Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận môn luật cạnh tranh đề tài điều chỉnh hành vi định giá hủy diệt bằng luật cạnh tranh và thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.87 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
----o0o----

TIỂU LUẬN MÔN HỌC: LUẬT CẠNH TRANH
Đề tài: Số 30
ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI ĐỊNH GIÁ HỦY DIỆT BẰNG LUẬT
CẠNH TRANH VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

Nhóm sinh viên thực hiện:
Lớp: LA01 – VB2 – K17A
1. Nguyễn Thị Thùy Linh 33141020925
2. Ngô Bảo Toàn
33140120923
Giảng viên: Trần Thăng Long

TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2015.


MỤC LỤC
KHÁI NIỆM CHUNG ................................................................................................................................... 3

I.
1.

Lý thuyết về hành vi định giá hủy diệt ................................................................................................... 3

2.

Xác định hành vi định giá hủy diệt ......................................................................................................... 4


II.
1.

PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ HỦY DIỆT CỦA EU VÀ HOA KỲ ............................................. 6
Các quy tắc và khái niệm liên quan đến định giá hủy diệt ................................................................... 6
1.1.

Quy tắc cơ bản ................................................................................................................................. 6

1.2.

Khái niệm vị trí thống lĩnh, quyền lực thị trường và quyền lực độc quyền ................................ 6

1.3.

Khái niệm thị trường liên quan ...................................................................................................... 6

2.

Một hình thức định giá lạm dụng: Định giá hủy diệt ............................................................................ 6

3.

Định giá hủy diệt – một mô hình phân tích định giá hủy diệt .............................................................. 7

4.

Biện pháp xử lý hành vi định giá hủy diệt ở EU và Hoa Kỳ ............................................................... 11

III.

KỲ
1.

PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ HỦY DIỆT CỦA VIỆT NAM, SO SÁNH VỚI EU VÀ HOA
12
Các quy tắc cơ bản và khái niệm có liên quan ..................................................................................... 12
1.1.

Quy tắc cơ bản của pháp luật cạnh tranh Việt Nam .................................................................. 12

1.2.

Các khái niệm ................................................................................................................................ 12

1.2.1.

Thỏa thuận nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh ..................................................................... 12

1.2.2.
Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí
độc quyền trên thị trường ....................................................................................................................... 14
1.2.2.1.

Xác định vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền của doanh nghiệp........... 14

1.2.2.2.

Xác định mức giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ loại bỏ đối thủ cạnh tranh ... 15


1.2.3.

Thị trường liên quan ............................................................................................................. 20

2.

Hình thức định giá hủy diệt theo pháp luật Việt Nam ......................................................................... 20

3.

Biện pháp xử lý hành vi định giá hủy diệt ............................................................................................. 21

IV.

KẾT LUẬN .............................................................................................................................................. 21

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................................... 23


ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI ĐỊNH GIÁ HỦY DIỆT BẰNG LUẬT CẠNH TRANH
VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

I.

KHÁI NIỆM CHUNG

1. Lý thuyết về hành vi định giá hủy diệt
Từ khi việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có sự cạnh tranh về giá, khái niệm định
giá hủy diệt đã ra đời. Khi một doanh nghiệp lựa chọn phương pháp giảm giá sản
phẩm để làm giá sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh khác không thể cạnh tranh được

do giá cao tương đối trước nhu cầu của khách hàng. Chính điều này đặt các đối thủ
cạnh tranh vào tình huống hoặc chạy đua giảm giá sản phẩm hoặc chấp nhận mất dần
thị trường do không thể giảm giá. Việc một doanh nghiệp giảm giá bán sản phẩm có
hai trường hợp có thể xảy ra: hoặc doanh nghiệp có khả năng cải thiện kỹ thuật, năng
lực để tạo ra sản phẩm với giá thành thấp hơn nên giảm giá bán (cạnh tranh lành mạnh
về giá); hoặc doanh nghiệp bán sản phẩm với mức giá đủ thấp để không thể có lãi
(thậm chí đã lỗ trong một thời gian đủ dài nhằm làm suy yếu hoặc loại bỏ đối thủ cạnh
tranh, đây chính là hành vi định giá hủy diệt.
Định giá hủy diệt là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm bởi luật pháp
của nhiều nước.
Theo Ủy ban cạnh tranh và tiêu dùng Australia (ACCC):
“Định giá hủy diệt là cách mà một doanh nghiệp có thể lạm dụng (misuse) sức mạnh
thị trường của nó.
Định giá hủy diệt là khi một công ty có sức mạnh thị trường hoặc thị phần nhất định
định giá sản phẩm tại một mức độ đủ thấp nhằm mục đích:
-

Loại bỏ hoặc gây thiệt hại đáng kể cho đối thủ cạnh tranh.

-

Ngăn cản đối thủ tham gia vào thị trường đó cũng như bất kỳ thị trường nào

-

Ngăn chặn các đối thủ tham gia cạnh tranh trên thị trường.


Kết quả là sẽ khiến cho các công ty này có ít đối thủ trên thị trường, sau đó họ không
cần quan tâm đến thị trường, có thể nâng giá và thu lợi từ khách hàng”

Nói tóm lại, Định giá hủy diệt là việc các doanh nghiệp có quyền lực thị trường ấn
định giá bán sản phẩm quá thấp trong một khoảng thời gian đủ dài nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường hoặc (và) ngăn cản không cho các đối thủ cạnh tranh
mới gia nhập thị trường. Sau khi hoàn tất mục đích ngăn cản hoặc loại bỏ, doanh
nghiệp sẽ tăng giá một cách đáng kể nhằm bù đắp lại các khoản lỗ và các khoản lợi
nhuận đã bỏ qua bởi mức độ cạnh tranh trên thị trường đã bị giảm.
2. Xác định hành vi định giá hủy diệt
Mức giá có khả năng hủy diệt đối thủ có thể là kết quả hoặc của quá trình cạnh tranh
lành mạnh về giá, hoặc của hành vi định giá hủy diệt. Sẽ là cạnh tranh lành mạnh nếu
các doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận mà vẫn hạ giá bán hàng hóa bằng cách giảm chi
phí sản xuất, kinh doanh. Khi giá bán có thể gây lỗ cho đối thủ thì mức giá đó được
suy đoán là có khả năng hủy diệt.
Việc xác định khả năng hủy diệt của hành vi tập trung vào:
-

Thứ nhất, hành vi bán hàng hóa với mức giá thấp có khả năng chi phối đến giá

thị trường khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường (doanh nghiệp có thị phần đủ lớn
để gây ảnh hưởng đến thị trường, có khả năng chi phối giá thị trường) và hành vi được
thực hiện như một chiến lược kinh doanh trong một thời gian đáng kể. Như vậy, việc
bán bán sản phẩm với giá thấp trở thành định giá hủy diệt khi doanh nghiệp thực hiện
hành vi này có khả năng chi phối thị trường.
-

