm ở một công ty hay một xí nghiệp nào đó hoặc khi
thấy các em có biểu hiện muốn bỏ học thì phụ huynh khơng khun
bảo, động viên các em trở lại trường học mà thậm chí còn phản đối khi
giáo viên đến vận động.
Năm là: Do hồn cảnh điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn.
Khi gặp thời vụ, một số học sinh phải nghỉ học phụ giúp cha mẹ đi làm
thuê, làm mướn do gia đình đơng con, ít ruộng để tạo kế sinh nhai.
Trường họp này thường gặp đối với những hộ gia đình nghèo ở các xã
Nhơn Hồ, Tân Bình, Kiến Bình.

Sáu là: Một số học sinh ở ấp Lò Đường, Hiệp Thành xã Tân
Bình, ấp Kênh Chà xã Nhơn Hồ nhà rất xa trường Thị Trấn, điều kiện
đi lại gặp nhiều khó khăn, thậm chí một số em khơng có phương tiện để
đi đến trường. Nên sau khi được công nhận hồn thành chương trình
tiểu học hoặc lên học lớp 6 được vài tuần lễ cảm thấy quá khó khăn nên
9


đành phải bỏ học dù được thầy (cô) giáo chủ nhiệm, chính quyền địa
phương đến vận động nhiều lần.
Bảy là: Sự định hướng nghề nghiệp của một số phụ huynh đối
với con em ở tương lai còn mơ hồ, chưa thấy rõ được tầm quan trọng
của việc học tập nâng cao trình độ kiến thức, chưa thể hiện tinh thần
trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đến việc học tập của con em, thậm chí
khơng tạo điều kiện cho con học cao và khơng động viên khích lệ khi
học sinh có biểu hiện bỏ học.
Tám là: Các cơ sở điện tử mở ra ngày càng nhiều làm cho học
sinh ham chơi, nghiện game trốn tiết thường xun, dẫn đến khơng ham
thích học, dần dần chán học rồi bỏ học.
2. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
Nhà trường xây dựng một chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi dựa
vào chương trình nội khố cho từng mơn học. Sau đó, đưa về cho từng
giáo viên phụ trách bộ môn nào ở khối nào thì chịu trách nhiệm biên
soạn ra các nội dung cần bồi dưỡng có sự kiểm tra của Ban giám hiệu.
Thực tế trong 3 năm qua trường THCS Thị trấn Tân Thạnh đã đạt
được kết quả học sinh giỏi như sau:
Năm học
2012-2013

2013-2014


2014-2015

Cấp huyện

31

41

31

Cấp tỉnh

10

12

5

Số lượng HSG

Trong những năm học qua, số lượng đạt học sinh giỏi cấp huyện
ở trường THCS Thị trấn Tân Thạnh tương đối ổn định và khá cao so với
các trường trong huyện, nhưng số lượng đạt học sinh giỏi cấp tỉnh hầu
hết chỉ là học sinh giỏi các bộ mơn văn hố lớp 9. Năm học 2014-2015,
tỷ lệ đạt học sinh giỏi cấp tỉnh giảm so với năm học 2013-2014 là 7 học
10


sinh. Kết quả trên chưa thoả mãn với nhu cầu mong muốn của nhà

trường.
Trong quá trình nghiên cứu và nắm bắt tình hình thực tế nhằm
mong sao có được những giải pháp tổ chức thực hiện đạt hiệu quả đồng
bộ hơn ở các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, bản thân tơi đã tìm ra một số
ngun nhân cơ bản sau:
Một là: những em học sinh trong đội tuyển thường nằm rải rác
các xã, không tập trung ở Thị Trấn nên điều kiện đi lại học bồi dưỡng
còn gặp khó khăn và mất nhiều thời gian nên ảnh hưởng đến việc tiếp
thu kiến thức mới.
Hai là: trình độ để đạt được học sinh giỏi ở mỗi năm học chưa
đồng đều.
Ba là: đội ngũ giáo viên được phân công bồi dưỡng năng lực
trình độ và kinh nghiệm chưa đồng bộ ở các bộ môn.
Bốn là: giáo viên được phân công bồi dưỡng Tin học và máy tính
bỏ túi, khéo tay kỹ thuật chưa có kinh nghiệm nhiều, cịn hạn chế về
chương trình, tài liệu bồi dưỡng.
Năm là: một vài giáo viên được phân công bồi dưỡng chưa nhận
thức sâu về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bồi dưỡng đạt học sinh
giỏi trong nhà trường là tạo được niềm tin trong học sinh và uy tín với
phụ huynh học sinh, với chính quyền địa phương.
Sáu là: các nguồn lực cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi còn chưa
đạt yêu cầu như mong muốn.
Bảy là: chế độ, kinh phí bồi dưỡng cho giáo viên còn hạn chế
chưa đủ sức thuyết phục, chủ yếu mới chỉ là động viên và khích lệ
II. Các giải pháp thực hiện
Sau khi tìm hiểu và nắm được những ngun nhân cơ bản vì sao
học sinh cịn bỏ học tương đối nhiều trong các năm qua và công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh chưa đạt kết quả cao như sự mong muốn
11



