Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN dạy Tiếng Anh thông qua các bài hát Tiếng Anh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.08 KB, 27 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài :
Trong xu thế hội nhập, Tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ chung của toàn
cầu để tất cả mọi người trên thế giới có thể thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau.
Hiện thế giới có trên 50 quốc gia sử dụng Tiếng Anh là ngôn ngữ chính, gần
80 quốc gia sử dụng Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Trong tất cả các lĩnh vực
từ kinh doanh, thương mại, truyền thông cho đến du lịch, ngoại giao,...Tiếng
Anh đều đóng vai trò là ngôn ngữ số một. Đối với Việt Nam trong việc hội
nhập kinh tế thế giới, nhất là khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc
độ nhanh thì biết Tiếng Anh, giỏi Tiếng Anh sẽ giúp chúng ta có một ưu thế
vượt trội hơn những nước khác trong khu vực như Lào, Campuchia, và đặc
biệt là Trung Quốc. Cùng với sự phát triển của công nghệ, y học, kỹ thuật và
giáo dục… đó là những nơi mà Tiếng Anh đóng vai trò quan trọng nhất. Đặc
biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, Tiếng Anh đã được
giảng dạy từ rất sớm. Dạy Tiếng Anh cho trẻ em hiện nay đang nhận được sự
nhiều sự quan tâm của giáo viên dạy Tiếng Anh và các bậc phụ huynh. Cùng
với sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế, nhu cầu học Tiếng
Anh không còn là một sở thích của một số người có năng khiếu nữa. Việc học
và thông thạo Tiếng Anh như một ngôn ngữ giao tiếp quốc tế thông dụng đã
được xác định là thiết yếu cho mọi lứa tuổi. Vì lẽ đó, Tiếng Anh đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo quyết định đưa vào chương trình học chính khóa từ lớp
3. Quyết định này đã thể hiện rõ chiến lược trong giáo dục Việt Nam khi chọn
Tiếng Anh là trọng tâm hàng đầu để tiến vào tương lai. Việc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học
sinh cũng đã được đưa vào áp dụng trong các nhà trường. Người học đóng vai
trò trung tâm còn giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn và là người
giúp đỡ các em lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả hơn. Song song với đó,
Bộ Giáo Dục cũng đang tập trung đổi mới chương trình môn Tiếng Anh ngay
từ cấp Tiểu học. Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số
1



1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân” (gọi tắt là đề án ngoại ngữ 2020). Mục tiêu chung của đề án
là “Thực hiện đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống
giáo dục, trong đó có giáo dục đại học, nhằm đảm bảo đến năm 2015 đạt
được bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn
nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên…..”. Thể hiện quyết tâm thực
thi Đề án Ngoại ngữ 2020, ngày 8/4/2011 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ký Quyết định số 1400/QĐ-BGDĐT thành lập Ban Quản lý Đề án “Dạy và
học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”. Qua
đó ta thấy rằng Nhà Nước đã có mối quan tâm đáng kể đến chiến lược đào tạo
ngoại ngữ cho thế hệ tương lai của quốc gia.
Dạy học là một công việc có rất nhiều thử thách, cứ mỗi năm trôi qua lại
xuất hiện những thay đổi mới vì thế giới luôn thay đổi từng ngày và giáo viên
phải luôn sẵn sàng tiếp nhận và truyền lại những kiến thức mới cho học sinh
của mình. Làm thế nào để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Anh, biết vận
dụng và nâng cao khả năng giao tiếp vẫn còn rất nhiều khó khăn. Để thu hút
học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục, các thầy
cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà trường quan tâm hàng đầu, luôn
nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức, cải tiến phương pháp để dạy
và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Ở bậc Tiểu học, lượng kiến thức Tiếng Anh của các em chủ yếu xoay
quanh những chủ điểm rất gần gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là
những chủ điểm giới thiệu bản thân, chủ điểm trường lớp bạn bè, chủ điểm
gia đình và chủ điểm khác (thế giới xung quanh các em). Thông qua những
chủ điểm này, các em sẽ tích cóp được một lượng từ vựng và mẫu câu cơ bản
tạo tiền đề cho các cấp học sau. Tuy nhiên Tiếng Anh là một môn học mới ở
cấp Tiểu học nên phần lớn các em học sinh chưa chú tâm vào việc đầu tư cho
môn học này, chuẩn bị bài ở nhà còn rất sơ sài. Đồng thời vẫn có một số
lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt Tiếng Việt vì vậy việc ghi nhớ từ