Thứ hai, xác định sự bất hợp lý của giá bán thực tế. Chúng ta cần xác định được

đâu là hạ giá để cạnh tranh lành mạnh và đâu là định giá hủy diệt. Để làm được việc
này, thông thường người ta xác định một mức chi phí giả định hợp lý trong điều kiện
bình thường để tạo ra sản phẩm, nếu xác định giá bán thấp hơn chi phí hợp lý thực tế
tạo ra sản phẩm thì có thể kết luận là có hành vi định giá hủy diệt. Tuy nhiên, việc so

sánh này cũng tồn tại nhiều bất cập, và thực tế khó xác định được đây có phải là hành
vi định giá hủy diệt hay không khi vẫn tồn tại nhiều trường hợp dù giá bán thấp hơn
chi phí nhưng đây không phải là hành vi hủy diệt đối thủ mà chỉ là các hành vi để bảo


vệ doanh nghiệp của mình, ví dụ như là hạn chế thua lỗ, phản ứng lại các sức ép cạnh
tranh về giá của các đối thủ. Các lý thuyết kinh tế đặt ra những tình huống đặc biệt của
việc đặt giá thấp đến mức gây lỗ nhưng không mang mục đích hủy diệt đối thủ cạnh
tranh bằng nguyên tắc định giá tối đa hóa lợi nhuận theo chi phí biên và nguyên tắc
đóng cửa: (i) Doanh nghiệp tính toán sai lầm về sản lượng sản xuất nên chi phí biên
của hàng hóa cao hơn mặt bằng giá trên thị trường. Khi đó, doanh nghiệp không thể
định giá sản phẩm của họ theo chi phí bởi nếu làm như vậy sẽ mất khách hàng. Để có
thể tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp buộc bán lỗ theo giá thị trường cho dù bị lỗ. (ii)
Thị trường có những suy thoái như biến động về cầu, sự dư thừa về sản lượng …làm
cho các doanh nghiệp trên thị trường gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm buộc họ
phải xem xét lại các điều kiện sản xuất, mua bán cho phù hợp, thậm chí phải chấp
nhận lỗ để giữ chân khách hàng nếu họ muốn tồn tại. Sẽ không là định giá hủy diệt nếu
giá bán thấp hơn chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhưng vẫn cao hơn giá bán của đối
thủ cạnh tranh hoặc chỉ là phản ứng tự vệ trước hành vi chủ động định giá thấp của đối
thủ khác đã thực hiện trước đó.
Từ góc độ kinh tế, có thể nói định giá hủy diệt mang cả ý nghĩa tích cực và tiêu cực.
Người tiêu dùng được hưởng lợi do mua hàng hóa với giá rẻ trong giai đoạn hành vi
được thực hiện và tình trạng cạnh tranh sinh tử về giá. Tuy nhiên, khi mục đích tiêu
diệt đối thủ đã đạt được, doanh nghiệp thực hiện hành vi củng cố được vị trí trên thị
trường liên quan và khai thác lợi thế bằng các chiến lược bóc lột khách hàng hòng bù
đắp những gì đã mất trong quá khứ. Việc hành vi định giá hủy diệt bị cấm là do những
lo ngại về việc tăng giá, giảm sản lượng và gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng trong
tương lai. Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế hoài nghi lý luận về sự cướp đoạt (hủy diệt đối
thủ) vì họ không tin việc này có thể thành, họ cho rằng thực tế trên thị trường sẽ luôn
có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, và cũng có nhiều đối thủ cạnh tranh mới muốn gia

nhập thị trường. Vì thế, cho dù hành vi bán hàng hóa với giá thấp có triệt tiêu đối thủ
cạnh tranh thì nó vẫn đem lại lợi ích cho người tiêu dùng nên không cần thiết phải cấm
đoán, cạnh tranh cho dù bị triệt tiêu trong ngắn hạn nhưng sẽ được hồi sinh ở tương lai
khi giá bán tăng trở lại. Cũng có quan điểm cho rằng nhiệm vụ của pháp luật là là bảo
đảm hiệu quả của cạnh tranh trên thị trường nên nó chỉ ngăn chặn khả năng tăng giá
trong tương lai. Khi doanh nghiệp thực hiện hành vi định giá hủy diệt có cơ hội thực
hiện mục đích bóc lột khách hàng thì pháp luật mới cần can thiệp để loại bỏ hành vi.


II.

PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ HỦY DIỆT CỦA EU VÀ HOA KỲ

1. Các quy tắc và khái niệm liên quan đến định giá hủy diệt
1.1.

Quy tắc cơ bản

Định giá hủy diệt chính là một hình thức định giá lạm dụng.
Pháp luật EU và Hoa Kỳ liên quan định giá lạm dụng có hai quy tắc cơ bản giống
nhau. Một là, Luật Cạnh tranh EU và Luật Chống Độc quyền Hoa Kỳ chống tất cả
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, bao gồm nhưng không giới hạn trong các hành vi
định giá lạm dụng. Hai là, pháp luật chống định giá lạm dụng của EU và Hoa Kỳ bảo
vệ cạnh tranh, không bảo vệ đối thủ cạnh tranh.
1.2.

Khái niệm vị trí thống lĩnh, quyền lực thị trường và quyền lực độc
quyền

Ở EU và Hoa Kỳ, thuật ngữ “quyền lực thị trường” được sử dụng phổ biến, còn “vị trí

thống lĩnh” theo pháp luật EU thì có bản chất tương tự “quyền lực độc quyền” trong
pháp luật Hoa Kỳ. Theo đó, vị trí thống lĩnh hay quyền lực độc quyền của một doanh
nghiệp là việc có “quyền lực thị trường lớn” trong một “khoảng thời gian lâu bền”. Về
tổng quát, cả hai hệ thống đều nhận dạng vị trí thống lĩnh/quyền lực độc quyền dựa
vào hai yếu tố cơ bản: thị phần và rào cản gia nhập thị trường. Ngoài ra, EU còn đưa
thêm yếu tố quyền lực đối lại của khách hàng vào hệ thống cơ sở đánh giá vị trí thống
lĩnh.
1.3.

Khái niệm thị trường liên quan

Mặc dù không có một công thức cố định chung cho việc xác định vị trí thống lĩnh (hay
quyền lực độc quyền), cả Hoa Kỳ và EU đều coi bước thiết yếu đầu tiên trong việc này
là xác định thị trường liên quan. Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm
liên quan và thị trường địa lý liên quan. Quan điểm và cách thức xác định thị trường
liên quan ở EU và Hoa Kỳ về cơ bản giống nhau.
2. Một hình thức định giá lạm dụng: Định giá hủy diệt