của nhà trường. Tôi đã tự nhủ với bản thân: là một Hiệu trưởng quản lý
trường THCS cần phải làm gì để giúp các em học sinh hạn chế tối đa tỷ
lệ bỏ học , biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả cao cả về số
lượng lẫn chất lượng nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục tồn
diện để góp phần duy trì và giữ vững trường trung học cơ sở Thị Trấn
đạt chuẩn quốc gia trong những năm kế tiếp. Tôi đã tập trung vào một
số giải pháp sau:
1. Hạn chế tỷ lệ học sinh bỏ học trong nhà trường
1.1. Phân công giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn hợp lý
phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường.
Một số cán bộ (CB), giáo viên (GV) cho rằng việc phân công
giáo viên chủ nhiệm lớp rất đơn giản. Ai cũng có thể chủ nhiệm được
bất kỳ một lớp nào. Nhưng thực chất khơng thể nghĩ như thế được. Bởi
vì, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh ngày càng phát triển nên việc lựa chọn
giáo viên để phân công chủ nhiệm đúng đối tượng là rất quan trọng. Ở
lứa tuổi này, các em ln muốn tự làm theo ý thích của bản thân, muốn
chứng tỏ là mình đã lớn và các em cũng dễ bị cám dỗ, bắt chước theo
bạn bè. Các em ln muốn tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh
mình. Chính vì vậy, phải học tập, thực hiện theo những khuôn khổ của
nhà trường là việc các em cảm thấy khơng thoải mái, khơng muốn tn
thủ. Từ đó, các em muốn thoát ra, muốn được tự do. Vậy phải làm gì để
giúp các em học tập tốt, rèn luyện nhân cách đạo đức theo những khuôn
khổ, giáo huấn của nhà trường với tâm lý thoải mái, thích thú hơn là bị
ép buộc. Muốn làm được điều này, công tác chủ nhiệm lớp là một trong
những yếu tố quan trọng nhất mà giáo viên cần phải thực hiện. Tuy
nhiên, thực hiện công tác chủ nhiệm lớp không phải là lúc nào chúng ta
cũng thực hiện một việc làm giống nhau với tất cả các đối tượng học
sinh và thực hiện suốt cả năm học, như thế sẽ gây tâm lý nhàm chán,
khơng hiệu quả. Mỗi giáo viên cần có những biện pháp cụ thể riêng,

12


những cách làm việc riêng và ln có sự đổi mới, có những biện pháp
tích cực để tạo sự mới mẻ, ham thích đối với học sinh nhằm thúc đẩy
các em thực hiện tốt những yêu cầu mà giáo viên đưa ra. Đã nhiều năm
kinh nghiệm tôi nhận thấy đối tượng học sinh khối đầu cấp THCS nên
phân công đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình và có năng lực đảm nhận
cơng tác chủ nhiệm. Vì lứa tuổi học sinh khối 6, 7 còn nhỏ, tâm sinh lý
phát triển còn chậm, các em cịn hồn nhiên, vơ tư chưa biểu hiện rõ sự
mặc cảm, lòng tự ái … nên dễ dàng giáo dục bằng biện pháp thuyết
phục, gần gũi tâm tình trao đổi …
Riêng đối với lứa tuổi học sinh khối 8, 9 tâm sinh lý thật sự đã
phát triển, các em đã biết phân biệt tình cảm, có lịng tự trọng, tự ái và
cũng có thể tự cho mình là người trưởng thành, thích làm người lớn nên
khó giữ khoảng cách rõ ràng đối với những giáo viên còn trẻ. Thậm chí
một số học sinh có thể phản biện với giáo viên khi gặp những sự việc
bất trắc mà giáo viên khơng thể lường trước được tình huống có thể xảy
ra. Chính vì thế, cần phải chọn đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm, tay
nghề lâu năm dạng vững làm cơng tác chủ nhiệm để có thể nhạy bén
linh động giải quyết những vụ việc kịp thời, kịp lúc và sẽ có hiệu quả
cao. Nhưng khơng phải lúc nào cũng thực hiện rập khuôn như thế mà
phải xem xét qua một giai đoạn phân công nhận thấy rằng GV nào
không thể đảm nhận công tác chủ nhiệm ở lớp này được hoặc biện pháp
giáo dục không đạt hiệu quả thì phải kịp thời thay đổi giáo viên khác để
phù hợp với tình hình thực tế của lớp. Có như thế mới không gây ức chế
đến tâm lý học sinh và các em sẽ hạn chế bỏ học. Tuy nhiên, do biên
chế quy định số tiết giảng dạy phải phù hợp với mỗi GV nên đôi khi
phân công GV làm công tác chủ nhiệm chưa thực sự triệt để theo ý
muốn. Vì thế vẫn cịn một số giáo viên chủ nhiệm (GVCN) chưa thể

hiện rõ tinh thần trách nhiệm, thực hiện chưa đồng bộ nên chưa đạt hiệu
quả cao trong việc giáo dục rèn luyện hạnh kiểm học sinh. Cho nên, một
13