2


vựng, vận dụng các mẫu câu Tiếng Anh được cung cấp ở trường vào việc giao
tiếp còn rất nhiều hạn chế và khó khăn. Từ đó, một số em có tâm lý chán học
bộ môn Tiếng Anh. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu
sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói Tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để tìm
hiểu bài học. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thấy một thực trạng là đa số học
sinh còn yếu về phương pháp học môn Tiếng Anh như:
- Không nắm được số lượng từ vựng nhất định được đề cập trong sách
giáo khoa vì vậy dẫn đến không có đủ lượng từ để giao tiếp.
- Không nắm được từ vựng nên không hiểu được nội dung bài khóa
dẫn đến không thể làm được bài tập đọc hiểu.
- Không nắm được từ vựng nên ngại nói bằng Tiếng Anh trong các giờ
học Tiếng Anh…
Để khắc phục những tình trạng bất cập trên của học sinh, tôi xin nêu ra
một vài phương pháp mà bản thân tôi đã sử dụng trong quá trình giảng dạy,
giúp học sinh đạt kết quả tiến bộ hơn trong học tập. Chính điều này đã thúc
đẩy tôi chọn đề tài “Dạy từ vựng Tiếng Anh tiểu học” với mong muốn góp
một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh ở
bậc Tiểu học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Các loại từ vựng trong sách giáo khoa Tiếng
Anh 3 và Tiếng Anh 4.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Học sinh khối 3 – 4 – 5 Trường TH và THCS Mò Ó.
+ Thời gian: bắt đầu nghiên cứu từ 10/10/2015 và kết thúc vào ngày
25/03/2016.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
a. Mục đích nghiên cứu:

Trong dạy Tiếng Anh, việc giúp học sinh ghi nhớ từ vựng là một hoạt
động không thể thiếu. Việc ghi nhớ từ vựng không chỉ đơn thuần là nhớ nghĩa
3


Tiếng Việt của từ mà còn là việc giúp các em nghe, phát âm và giao tiếp một
cách tự nhiên, chính xác. Việc tìm ra những cách thức giúp các em học từ
vựng, hiểu từ vựng và nhớ kỹ là nhiệm vụ của mỗi giáo viên. Vì vậy mục đích
của nghiên cứu này chính là đưa ra các phương pháp giúp học sinh ghi nhớ
nhanh các từ vựng một cách dài lâu và hiệu quả.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi hướng đến
các phương pháp giới thiệu và dạy về từ vựng với những nội dung cơ bản sau
đây:
-Tìm hiểu thực trạng việc học từ vựng Tiếng Anh trước khi thực hiện đề tài.
-Công tác chuẩn bị trước khi dạy từ vựng
-Thủ thuật vận dụng các phương pháp dạy từ vựng giúp các em ghi nhớ một
các tự nhiên và lâu dài.
-Thủ thuật giúp học sinh ôn tập, kiểm tra từ vựng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tôi đã nghiên cứu nhiều tài liệu liên
quan đến việc dạy từ vựng Tiếng Anh ở cấp Tiểu học để hiểu hơn về tâm lý,
nhu cầu học cũng như các kỹ năng giảng dạy từ vựng Tiếng Anh cho các em.
Thông qua phương pháp này tôi đã thu thập được khá nhiều kiến thức bổ ích
cho bài nghiên cứu của mình.
-Phương pháp quan sát: đối tượng mà tôi quan sát là các học sinh khối
3-4-5. Phương pháp này giúp tôi phát hiện ra sự thay đổi từng ngày của các
em khi học môn Tiếng Anh. Ví dụ: Ở lớp 4A, Hắc là một em học sinh khá là
nhút nhát trong mọi hoạt động. Mặc dù được xếp ngồi ở bàn đầu nhưng em

luôn lơ đãng không chú ý trong giờ học. Khi tôi dạy từ vựng sử dụng dụng cụ
trực quan, phương pháp này giúp em chú ý hơn một chút. Tôi thay đổi
phương pháp dạy từ vựng bằng sử dụng vật thật hay là lồng ghép dạy từ vựng
4


vào các trò chơi thì em Hắc chú ý hơn hẳn. Em tham gia sôi nổi, phát biểu
nhiều hơn và theo một cách tự nhiên em tự ghi nhớ được một số lượng từ
vựng nhanh và nhớ lâu hơn.
-Phương pháp phỏng vấn: nhờ vào phương pháp này mà tôi đã hiểu rõ
được các em thích hay không thích những hoạt động gì khi học từ vựng Tiếng
Anh, từ đó có kế hoạch thay đổi phương pháp dạy sao cho phù hợp với các
em.
-Phương pháp thống kê toán học: sau 5 tuần vào năm học, tôi đã làm
một phiếu thống kê về việc “Học từ vựng thông qua các phương pháp” nhằm
hiểu rõ xem các phương pháp dạy từ vựng mà tôi đã sử dụng thì học sinh của
mình cảm thấy thích được dạy từ vựng thông qua phương pháp nào. Từ kết
quả mà phiếu thống kê mang lại tôi có thể hiểu rõ hơn các phương pháp mà
mình đã sử dụng ảnh hưởng như thế nào đến việc học từ vựng của các em. Từ
đó tôi có thể thay đổi cách vận dụng phương pháp giảng dạy của mình sao
cho tiết học càng thêm sinh động và thu hút được nhiều học sinh hơn
- Phương pháp trưng cầu ý kiến: Tôi thường cho học sinh tự đưa ra những ý
kiến cá nhân của các em nhằm xem các em có nhu cầu và nguyện vọng gì
trong việc học từ vựng nhằm phát huy tính tích cực của các em.
- Phương pháp đàm thoại: tôi thường xuyên sử dụng phương pháp này khi học
sinh của mình gặp khó khăn trong việc phát âm hay không hiểu về một vấn đề
gì đó, phương pháp này giúp nắm bắt tình hình học sinh để kịp thời sửa sai
hoặc uốn nắn cho các em.
-Phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả của học sinh: phương pháp này giúp
tôi có thể đối chiếu và so sánh chất lượng học tập của học sinh ở các lớp khác