Mặc dù không có định nghĩa chung, định giá hủy diệt thường được hiểu là hành vi của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh định giá bán sản phẩm ở mức rất thấp – chịu lỗ để
loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Sau khi đối thủ đã bị loại bỏ, doanh nghiệp tăng giá đến
mức quá đáng để thu bù lại khoản lỗ. Ở Hoa Kỳ, tòa án kết hợp hai phép kiểm tra để
xác định hành vi định giá hủy diệt: (1) Doanh nghiệp có chủ động chịu lỗ trong ngắn
hạn hay không (Kiểm tra Giá – Chi phí), và (2) Doanh nghiệp có khả năng thu bù lại
khoản lỗ hay không (Kiểm tra khả năng thu bù lỗ). Trong đó phép Kiểm tra khả năng
thu bù lỗ là tiền đề cho việc xác định định giá hủy diệt. Trong khi đó EU coi phép
Kiểm tra Giá – Chi phí là tiền đề. Khi phép Kiểm tra Giá – Chi phí cho thấy doanh
nghiệp thống lĩnh định giá dưới một mức chi phí nhất định, tòa án EU có thể xem xét
thêm bằng chứng về chủ ý hủy diệt đối thủ của doanh nghiệp để đi đến kết luận về

hành vi vi phạm.
Lý luận và án lệ ở cả hai hệ thống pháp luật EU và Hoa Kỳ đều xem chi phí khả biến
bình quân (AVC) là điểm chuẩn trong phép kiểm tra Giá – Chi phí để xác định hành vi
định giá hủy diệt. Gần đây, lý luận kinh tế và lập luận của cơ quan có thẩm quyền về
cạnh tranh ở hai hệ thống đều đề xuất một điểm chuẩn khác cho phép kiểm tra này, đó
là chi phí tránh được bình quân (AAC).
Để làm rõ hơn về cách xác định hành vi định giá hủy diệt, có thể xem thêm bài nghiên
cứu về Mô Hình Phân Tích Định Giá Hủy Diệt của Paul L. Joskowt and Alvin K.
Klevorickt trong phần tiếp theo (Phần 3, mục II)
3. Định giá hủy diệt – một mô hình phân tích định giá hủy diệt
Phương pháp hai giai đoạn để xác định định giá hủy diệt, có thể phù hợp được với
nhiều cấu trúc thị trường khác nhau giúp giảm các kết luận nhầm lẫn: có hành vi định
giá hủy diệt nhưng kết luận là không; không có hành vi định giá hủy diệt nhưng kết
luận là có.
Trong giai đoạn đầu tiên, chúng ta sẽ kiểm tra đặc điểm “cấu trúc” của thị trường và
sức mạnh thị trường của công ty bị cáo buộc định giá hủy diệt; để làm rõ xem liệu họ
có khả năng tạo ra việc định giá hủy diệt và dẫn đến thiệt hại kinh tế đáng kể cho xã
hội. Trong giai đoạn này, nếu sử dụng những khái niệm thông thường về sức mạnh độc


quyền sẽ dễ tạo nên những trường hợp định giá hủy diệt ảo. Việc cáo buộc định giá
hủy diệt không chỉ dựa trên những bằng chứng mơ hồ như: “cố ý” hoặc định giá “dưới
chi phí”; việc độc quyền hóa thông qua định giá hủy diệt chỉ tồn tại khi có những bằng
chứng chắc chắn.
Giai đoạn thứ hai sẽ cung cấp một phương thức để tránh những sai lầm thực tiễn khi
kết luận có định giá hủy diệt nhưng thực tế lại không. Dựa trên quan điểm rằng việc
định giá hủy diệt chỉ có thể được xác định bằng cách so sánh trực tiếp mối tương quan
giữa những vấn đề cấu trúc độc quyền với những hành vi nhằm duy trì sức mạnh độc
quyền.
Với hướng tiếp cận hai giai đoạn bằng lý thuyết mô hình quyết định này, các công ty

trong thị trường mà không có bằng chứng rõ ràng về vấn đề độc quyền có thể làm bất
cứ điều gì họ muốn với giá. Ngược lại với những thị trường còn lại thì công ty sẽ phải
hành động cẩn thận hơn để tránh bị cáo buộc cản trở sự phát triển của thị trường cạnh
tranh.
A. Giai đoạn 1: Các yếu tố trong phân tích cấu trúc
Xem xét ba trường hợp công ty bị cáo buộc định giá hủy diệt sau:
TRƯỜNG HỢP 1:
(1) Sức mạnh độc quyền ngắn hạn:
(a) Công ty chiếm 70% thị phần, và ba công ty khác, mỗi công ty có 10%
(b) Công ty có ưu thế này là một công ty có khả năng chi phối giá cả thị trường
lâu dài.
(c) Số lượng và kích thước của các công ty duy trì, gần như không đổi trong 10
năm
(d) Lợi nhuận rõ ràng là ổn định và cơ bản cao hơn mức cạnh tranh.
(2) Những điều kiện gia nhập thị trường:
(a) Việc gia nhập mà hoạt động hiệu quả đòi hỏi đầu tư tối thiểu $200 triệu.
(b) Không có công ty mới nào gia nhập thị trường trong 10 năm vừa qua.
Những công ty gia nhập trước đây rất lớn và đa ngành.


(c) Công ty đưa ra một “mức giá cao cấp” cho một sản phẩm không khác gì so
với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.
(d) Công ty sử dụng số lượng lớn “hình ảnh” quảng cáo nhấn mạnh vào thương
hiệu của sản phẩm chứ không phải là sự khác biệt về chất lượng so với sản
phẩm của dối thủ.
(3) Sự ảnh hưởng tổng hợp của sự cạnh tranh lên chi phí và sản phẩm:
(a) Ba công ty nhỏ hơn trong thị trường tiên phong trong việc đổi mới quy trình
và sản phẩm.
TRƯỜNG HỢP 2:
(1) Sức mạnh độc quyền ngắn hạn:

(a) Công ty bị cáo buộc định giá hủy diệt chiếm 40% thị phần và tám công ty
khác nhỏ hơn với nhiều kích cỡ chiếm phần còn lại.
(b) Thị phần của công ty giảm dần theo thời gian.
(c) Khi công ty cố “đi đầu” việc tăng giá, nhu cầu sản phẩm của công ty bị giảm
đáng kể.
(d) Lợi nhuận của công ty vẫn lớn hơn chi phí vốn trong bốn năm trở lại đây,
nhưng khả năng sinh lời đã giảm đi.
(2) Những điều kiện gia nhập thị trường:
(a) Việc gia nhập mà hoạt động hiệu quả đòi hỏi đầu tư tối thiểu $10 triệu
(b) Ba công ty mới gia nhập thị trường thành công trong năm năm qua và tăng
trưởng nhanh. Hai công ty khác cũng gia nhập và thất bại.
(c) Những sản phẩm được bán bởi nhiều nhà công ty và khá đồng nhất, và chi
phí quảng cáo không chiếm một phần lớn trong tổng chi phí. Không có bằng
chứng về những sản phẩm có lợi thế “thương hiệu cao cấp”.
(3) Sự ảnh hưởng tổng hợp của sự cạnh tranh lên chi phí và sản phẩm:
(a) Thị trường này không có đặc điểm thay đổi công nghệ nhanh.
(b) Sự thay đổi công nghệ tập trung vào phát triển sản phẩm mới và cải tiến sản
phẩm, và công ty lớn nhất là tiên phong sáng tạo sản phẩm mới.
TRƯỜNG HỢP 3:
(1) Sức mạnh độc quyền ngắn hạn:


(a) Công ty bị cáo buộc hủy diệt chiếm 60% tổng thị phần và bốn công ty nhỏ
hơn chiếm phần còn lại. Trong một số thị trường địa lý, một trong số những
công ty nhỏ hơn kia có thị phần lớn hơn công ty lớn nhất.
(b) Thị phần của công ty chiếm trung bình 60% trong mười năm qua, nhưng thị
phần lại biến động đáng kể theo từng năm.
(c) Khi công ty cố gắng “đi đầu” trong việc tăng giá, có khi các công ty khác
tăng theo, nhưng khi họ không tăng theo thì công ty sẽ quay ngược lại vì
nhu cầu sản phẩm của nó giảm mạnh.