vài lớp ở khối 8 số lượng học sinh bỏ học tỷ lệ còn khá cao. Song song
với việc phân cơng giáo viên chủ nhiệm thì việc phân cơng giáo viên bộ
môn cũng không kém phần quan trọng. Bản thân tơi phải nắm bắt tình
hình học sinh của từng khối lớp thông qua năm học trước để dễ dàng
phân công ở năm học sau hợp lý hơn. Qua tìm hiểu phát hiện có một số
lớp khi phân cơng giáo viên này dạy mơn Tiếng Anh, mơn Hóa Học,
mơn Tốn, mơn Sinh học… thì phần lớn học sinh trong lớp khơng thích
học, chán học, trốn học, dẫn đến hiện tượng bỏ học. Nhưng khi kịp thời
thay đổi phân công giáo viên khác thì vận động các em trở lại lớp học
rất tốt thậm chí duy trì được sĩ số đến cuối năm. Vấn đề này bản thân tôi
đã vận dụng đạt hiệu quả ở nhiều năm học trước.
1.2. Tổ chức thực hiện tốt khâu vận động đối tượng học sinh
được công nhận hồn thành chương trình tiểu học vào học lớp 6 phổ
thơng:
Sau khi nắm được kết quả hồn thành chương trình tiểu học tơi đã
trực tiếp gặp gỡ trao đổi với Hiệu trưởng các trường tiểu học để biết
được số lượng học sinh nhằm dễ dàng phân chia số lớp ở đầu năm học.
Sau đó, tơi tổ chức cho giáo viên lập danh sách theo từng đơn vị
và thông báo ngày tập trung vào trường THCS để điểm danh sĩ số. Từ
đó lập riêng cụ thể danh sách học sinh không ra học lớp 6 ở từng địa
bàn xã, Thị Trấn và tổ chức phân công phối kết hợp giữa giáo viên chủ
nhiệm lớp 5 và đội ngũ giáo viên đã định hướng phân công chủ nhiệm
lớp 6 đến trực tiếp từng gia đình học sinh để vận động. Mặc khác, tôi
trực tiếp trao đổi với Hiệu trưởng các trường tiểu học đánh thư mời có
chữ ký của chủ tịch uỷ ban nhân dân các xã, Thị Trấn gởi đến từng gia

đình có con em khơng ra học lớp 6 phổ thông. Nếu tổ chức thực hiện
chưa đạt hiệu quả so với chỉ tiêu đã tuyển sinh thì Hiệu trưởng trường
THCS phải nắm chắc danh sách đối tượng lên kế hoạch đến gặp gỡ trao
đổi với các Hiệu trưởng và các giáo viên chuyên trách phổ cập ở các
14


trường tiểu học để phối kết hợp với chính quyền địa phương, trưởng
phó ấp, khu phố đến từng gia đình học sinh để tiếp xúc trao đổi với phụ
huynh, phân tích cho phụ huynh và học sinh hiểu rõ lợi ích của việc tiếp
tục học tập nâng cao trình độ sẽ có lợi ích cho bản thân của các em và
điều kiện kinh tế gia đình sau này.
Đây là việc làm đòi hỏi khẩn trương và cấp bách ngay từ đầu năm
học để sớm duy trì được đối tượng trong nhà trường nhằm góp phần
hồn thành cơng tác phổ cập THCS trên địa bàn toàn huyện.
1.3. Chuẩn bị thật tốt nội dung để tổ chức thành công các cuộc
họp cha mẹ học sinh.
Có rất nhiều giáo viên chủ nhiệm gởi giấy mời cho học sinh mang
về nhà mà không biết khả năng sẽ có bao nhiêu phụ huynh sẽ tới dự
họp. Chính vì lẽ đó mà bản thân tơi phải trực tiếp chỉ đạo GVCN cần có
lượng thơng tin hai chiều, đảm bảo phụ huynh hứa sẽ đi họp. Đối với
những phụ huynh vắng mặt vì một lý do bất khả kháng, tơi chỉ đạo giáo
viên chủ nhiệm cần tìm cách trao đổi lại nội dung và yêu cầu của cuộc
họp. Phổ biến cho phụ huynh nắm được giờ giấc, thời khoá biểu, quy
định về thủ tục nghỉ phép, lịch học bù, học phụ đạo, các khoản thu trong
năm học... Ngồi những vấn đề nêu trên, tơi cịn chỉ đạo cho giáo viên
chủ nhiệm phải duy trì tác dụng của phiếu liên lạc ở hàng tháng và học
kỳ. Giáo viên chủ nhiệm phải ghi nhận xét đầy đủ trong phiếu liên lạc
và yêu cầu phụ huynh phản hồi nghiêm túc, khắc phục tình trạng học
sinh giả mạo. Phiếu liên lạc được GVCN giữ một bản và một bản giao

cho gia đình để kịp thời phản hồi thơng tin khi HS có những hành vi vi
phạm nội quy nhà trường hoặc có biểu hiện bỏ học. Từ đó sẽ tạo được
sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường để có biện pháp giải quyết, giáo
dục đạt hiệu quả cao.
1.4. Thông tin hai chiều kịp thời giữa giáo viên chủ nhiệm với
Hiệu trưởng khi phát hiện học sinh nghỉ học liên tiếp không rõ lý do.
15


