Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một vài biện pháp rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận về một đoạn thơ, một bài thơ cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.46 KB, 27 trang )

PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong môn Ngữ Văn, văn nghị luận chiếm vị trí rất quan trọng. Nó
giúp học sinh hình thành và phát triển tư duy, khả năng lập luận và thuyết
phục; giúp các em khi trưởng thành có tư duy lôgic và năng lực biểu đạt
những vấn đề của đời sống. Vì vậy, văn nghị luận được bố trí dạy ngay từ
lớp 7, tiếp tục rèn luyện và nâng cao ở lớp 8, lớp 9. Các tiết làm văn nghị
luận cũng chiếm một thời lượng không nhỏ ở lớp 9, giúp học sinh có kĩ
năng làm bài nghị luận hoàn chỉnh và tiếp tục nâng cao ở bậc trung học phổ
thông. Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là kiểu bài thuộc nhóm nghị luận
văn học. Đây là kiểu bài khó so với văn nghị luận nói riêng và phân môn
Tập làm văn nói chung. Ở kiểu bài này, đòi hỏi học sinh phải có năng lực
phân tích, đánh giá từ khái quát đến cụ thể, có sự hiểu biết về văn học và
đặc biệt là kĩ năng trình bày. Mặt khác, kiểu bài này đòi hỏi học sinh phải
thề hiện được năng lực tiếp nhận, cảm thụ thơ của mình.
Thực tế, ngay từ tuổi mẫu giáo, các em đã làm quen với thao tác đọc
và cảm nhận thơ ở cấp độ đơn giản. Đến bậc Tiểu học, mức độ cảm thụ thơ
được nâng lên một bước mới: đọc diễn cảm, chỉ ra cái hay, cái đẹp trong
đoạn thơ, phát hiện những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài
thơ. Đến bậc Trung học cơ sở, cảm thụ thơ được nâng lên một bước để đáp
ứng yêu cầu cao hơn. Nhưng đối với học sinh lớp 9 thì kĩ năng viết văn của
các em ở kiểu bài này còn nhiều hạn chế. Các em chưa định hình được các
bước tạo lập văn bản nghị luận về một đoạn thơ, một bài thơ. Chính vì lẽ
đó, kiến thức tạo lập văn bản nghị luận về văn học lại trở thành vấn đề xa lạ
đối với các em. Vậy đối với giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9,
ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về văn học, tôi

1



còn phải quan tâm đến phương pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận về một
đoạn thơ, bài thơ cho các em. Bởi điều này sẽ giúp cho các em có khả năng
lập luận chặt chẽ, trình bày những lí lẽ, dẫn chứng một cách sáng sủa, giàu
sức thuyết phục khi bày tỏ ý kiến của bản thân về một đoạn thơ, bài thơ.
Sau thời gian suy nghĩ và tìm tòi, đầu năm học 2015 – 2016, tôi đã mạnh
dạn chọn lấy đề tài: “Một vài biện pháp rèn luyện kĩ năng làm văn nghị
luận về một đoạn thơ, một bài thơ cho học sinh lớp 9” làm đề tài nghiên
cứu cho năm học này.
II. LỊCH SỬ ĐỀ TÀI:
Đề tài mà tôi nghiên cứu đã được nêu nhiều trong các sách về phương
pháp giảng dạy phân môn Tập làm văn và được nhiều giáo viên nghiên cứu
viết thành sáng kiến kinh nghiệm. Tuy nhiên, các giải pháp trong sách là
những giải pháp khắc phục cho học sinh bậc Trung học cơ sở nói chung. Ở
từng thể loại, từng kiểu bài cần phải có những giải pháp thiết thực hơn, sâu
sát hơn, phù hợp với đặc điểm yếu kém của học sinh từng nơi. Là giáo viên
giảng dạy môn Ngữ văn, tôi đã thấy được những nhược điểm ấy và đề ra
các giải pháp thích hợp để rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận về một đoạn
thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài này là những suy nghĩ, kinh nghiệm của bản thân tôi tích lũy
trong nhiều năm học. Đây là đề tài mới được nghiên cứu nên chỉ áp dụng
được đối với môn Ngữ văn 9 (phần văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ)
ở trường Trung học cơ sở Thuận Thành và mới áp dụng trong năm học
2015 – 2016.
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ những thực tiễn và cơ sở trên đề tài này nhằm mục đích giúp cho
học sinh lớp 9 có được kĩ năng làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài
thơ. Đề tài nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người học và nâng cao chất

2



lượng bộ môn Ngữ văn. Các em sẽ có được kĩ năng từ viết đúng, dần dần
hướng tới viết hay, có ý tứ sâu xa, lời lẽ ngắn gọn, hàm súc, bài viết mạch
lạc, gợi cảm và có sức thuyết phục. Đề tài còn có thể đánh thức cảm xúc
của đồng nghiệp trong quá trình dạy học để họ nhận thấy sự cần thiết trong
việc dạy học sinh cảm thụ tác phẩm thơ và trình bày một cách khoa học,
thuyết phục người đọc.

3


PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI:
Năm học 2014 – 2015, tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy
hai lớp 9 với 77 học sinh. Khi giảng dạy đến kiểu bài nghị luận về một
đoạn thơ, bài thơ, tôi nhận thấy các em còn gặp nhiều khó khăn ở bài viết
này. Kĩ năng viết văn của các em chưa thật thành thạo. Đa phần các em còn
lúng túng trong cách diễn đạt. Bài viết còn rời rạc, khô khan, dùng từ đặt
câu chưa chính xác, bố cục chưa rõ ràng, luận điểm, luận cứ và lập luận
cũng chưa có sức thuyết phục cao. Một số bài vốn từ rất nghèo nàn nên
diễn đạt lủng củng, dài dòng không thoát ý, mắc nhiều lỗi chính tả. Ở bài
viết Tập làm văn số 7 (nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ), các em đạt
được kết quả như sau:
Năm
học