nhau từ đó tôi có thể nhận ra tính hiệu quả của các phương pháp mà tôi đã vận
dụng cụ thể ở từng lớp.
Mỗi phương pháp trên đều mang lại các thông tin hữu ích cho đề tài
của tôi. Trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp quan sát, phương
5


pháp phỏng vấn, phương pháp thống kê toán học và phương pháp đối chiếu,
so sánh kết quả. Còn những phương pháp khác được dùng như phương pháp
bổ trợ.
5. Đóng góp của SKKN:
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn :
- Ghi lại những phương pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc
kết thành kinh nghiệm giảng dạy của bản thân.
- Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong
quá trình giảng dạy từ vựng của mình
- Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ ban
Giám khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy
những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho nhằm hoàn thiện
hơn.
- Rèn luyện tinh thần năng động, giữ lửa lòng say mê, sáng tạo, cố gắng học
tập, tự cải tạo mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại.
PHẦN 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận
Tiếng Anh là một ngôn ngữ thông dụng trên quốc tế và nó đã được đưa
vào chương trình giảng dạy, trở thành một trong những bộ môn chính
khoá ở các bậc học phổ thông. Để dạy tốt môn Tiếng Anh, mỗi một
giáo viên đứng lớp luôn phải thực hiện tốt công tác bồi dưỡng và tự bồi

dưỡng thường xuyên, nghiên cứu, vận dụng các phương pháp dạy học
tích cực, khoa học và phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào
việc phát triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh trong
6


hoạt động học tập nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề
cho học sinh. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) là
giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học
tập thụ động. Chương trình giáo dục phổ thông đã ban hành kèm theo
quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn
học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng
cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.”
Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp
dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp
cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi
trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống
giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp
với tình huống giao tiếp cụ thể.
Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ là giao tiếp. Để giao tiếp
tốt trước hết đòi hỏi ở học sinh có vốn từ vựng nhất định, vốn từ vựng
càng nhiều giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao tiếp nhanh chóng và
có hiệu quả. Từ vựng Tiếng Anh là một công cụ, phương tiện quan
trọng nhất trong việc dùng và học Tiếng Anh . Ở bất kỳ một kỹ năng
nào của việc học ngoại ngữ đều phải dùng đến từ vựng.Vì vậy từ vựng

Tiếng Anh là nguồn vốn, là sản phẩm vô giá, là công cụ chính cho
người dùng.
Trong một bài học môn học Tiếng Anh, hầu hết tiết học nào cũng có
phần “giới thiệu từ vựng” . Để bài học đạt kết quả cao, học sinh phải
nắm rõ cách phát âm cũng như cách dùng của các từ. Muốn thế giáo
viên cần lựa chọn các phương pháp dạy từ vựng phù hợp với từng loại
7


từ để sao cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và dễ sử dụng. Tôi đã cố gắng
tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu viết về phương pháp cùng với những trải
nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tôi đã rút ra được một vài kinh
nghiệm trong việc gây hứng thú cho học sinh học Tiếng Anh qua các
giờ dạy từ vựng ở cấp Tiểu học. Đây là kinh nghiệm mà tôi tâm đắc
nhất và tôi đã mạnh dạn chọn nó để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm
cho mình.
2. Cơ sở thực tiễn:
Vào đầu năm học 2015 - 2016 tôi được phân công dạy môn Tiếng Anh cho
khối 3 là 3 – 4 – 5 ở Trường TH-THCS Mò Ó. Ngành và nhà trường đã tạo
điều kiện thuận lợi cho bản thân tôi được tham gia các lớp chuyên đề đổi mới
phương pháp giảng dạy ở cấp Tiểu học, đi tập huấn, dự các tiết thao giảng
chuyên đề, nghiên cứu, thảo luận việc đổi mới PPDH ở cụm và huyện. Từ đó
tôi đã học tập được những phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Những
phương tiện giúp các em học và rèn luyện cho bộ môn Tiếng Anh không còn
là vấn đề nan giải. Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học bộ môn
Tiếng Anh khá đầy đủ như: máy chiếu, đài catset, sách giáo khoa, sách bài
tập… Bản thân luôn được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà
trường, của các anh chị em đồng nghiêp.
Tình hình chung học sinh cấp Tiểu học Trường Mò Ó mà tôi trực tiếp giảng
dạy đa số các em chăm học và ngoan. Bên cạnh đó một số cá biệt học sinh

vẫn còn thiếu kiên nhẫn trong học tập, còn chây lười, ỷ lại và mang tính thụ
động. Đại đa số học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số nên điều kiện
tiếp xúc với phương tiện thông tin còn hạn chế, gia đình phụ huynh cũng chưa
có sự quan tâm nhiều đến việc học ngoại ngữ của con. Để thực hiện phương
pháp thực nghiệm tôi đã tiến hành khảo sát vốn từ vựng bộ môn Tiếng Anh
đầu năm đối với học sinh 3 khối 3-4-5 như sau:
- Số học sinh nói đúng: 60%
- Số học sinh viết đúng: 45%
8


- Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 50%
- Học sinh hứng thú học từ vựng: 65%
- Một số học sinh còn rụt rè trong giao tiếp, vốn từ vựng và cách nhớ từ
còn hạn chế. Một số học sinh chỉ nói theo chứ không viết đúng, học còn
trầm, chậm.
Trước tình hình đó tôi đã mạnh dạn thử nghiệm nhiều phương pháp dạy từ
vựng khác nhau với mục đích giúp các em chủ động nhớ từ, vận dụng từ
và hứng thú học từ hơn trong các giờ dạy có từ vựng.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP
Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh tiểu học mỗi tuần 04
tiết, mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập.
Muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh
ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng
sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học.
Về sự phân bố tiết trong tuần, một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh
liên tiếp, phải tải một số lượng từ rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ gây tâm lý
quá tải cho một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau.
Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học
sinh chỉ học hoa loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không

tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo
viên yêu cầu các em sẽ không thành công.
Về phía gia đình học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng
dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh
nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở
nhà của học sinh.
Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm,
học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ
nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên,
chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có.
Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ
khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên
cần chú ý đến tâm lý này của học sinh.
9


Vì là giáo viên mới ở trường, môn học này cũng là một môn học mới lạ với
các em nên bước đầu tôi chưa thực sự hiểu tình hình học của học sinh của
mình. Sau khi vào chương trình dạy hết 5 tuần, tôi nhận thấy học sinh có phần
gặp nhiều khó khăn vì vậy tôi cần phải đi sâu vào tìm hiểu các em hơn nữa.
Cần phải nắm rõ được các em muốn gì, các em cần gì và quan trọng hơn là
phải nắm rõ được những phương pháp dạy từ vựng tôi đã áp dụng từ đầu năm
đến thời điểm này đối với các em như thế nào. Phương pháp đó có phù hợp,
có khiến các em học từ vựng một cách nhanh và ghi nhớ lâu hay không. Tôi
đã tiến hành một đợt điều tra nhỏ để thống kê sở thích của học sinh đối với
các phương pháp dạy từ vựng ở cả ba khối 3 – 4 – 5 thì có kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ
PHƯƠNG PHÁP DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH GIÚP HỌC SINH
HỨNG THÚ
1. Sử dụng tranh ảnh


70%

2. Sử dụng vật thật

85%

3. Sử dụng điệu bộ

60%

4. Thông qua tình huống hoặc giải thích

20%

5. Dùng từ đồng nghĩa/ trái nghĩa

35%

6. Dịch nghĩa

25%

7. Trò chơi

85%

Bảng thống kê phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh giúp học sinh hứng thú
Từ kết quả của đợt thống kê, tôi đã cố gắng áp dụng những phương pháp dạy
từ vựng mà các em thích thú nhiều hơn trong các tiết dạy từ. Sự thay đổi này

khiến các em rất hứng khởi vừa khiến các em dễ hiểu, nắm được cách đọc và
nghĩa của từ nhanh hơn, biết cách áp dụng từ vừa mới học một cách khoa học,
ghi nhớ lâu dài từ đó. Cố gắng giúp các em đến gần hơn với môn học, yêu
thích và chú tâm hơn khi học môn học này.
1. Nguyên nhân:
Thực tế việc tiếp nhận một ngôn ngữ giao tiếp mới ngay từ Tiểu học đối
với các em là rất khó. Mức độ nhận thức của các em còn thấp, chất lượng học
10


tập bộ môn không đồng bộ. Học sinh ở miền núi như học sinh của tôi gia đình
điều kiện còn khó khăn, các em không có cơ hội cũng như không có thói quen
đọc thêm sách báo khi ở nhà để bổ sung, mở rộng và nâng cao kiến thức.
Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một ngôn ngữ mới, trong khi
vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt Tiếng Việt ở
trường nên việc học môn này càng khó hơn bội phần. Hơn nữa Tiếng Anh ở
bậc Tiểu học chỉ là môn học phụ, thế nên bản thân học sinh và ngay cả phụ
huynh cũng không quan tâm đến bộ môn này, họ chỉ đầu tư cho con mình học
nâng cao môn Toán, Tiếng Việt. Kiến thức về từ vựng và khả năng lưu nhớ
các cấu trúc câu của các em chưa cao, cứ qua một bài học khác, khi hỏi lại bài
cũ thì các em đã quên hết hoặc là chỉ nhớ một phần rất ít từ vựng và cấu trúc
câu. Bởi do lỗ hỏng kiến thức đó mà các em thường hay ngại ngùng khi nói
trước đám đông. Các em sợ sai, không chắc chắn vào kiến thức của mình.
Việc bắt các em gò mình vào học thuộc, ôn đi ôn lại một mẫu câu khô khan
cứng nhắc không giúp các em học tốt lên mà chỉ khiến các em mệt mỏi và nản
chí.
Đối với các em khối 5, môn học Tiếng Anh chỉ là một môn tự chọn trong
chương trình. Các em chỉ được học 2 tiết Tiếng Anh trong một tuần. Lượng
thời gian quá ngắn trong khi lượng kiến thức lại khá dài. Các em không có
nhiều thời gian để luyện tập giao tiếp, đàm thoại, bồi dưỡng cho kỹ năng nghe