GVCN phải nắm bắt kịp thời đối tượng học sinh thông qua việc
báo cáo của cán bộ lớp, của GV bộ môn đã phê trong sổ đầu bài để kịp
thời đến gia đình tiếp xúc trao đổi với PHHS. Khi phát hiện HS học yếu
bỏ học thì GVCN cần phải kết hợp với GV bộ môn lên kế hoạch tổ
chức bồi dưỡng phụ đạo cho HS, phân công những HS khá giỏi kèm
những HS yếu kém. Bởi vì, do năng lực yếu kém nên các em rất sợ đi
học, thậm chí cịn dối cả gia đình, dối nhà trường trốn học để đi chơi.
Muốn quản lý tốt được các em trong từng tiết học, tôi quy định tất cả
giáo viên bộ môn khi vào đầu giờ mỗi tiết dạy phải điểm danh lại sĩ số
và ghi cụ thể tên học sinh vắng, bỏ tiết vào sổ đầu bài. Ngoài ra, hằng
ngày tơi cịn phân cơng các thành viên trong tổ văn phòng đến từng lớp
để điểm danh sĩ số. Sau khi tổng kết giáo viên chủ nhiệm và giáo viên
bộ môn sẽ nắm rõ được danh sách học sinh bỏ tiết hoặc nghỉ học có tính
hệ thống trong tuần. Từ đó, tơi kết hợp với giáo viên chủ nhiệm trực
tiếp mời phụ huynh trao đổi hoặc phân công GVCN đến tận gia đình
học sinh, cùng nhau tìm biện pháp để giáo dục các em giúp các em tiến
bộ trong học tập, ham thích học và khơng tự ý bỏ học. Qua đó, cịn theo
dõi được tính chun cần của học sinh ở từng lớp mỗi ngày và thông
báo đến GVCN để có biện pháp lên kế hoạch theo dõi sâu sát từng đối
tượng học sinh của lớp mình và kịp thời đến gia đình để trao đổi với
phụ huynh, tháo gỡ những khó khăn tạo điều kiện cho học sinh đi học

đều và thực hiện tốt nội quy của trường lớp. Muốn làm tốt vấn đề này
giữa phụ huynh và nhà trường phải có mối liên hệ kết hợp chặt chẽ.
Nghĩa là phụ huynh phải tổ chức kiểm tra theo dõi việc học tập của các
em ở nhà thông qua thời khố biểu ở một số bộ mơn mà các em học
yếu. Về phía nhà trường tơi chỉ đạo cho giáo viên bộ môn lên kế hoạch
giúp đỡ đặc biệt đối với học sinh yếu kém (tổ chức phụ đạo, biểu
dương, khuyến khích kịp thời, khơng truy bức gây ức chế, mặc cảm,
16


ln thể hiện sự thân thiện tích cực … ). Việc làm này có sự kết hợp
theo dõi chặt chẽ của giáo viên chủ nhiệm và Hiệu trưởng.
Mặt khác, giữa Hiệu trưởng và giáo viên chủ nhiệm phải có
lượng thơng tin hai chiều kịp thời, kịp lúc khi phát hiện học sinh bỏ học
liên tiếp khơng rõ lý do chính đáng. Giáo viên chủ nhiệm phải thông tin
đến với Hiệu trưởng để phối kết hợp trực tiếp đến gia đình học sinh trao
đổi với phụ huynh tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh bỏ học và giúp
phụ huynh tháo gỡ vấn đề này.Việc làm này đòi hỏi người Hiệu trưởng
phải có bản lĩnh, mạnh dạn kiên trì nhẫn nại phân tích cho phụ huynh
thấy rõ những mặt ích lợi và hạn chế khi học sinh muốn bỏ học. Điển
hình như:
- Em Nguyễn Trung Kiên học sinh lớp 8 4 nhà ở ấp Hiệp Thành
xã Tân Bình là một HS học đều đặn từ lớp 6 đến đầu năm học lớp 8.
Nhưng sau khi kết thúc học kỳ I do hồn cảnh kinh tế gia đình khó
khăn, cha mẹ li dị nên em quyết định nghỉ học và có sự đồng tình của
gia đình. Nắm rõ được tình hình tơi đã trực tiếp đến trao đổi với phụ
huynh và cả bản thân em Kiên. Qua những lần gặp gỡ trao đổi tâm tình,
tơi và GVCN đã thành cơng trong việc vận động em Kiên trở lại lớp và
được sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh.
- Em Nguyễn Thị Yến Linh HS lớp 9 5, nhà ở Khu phố 3 - Thị