2014-

Lớp


9A2
9A4

Tổng

Điểm

Điểm

Điểm Trung

Điểm

số

Giỏi

Khá

bình

Yếu

38
39

01
03


06
09

20
19

11
08

2015
Qua bảng số liệu trên, tôi nhận thấy rằng số học sinh có điểm Yếu ở
bài viết số 7 trong năm học 2014-2015 ở 02 lớp chiếm khá cao: 19/77 học
sinh (tỷ lệ 24,7%). Còn số học sinh có điểm Trung bình chiếm: 39/77 học
sinh (tỷ lệ 50.6%). Bản thân tôi trăn trở và dành thời gian tìm hiểu lý do.
Theo tôi, là do các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất: Các em chưa nắm sâu nội dung bài thơ, đoạn thơ. Kiểu bài nghị
luận về một đoạn thơ, bài thơ đòi hỏi học sinh phải có sự hiểu biết về nội
dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ thì mới phân tích được. Vốn kiến
thức đó, các em có được từ đâu? Tất nhiên là từ phần đọc- hiểu văn bản.
Thế nhưng do các em còn quá lười nên chưa nắm chắc kiến thức ở phần
đọc- hiểu văn bản. Điều đó khiến bài viết ở bài Tập làm văn của các em
còn đơn điệu, chưa phong phú, sắc sảo. Nội dung bài viết còn sơ sài. Vì

4


vậy, các em đã gặp nhiều khó khăn trong việc tìm ý để làm bài văn nghị
luận.
- Thứ hai: Học sinh không lập dàn bài trước khi viết. Vì thế, bài làm của
các em có bố cục chưa rõ ràng. Các em cứ nhớ gì viết nấy nên bài viết còn

lộn xộn, chưa theo trình tự, còn mắc lỗi về lập ý, không làm nổi bật vấn đề
nghị luận. Các em chưa hiểu được dàn ý là nội dung sơ lược của bài văn.
Đó là hệ thống suy nghĩ, tìm tòi, nhận xét, đánh giá của học sinh dựa trên
yêu cầu cụ thể của đề bài. Dàn bài trong Tập làm văn chẳng khác nào là
bản thiết kế xây dựng ngôi nhà, bản kế hoạch sản xuất của một xí nghiệp để
thực hiện chỉ tiêu sản xuất.
- Thứ ba: Các em còn mắc nhiều lỗi về diễn đạt, trình bày thiếu logic,
không mạch lạc. Đa số các em còn nghèo nàn vốn từ ngữ nên diễn đạt còn
lủng củng hoặc có vốn từ nhưng sử dụng chưa phù hợp trong mọi hoàn
cảnh. Các em chưa biết lựa chọn các hình ảnh tiêu biểu để phân tích mà
làm nổi bật luận điểm. Mặt khác khả năng cảm thụ và phân tích chi tiết
nghệ thuật, điểm sáng nghệ thuật còn hạn chế. Bên cạnh đó, các em còn
lúng túng trong việc xây dựng một đoạn văn, trong việc diễn đạt những suy
nghĩ của mình vào bài viết.
Từ thực trạng trên đây, tôi nhận thấy rằng: muốn rèn luyện kĩ năng
làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9, bản thân tôi
cũng như học sinh phải cố gắng thật nhiều mới đem lại kết quả cao. Do đó,
ngay từ đầu năm học 2015-2016, khi được phân công tiếp tục giảng dạy
Ngữ văn lớp 9, tôi đã thử nghiệm một số biện pháp nhằm giúp học sinh làm
tốt kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Muốn vậy, tôi cần giải
quyết tốt các vấn đề sau:
- Trước hết, tôi yêu cầu học sinh phải nắm chắc những kiến thức đã học ở
các đoạn thơ, bài thơ. Bởi vốn kiến thức này nó sẽ giúp cho các em rất
nhiều trong việc làm rõ luận điểm, làm nội dung của bài viết được sâu sắc

5


hơn. Muốn làm được điều này, tôi phải hướng dẫn các em tích hợp với giờ
dạy văn bản.

- Để có luận điểm rõ ràng thì các em phải đọc kĩ yêu cầu đề bài, xác định
giới hạn phạm vi yêu cầu của đề và trả lời được câu hỏi: Điều nổi bật nhất
để làm rõ vấn đề là gì? Điều đó được biểu hiện qua những chi tiết nào?
Làm được điều này nghĩa là tôi đã giúp cho các em tìm hiểu đề và tìm ý.
- Lập dàn bài cho một bài văn nghị luận là bước không thể bỏ qua. Bởi vì
xây dựng dàn bài trước khi viết bài sẽ có rất nhiều ưu điểm. Bài viết sẽ liền
mạch, các ý được sắp xếp theo trình tự hợp lí hơn. Nhờ thế mà bài viết
tránh được tình trạng mất cân đối, đầu voi đuôi chuột.
- Bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nêu được các nhận xét,
đánh giá và cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải
gắn với sự phân tích, bình giảng ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp tu
từ, nội dung cảm xúc của tác phẩm. Đối với kiểu bài nghị luận về một đoạn
thơ, bài thơ cần phân tích thẩm bình (cảm thụ) theo mạch cảm xúc của
đoạn thơ, bài thơ. Muốn đạt được yêu cầu trên khi viết bài, tôi luôn lưu ý
cho các em phải lựa chọn các chi tiết, hình ảnh tiêu biểu mà phân tích; biết
lựa chọn từ ngữ phù hợp mà diễn đạt để nội dung bài viết chính xác, phong
phú hơn. Mặt khác, tôi còn hướng dẫn các em viết phần Mở bài - Thân bài
-Kết bài sao cho đạt được kết quả tốt.
II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Để khắc phục tình trạng trên đây tôi đã tiến hành các giải pháp sau:
1. Tích hợp với giờ dạy văn bản
- Bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ hội tụ cả hai yếu tố: năng
lực cảm thụ văn chương và phương pháp làm bài nghị luận. Lời văn của bài
nghị luận phải chặt chẽ, thể hiện chính kiến của người viết lại vừa phải gợi
cảm, sinh động, thể hiện sự rung động với tác phẩm. Đây là điểm khác biệt
với các dạng văn khác. Trong thực tế, không phải học sinh nào cũng có khả