(d) Lợi nhuận trung bình của công ty vẫn lớn hơn chi phí vốn, nhưng có xu
hướng giảm nhẹ.
(2) Những điều kiện gia nhập thị trường:
(a) Việc gia nhập mà hoạt động hiệu quả đòi hỏi đầu tư tối thiểu $200 triệu để
gia nhập cùng lúc vào tất cả thị trường địa lý chính. Việc gia nhập vào các
thị trường địa lý phụ cần khoản đầu tư ban đầu $20 triệu.
(b) Ba công ty mới đã gia nhập và một số vùng địa lý trong năm năm qua,
nhưng chỉ một công ty còn tồn tại.
(c) Thị trường có đặc điểm: các sản phẩm có sự khác biệt và chi phí quảng cáo
trên trung bình, nhưng sản phẩm của công ty nói chung không có giá
“thương hiệu cao cấp”.
(3) Sự ảnh hưởng tổng hợp của sự cạnh tranh lên chi phí và sản phẩm:
(a) Thị trường đặc trưng bởi sự thay đổi công nghệ tiết kiệm chi phí khá nhanh.
(b) Cả công ty lớn, hai công ty đối thủ và một công ty mới gia nhập đều giới
thiệu quy trình sản suất chi phí thấp mới.
Trong giai đoạn này chúng ta không xác định có ty có chịu trách nhiệm hay không; mà
dựa trên các yếu tố cấu trúc để xác định vấn đề độc quyền có đủ lớn để cần thiết phải
có thêm điều tra về hành vi của công ty.
Rõ ràng rằng trong trường hợp 1 cần phải có thêm phân tích điều tra về hành vi của
công ty. Trong khi trường hợp 2 lại không cần thiết nữa. Còn trường hợp 3 phải xử lý
thế nào lại không rõ ràng lắm; trong những trường hợp như thế này cần phải thực hiện
thêm phân tích hành vi của công ty để xác định hành vi của công ty có quyền lực thị
trường này có nhằm đạt được vị thế độc quyền hay không.


B. Giai đoạn 2: Phân tích hành vi
(1) Định giá thấp hơn Chi Phí Biến Đổi Bình Quân
Mức giá thấp hơn chi phí biến đổi bình quân là bất hợp lý vì mức giá đó không thể dẫn
tới sự tối đa hoá lợi nhuận hay sự tối thiểu hoá tổn thất trong bất cứ bối cảnh thị trường
nào, vì thế đó chính là điều kiện đủ cho định giá hủy diệt.

(2) Định giá giữa Chi Phí Biến Đổi Bình Quân và Chi Phí Toàn Bộ Bình Quân
Mức giá nằm ở khoảng giữa chi phí toàn bộ bình quân và chi phí biến đổi bình quân
(cao hơn chi phí biến đổi bình quân và thấp hơn chi phí toàn bộ bình quân) có thể bị
coi là định giá huỷ diệt nhưng cũng có thể được chấp nhận nếu như chứng minh được
rằng doanh nghiệp đang thực hiện chiến lược tối đa hoá lợi nhuận trong những điều
kiện đặc biệt của thị trường, ví dụ nhu thời kỳ nhu cầu thị trường bị giảm sút… Bởi lẽ,
mặc dù doanh nghiệp không tìm kiếm được lợi nhuận với mức giá đó nhưng doanh
nghiệp cũng đã có thể trang trải được các chi phí sản xuất trực tiếp và một phần bù đắp
cho các khoản đầu tư cố định hòng duy trì sản xuất trong điều kiện khó khăn của thị
trường.
(3) Định giá cao hơn Chi Phí Toàn Bộ Bình Quân
Mức giá cao hơn chi phí toàn bộ bình quân sẽ không bị coi là định giá huỷ diệt cho dù
mức giá đó có thể dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường. Lý giải về
điều này, các nhà làm luật của Canada cho rằng, mức giá cao hơn chi phí toàn bộ bình
quân là mức giá bình thường bởi trong đó đã bao gồm một khoản lợi nhuận hợp lý cho
dù mức giá đó có thấp hơn giá bán của doanh nghiệp khác. Lúc này, giá bán phản ánh
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong cạnh tranh về giá so với đối thủ.
4. Biện pháp xử lý hành vi định giá hủy diệt ở EU và Hoa Kỳ
Hệ thống biện pháp xử lý của EU và Hoa Kỳ có ba mục đích giống nhau, đó là chấm
dứt hành vi vi phạm, ngăn chặn khả năng tái phạm, và tái lập cơ hội cho cạnh tranh
trong thị trường bị ảnh hưởng. Do đó, các lập luận lý thuyết và hệ thống các biện pháp
hành vi, biện pháp cấu trúc thực tế ở EU và Hoa Kỳ được xây dựng và phát triển khá
giống nhau. Tuy nhiên, đối với các biện pháp xử phạt, khắc phục bằng tiền giữa EU và


Hoa Kỳ có sự khác biệt rõ rệt. Đặc biệt ở EU, hành vi định giá hủy diệt hay các hành
vi vi phạm luật cạnh tranh của EU đều không bị hình sự hóa, ở Hoa Kỳ thì hành vi
định giá hủy diệt có thể được xem là một tội phạm hình sự.
III.


PHÁP LUẬT CHỐNG ĐỊNH GIÁ HỦY DIỆT CỦA VIỆT NAM, SO
SÁNH VỚI EU VÀ HOA KỲ

1. Các quy tắc cơ bản và khái niệm có liên quan
1.1.

Quy tắc cơ bản của pháp luật cạnh tranh Việt Nam

Về cơ bản, cũng giống như pháp luật EU và Hoa Kỳ, định giá hủy diệt là một trường
hợp nhỏ của định giá lạm dụng, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng có các quy định
cấm hành vi định giá hủy diệt, bảo vệ cạnh tranh, tuy nhiên một phần nào đó, pháp luật
cạnh tranh Việt Nam đang hướng tới bảo vệ đối thủ cạnh tranh hơn là bảo vệ cạnh
tranh lành mạnh.
1.2.