– nói. Còn đối với các em nhỏ khối 3-4, vẫn còn rất nhiều em đọc viết Tiếng
Việt còn chưa trôi chảy, lưu loát, suy nghĩ nghĩa của từ còn chậm. Nên khi cô
giáo giải thích nghĩa của từ vựng từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt, các em hiểu
chậm thậm chí hiểu sai. Ghi chép còn nhẫm lần giữa các chữ cái như “b – d/
p – q”. Trong Tiếng Anh có một vài chữ cái lạ như “w, f, z” khiến các em
khó viết khi ghi chép. Một vài em đến giờ vẫn chưa phát âm rõ được chữ cái
trong Tiếng Việt nên khi phát âm sang Tiếng Anh các em bị vấp rất nhiều lỗi.
Càng thúc ép các em ôn đi ôn lại chỉ khiến các em càng chán nản và nói sai
nhiều hơn.
11


2. Giải pháp
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thực tế những phương pháp giảng dạy từ
vựng Tiếng Anh, tôi nhận thấy học sinh của mình đã có nhiều thay đổi tích
cực, tiến bộ. Tôi đã tiến hành các biện pháp sau:
3.1 Các bước để giới thiệu từ mới:
Bước 1: Thâm nhập nắm chắc chương trình môn Tiếng Anh lớp 3-4, nghiên
cưú kỹ nội dung từng bài để có kế hoạch làm đồ dùng cho giờ dạy sôi động,
hấp dẫn và lôi cuốn.
Bước 2: Phối hợp với học sinh và duy trì ngôn ngữ giao tiếp với học sinh
bằng cách đặt câu hỏi học sinh trả lời.
Bước 3: Lựa chọn và phân loại từ
Bước 4: Sử dụng các thủ thuật linh hoạt để giới thiệu nghĩa của từ.
Bước 5: Kiểm tra việc hiểu và nắm nghĩa của từ.
Bước 6: Luyện tập từ của học sinh.
Bước 7: Kiểm tra mức độ hiểu biết và nắm được từ của một số học sinh yếu
nếu cần thiết.
3.2. Các phương pháp để giới thiệu nghĩa của từ vựng:
a. Lựa chọn từ để dạy:

Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao
tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ
phong phú.
Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu là chủ yếu nói đến
ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích
với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và
giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất
hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để
chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề:
- Từ chủ động (active vocabulary)
- Từ bị động (passive vocabulary)

12


Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có
liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo
viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời
gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định
xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
- Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form.
+ Meaning.
+ Use.
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như
từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo
viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết
phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
-Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ

của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời
gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy
tối đa là 6 từ.
- Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau:
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của
học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ
của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích
rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
- Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó
lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán.
Với sự đa dạng của từ, tôi đã đầu tư trong việc lựa chọn từ thích hợp, có vai
trò chủ động để hiểu được nội dung chính của bài học. Vì thế trong mỗi tiết
13


dạy tôi chỉ cho các em 5-8 từ chủ động, vì thực tế có bài có đến 10-15-20 từ
mới, nếu đưa ra quá nhiều học sinh sẽ không nhớ nỗi.
b. Các bước tiến hành giới thiệu từ mới:
Có nhiều phương pháp giới thiệu từ vựng nhưng giới thiệu bằng cách nào cho
phù hợp với từ, với đối tượng để học sinh dễ nhận biết và phát huy được tính
tích cực ,tìm tòi, đoán nghĩa của học sinh.
Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong
việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ
gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới
được giới thiệu.
Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo
trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác

“nghe”. Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt
đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy
giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất:
- Bước 1: “nghe”, giáo viên cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc
mẫu.
- Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần giáo viên mới
yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại ,giáo viên cần chú ý cho
cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân.
- Bước 3: “đọc”, giáo viên viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào
đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh
tới một chừng mực mà giáo viên cho là đạt yêu cầu.
- Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi
giáo viên mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
- Bước 5: giáo viên hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không
và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.
- Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận
diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu.
- Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới
học.
14


c. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới: Giáo viên có thể dùng một số
thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như:
1. Visual (nhìn): Giáo viên chuẩn bị tranh ảnh cho học sinh nhìn và học từ
vựng từ những bức tranh đó, phương pháp này giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá
từ một cách nhanh chóng.
- Khi dạy những từ cần hình ảnh , tôi đã dùng tranh để giới thiệu. Ví dụ:
Ở bài Unit 2 – Tiếng Anh 4, khi dạy về quốc tịch các nước tôi đã dùng tranh
để minh họa lá cờ và con người của từng nước để các em có thể dễ dàng hình