6



năng cảm thụ ngay từ khi tiếp xúc với tác phẩm. Trong quá trình đổi mới
phương pháp dạy học, học sinh làm trung tâm chủ thể của tiếp nhận. Nói
như thế cũng không phải coi nhẹ vai trò chủ đạo, hướng dẫn của thầy. Đặc
biệt là sự dẫn dắt để học sinh phát hiện, khắc sâu những điểm sáng và chi
tiết nghệ thuật trong đoạn thơ, bài thơ. Và đó cũng là việc làm thường
xuyên của tôi trong mỗi giờ dạy văn bản thơ. Đây là bước chuẩn bị quan
trọng để các em làm tốt kiểu bài này.
Ví dụ: Khi giảng dạy văn bản “Sang thu” của Hữu Thỉnh, tôi luôn dẫn
dắt để các em có thể cảm nhận được khoảnh khắc giao mùa của tự nhiên
thật đẹp, gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng. Các em cảm
nhận được bài thơ là sự chuyển đổi rất tinh vi của đất trời khi hạ dần qua và
thu đang tới. Qua khổ thơ một, tôi đã giúp các em nhận ra điểm sáng và
nghệ thuật trong đoạn. Tác giả không dùng những thi liệu về mùa thu như
những nhà thơ khác: cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá
ngô đồng hay lá khô xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận thu về bằng một hương
vị đặc biệt: hương ổi.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Giữa những âm thanh, màu sắc và hương vị đặc biệt của mùa thu đang lan
tỏa, chỉ có hương ổi làm nhà thơ bất chợt xao lòng. Đó là hương vị không
dễ dàng nhận ra, “hương ổi” dịu êm trong gió thu đã đánh thức xúc cảm
trong lòng tác giả. Hương thơm ấy không chỉ lan tỏa mà là “phả” thành
từng luồng đậm đặc vào gió se đặc trưng của mùa thu. Có lẽ đó là sức sống
dạt dào mà Hạ muốn tặng cho Thu. Màn sương Thu cũng muốn tận hưởng
trọn vẹn khoảnh khắc giao mùa mà chùng chình chưa muốn bay đi:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

7



Không gian có sự hòa hợp của hương ổi dịu dàng, gió thu nhè nhẹ và sương
thu mơ màng tạo nên một ấn tượng mà ta khó lòng quên được. “Sương thu”
được nhân hóa, “chùng chình” là sự rung rinh lay động của làn sương hay
chính là tâm trạng bâng khuâng trong tâm hồn con người? Có lẽ là cả hai.
Vạn vật trong thời khắc chuyển mùa càng trở nên duyên dáng, nhịp nhàng.
Cảm quan tinh tế của nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng, rất duyên
dáng để rồi xao xuyến: “Hình như thu dã về”. Bước đi của mùa thu được
cảm nhận không chỉ bằng khứu giác, xúc giác, thị giác mà còn là tất cả sự
rung động của tâm hồn. Thu về trong sự cảm nhận tinh tế của một hồn thơ
đầy ắp tình yêu tha thiết với mùa thu quê hương.
- Ngoài việc giúp cho học sinh phát hiện và khắc sâu những điểm
sáng và chi tiết nghệ thuật trong đoạn thơ, bài thơ tôi cũng không quên
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tác giả, hiểu rõ hoàn cảnh
sáng tác của tác phẩm. Bởi hoàn cảnh sáng tác của bài thơ có vai trò rất
quan trọng khi cần đánh giá, nhận xét một tác phẩm văn học. Đặt tác phẩm
vào hiện thực xã hội lúc đó, các em sẽ hiểu rõ và nhìn nhận đúng hơn về
tâm trạng, hành động suy nghĩ của nhân vật trong một tác phẩm hay tình
cảm, cảm xúc của nhân vật được thể hiện trong một bài thơ. Từ đó có thể
làm rõ vấn đề: Tại sao đối tượng lại có hành động, suy nghĩ như vậy? Hành
động suy nghĩ đó bộc lộ tâm trạng, cảm xúc như thế nào? Tâm trạng, cảm
xúc đó nói lên phẩm chất gì của đối tượng?
Ví dụ: Khi làm bài văn nghị luận với đề bài: “ Những đặc sắc trong bài thơ
Viếng lăng Bác của Viễn Phương”, tôi yêu cầu học sinh cần phải nắm rõ
hoàn cảnh sáng tác bài thơ là: Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống
Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước được thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc rồi vào lăng
viếng Bác. Bài thơ ấy được viết trong dịp đó và in trong tập “Như mây mùa
xuân” (1978). Hiểu được hoàn cảnh sáng tác, các em mới thấy được lòng


8


thành kính, niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và tấm lòng của đồng bào
miền Nam đối với Bác.
2. Tìm hiểu đề và tìm ý
- Tìm hiểu đề là bước đầu tiên và quan trọng nhưng từ xưa đến nay
nhiều học sinh thường bỏ qua bước này nên dẫn đến tình trạng bài làm lạc
hướng, lạc thể loại của đề bài yêu cầu, mọi người thường nói là lạc đề. Một
bài văn nghị luận thật sự đạt kết quả tốt cần đáp ứng được các yêu cầu về
nội dung và yêu cầu về hình thức. Vì vậy, trước khi làm bài, tôi đã yêu cầu
học sinh phải đọc kĩ đề bài, tìm và gạch chân những từ ngữ quan trọng để
xem xét, xác định chính xác thể loại nghị luận cần hướng tới. Đối với kiểu
bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, tôi yêu cầu học sinh cần phải xác
định phạm vi đối tượng mà đề yêu cầu (nghị luận về một đoạn thơ hay một
bài thơ). Mặt khác, các em cũng cần xác định được đề tài và nội dung của
đề bài, hướng nghị luận (do đề qui định hay do người viết lựa chọn).
Ví dụ: Đề bài: Phân tích và nêu cảm nghĩ về bài thơ: “Quê hương”
của Tế Hanh.
Với đề bài này, các em phải gạch chân được các từ ngữ: “ phân tích,
nêu cảm nghĩ, bài thơ Quê hương”. Các em phải xác định được đây là kiểu
bài nghị luận về một bài thơ (có nêu cảm nghĩ). Tôi giúp các em nhận ra đề
bài trên thuộc loại có chỉ định về nội dung cần bàn luận (phân tích và nêu
cảm nghĩ về bài thơ Quê hương của Tế Hanh).
Nếu là dạng đề chưa có chỉ định thì các em cần phải suy nghĩ tìm ra
yêu cầu mà nội dung của đề bài cần đạt. Chẳng hạn, đề bài: “ Những đặc
sắc trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương”. Đề bài này chưa cho
chúng ta biết nét đặc sắc ở phương diện nào của tác phẩm. Vì vậy, tôi phải
gợi ý cho các em hiểu và xác định được đây là tác phẩm thơ, mà nét đặc sắc
trong thơ phải là nội dung và nghệ thuật ( ngôn từ, hình ảnh, cấu trúc, biện