Trấn. Em rất ham học nhưng vì hồn cảnh gia đình, túng thiếu bẩn chật
nên em đã phải nghỉ học một năm để phụ giúp cha mẹ đi làm mướn ở
Thành Phố Hồ Chí Minh nhưng đồng lương thu nhập không cao nên em
đã trở về địa phương muốn tiếp tục học lại. Nắm rõ tình hình trên, tơi đã
kết hợp với GVCN trực tiếp đến trao đổi với gia đình. Đặc biệt, tơi đã
mời em Linh đến văn phịng trao đổi tâm tình thầy trị và qua đó tơi đã
phân tích cho em hiểu được lợi ích của việc học tập nâng cao trình độ.
Sau cùng, tơi đã thật sự thành cơng vì em Linh đã trở lại lớp học rất đều
và đã duy trì đến cuối năm học.
17


Rõ ràng, nếu như khơng có lịng kiên trì nhẫn nại, thiếu tinh thần
trách nhiệm thì vơ tình chúng ta sẽ tạo nên một số lượng học sinh bỏ
học đáng kể gây ảnh hưởng đến công tác giáo dục trong nhà trường và
xã hội sẽ tăng thêm số lượng người thiếu trình độ văn hố gây ảnh
hưởng ít nhiều đến cuộc sống cộng đồng, nhất là đối với công tác Phổ
cập – giáo dục hiện nay. Điều đó cho thấy nếu thật sự chúng ta có tác
động mạnh mẽ đến tâm tư tình cảm của phụ huynh và học sinh thì
chúng ta sẽ được sự hỗ trợ đắt lực ngược lại từ phía phụ huynh học sinh.
1.5. Tiếp xúc với chính quyền địa phương các cấp trên địa bàn
khi có học sinh bỏ học.
Đây cũng là một việc làm rất cần thiết để góp phần giữ vững và
nâng tỷ lệ các chỉ tiêu trong công tác phổ cập THCS nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện. Nhiệm vụ của nhà trường hiện nay là
phải đảm bảo duy trì sĩ số, hạn chế thấp nhất tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu
ban. Trách nhiệm của nhà trường là phải trực tiếp tổ chức vận động khi
phát hiện học sinh bỏ học trên địa bàn mình phụ trách. Đây là vấn đề vô
cùng bức xúc đối với tất cả các trường THCS khi thực hiện công tác
phổ cập giáo dục. Như vậy, bản thân nhà trường tự vận động là chưa đủ,

chưa thực sự thu hút triệt để đối với phụ huynh và học sinh. Điều không
thể thiếu được là một Hiệu trưởng nhà trường, tơi cịn phải biết kết hợp
với Bí thư chi bộ và trưởng phó ấp, trưởng các khu phố trên địa bàn khi
có học sinh bỏ học. Bởi vì tiếng nói của chính quyền địa phương sẽ có
tác động mạnh mẽ hơn. Do gần gủi xóm ấp, khu phố với nhau họ sẽ
hiểu rõ được hoàn cảnh, điều kiện kinh tế của từng gia đình, thậm chí có
thể nắm rõ từng đối tượng học sinh ở mỗi hộ. Cho nên, khi được nhà
trường trao đổi về tình trạng học sinh bỏ học trên địa bàn thì chính
quyền địa phương sẽ có biện pháp kết hợp tổ chức vận động, phân tích
ý nghĩa, lợi ích, tầm quan trọng của việc học phổ thông, học phổ cập,
học bổ túc hiện nay là rất cần thiết cho mỗi công dân Việt Nam. Có như
18


thế sẽ tác động mạnh đến từng đối tượng gia đình có học sinh bỏ học và
sức thuyết phục càng ngày sẽ được tăng dần. Từ đó phụ huynh học sinh
sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn đối với việc giáo dục con cái và
quan tâm thường xuyên hơn trong việc học tập của con em mình.
1.6. Tổ chức phụ đạo học sinh yếu, kém
Để giúp đối tượng học sinh yếu kém phấn đấu học tập tốt hơn,
đạt được yêu cầu tối thiểu của từng môn học theo yêu cầu của chương
trình giáo dục phổ thơng, tơi đã tổ chức thực hiện tốt các biện pháp sau:
- Trên cơ sở cho GVCN kết hợp với GV bộ môn lập danh sách
HS thuộc diện yếu kém, nhà trường còn phải tổ chức họp phụ huynh
học sinh để phân tích nguyên nhân dẫn đến kết quả học tập yếu kém của
từng HS. Qua đó tơi trao đổi với GV bộ mơn tìm ra biện pháp phụ đạo
cho những HS khơng theo kịp chương trình cho phù hợp nhất, có hiệu
quả nhất.
- Song song với vấn đề trên, tôi đã xây dựng kế hoạch phụ đạo
HS yếu kém một cách rõ ràng và phân công trách nhiệm cụ thể cho từng