Các khái niệm

1.2.1. Thỏa thuận nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
Thỏa thuận nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là hành vi của các doanh nghiệp cùng
nhau thỏa thuận để thống nhất một mức giá nào đó nhằm loại bỏ những doanh nghiệp
khác. Khoản 7 Điều 8 của Luật Cạnh tranh quy định về thỏa thuận loại bỏ khỏi thị
trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận, Điều 20 của Nghị
định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 của Chính phủ (Nghị định 116) quy định
việc các doanh nghiệp thống nhất mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh
nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường là một trong những dạng
của thỏa thuận này. Có hai dấu hiệu cấu thành thỏa thuận giá để hủy diệt đối thủ như
sau: Thứ nhất, phải có sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp tham gia về việc ấn
định giá nhằm loại bỏ doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận; Thứ hai, nội dung của
thỏa thuận là giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ được các doanh nghiệp áp đặt ở mức đủ
để buộc doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường. Xác định

đâu là mức giá đủ để hủy diệt đối thủ trong thỏa thuận nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
là một vấn đề quan trọng mà cho đến nay, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam vẫn chưa
thể làm rõ.


Xử lý đối với thỏa thuận loại bỏ đối thủ cạnh tranh nói chung, nguyên tắc xử lý của
Luật Cạnh tranh rất nghiêm khắc, cụ thể là nguyên tắc cấm tuyệt đối. Chỉ cần chứng
minh sự tồn tại của thỏa thuận nói trên là có thể xử lý theo quy định của pháp luật mà
không cần cân nhắc đến thị phần của các doanh nghiệp tham gia và không áp dụng cơ
chế miễn trừ.
Hiện tại quy định của pháp luật Việt Nam là chưa rõ ràng, Điều 20 của Nghị định 116
chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái niệm có tính khái quát, rất nhiều từ ngữ và căn cứ pháp
lý để xác định thỏa thuận nói trên chưa được làm rõ. Ngoài ra, Điều 9 của Luật Cạnh
tranh không sử dụng tiêu chí thị phần kết hợp để xử lý các thỏa thuận tại Khoản 6, 7, 8
của Điều 8 (là các thỏa thuận bị cấm tuyệt đối, bao gồm: thỏa thuận ngăn cản, kìm
hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa
thuận; thông đồng trong đấu thầu) giống như các thỏa thuận khác.
Việc hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu thống nhất các quy định pháp luật hiện tại là một vấn đề
khó khăn, các quy định trong pháp luật cạnh tranh chưa giúp người ta xác định được
hành vi như thế nào được xem là định giá hủy diệt, luật cũng không làm rõ các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận theo chiều dọc hay thỏa thuận theo chiều
ngang. Với các thỏa thuận không bị cấm theo nguyên tắc tuyệt đối, câu hỏi này đã
được trả lời bằng tiêu chí về thị phần kết hợp, nhưng với thỏa thuận bị cấm tuyệt đối
thì đây vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Việc phân định thỏa thuận dọc hay thỏa thuận
ngang có ảnh hưởng lớn đến thái độ của pháp luật, theo đó, pháp luật của các nước chỉ
cấm thỏa thuận dọc trong một số ít trường hợp như thỏa thuận áp đặt giá bán lại…với
điều kiện một trong những doanh nghiệp tham gia có quyền lực thị trường, và không
có quy định đối với thỏa thuận ngang.
Như vậy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã áp dụng lý thuyết về định giá hủy diệt cho

thỏa thuận loại bỏ đối thủ cạnh tranh; song sự tiếp cận dường như chưa được trọn vẹn
và thấu đáo. Như đã phân tích, hai nội dung không thể thiếu của lý thuyết về định giá
hủy diệt là sự bất hợp lý của mức giá sản phẩm và khả năng chi phối thị trường của
doanh nghiệp thực hiện hành vi; và việc sử dụng nguyên tắc cấm tuyệt đối cho thấy
pháp luật Việt Nam không quan tâm đến khả năng chi phối thị trường của các doanh


nghiệp tham gia loại thỏa thuận này. Sự bất hợp lý có thể nảy sinh khi các doanh
nghiệp có thị phần nhỏ bé trên thị trường liên minh đặt ra mức giá bán thấp hơn giá
thành của sản phẩm để cùng nhau chèo chống trước những biến động của thị trường
hoặc trước sức ép cạnh tranh từ một vài đối thủ lớn hơn để tìm kiếm cơ hội tồn tại
trong ngắn hạn. Dước góc độ hiệu quả, sự liên kết của nhiều doanh nghiệp chưa đủ tạo
ra khả năng chi phối thị trường thì việc đặt giá bán thấp hoặc giá mua cao khó chi phối
diễn biến giá trên thị trường chung. Khi đó, khả năng loại bỏ doanh nghiệp không
tham gia thỏa thuận còn phụ thuộc vào tương quan về năng lực cạnh tranh giữa sức
mạnh chung do sự liên kết đem lại và đối thủ. Việc cấm đoán mà không cân nhắc, tính
toán đến hiệu quả hoặc khả năng hủy diệt thực tế là cách tiếp cận thiếu khôn ngoan.
1.2.2. Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường
1.2.2.1.

Xác định vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền của doanh
nghiệp

Pháp luật cạnh tranh Việt Nam có sự phân biệt rạch ròi hai khái niệm “vị trí thống
lĩnh” và “vị trí độc quyền”, và trên cơ sở đó quy định hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền đa dạng hơn hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh. Đây là điểm khác biệt với pháp
luật EU và Hoa Kỳ.
Luật Cạnh Tranh 2004 không có định nghĩa cụ thể thế nào là vị trí thống lĩnh, chỉ quy

định hai trường hợp mà doanh nghiệp được xem là có vị trí này. Cụ thể là (1) doanh
nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan, hoặc (2) có khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Như vậy một doanh nghiệp có thị phần 30% trở
lên là có vị trí thống lĩnh, không cần xem xét đến bất kỳ điều kiện nào khác. Hoặc
doanh nghiệp có thị phần dưới 30% trên thị trường liên quan, nhưng có “khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể”, cũng được xem là có vị trí thống lĩnh.
Có một số điểm khác nhau Luật Cạnh Tranh Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ, EU trong
nhận diện vị trí thống lĩnh. Pháp luật EU và Hoa Kỳ chú ý vào hai yếu tố: “quyền lực
thị trường đáng kể” và tính chất “bền vững” của quyền lực như biểu hiện của sự thống
lĩnh. Luật Cạnh Tranh Việt Nam chỉ tập trung vào quyền lực thị trường, không có từ


hay mệnh đề nào đề cập đến yếu tố thời gian trong quy định về vị trí thống lĩnh/ độc
quyền. Vì vậy, chỉ riêng lẻ yếu tố thị phần, lại ở mức 30% để xác định vị trí thống lĩnh
theo Luật Cạnh Tranh Việt Nam, tuy đơn giản và thuận tiện cho cơ quan nhà nước áp
dụng, nhưng có thể dẫn đến việc những doanh nghiệp không có vị trí thống lĩnh thực
sự cũng bị cáo buộc về hành vi lạm dụng.
Theo Điều 11, 12 của Luật Cạnh tranh ta thấy, Luật này sử dụng căn cứ duy nhất để
xác định vị trí thống lĩnh là thị phần của doanh nghiệp. Trong khi đó, trong các vụ việc
về định giá hủy diệt, để xác định quyền lực thị trường, pháp luật của các nước EU,
Hoa Kỳ, Canada … không chỉ sử dụng thị phần làm căn cứ duy nhất mà còn phân tích
bối cảnh khách quan của thị trường như sự tồn tại của các rào cản gia nhập… Đó là:
các rào cản thể chế (các quy định của pháp luật, chính sách quản lý kinh tế của nhà
nước …); điều kiện về quy mô đầu tư tối thiểu để hoạt động hiệu quả; chi phí chìm
quá lớn... Các rào cản này liên quan đến việc gia nhập có hiệu quả vào một thị trường
nào đó, bao gồm tiềm năng gia nhập của doanh nghiệp mới, sự quay trở lại của doanh
nghiệp đã bị loại bỏ hoặc khả năng mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp hiện tại.
Một khi các nhân tố khách quan trên thị trường làm cho việc gia nhập trở nên khó
khăn thì khả năng bù lỗ trong chiến lược hủy diệt có môi trường để thực hiện và ngược
lại. Cách tiếp cận nói trên bảo đảm tính hiệu quả về kinh tế trong việc điều chỉnh của