pháp tu từ, mạch cảm xúc, cảm hứng bao trùm…)

9


- Sau khi xác định đúng yêu cầu đề bài, tôi tiếp tục hướng dẫn học
sinh tìm ý để xây dựng hướng làm bài thật hoàn chỉnh. Nghĩa là tôi giúp
học sinh tái hiện lại những hiểu biết về tác giả, nhận ra hoàn cảnh ra đời,
nội dung tư tưởng và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
Ví dụ: Cho đề bài: Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Đối với đề bài này, tôi yêu cầu học sinh cần tìm được các ý như sau:
* Về tác giả:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình trí thức yêu
nước, có truyền thống đấu tranh kiên cường. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục
gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ thời niên
thiếu.
+ Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, Người đã
quyết tâm ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước.
* Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
Bài thơ được ra đời trong khoảng thời gian những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Địa điểm là vùng chiến khu Việt Bắc. Lúc này
Chủ tịch Hồ Chí Minh đang trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
Pháp đầy gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của nhân dân ta.
* Nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ:
- Nội dung:
+ Vẻ đẹp núi rừng đêm trăng chiến khu Việt Bắc.

+ Hình ảnh người thi sĩ, chiến sĩ Cách mạng Hồ Chí Minh (yêu thiên
nhiên và nặng lòng lo nỗi nước nhà)
- Nghệ thuật: Vẻ đẹp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại.

10


3. Lập dàn bài
- Đây là bước mà học sinh coi là khó nhất khi làm bài. Các em
thường bỏ qua để thực hiện bước viết bài. Tại sao vậy? Vấn đề này cũng dễ
lí giải:
+ Thứ nhất các em có một tâm lí sợ mất nhiều thời gian khi làm bài.
+ Thứ hai, học sinh không có thói quen, chưa tập thành nếp lập dàn
bài trước khi viết bài hoàn chỉnh.
+ Thứ ba, một số học sinh chưa thuộc bài cũ cho nên cũng không
thể lập được dàn bài.
+ Thứ tư, do thói quen chủ quan của một số em.
Như vậy, bài viết của các em có hệ thống luận điểm sắp xếp không
theo trật tự lô-gic, các ý lộn xộn, hoặc bỏ ý, bỏ luận điểm trong bài làm.
Trước thực trạng này, người giáo viên như tôi cần phải làm gì để
giúp các em tránh khỏi những tồn tại trên? Đầu tiên, tôi yêu cầu học sinh
xác định về thời gian làm bài cho một đề cụ thể. Đây là khâu chuẩn bị mà
tôi luôn rèn cho học sinh có thói quen tốt để các em khỏi lúng túng trong
việc phân phối thời gian sao cho hợp lí khi làm bài, tránh tình trạng thiếu
giờ hoặc thừa giờ.
Tiếp theo, tôi yêu cầu các em xác định bố cục bài văn nghị luận về
một đoạn thơ, bài thơ. Tìm ý cho mỗi phần của bố cục chính là chuẩn bị
các yếu tố, điều kiện cần thiết cho việc xây dựng bài văn. Nếu các em tìm
được các luận điểm chính xác, điểm sáng trong bài thơ sẽ là điều kiện phân
tích, bình luận trong bài văn đúng và hay tạo nên cách viết riêng cho mình.

Đối với bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, khi tìm ý để lập dàn ý, tôi
yêu cầu học sinh phải biết đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi sao cho phù hợp
với từng đề bài cụ thể. Với dạng đề có chỉ định và dạng đề không có chỉ
định, tôi yêu cầu học sinh phải xác định được đâu là nội dung chính cần
tìm. Vấn đề là tôi luôn tổ chức, hướng dẫn các em phát hiện ra các luận

11


điểm mà đề yêu cầu. Có như vậy việc lập dàn bài, triển khai luận điểm mới
trở thành kĩ năng của các em. Nhờ vậy, các em tránh được tình trạng khi
viết bài lại trùng luận điểm với những ý lớn mà mình đã xác lập, không viết
lan man.
Ví dụ: Đề bài: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
* Với yêu cầu của đề bài này, tôi tổ chức cho các em lập dàn bài cho bài
văn. Trước hết cho các em đặt câu hỏi tìm ý cho phần Mở bài như sau:
- Em hiểu gì về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Chính Hữu? Đối với
em dấu ấn sâu sắc nhất về nhà thơ Chính Hữu là gì? (Chính Hữu là nhà thơ
quân đội, chủ yếu sáng tác về những người chiến sĩ quân đội – những
người đồng đội của ông trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ. Tập thơ “Đầu súng trăng treo” là tác phẩm chính của ông).
- Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh nào? (Bài thơ được ra đời vào năm
1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch
Việt Bắc thu đông năm 1947)
- Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của bào thơ là gì? (Với cách sử dụng
ngôn ngữ bình dị, thấm đượm chất dân gian; với bút pháp tả thực kết hợp
với lãng mạn một cách hài hòa, bài thơ ca ngợi tình cảm đồng chí cao đẹp
giữa những người chiến sĩ trong thời kì đầu kháng chiến chống thực dân
Pháp gian khổ)
* Sau đó, tôi tổ chức cho các em tìm luận điểm, luận cứ trong phần Thân

bài. Mỗi bài thơ lại có nhiều cách trình bày luận điểm. Tùy từng yêu cầu
của đề bài mà tôi gợi cho học sinh tìm luận điểm. Ở đề bài này, tôi luôn
hướng dẫn học sinh tìm ra các luận điểm, luận cứ như sau:
- Phần một: Cơ sở hình thành tình đồng chí cao đẹp:
+ Sáu câu thơ đầu: Những lí giải về cơ sở của tình đồng chí:
. Cùng chung cảnh ngộ.