dung và ghi nhớ đất nước đó hơn

2. Realia (vật thật): Giáo viên sử dụng những dụng cụ trực quan thực tế có
được để giới thiệu từ vựng cho học sinh.
Ví dụ:
Ở bài Unit 8 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các dụng cụ học tập của học sinh như
bút (pen), thước (ruler), hộp bút (pencil case), cặp sách (school bag)… tôi đã
sử dụng chính những dụng cụ học tập của các em để dạy về từ vựng. Vì phần
lớn tất cả các em đều có những dụng cụ này nên khi tôi giới thiệu và gọi tên
bằng Tiếng Anh từng đồ vật thì các em rất thích thú. Nhiều em cầm từng đồ
vật cụ thể của mình và gọi tên chúng rất tự nhiên.
3. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ, cử chỉ
Ví dụ: Ở bài Unit 10 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các trò chơi như bóng đá
(football), nhảy dây (skip), trốn tìm (hide- and-seek), bịt mắt bắt dê (blind
15


man’s bluff), bóng bàn (table tennis)…tôi đã thực hiện các hành động về
những trò chơi đó rồi cho học sinh đoán xem đó là trò gì và gọi tên những trò
chơi đó bằng Tiếng Anh. Tôi yêu cầu học sinh lặp lại hành đồng đó và gọi tên
trò chơi bằng Tiếng Anh. Với phương pháp này, học sinh nhớ khá nhanh và
rất thích thú khi được bắt chước theo hành động của các trò chơi. Sử dụng
hình thức này tôi đã thể hiện rõ ràng, tự nhiên giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhận
biết và rất hứng thú học.

Play badminton (cầu lông)

Play hide-and-seek (chơi trốn tìm)

4.Drawing (Vẽ phác họa)

Ví dụ: ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các từ vựng về nhà cửa tôi đã
vẽ minh họa lên bảng một ngôi nhà có các phòng, vườn cây, ao nước cụ thể
để các em dễ hình dung và dễ nhớ hơn.

5. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ
đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Một phần giúp học sinh
liên tưởng đến những từ đã học, vừa nắm được nghĩa của từ mới.
Ví dụ:
16


thấp – cao (short – tall)
mâp - ốm (fat- slim)
nóng – lạnh (hot-cold)
to – nhỏ ( big – small)
6. Situation / explanation:
Giáo viên sử dụng tình huống(situation) hay giải thích(explanation) để giới
thiệu từ vựng cho học sinh.
Ví dụ: Ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 4, tôi đã dùng những từ vựng các em đã
học hoặc dùng một giáo viên cụ thể trong trường để giới thiệu từ vựng mới
cho các em
- a teacher (giáo viên) : Ms. Hien is a…..(teacher).
- a student (học sinh) : You are a ….(student).
- hospital (bệnh viện) : Doctor works in a….(hospital).
7. Example (nêu ví dụ)
Ngoài ra tôi còn sử dụng tình huống giảng giải, dạy từ trong ngữ cảnh, giải
thích từ bằng những Tiếng Anh đơn giản, nhiều em rất tích cực trong việc
đoán từ.
8. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt
để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi

không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu
tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho
phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó.
Đối với những từ trừu tượng tôi dùng phương pháp dịch thuật như:
Ví dụ: friendly (thân thiện), scary (làm sợ hãi), usually ( thông thường),
wonderful ( kỳ diệu)…
9.Compound word ( từ ghép): Tôi đã giúp học sinh học thêm về những từ
mới khác bắt nguồn từ những từ vựng đơn giản mà các em đã học ở những bài
trước. Để minh họa, tôi đã vẽ những bức hình đơn giản để các em dễ dàng
hình dung và cảm thấy thích thú hơn.
17


Ví dụ: rain (mưa) + bow (nơ)

 rainbow (cầu vòng)

sun ( mặt trời) + flower (hoa)  sunflower (hoa hướng dương)…

d/. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới:
Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn
phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng
cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt
động này, chúng ta có thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là một vài thủ
thuật kiểm tra từ mới:
+ Rub out and remember: Hình thức này đã thực sự giúp học sinh nhớ từ ngay
tại lớp.
+ Slap the board: Hình thức này đã giúp học sinh nhận ra từ vựng qua nghe
hiểu và kiểm tra việc hiểu nghĩa từ của học sinh. Học sinh làm việc theo
nhóm. Nhóm nào cũng muốn chiến thắng vì vậy các em hoạt động rất nhanh

nhẹn và sôi nỗi.
+ What and Where: Tôi đã gợi ý để học sinh đưa ra được từ vựng rồi viết
chúng vào các vòng tròn lên bảng, lần lượt (đọc-xoá-đọc) và tôi yêu cầu học
sinh phải nhớ được từ và vị trí của nó để lên viết lại. Thoạt đầu một số em yếu
còn nhút nhát nhưng dần về sau nhiều em đã rất mạnh dạn và muốn lên bảng
để viết. Hình thức này đã giúp học sinh ghi nhớ và ôn luyện từ bằng cách viết
từ