cán bộ giáo viên. GV bộ môn cùng khối thống nhất đề cương phụ đạo
cho từng bộ môn ở tất cả các khối lớp. Mỗi lớp phụ đạo HS 2 tiết/tuần
của 1 bộ mơn và GV giảng dạy phải đúng thời khóa biểu sắp xếp của
ban giám hiệu. Nếu có sự thay đổi phải báo cáo với Hiệu trưởng. Những
GV được phân cơng phụ đạo là những GV có trình độ chun mơn khá
vững, có tinh thần trách nhiệm đối với HS. GV được phân công phụ đạo
phải phê sổ đầu bài đầy đủ nội dung và ghi cụ thể số lượng HS tham gia
học tập và vắng mặt trong mỗi tiết học. Hiệu trưởng phải thường xuyên
kiểm tra, khảo sát chất lượng HS để đánh giá kết quả phụ đạo của GV
và sự tiến bộ của HS. Từ đó, có chế độ động viên khen thưởng kịp thời
những HS tiến bộ và những CB,GV tích cực trong cơng tác phụ đạo.
Cơng việc này nhà trường đã tổ chức thực hiện thường xuyên và
liên tục trong những năm qua nhưng hiệu quả đạt chưa cao do HS còn
19


lơ là, chán học, còn bỏ học nhiều. Trong năm học 2014-2015, bằng sự
nổ lực và quyết tâm nhà trường tiếp tục tổ chức thực hiện, tập trung chủ
lực phụ đạo ở các bộ mơn: Ngữ Văn, Tốn, Tiếng anh, Vật lí, Hóa học .
Kết quả đem lại rất khả quan, HS theo học các lớp phụ đạo đa số đi học
thường xuyên, đầy đủ hơn, ít vắng học và bỏ học.
1.7. Giáo dục học sinh định hướng nghề nghiệp ở tương lai
thông qua tiết sinh hoạt dưới cờ và qua chương trình sinh hoạt hướng
nghiệp đối với học sinh lớp 9.
Đa số học sinh hiện nay chưa nhận thức được việc học tập nâng
cao trình độ sẽ có lợi ích ở tương lai như thế nào. Vì thế, tơi đã kết hợp
với GVCN cần phải phân tích cho học sinh thấy được sau khi được
công nhận hết cấp THCS các em có thể chọn cho mình một hướng đi
đúng đắn. Khi có trình độ các em dễ dàng tìm cho mình một nghề làm
thích hợp, đáp ứng được nhu cầu kinh tế cho gia đình. Nhất là phải giáo

dục cho các em thấy được việc nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình lao
động sản xuất sẽ hạn chế về các khoản thu nhập. Nếu tiếp tục theo học,
có trình độ kiến thức thì sẽ dễ dàng xin việc làm và bình quân thu nhập
sẽ cao hơn so với việc làm không ổn định hiện nay ở địa phương. Ngồi
ra, tơi cịn kết hợp với GVCN lựa chọn một số ví dụ tiêu biểu trong thực
tế cuộc sống để phân tích, so sánh trong các cuộc họp phụ huynh học
sinh để giúp phụ huynh hiểu rõ giữa thu nhập kinh tế gia đình hàng năm
và thu nhập khi chọn được một nghề ổn định sau khi được công nhận
hết cấp THCS. Bên cạnh, tơi cịn phân tích cho học sinh nắm rõ: Nếu
khơng có trình độ sẽ khơng đáp ứng được nhu cầu cho chính bản thân
và khơng thể phục vụ được cho kinh tế gia đình. Ngược lại, nếu ý thức
không ngừng nâng cao học tập sẽ tạo cho mình một vốn kiến thức
phong phú và sẽ chọn cho mình một nghề nghiệp ổn định ở tương lai.
Nghĩa là mỗi cá nhân sẽ chọn được một nghề phù hợp và sẽ có sự tiến
bộ thành đạt trong nghề, hành nghề lâu dài và có thể dịch chuyển nghề
20


một cách dễ dàng. Từ đó có thể lập thân lập nghiệp góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế gia đình và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Đây
cũng là một giải pháp mang tính thực tiển khá hữu hiệu nhằm giúp học
sinh hạn chế bỏ học.
1.8. Tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh trong nhà
trường
Trong những năm qua hoạt động phong trào Đoàn - Đội của
trường THCS Thị trấn Tân Thạnh ngày càng được khởi sắc, chất lượng
và số lượng các hoạt động khơng ngừng tăng lên qua đó thu hút đơng
đảo học sinh tham gia hưởng ứng với thái độ đầy tích cực và hứng thú.
Với những hoạt động phong trào mang tính định kì như văn nghệ, thể
dục thể thao, hội trại, sinh hoạt chủ điểm dưới cờ, đố vui để học, ra