12


. Cùng chung lí tưởng, cùng chung chiến hào chiến đấu vì độc lập tự do
của Tổ quốc
+ Câu thơ thứ bảy là lời khẳng định, sự kết tinh tình cảm giữa những người
lính.
- Phần hai: Những biểu hiện cụ thể về tình đồng chí, đồng đội của người
lính:
+ Sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
+ Cùng chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính.
+ Sự lạc quan và tình đồng chí, đồng đội đã giúp người lính vượt qua
những gian khổ thiếu thốn.
- Phần ba: Biểu tượng đẹp, giàu chất thơ về người lính.
* Cuối cùng, tôi hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho phần Kết bài. Tôi cho
học sinh đặt câu hỏi và trả lời: phần Kết bài có nhiệm vụ gì? Hãy liên hệ
bản thân? (Nghĩa là các em phải đánh giá, khẳng định khái quát giá trị của
bài thơ; rút ra bài học bản thân hoặc liên hệ mở rộng vấn đề khơi gợi suy
nghĩ nơi người đọc). Với đề bài này, các em cần phải nêu được:
- Bài thơ “Đồng chí” là bức chân dung sống động về anh bộ đội cụ Hồ thời
kháng Pháp. Chính Hữu đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ với tấm lòng
cảm phục và mến thương sâu sắc.
- Bài thơ lưu lại mãi mãi trong kí ức bao nhiêu thế hệ cầm súng chống xâm

lăng. Chúng ta cần học tập và ghi nhớ công lao của người chiến sĩ cách
mạng.
4. Viết bài
Viết bài là quá trình chuyển dàn bài thành đoạn văn, bài văn. Đây
cũng là giai đoạn tương đối khó đối với học sinh. Bởi các em còn gặp khó
khăn trong cách diễn đạt. Vì vậy, tôi luôn hướng dẫn các em dựng thành
đoạn văn, viết bài hoàn chỉnh có bố cục ba phần rõ ràng. Tùy vào nội dung
của đoạn thơ, bài thơ mà triển khai các luận điểm. Ở bước lập dàn bài, các

13


em tìm được bao nhiêu ý lớn thì phần viết bài nhất thiết phải triển khai bấy
nhiêu đoạn văn. Mỗi đoạn văn tương ứng một ý lớn đã tìm được ở trên.
a. Lựa chọn các chi tiết hình ảnh tiêu biểu, từ ngữ phù hợp
* Đối với kiểu bài này, tôi lưu ý các em phải biết phân tích sự sáng
tạo độc đáo các chi tiết, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp tu từ và
đặc biệt là các yếu tố nghệ thuật để làm nổi bật từng luận điểm. Khi phân
tích chỉ phân tích một vài chi tiết chính, còn lại có thể phân tích lướt để
đảm bảo bài văn vừa có chỉnh thể, vừa có trọng tâm, có điểm sáng, gây
được ấn tượng.
Ví dụ: Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn kết trong bài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu.
- Từ đề bài trên, tôi đã hướng dẫn các em cảm nhận được đoạn kết của
bài thơ đã dựng lên bức tranh đẹp về tình đồng chí trong chiến đấu. Biểu
tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ là ba hình ảnh: người lính, khẩu súng
và vầng trăng trong cảnh rừng hoang sương muối, trong đêm phục kích đợi
giặc. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh đêm trăng mùa đông vô
cùng lạnh giá.
- Hình ảnh ẩn dụ “Đầu súng trăng treo” sáng tạo, đầy ấn tượng, cô

đọng và gợi hình, gợi cảm. Ngoài hình ảnh đó còn có nhịp điệu như nhịp
lắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh trong sự bát ngát.
* Ngôn ngữ giọng điệu của lời văn có vai trò rất quan trọng trong việc
diễn tả các trạng thái cảm xúc, thái độ của người viết. Vì vậy khi viết văn,
tôi luôn nhắc nhở các em cần lựa chọn từ ngữ và sắp xếp lời văn để đạt
được hiệu quả diễn đạt cao nhất. Có thể sử dụng từ ngữ mang sắc thái trang
trọng, dùng cách nói giảm, nói tránh, sử dụng từ ngữ có giá trị biểu cảm
cao (tượng thanh, tượng hình), kết hợp sử dụng các cách nói tu từ ẩn dụ với
các điệp từ, điệp ngữ, so sánh, nhân hóa, đặc biệt là lời văn phải gợi cảm,
thể hiện sự rung động chân thành.

14


Ví dụ: Khi phân tích hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ ba trong bài
“Viếng lăng Bác”, học sinh có thể sử dụng cách nói giảm nói tránh để diễn
đạt tâm trạng xúc của tác giả khi Bác không còn nữa. Đó cũng là cách bộc
lộ tình cảm chân thành của các em đối với Bác. Có thể diễn đạt đoạn văn ấy
như sau:
Tâm trạng xúc động của tác giả còn được biểu hiện cao hơn nữa trong
một ẩn dụ nghệ thuật “trời xanh là mãi mãi”có ý nghĩa sâu xa:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước, như trời xanh vĩnh hằng.
Nhà thơ Tố Hữu có viết “Bác sống như trời đất của ta”, bởi Bác đã hóa
thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Dù tin như thế nhưng mấy
chục triệu dân đất Việt vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi
của Người.
b. Viết đoạn Mở bài
Mở bài còn gọi là nhập đề, dẫn đề. Đoạn văn Mở bài là phần đầu tiên

của văn bản, có vai trò định hướng cho toàn văn bản. Phần Mở bài chứa
đựng vấn đề cần giải quyết một cách khái quát và thông báo cho người đọc
phương thức giải quyết hoặc giới hạn của vấn đề. Nó có vai trò gây dựng
tình cảm thân thiện cho người đọc, người nghe. Vì thế khi viết Mở bài,
thực chất là trả lời câu hỏi: Anh (chị) định viết, định bàn bạc vấn đề gì? Để
học sinh làm được điều này, tôi đã hình thành cho các em một qui trình để
viết đoạn văn Mở bài như sau:
(1) Giới thiệu tác giả  (2) Tên tác phẩm  (3) Thời điểm, hoàn
cảnh sáng tác  (4) Trích ở đâu  (5) Nêu nhận xét, đánh giá sơ bộ về nội
dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
Các em có thể Mở bài theo trình tự trên. Tuy nhiên, tôi vẫn không
quên lưu ý cho các em cách trình bày này là không bắt buộc. Điều bắt buộc