18


+ Matching words: Tôi yêu cầu học sinh nối nghĩa tiếng Việt với tiếng Anh
hoặc với tranh. Phương pháp này tiết kiệm được thời gian và học sinh rất hào
hứng làm việc, 90% học sinh xung phong lên bảng để nối, kể cả những em rất
yếu.
+ Guessing pictures (đoán tranh): Phương pháp này đã giúp nhiều học sinh
cùng nói và luyện từ mới một cách có ý nghĩa.
+ Bingo: Bằng cách này tôi đã giúp học sinh luyện tập được kỹ năng nghe và
nối âm thanh nghe được với từ đúng. Học sinh thực hành rất sôi nỗi. Thậm
chí học sinh còn đề nghị giáo viên cho làm lại để quyết giành chiến thắng.
+ Noughts and croses: Tôi đã dùng hình thức này để kiểm tra việc vận dụng
từ mới trong câu và thực sự gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt hiệu quả
cao về học tập từ.
+ Jumbled words: Bằng cách kiểm tra này tôi đã giúp học sinh luyện tập viết
đúng chính tả của từ. Học sinh phải sắp xếp được các chữ cái lộn xộn thành
một từ có nghĩa.
+ Taboo (trò chơi có thể hiểu như trò "Đuổi hình bắt chữ"): Trò chơi "Taboo"
được tổ chức rất đơn giản. Học sinh được ngồi theo nhóm với một chồng thẻ
từ mới úp xuống. Một học sinh lật thẻ lên và cố giải thích, ví dụ… để khiến
những bạn khác nhớ ra từ mới. Học sinh đoán được từ mới ấy sẽ nhận được

thẻ đó và bắt đầu một lượt chơi khác. Cuối buổi học, người chiến thắng là
người nhận được nhiều thẻ từ mới nhất.
+ Hot seat (Ghế nóng): Trò chơi được tôi sử dụng nhiều để giúp học sinh ôn
từ và khuấy động không khí (warm - up). Lớp học được chia làm hai đội. Mỗi
đội cử một bạn lên bảng, ngồi lên một chiếc ghế quay lưng với cả lớp. Các
bạn còn lại trong đội cố gắng diễn tả từ vựng bằng cách diễn giải, ví dụ… để
thi xem ai đoán ra nhanh hơn. Việc mỗi đội cố gắng diễn tả từ vựng khiến
Vỡi những hình thức kiểm tra trên kết hợp với một số trò chơi tôi đã tổ chức
cho các em, tôi nhận thấy các em hứng thú hơn với việc học từ vựng, ghi nhớ
19


từ nhanh và lâu hơn, đồng thời cũng rèn luyện kỹ năng viết và sử dụng từ cho
các em.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh học từ, nhớ từ và vận dụng từ tôi luôn
theo dõi thái độ và kết quả của học sinh để có sự điều chỉnh bổ sung cho việc
nâng cao giờ dạy từ vựng. Tôi thường đưa bài tập luyện từ từ dễ đến khó để
nâng cao dần trình độ và kỹ năng sử dụng từ cho các em(đặc biệt là đối tượng
khá, giỏi). Các dạng bài tập tôi thường cho các em làm như sau:
- Gap fill: học sinh điền từ vào chỗ trống để hoàn thiện một câu hoặc một
đoạn văn.
- Choose the best answer: Học sinh chọn đáp án đúng nhất trong các đáp
án gợi ý.
- Put words in the right order: Học sinh sắp xếp các từ xáo trộn thành câu
hoàn chỉnh.
- Listen and choose the best answer: Học sinh lắng nghe một đoạn bang
và chọn đáp án đúng nhât.
Với những bài tập này, một số học sinh khá, giỏi đã thể hiện năng lực, trí tuệ
của mình và các em làm việc rất tích cực, chủ động. Còn những em khác có
thể học hỏi ở bạn khi làm nhóm hoặc thực hiện bài tập nhiều lần để quen với

những dạng bài tập này. Đây phần lớn là những dạng bài được dùng trong đề
thi học kỳ nên khi được làm một cách thường xuyên, các em đều quen dần và
không có sự bỡ ngỡ khi làm bài thi học kỳ.
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Mục đích của việc áp dụng những phương pháp dạy từ vựng này là để
giúp học sinh học từ vựng một cách nhanh chóng và ghi nhớ dài lâu, nâng cao
chất lượng việc học từ vựng cho học sinh. Việc giới thiệu từ vựng tuy chiếm
lượng thời gian không nhiều song chúng có vai trò hết sức quan trọng, tạo tiền
để cho học sinh nắm vững và sử dụng ngôn ngữ sau này. Người giáo viên với
vai trò của người hướng dẫn phải sử dụng những kỹ năng sao cho phù hợp
trong quá trình giới thiệu từ vựng để đạt được mục đích mà bài học đề ra.
20