pháp luật đối với định giá hủy diệt. Người tiêu dùng dường như sẽ luôn được bảo vệ
bởi khi bán hàng với giá thấp bất hợp lý họ đã được hưởng lợi và nếu doanh nghiệp
không thể định giá độc quyền sau khi hủy diệt đối thủ, người tiêu dùng cũng không bị
trả giá trong tương lai.
Bằng những so sánh trên, chúng tôi cho rằng, khi áp dụng những quy định về việc xác
định vị trí thống lĩnh thị trường trong pháp luật Việt Nam vào các vụ việc về định giá
hủy diệt, chúng ta chỉ xác định được khả năng chi phối giá trên thị trường (kéo theo nó
là khả năng hủy diệt đối thủ) mà chưa làm rõ năng lực bóc lột khách hàng sau khi việc
loại bỏ đối thủ hoàn tất. Do đó, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng dường như
chưa được đặt ra trong pháp luật Việt Nam về định giá hủy diệt.
1.2.2.2.

Xác định mức giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ loại bỏ đối thủ
cạnh tranh


Theo Điều 23 của Nghị định 116 thì, trừ những trường hợp đặc biệt, bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán
hàng với mức giá thấp hơn tổng các chi phí sau: chi phí cấu thành giá thành sản xuất
hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật hoặc giá mua hàng hoá để bán lại; chi
phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật.
Cơ sở thứ nhất, xác định giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ. Giá bán hàng hoá,
dịch vụ là giá bán thực tế của doanh nghiệp trong các giao dịch với khách hàng.
Có lẽ, việc xác định giá bán hàng hóa sẽ đơn giản nếu doanh nghiệp bán toàn bộ sản
phẩm ở cùng một khâu phân phối (hoặc chỉ bán lẻ hoặc chỉ bán sỉ). Tuy nhiên, sẽ gặp
nhiều khó khăn nếu doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ sản phẩm bằng nhiều cấp tiêu thụ
khác nhau như vừa trực tiếp bán lẻ, vừa bán cho các đại lý … Luật Cạnh tranh và Nghị
định 116 chưa có quy định để giải quyết tình huống này. Thật ra, pháp luật không thể
chỉ sử dụng giá bán lẻ hay bán sỉ cho mọi trường hợp vì hành vi định giá hủy diệt có
thể được thực hiện ở bất cứ cấp nào trong quá trình kinh doanh, phân phối. Để giải

quyết trường hợp trên, có hai nguyên tắc cần được triệt để tôn trọng là: (i) mức giá bán
được sử dụng để điều tra về hành vi phải là giá bán thực tế của doanh nghiệp bị điều
tra. Không thể sử dụng giá thị trường hay giá cả suy định để xác định về hành vi vi
phạm nếu như đó không là giá bán thực của doanh nghiệp bị điều tra. (ii) Mức giá
được sử dụng phải là giá áp dụng cho các khách hàng giao dịch trực tiếp với họ. Trong
trường hợp doanh nghiệp vừa bán lẻ, vừa bán sỉ sản phẩm và với mỗi nhóm khách
hàng họ áp dụng mức giá riêng, cơ quan thi hành sẽ sử dụng độc lập từng mức giá với
từng nhóm khách hàng để điều tra về sự vi phạm mà không tính theo nguyên tắc bình
quân của các mức giá.
Việc xác định chính xác giá bán của hàng hoá, dịch vụ sẽ gặp nhiều khó khăn khi có
sự khác biệt về giá cả giữa các khu vực trong cùng một thị trường địa lý hoặc có sự
chênh lệnh về mức giá bán ở những thời điểm khác nhau thuộc thời kỳ điều tra, và
cũng chưa được quy định chi tiết trong Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam. Nếu chỉ
dựa vào một vài giao dịch nào đó để tính toán là không hợp lý, bởi giá bán thực tế phải
phản ánh được chiến lược mở rộng thị trường bằng cách tiêu diệt đối thủ chứ không
phải là những mức giá tức thời ở một thời điểm nào đó trong quá trình kinh doanh.


Trong trường hợp có sự chênh lệnh về giá bán giữa các tiểu vùng thị trường và các
thời điểm khác nhau trong cùng giai đoạn cần điều tra thì, việc cân nhắc và tính toán
một mức giá bình quân gia quyền là cần thiết nhằm tạo lập một giá bán căn bản, hợp lý
làm cơ sở để tiến hành so sánh giá. Pháp luật của Canada trong Điều 50 (1) b và c của
Luật Cạnh tranh và trong các nguyên tắc hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh trong
việc bán phá giá đã đặt ra nguyên tắc xác định giá bán bình quân khi điều tra về việc
định giá dưới chi phí sản xuất. Muốn chứng minh được hành vi định giá tiêu diệt đối
thủ, trước tiên phải chứng minh được mức giá bán dưới chi phí bình quân phải nằm
trong một chính sách cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, cần cân nhắc về mức thấp
của giá, phạm vi không gian và thời gian áp dụng để xác định sự vi phạm. Trong khu
vực thị trường và ở khoảng thời gian đó, nếu có sự thay đổi hoăc sự khác nhau về giá,
người ta sẽ cân nhắc đến khả năng áp dụng cách tính giá bình quân.