15


về nội dung phải có là phần (2) và phần (5). Về giới thiệu tác giả, học sinh
phải thuộc ít nhất một câu đối với mỗi tác giả. Cách Mở bài này gọi là cách
Mở bài trực tiếp, có thể dành cho học sinh có học lực từ trung bình trở
xuống.
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Với đề bài này,
tôi đã hướng dẫn học sinh có thể mở bài như sau:
Hữu Thỉnh vốn rất gắn bó với cuộc sống nông thôn. Ông có nhiều bài
thơ hay về con người và cuộc sống nông thôn, về mùa thu. Bài thơ “Sang
thu” được Hữu Thỉnh sáng tác gần cuối năm 1977, giới thiệu lần đầu tiên
trên báo Văn nghệ. Bài thơ là những cảm nhận, suy tư của tác giả về sự
chuyển biến của đất trời từ hạ sang thu.
Đối với học sinh có học lực khá trở lên, tôi hướng dẫn thêm cho các
em cách Mở bài gián tiếp. Tức là dẫn ra một ý khác có liên quan, gần gũi,
sau đó nêu vấn đề sẽ bàn trong bài. Để bài viết có không khí tự nhiên và có

chất văn, người ta thường Mở bài theo kiểu này.
Ví dụ: Phân tích khổ thơ đầu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy
Cận. Tôi hướng dẫn học sinh Mở bài như sau:
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường u sầu, phiền não.
Nhưng từ khi Cách mạng tháng Tám thành công đã tiếp thêm cho thơ ông
một luồng sinh khí mới, những trang thơ dạt dào niềm vui khi viết về cuộc
sống, con người mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm
mang cảm xúc như thế. Nó ghi lại hành trình đẹp đẽ của đoàn thuyền: ra
khơi lúc hoàng hôn, đánh cá lúc trăng lên và trở về lúc bình minh. Nhưng
có lẽ khung cảnh đẹp đẽ và hùng vĩ nhất là lúc đoàn thuyền ra khơi được
thể hiện rõ trong khổ thơ đầu.
c. Viết phần Thân bài
Thông thường, phần thân bài chiếm một phần rất lớn trong bài văn.
Nó có nhiệm vụ triển khai các ý đã nêu ở phần mở bài.Vì vậy, tôi yêu cầu

16


các em bám sát các ý đó để triển khai các đoạn văn. Đầu tiên, tôi hình
thành cho học sinh quy trình xây dựng đoạn khi phân tích một đoạn thơ,
khổ thơ như sau:
(1) Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy (câu này
gọi là câu dẫn)  (2) Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ  (3) Giảng giải, cắt
nghĩa (từ, ngữ câu thơ)  (4) Liên hệ, mở rộng, so sánh  (5) Nhận xét
cách sử dụng nghệ thuật và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý vào các chi tiết
nghệ thuật tiêu biểu, mà ở đó, các ý nghĩa độc đáo, tài năng nghệ thuật của
tác giả được bộc lộ, lựa chọn chi tiết không dàn trải) (6) Nhận xét, đánh
giá về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ.
Các phần (1), (2), (5), (6) thường bắt buộc phải có khi phân tích.
Phần (3), (4) thì tùy theo đoạn thơ, khổ thơ mà thực hiện. Riêng phần (4)

học sinh khá, giỏi thường dùng để mở rộng ý.
Ví dụ: Phân tích khổ thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
Với yêu cầu này, tôi đã hướng học sinh có thể viết đoạn phân tích
như sau:
(1) Từ cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ đã
có ước nguyện:
(2)

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa

17


Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
(3) Nhà thơ muốn làm con chim hót để làm vui cho cuộc đời; muốn làm
một cành hoa để khoe sắc và tỏa ngát hương thơm làm đẹp cuộc đời; muốn
làm một nốt trầm trong bản hòa ca đẻ làm tăng ý nghĩa cuộc đời. (4) Nhà
thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên như bông hoa, con chim để
nói lên ước nguyện của mình. Những hình ảnh ấy được lặp lại, trở lại mang
một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến có ích cho
đời. Cũng trong thời gian này, nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài “Một khúc
xuân” những suy ngẫm tương tự:
“Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Nét riêng trong những câu thơ của Thanh Hải là ở chỗ nó đề cập đến một
vấn đề lớn nhân sinh quan - vấn đề ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối
quan hệ với cộng đồng - một cách thiết tha, nhỏ nhẹ, khiêm nhường được
thể hiện qua những hình tượng đơn sơ mà chứa đựng nhiều xúc cảm.
(4) Nếu khi bắt đầu vào bài thơ, tác giả xưng tôi “Tôi đưa tay tôi hứng” thì
giờ đây, tác giả đã chuyển sang “ta” hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Với
chữ “ta” vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt,
cá thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. (5) Cách sử dụng
điệp ngữ “ta làm” láy đi láy lại thật tha thiết, chân thành. (6) Nhà thơ có
một ước nguyện nhỏ bé, một phương châm sống thật cao đẹp được hòa
nhập và cống hiến cho đời.