quân dọn vệ sinh khuôn viên trường, những buổi sinh hoạt kỷ niệm
những ngày lễ lớn của đất nước thì những hoạt động mang tính thường
nhật khác như tổ chức các trò chơi dân gian trong giờ ra chơi, hội khỏe
Phù Đổng…đã tạo nên khơng khí tích cực, vui tươi cho học sinh sau
những giờ học căng thẳng.
Những hoạt động ấy đã rèn luyện và hình thành ở các em thái độ
tinh thần ý thức, nhiệt tình, trách nhiệm và ham muốn được đóng góp
cho phong trào của lớp, của trường qua đó cảm nhận được rằng bản
thân sống có ích hơn, biết đồn kết và biết làm việc vì tập thể, tạo nên
phong trào thi đua học tập tiếp thu nhiều kiến thức để được tham gia và
có kết quả tốt ở các cuộc thi do nhà trường tổ chức
Có thể nói những hoạt động trên đã và đang góp phần đẩy mạnh
thực hiện xây dựng phong trào “ Trường học thân thiện, học sinh tích
cực ”, “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”, kết quả những hoạt động
trên đã nhận được sự hưởng ứng, đồng tình tích cực từ học sinh, hội
đồng sư phạm nhà trường và sự đánh giá cao của Hội cha mẹ học sinh.
Để có được những kết quả ấy ngồi sự hưởng ứng tham gia của học
21


sinh, sự đóng góp, hướng dẫn chỉ đạo của Ban Giám Hiệu, của các thầy
cơ giáo thì bộ phận chủ chốt không thể thiếu trong việc xây dựng phong
trào cho nhà trường đó là tổ chức Đồn - Đội mà trực tiếp lãnh đạo là
Đồn TNCS Hồ Chí Minh của trường.
Nhiều hoạt động đã được Chi bộ Đảng chỉ đạo cho Chi Đoàn tổ
chức, thu hút được nhiều học sinh tham gia, nội dung và hình thức hoạt
động liên tục được đổi mới, đa dạng, sáng tạo, phù hợp với nhu cầu và
tâm lý lứa tuổi học sinh, đáp ứng tốt nhu cầu học tập, vui chơi giải trí đã
góp phần định hướng giúp cho học sinh phấn đấu toàn diện, phấn đấu
trở thành con ngoan, trò giỏi.

2. Tổ chức bồi dưỡng HS giỏi
Thông qua việc kiểm tra chất lượng đầu năm kết hợp với kết quả
học tập cuối năm lớp 8, nhà trường tuyển chọn những em có năng khiếu
để bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG), chủ yếu tập trung ở khối lớp 9. Vì
đây là đối tượng thi tuyển HSG cuối cấp. Tôi đã kết hợp với các tổ
chun mơn lựa chọn phân cơng những GV có năng lực, uy tín, có tâm
huyết, có kinh nghiệm để ơn luyện, bồi dưỡng kiến thức cho HSG. Với
tinh thần tích cực, lịng nhiệt huyết của thầy cơ giáo; tính tự giác, say
mê học tập của HS; các kỳ thi HSG trong những năm gần đây, tỷ lệ
HSG văn hóa của nhà trường đạt kết quả rất khả quan, nhất là ở các bộ
mơn Tốn, Vật lí, Ngữ văn, Hóa học, Giáo dục cơng dân, Địa lý, Tiếng
anh…
Ngồi thời gian ơn tập tại trường, một vài GV còn tổ chức cho
HS ôn tập tại gia đình. Mặc dù điều kiện gặp khơng ít khó khăn, nhưng
với tinh thần trách nhiệm, GV và HS đã phấn đấu “ Dạy tốt, học tốt”,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nhà trường đã phân công nhằm tạo sự an
tâm cho các em trong việc tiếp thu kiến thức nâng cao. Trong các tiết
bồi dưỡng, giáo viên luôn thân thiện, gần gũi để các em thoải mái trau
dồi kiến thức, bổ sung bài học thêm phong phú, từ đó khơng chỉ giúp
22


các em nắm vững kiến thức căn bản mà còn phát huy tính sáng tạo của
từng HS.
Đây cũng là một giải pháp thiết thực mà trường THCS Thị trấn
Tân Thạnh đã tổ chức thực hiện bồi dưỡng HSG đạt kết quả khả quan
trong những năm học vừa qua. Nó giúp HS thích thú say mê trong học
tập, duy trì được sĩ số trong nhà trường, hạn chế tỷ lệ HS lưu ban.
2.1. Tổ chức phát hiện và tuyển chọn học sinh giỏi
Trên cơ sở xây dựng kế hoạch của nhà trường thì bước theo đó là

việc tổ chức phát hiện, tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi ở các khối
lớp từ lớp 6 đến lớp 9. Đây là một bước quan trọng trong việc bồi
dưỡng học sinh giỏi.
Xuất phát từ thực tế, khơng phải mọi học sinh có xếp loại học
sinh giỏi đều là học sinh có năng khiếu cần bồi dưỡng. Ngược lại,
những học sinh có năng khiếu chưa hẳn đã là học sinh có xếp loại học
lực giỏi. Cho nên làm thế nào để phát hiện được học sinh có năng khiếu
từ đó tiến hành tuyển chọn và tiến hành bồi dưỡng cho từng khối lớp là
công việc quan trọng. Để tuyển chọn chính xác phải căn cứ vào thơng
tin và xét cả q trình học tập của học sinh. Vì thế, việc phát hiện và
tuyển chọn đúng đối tượng sẽ mang ý nghĩa định hướng phát triển đúng
đắn năng khiếu bộ môn. Cho nên, phát hiện và tuyển chọn được học
sinh giỏi là tiền đề, là xuất phát điểm cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi,
đồng thời nó mang ý nghĩa giáo dục rất lớn. Định hướng sai khả năng
phát triển của học sinh sẽ gây nên sự miễn cưỡng, gị bó, rất có hại cho
một nhân cách đang hình thành và phát triển. Với vai trị hiệu trưởng
nhà trường, tôi đã chỉ đạo cho giáo viên bộ môn phải kết hợp chặt chẽ
với giáo viên chủ nhiệm để tuyển chọn học sinh giỏi phù hợp, chính xác
và đúng đối tượng. Cụ thể được thực hiện các bước như sau:
- Bước 1: Giáo viên phụ trách bộ môn tiến hành khảo sát chất
lượng học sinh bằng cách kiểm tra những nội dung kiến thức cơ bản
23