Cơ sở thứ hai, xác định giá thành sản xuất toàn bộ. Giá thành toàn bộ là mức giá cơ
bản được cấu thành từ các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông … của
sản phẩm và được các doanh nghiệp sử dụng làm các căn cứ xác định giá bán hàng
hoá, dịch vụ của mình. Trong việc xác định hành vi định giá hủy diệt, giá thành toàn
bộ được sử dụng như là mức chuẩn của sự công bằng và hợp lý. Nếu doanh nghiệp chủ
đích bán hàng hoá, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ thì hành vi ấy bị coi là không bình
thường do chưa đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra để có được sản phẩm.
Để tính toán giá thành toàn bộ, Nghị định 116 (Điều 23, 24, 25, 26) đặt ra công thức
giá thành toàn bộ là tổng các chi phí sau: chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng
hoá, dịch vụ hoặc giá mua hàng hoá để bán lại; và chi phí lưu thông hàng hoá, dịch vụ.
Trong việc tính toán, có một số khó khăn khi xác định giá thành toàn bộ, đó là:
Thứ nhất, theo Luật Cạnh tranh, hành vi định giá hủy diệt được áp dụng đối với hàng
hoá và dịch vụ. Việc áp dụng đối với hành vi định giá cung ứng dịch vụ dưới chi phí
toàn bộ để loại bỏ đối thủ đặt ra khó khăn trong việc điều tra về hành vi. Những khó
khăn xuất phát từ khái niệm dịch vụ và quá trình cung ứng dịch vụ. Do tính chất “vô
hình”, khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại dịch vụ mà cho đến
nay, chưa có một định nghĩa về dịch vụ được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy,
việc xác định chi phí cung ứng đối với một loại dịch vụ của doanh nghiệp cũng như


xác định chi phí lành mạnh đối với việc cung ứng dịch vụ để so sánh với giá cung ứng
thực tế là không đơn giản, chưa nói đến có nhiều trường hợp là không thể.
Thứ hai, việc điều tra và thu thập các thông số về tài chính kế toán, chi phí sản xuất
của doanh nghiệp rất phức tạp. Chưa kể những thông số đó không thực sự lành mạnh
do hoạt động kế toán của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết về sự minh
bạch, tính trung thực. Bên cạnh đó, trong cấu trúc chi phí toàn bộ của sản phẩm, bộ
phận chi phí liên quan đến lưu thông của sản phẩm hoặc của nguyên vật liệu để phục
vụ cho sản xuất ra sản phẩm luôn có độ co giãn cao làm cho việc điều tra về chi phí
toàn bộ gặp nhiều trở ngại ảnh hưởng đến tính chính xác trong việc xác định hành vi
hạn chế cạnh tranh về định giá hủy diệt. Đặc biệt, khi sản phẩm bị điều tra chỉ là một

trong nhiều sản phẩm được sản xuất và phân phối bởi doanh nghiệp thì, công việc bóc
tách các phần chi phí có liên quan đến sản phẩm trong tổng chi phí sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp là không đơn giản.
So sánh giá để xác định hành vi. Theo Luật Cạnh tranh của Việt Nam, ý định và khả
năng loại bỏ đối thủ của định giá hủy diệt được chứng minh từ hiện thực là giá bán
thấp hơn giá thành của sản phẩm trừ một số trường hợp được quy định tại Khoản 2,
Điều 23 của Nghị định 116. Về vấn đề này, pháp luật của các quốc gia khác như
Canađa và Hoa Kỳ có cách tiếp cận khác. Họ đưa ra các căn cứ xác định hành vi và
phân tích mục đích loại bỏ đối thủ. Theo đó, hai mức chi phí căn bản làm cơ sở xác
định hiện tượng ép giá là chi phí toàn bộ bình quân và chi phí biến đổi bình quân. Chi
phí biến đổi bình quân là chi phí biến đổi được tính trên một đơn vị sản phẩm, ví dụ
như chi phí lao động, chi phí nguyên, nhiên, vật liệu … (chi phí trực tiếp). Chi phí toàn
bộ bình quân là tổng chi phí đầu vào (yếu tố sản xuất) tính trên một đơn vị sản phẩm,
bao gồm chi phí cố định bình quân (chi phí gián tiếp) và chi phí biến đổi bình quân.
Mức giá cao hơn chi phí toàn bộ bình quân sẽ không bị coi là định giá huỷ diệt cho dù
mức giá đó có thể dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường. Lý giải về
điều này, các nhà làm luật của Canađa cho rằng, mức giá cao hơn chi phí toàn bộ bình
quân là mức giá bình thường bởi trong đó đã bao gồm một khoản lợi nhuận hợp lý cho
dù mức giá đó có thấp hơn giá bán của doanh nghiệp khác. Lúc này, giá bán phản ánh
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong cạnh tranh về giá so với đối thủ. Mức giá
thấp hơn chi phí biến đổi bình quân là bất hợp lý vì mức giá đó không thể dẫn tới sự


tối đa hoá lợi nhuận hay sự tối thiểu hoá tổn thất trong bất cứ bối cảnh thị trường nào.
Mức giá nằm ở khoảng giữa chi phí toàn bộ bình quân và chi phí biến đổi bình quân
(cao hơn chi phí biến đổi bình quân và thấp hơn chi phí toàn bộ bình quân) có thể bị
coi là định giá huỷ diệt nhưng cũng có thể được chấp nhận nếu như chứng minh được
rằng doanh nghiệp đang thực hiện chiến lược tối đa hoá lợi nhuận trong những điều
kiện đặc biệt của thị trường, ví dụ nhu thời kỳ nhu cầu thị trường bị giảm sút… Bởi lẽ,
mặc dù doanh nghiệp không tìm kiếm được lợi nhuận với mức giá đó nhưng doanh

nghiệp cũng đã có thể trang trải được các chi phí sản xuất trực tiếp và một phần bù đắp
cho các khoản đầu tư cố định hòng duy trì sản xuất trong điều kiện khó khăn của thị
trường.
Ngoài ra, để điều tra về hiện tượng định giá hủy diệt, pháp luật cạnh tranh của EU,
Hoa Kỳ, Canada… luôn đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải tính toán và phân tích cấu
trúc chi phí tạo nên giá thành của sản phẩm và cân nhắc các điều kiện khách quan trên
thị trường có thể tác động đến việc định giá của doanh nghiệp. Pháp luật của các nước
này không chỉ quan tâm đến sự tồn tại của việc định giá thấp hơn giá thành toàn bộ mà
còn xác định những tác động thực tế của hành vi đến thị trường. Luật pháp của họ sử
dụng nhiều kiến thức kinh tế học hiện đại để nhận thức về hành vi và mức độ xâm hại
của hành vi định giá tiêu diệt đối thủ để từ đó có thái độ đúng đắn với người vi phạm
đạt đến mức tinh tế cho từng trường hợp cá biệt. Mặt khác, pháp luật cũng không liệt
kê cụ thể từng loại chi phí có thể được sử dụng để tính toán giá thành sản phẩm bởi
mỗi loại sản phẩm trong điều kiện cụ thể của thị trường và tùy theo thói quen của
doanh nghiệp mà cấu trúc chi phí sẽ khác nhau. Những người có thẩm quyền thực thi
pháp luật sẽ dựa trên thực tế sổ sách của doanh nghiệp và tập quán ngành, dựa trên các
kiến thức kinh tế và kinh nghiệm mà xác định các chi phí cụ thể cấu thành chi phí toàn
bộ bình quân hay chi phí biến đổi bình quân. Cách tiếp cận này làm cho pháp luật trở
nên linh hoạt và uyển chuyển nhưng vẫn có những nguyên tắc bất biến được triệt để
tôn trọng. Từ đó, pháp luật không thể quy kết mọi hành vi bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ ở mức giá gây lỗ là định giá hủy diệt.
Trong khi đó, Luật Cạnh tranh của Việt Nam và các văn bản hướng dẫn có cách tiếp
cận đơn giản và cứng nhắc hơn. Theo đó, cơ quan điều tra chỉ cần xác định và tính
toán tất cả các chi phí đã được doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh sản phẩm (không sử