18


- Để viết đoạn văn mở đầu phần thân bài, tôi đã hướng dẫn các em
dùng những cụm từ như : Mở đầu bài thơ....hoặc Trước hết ta thấy....Tuy
nhiên, tôi vẫn nhắc nhở các em phải biết sử dụng phép liên kết ( phép nối,
thế, lặp từ ngữ,...) khi viết đoạn văn nghị luận triển khai các luận điểm.
Ví dụ : Viết đoạn văn đầu tiên phần Thân bài của bài Quê hương, tôi
hướng dẫn học sinh viết như sau :
Mở đầu bài thơ, Tế Hanh đã giới thiệu khái quát về quê hương của mình
thật thân mật, tự hào, yêu thương qua hai câu thơ:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”.
Hai tiếng “làng tôi” nghe thân thương ngọt ngào, xúc động. Một ngôi làng
nằm giữa bốn bề sông nước “bao vây” của con sông Trà Bồng chảy qua

huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là quê hương của một làng chài, cái
làng quê nghèo khó thuộc vùng duyên hải miền Trung “cách biển nửa ngày
sông” đã gắn bó với nghề cá từ bao đời nay. Với giọng điệu tâm tình, cách
nói dân dã vừa cụ thể vừa trừu tượng, tác giả đã thể hiện tình yêu quê
hương miền biển tha thiết, dịu ngọt của chàng thanh niên mười tám tuổi lần
đầu tiên xa quê cha đất mẹ.
Như vậy, đoạn văn trên đã viết đúng hình thức đoạn văn tổng phân
hợp, có sử dụng phép liên kết (phép thế: Đó là; phép lặp: quê hương; phép
nối: Với)
- Khi triển khai các ý trong phần Thân bài, tôi hướng dẫn các em dùng
cụm từ hoặc câu văn chuyển ý tạo cho bài văn liên kết chặt chẽ lô-gic.
Chẳng hạn, khi triển khai các luận điểm qua các khổ thơ thứ hai và ba
trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, tôi hướng
dẫn cho các em dùng câu văn chuyển ý bằng cách gợi cho các em về những
gian khổ mà người chiến sĩ lái xe phải chịu đựng.

19


Ví dụ: Nếu khổ thơ trên nói đến “gió” thì ở khổ thơ này nói đến
“bụi”. Gió, bụi tượng trưng cho gian khổ, thử thách ở đời. Chữ “ừ” vang
lên như một thách thức, một chấp nhận nhưng chủ động của người chiến sĩ
lái xe: “Không có kính, ừ thì có bụi…”
- Điều làm nên nét riêng biệt cho các em học sinh là khi nghị luận về
đoạn thơ, bài thơ thì các em phải có ý kiến bình luận của mình về nét đặc
sắc của đoạn thơ, bài thơ. Tôi gợi cho các em viết được những câu văn bình
luận, đánh giá về thơ. Chẳng hạn, khi phân tích khổ thơ thứ tư bài “Quê
hương” của Tế Hanh, các em có thể bình luận như sau:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Chỉ ai là người con của một vạn chài mới viết được những câu thơ như
thế. Tế Hanh như khắc tạc bức tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng
gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn: bức tượng đài
nồng thở vị xa xăm- vị muối mặn mòi của biển khơi, của những chân trời
tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muối mặn mòi ấy ngấm vào thân
hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ chiếc thuyền hay đã
ngấm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn Tế Hanh để trở thành niềm cảm
xúc bâng khuâng, kì diệu.
d. Viết đoạn Kết bài
Phần Kết bài không chỉ là tổng kết, tóm lược những luận điểm cơ
bản đã trình bày trong phần thân bài mà còn nhấn mạnh, khẳng định ở tầm
nhìn cao hơn. Thông thường thì người ta nêu lên mối tương quan biện
chứng giữa các luận điểm hoặc cũng có thể nêu ý nghĩa, tác dụng chủ yếu
về mặt giáo dục và nhận thức vấn đề đối với bản thân người viết. Trong
phần Kết bài nếu có ý sắc sảo, độc đáo thì sẽ gây được ấn tượng mạnh mẽ

20


về sự hoàn tất trọn vẹn, gợi cho những ý nghĩ, cảm xúc sâu sắc, tạo được
dư âm cuối cùng ở người đọc. Phần này có quan hệ hữu cơ với phần Mở
bài và Thân bài. Đặc biệt là phần Mở bài và Kết bài thể hiện được mối
quan hệ chặt chẽ và thống nhất về mặt nội dung cũng như phong cách diễn
đạt. Để Kết bài cho một bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, tôi yêu
cầu học sinh phải nêu lên được khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài
thơ hoặc rút ra ý nghĩa giáo dục.
Ví dụ 1: Phân tích bài thơ : “Nói với con” của Y Phương, các em có
thể Kết bài như sau :

Bằng từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện tình cảm
gia đình đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp
tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống
với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Ví dụ 2 : Đối với bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, các em có
thể kết bài theo một cách khác như sau :
Đọc bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một cảm xúc thanh cao, trong
sáng tự nhiên đang ngập hồn ta. Chúng ta chia sẻ niềm vui với nhà thơ
trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước lúc vào xuân. Mỗi chúng ta hãy làm
một tiếng chim, một cành hoa góp phần tô điểm cho cuộc đời thêm đẹp.
Hãy giữ cho tâm hồn mình mãi mãi thanh xuân.
5. Làm tốt khâu chấm- trả- sửa bài kiểm tra:
Theo tôi, đây là khâu quan trọng nhất trong các bước mà giáo viên áp
dụng nhằm nâng cao chất lượng viết phần văn nghị luận của học sinh về
một đoạn thơ, một bài thơ. Trong quá trình chấm bài kiểm tra của học sinh,
tôi đặc biệt chú ý đến các lỗi học sinh mắc phải. Tôi thường gạch dưới các
lỗi về: chính tả, diễn đạt, ngữ pháp... và tôi ghi rõ ưu khuyết của học sinh

21


vào khung lời phê. Có như thế, học sinh mới rút ra dược những kinh
nghiệm cần thiết. Không chỉ vậy, ở tiết trả bài kiểm tra, tôi thường đọc các
bài đạt điểm khá hoặc những đoạn học sinh viết hay có cảm xúc cho cả lớp
cùng nghe, cùng học tập và các đoạn, các câu viết chưa hay (không nêu
tên) để chỉ rõ học sinh cách khắc phục các sai sót đó. Bản thân tôi còn lập
một quyển sổ tay theo dõi riệng, ghi nhận những em chưa khắc phục những
sai sót ở từng bài kiểm tra Tập làm văn để trao đổi, hướng dẫn các em cố
gắng hơn trong các bài viết khác