trong chương trình học, kiến thức nâng cao bằng các hình thức kiểm tra
viết, thảo luận trao đổi hằng ngày. Sau đó, lập danh sách học sinh giỏi
của bộ mơn lớp mình phụ trách với số lượng khơng hạn chế. Đây là một
việc làm hết sức cần thiết bởi vì chỉ có giáo viên bộ mơn trực tiếp giảng
dạy mới đánh giá chính xác đối tượng học sinh giỏi.
- Bước 2: Tổ chức thi chọn trong khối.

+ Tổ trưởng và giáo viên bô môn kết hợp lập kế hoạch và tổ chức
tuyển chọn: Tham mưu với Ban giám hiệu trong việc ra đề kiểm tra,
việc bố trí thời gian, cách thức tuyển chọn. Phối hợp với tất cả giáo viên
trong khối mình dạy để tiến hành tuyển chọn một cách chính xác, khách
quan.
+ Nhóm bộ mơn ra đề kiểm tra: Nội dung kiểm tra phải nằm
trong hệ thống kiến thức cơ bản của chương trình học, có nâng cao, có
dạng bài tập mở và đề bài phải phù hợp với khả năng đặc điểm tâm sinh
lý của học sinh.
+ Tổ chức thi và chấm bài: Việc tổ chức thi và chấm bài là việc
quyết định chọn đúng đối tượng học sinh giỏi, chính vì vậy cần phải
tiến hành một cách nghiêm túc và thật sự khách quan.
- Bước 3: Tổ chức thi chọn để thành lập đội tuyển học sinh giỏi
của trường:
+ Phó hiệu trưởng chun mơn ra đề kiểm tra.
+ Tổ chức thi và tuyển chọn đội tuyển.
Hình thức ra đề, tổ chức thi và tuyển chọn tương tự như bước 2
nhưng ở bước này tôi chọn những giáo viên có năng lực chun mơn tốt
nhất để việc tuyển chọn có sự chính xác và khách quan. Những giáo
viên này chính là những người sẽ được phân cơng chính thức bồi dưỡng
các em trong đội tuyển sau khi đã được tuyển chọn. Việc phát hiện và
thi tuyển chọn học sinh giỏi được nhà trường tiến hành hằng năm nhằm
24


củng cố, bổ sung số học sinh trong đội tuyển hoặc loại những học sinh
có những biểu hiện hạn chế về năng lực.
2.2. Tổ chức phân công giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi
Đây là công việc quan trọng trong tổ chức của hiệu trưởng, sắp
xếp giáo viên đúng vị trí để họ có thể lao động với năng suất hiệu quả

nhất, địi hỏi giáo viên phải có căn cứ chính xác, tơi đã tập trung vào các
tiêu chí sau:
2.2.1 Phân công giáo viên bồi dưỡng:
Phân công giáo viên là khâu quan trọng, bởi có sử dụng hợp lý
đúng người, đúng việc thì mới phát huy được tài năng và hiệu suất công
tác. Để làm tốt khâu này, tôi đã thực hiện chọn giáo viên bồi dưỡng đội
tuyển học sinh giỏi cụ thể như sau:
- Giáo viên có trình độ, kiến thức chun mơn, nghiệp vụ vững
vàng.
- Giáo viên có lịng nhiệt tình, say mê, chấp hành quy chế chun
mơn tốt.
- Giáo viên có kỹ năng thiết kế nội dung dạy học - giáo dục, có kỹ
năng tự học, tự bồi dưỡng.
- Giáo viên có sức khoẻ, tự tin, có kinh nghiệm, có tính sáng tạo,
có năng lực giao tiếp, năng lực hiểu học sinh.
- Giáo viên phải được công nhận là giáo viên dạy giỏi hoặc đạt
chiến sĩ thi đua các cấp.
Trong q trình bồi dưỡng, tơi thường xun khảo sát giáo viên,
nếu có giáo viên hạn chế về sức khoẻ, chun mơn khơng phát triển thì
cần thay thế vào đó những giáo viên kế cận đã được bồi dưỡng về
chuyên môn. Việc phân công này áp dụng tùy theo tình hình thực tế của
nhà trường ở mỗi năm học.
2.2.2 Thời gian bồi dưỡng:
25


×