dụng các khái niệm chi phí khả biến hay chi phí cố định làm căn cứ điều tra) và giá
bán thực tế của sản phẩm rồi so sánh chúng với nhau. Do đó, hành vi bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ với mức giá gây lỗ mặc nhiên bị coi là định giá hủy diệt nếu doanh
nghiệp thực hiện hành vi có quyền lực thị trường và hành vi đó không thuộc những

trường hợp đặc biệt theo Khoản 2, Điều 23 của Nghị định 116. Các trường hợp loại trừ
được liệt kê khá cụ thể này có thể tạo thuận lợi cho việc áp dụng, song mặt khác lại
làm cho pháp luật thiếu linh hoạt trong khi thị trường luôn vận động.
1.2.3. Thị trường liên quan
Quy định của pháp luật Việt Nam về thị trường liên quan về cơ bản giống pháp luật
EU và Hoa Kỳ, gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Tuy
nhiên trong chi tiết của các phương pháp kiểm tra thử nghiệm xác định thị trường có
một số điểm khác biệt. Ví dụ quy định về mức tăng giá và khoảng thời gian tăng giá
trong phép thử nghiệm SSNIP để xác định khả năng thay thế về cầu của thị trường sản
phẩm liên quan. Nghị định 116/2005/NDDCP đã thu hẹp phạm vi điều chỉnh của pháp
luật cạnh tranh Việt Nam khi không quy định trường hợp doanh nghiệp vừa gia nhập
thị trường đã nắm vị trí thống lĩnh
2. Hình thức định giá hủy diệt theo pháp luật Việt Nam
Theo Khoản 1 Điều 13 Luật Cạnh Tranh 2004, hành vi này biểu hiện dưới hình thức
“bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh”. Mức chuẩn về giá để phân tích xác định định giá hủy diệt của pháp luật Việt
Nam (giá thành toàn bộ - ATC) cao hơn mức chuẩn của pháp luật EU và Hoa Kỳ, dẫn
đến khả năng làm cho quy định khắc nghiệt hơn đối với doanh nghiệp thống lĩnh và
không khuyến khích cạnh tranh hiệu quả về giá như pháp luật EU và Hoa Kỳ. Đây
chính là một trong những biểu hiện của xu hướng bảo vệ đối thủ cạnh tranh hơn là bảo
vệ cạnh tranh hiệu quả của Luật Cạnh Tranh Việt Nam. Ngoài ra, thay vì quy định về
bằng chứng chủ ý loại bỏ đối thủ hoặc khả năng thu bù lỗ của doanh nghiệp vi phạm,
pháp luật Việt Nam quy định về các trường hợp doanh nghiệp bán hàng hóa dưới ATC
nhưng không bị xem là định giá hủy diệt.


Định giá liên quan chặt chẽ với dữ liệu chi phí, vì chi phí là cơ sở kỹ thuật khách quan
của định giá. Vì vậy, để đánh giá một hành vi định giá có mang tính cạnh tranh hay
không trong nhiều trường hợp cần so sánh giá với một mức chuẩn hợp lý về chi phí.
Có một số điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam, Hoa Kỳ, EU trong việc sử dụng

chi phí để nhận diện hành vi định giá hủy diệt. Quy định về định giá hủy diệt từ phía
người bán của pháp luật Việt Nam thậm chí còn lảng tránh so sánh giữa giá và chi phí,
dẫn đến không thể khám phá bản chất của hành vi định giá quá đáng và do đó phép
kiểm tra hiện hành không thuyết phục và hiệu quả.
3. Biện pháp xử lý hành vi định giá hủy diệt
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã xây dựng một hệ thống các biện pháp xử lý hành vi
hạn chế cạnh tranh nói chung, định giá lạm dụng, định giá hủy diệt nói riêng khá đa
dạng và tương tự EU, bao gồm biện pháp hành vi, biện pháp cấu trúc, biện pháp phạt
và khắc phục bằng tiền. Khác với Hoa Kỳ, pháp luật cạnh tranh Việt Nam không có
tính hình sự, không có biện pháp phạt tù đối với cá nhân người lãnh đạo doanh nghiệp
vi phạm.
Dựa vào quy định của Nghị định 120/2005, có thể nói rằng hiện nay pháp luật cạnh
tranh Việt Nam không áp dụng biện pháp cơ cấu lại đối với doanh nghiệp có vị trí độc
quyền, việc này được cho rằng là bất hợp lý. Biện pháp cơ cấu lại, ví dụ như chia, tách
doanh nghiệp thành nhiều doanh nghiệp độc lập và cạnh tranh với nhau là biện pháp
nên được quy định áp dụng xử lý doanh nghiệp độc quyền để đưa thị trường trở về
trạng thái có cạnh tranh.
IV.

KẾT LUẬN

Luật Cạnh Tranh ra đời đánh dấu sự khẳng định mạnh mẽ của Nhà nước Việt Nam về
cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế. Nhờ Luật Cạnh Tranh, các hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền nay đã được điều chỉnh. Điều này đáp ứng mong đợi của
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Trong bài tiểu luận, nhóm nghiên cứu đề cập đến một mảnh ghép rất nhỏ trong Luật
cạnh tranh, liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm: Định giá hủy
diệt.



Việc xác định được thế nào là định giá hủy diệt, có được các quy định pháp luật cụ thể
nhăm điều chỉnh, xử lý vi phạm đối với hành vi định giá hủy diệt có vai trò hết sức
quan trọng. Chỉ khi có được cái nhìn đúng đắn được thế nào là định giá hủy diệt, thì
mới có thể đưa ra được các chế tài hợp lý, đúng người, đúng tội, đảm bảo bảo vệ người
tiêu dùng, tạo sự ổn định và tiền đề phát triển cho thị trường.
Luật cạnh tranh Việt Nam tuy còn non trẻ, tuy nhiên với nhiệm vụ ra đời để đảm bảo
sự cạnh tranh hiệu quả của thị trường, Luật vẫn đang ngày được cải thiện và có những
đóng góp đáng kể trong việc đảm bảo cạnh tranh của thị trường. Bên cạnh đó, nhà làm
luật Việt Nam luôn tích cực phân tích và đúc kết các kinh nghiệm của các nước đi
trước, ví dụ như Hoa Kỳ, EU để áp dụng cho Luật cạnh tranh Việt Nam, nhằm đưa đến
những ý kiến đóng góp tích cực.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Định nghĩa hành vi định giá hủy diệt: Paul L. Joskowt and Alvin K. Klevorickt (1979), “A Framework for Analyzing
Predatory Pricing Policy”, the Yale Law Journal Volume 89, Number 2,
December 1979.
3. Trần Hoàng Nga (2009), “Các hình thức định giá lạm dụng trong pháp luật Liên
Minh Châu Âu và Hoa Kỳ”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4/2009.
4. Trần Hoàng Nga (2011), “Từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu,
bàn về nguyên tắc áp dụng ngoài lãnh thổ của Luật Cạnh Tranh Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học Pháp lý, số 5/2011.



×