III. KẾT QUẢ:
Sau thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi nhận thấy rằng chất
lượng học văn của các em có tiến bộ tương đối rõ rệt. Các em đã có kĩ năng
làm văn nghị luận về một đoạn thơ, một bài thơ. Tình trạng lúng túng khi
làm kiểu bài này không còn nữa. Giờ đây, khi đến những tiết học ấy, không
khí học tập của lớp đã trở nên sôi nổi, hào hứng hơn. Môn học này đã trở
thành môn học bổ ích và lí thú đối với các em. Đa số bài viết của các em
không còn rời rạc, khô khan như những bài viết về văn nghị luận trước đây.
Tình trạng nghèo nàn về ngôn ngữ, diễn đạt lủng củng, dài dòng chỉ còn
xảy ra đối với một số ít học sinh. Ở bài Tập làm văn số 7 (nghị luận về một
đoạn thơ, bài thơ), các em đã đạt được kết quả như sau:
Năm học

Lớp

2015-

9A1
9A2
9A3

2016

Tổng

Điểm

Điểm

Điểm Trung


số

Giỏi

Khá

bình

38
37
36

02
03
03

13
15
13

21
18
17

Điểm Yếu

02
01
03


Từ bảng trên cho thấy chất lượng bài viết Tập làm văn nghị luận về
một đoạn thơ, bài thơ sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm có kết quả
tương đối khả quan. Tỉ lệ học sinh đạt điểm Yếu tương đối thấp. Trong khi
đó, tỉ lệ điểm Khá, Giỏi đạt khá cao. Cụ thể như sau: Điểm yếu chiếm

22


6/111 (tỉ lệ 5,4%); Điểm Khá- Giỏi chiếm 49/111 (tỉ lệ 44,1%) Đây chính
là điều vô cùng phấn khởi đối với bản thân tôi.
Tuy vậy, tôi vẫn thường xuyên kết hợp giảng dạy và rèn luyện thêm
cho các em để hiệu quả dạy và học đạt kết quả khả quan hơn ở những năm
học sau.

PHẦN KẾT LUẬN

23


Tóm lại, văn học có vai trò quan trọng trong đời sống và phát triển tư
duy của con người. Trong nhà trường, môn Ngữ Văn cung cấp cho học sinh
vốn tri thức thuộc lĩnh vực xã hội. Chính vì thế, người giáo viên dạy Ngữ
Văn cần phải có phương pháp dạy học có hiệu quả để các em có ý thức tốt
để học văn, có kĩ năng làm một bài văn ở mỗi thể loại, đặc biệt là kĩ năng
làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Vì vậy, quá trình rèn luyện kĩ
năng làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ lớp 9 là một việc làm thiết
thực và phải thực hiện một cách triệt để mới có hiệu quả tốt. Để đạt được
kết quả đó, tôi đã tiến hành rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận về một
đoạn thơ, bài thơ cho học sinh như sau:

- Giúp học sinh tích hợp với giờ dạy văn bản để có thêm vốn kiến
thức khi làm bài văn phân tích.
- Tìm hiểu đề và tìm ý cho bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
là một hoạt động không thể thiếu trong việc rèn luyện kĩ năng làm văn cho
học sinh. Bởi ý có phong phú thì bài văn mới sinh động, hấp dẫn, thu hút
được người đọc và người nghe. Muốn làm tốt khâu này, tôi luôn hướng dẫn
các em xác định những từ ngữ quan trọng trong đề bài và luôn đặt câu hỏi
để tìm ý.
- Lập dàn ý là một thao tác tư duy rất quan trọng nhằm định hướng
cho hành động. Vì vậy, lập dàn ý trước khi làm bài tập làm văn là việc làm
cần thiết. Muốn lập được dàn ý, học sinh phải thành thục các kĩ năng tìm ý,
chọn ý, sắp xếp ý, phải nắm vững đặc trưng của kiểu bài để lập dàn ý cho
phù hợp. Hơn nữa, học sinh phải tự trang bị cho mình những kiến thức thì
mới tìm ra những ý cần thiết để lập một dàn ý đầy đủ, chính xác.
- Sau khi đã lập được dàn ý, học sinh vận dụng kĩ năng diễn đạt để
chuyển từ dàn ý thành bài văn hoàn chỉnh. Muốn vậy, tôi đã rèn luyện cho
các em kĩ năng lựa chọn các chi tiết tiêu biết, sử dụng từ ngữ phù hợp khi

24


viết bài văn hoàn chỉnh. Mặt khác, tôi cũng không quên rèn cho học sinh
cách viết phần mở bài, thân bài và kết bài.
- Cuối cùng là việc tôi chú trọng khâu chấm- trả- sửa bài kiểm tra
nhằm giúp học sinh thấy được ưu- khuyết trong bài viết của mình và dần
khắc phục các sai sót.
Trên đây là một vài biện pháp của bản thân tôi để rèn luyện kĩ năng
làm văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9. Tôi nghĩ đề
tài “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng làm văn nghị luận về một
đoạn thơ, một bài thơ cho học sinh lớp 9” có thể được áp dụng cho tất cả

các giáo viên ở tỉnh Long An. Đề tài cũng đã ít nhiều giúp người giáo viên
giải quyết được một phần khó khăn trong khi giảng dạy ở thể loại nghị
luận. Tuy nhiên, đề tài này tôi chỉ mới áp dụng trong đối tượng học sinh
lớp 9 của trường Trung học cơ sở Thuận Thành trong năm học 2015-2016.
Đề tài chắc hẳn còn nhiều hạn chế. Kính mong quý thầy cô, hội đồng khoa
học giáo dục đóng góp ý kiến thêm. Xin chân thành cảm ơn!
Thủ trưởng đơn vị xác nhận, đề nghị

Người viết

Lê Ngọc Nghi

25


×