Trong quá trình soạn bài, nhiệm vụ của người giáo viên phải lựa chọn kỹ
năng, kỹ thuật thích hợp, chuẩn bị kỹ càng cho các lời dẫn gợi mở, các vật
dụng cần thiết liên quan đến việc giới thiệu từ và chọn cách kiểm tra từ sao
cho phù hợp gây hứng thú cho học sinh.
Qua việc áp dụng các phương pháp dạy từ mới trong quá trình giảng dạy
Tiếng Anh của trường TH Mò Ó năm học này, tôi nhận thấy có sự chuyển
biến rõ rệt về thái độ học tập cũng như chất lượng của học sinh trong các tiết
học Tiếng Anh. Sự thay đổi đó được thể hiện cụ thể như sau:
Học Tiếng Anh và ghi nhớ một số lượng từ vựng Tiếng Anh đối với các
em ở bậc Tiểu học là một điều khó. Vậy làm sao để các em dễ hiểu, dễ nhớ,
hứng thú trong quá trình học? Qua bài SKKN này, tôi muốn giới thiệu và đưa
ra những phương pháp giúp học sinh ghi nhớ nhanh các từ vựng một cách dài
lâu và hiệu quả. Sau khi sử dụng các phương pháp tôi nhận thấy:
- Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
- Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học.
- Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.

- Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn
giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp
hơn.

-Học sinh có tự tin hơn khi trình bày quan điểm trước lớp.
-Thích nói Tiếng Anh khi chào hỏi, yêu cầu, nhờ bạn một việc gì đó và
xin phép
-Phản ứng nhanh hơn trước, nhớ từ nhiều.
-Hát thành thạo các bài Tiếng Anh trong chương trình.
-Số lượng tham gia xây dựng bài ngày càng tăng từ 60% - lên 85%.
-70% học sinh hiểu bài ngay tại lớp và khả năng thực hành tốt các yêu
cầu của giáo viên
21


-Học sinh hăng hái, hứng thú, sôi nổi hơn trong học tập, bài chuẩn bị ở nhà
chu đáo hơn.
Thông qua quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài “Dạy Từ vựng Tiếng Anh
tiểu học” tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau:
-Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên phải có tâm huyết với
nghề, có trách nhiệm với tiết dạy của mình, quan tâm đến các đối tượng học
sinh và chất lượng giảng dạy thì mới chọn được phương pháp linh hoạt theo
hướng đổi mới phù hợp với học sinh của mình.
-Ngoài ra giáo viên còn có thể khai thác các trang Web hỗ trợ việc học
và dạy môn Tiếng Anh trên trang mạng xã hội. Nguồn tài nguyên công nghệ
thông tin đang ngày một phong phú và rộng khắp, dễ khai thác và khai thác
rất nhanh. Giáo viên muốn dạy tốt môn Tiếng Anh thì cần tận dụng tối đa
nguồn tài nguyên này. Từ thông tin từ vựng, từ hình ảnh sống động đến các
phương pháp giảng dạy có rất nhiều trên Internet, giáo viên có thể vào trang
Web “www.tieuhoc.info” là trang Web có nhiều phương pháp dạy từ vựng

Tiếng Anh mới và các phương pháp, tài liệu dạy Tiếng Anh Tiểu học rất
phong phú đa dạng. Giáo viên trong giờ dạy có thể sự dụng nguồn tư liệu này
một cách dễ dàng làm cho bài dạy sinh động lôi cuốn học sinh hơn.
“www.thuvienviolet.com” là diễn đàn dành riêng cho giáo viên ở tất cả các
lĩnh vực không riêng gì môn Tiếng Anh.
-Và rất nhiều trang Web khác mà giáo viên có thể chia sẽ cùng nhau.
Bên cạnh đó có rất nhiều đĩa dạy học Tiếng Anh bằng hình ảnh do người bản
địa kết hợp với người Việt dạy rất phong phú và phù hợp với lứa tuổi Tiểu
học. Bộ đĩa học Tiếng Anh bằng hình ảnh: Fun with English, Go’s go, ABC
English for children. Các bộ phim hoạt hình, các trò chơi hoạt hình bằng
Tiếng Anh…Các loại băng đĩa này khi áp dụng vào việc giảng dạy trẻ học
Tiếng Anh rất bổ ích. Sử dụng nguồn tài nguyên công nghệ thông tin này
không những giúp trẻ học tốt môn Tiếng Anh mà còn giúp trẻ tiếp cận sớm
với công nghệ thông tin. Trẻ sẽ sớm biết cách khai thác nguồn thông tin vô
22


hạn này, khi tiếp cận thông tin không những giáo viên thích thú trong giảng
dạy mà học trò cũng say sưa với việc học. Nhưng cái gì cũng có hai mặt của
nó, hình thức học này rất lôi cuốn trẻ nên giáo viên và các bậc phụ huynh phải
biết cách hướng dẫn và kèm cặp trẻ trong quá trình tiếp cận.
-Cần chuẩn bị kế hoạch bài học chu đáo, chi tiết, tỉ mĩ. Tăng cường sử
dụng đồ dùng dạy học sẵn có hoặc tự làm phong phú, thiết thực, có hiệu quả.
-Sử dụng các phương pháp dạy từ vựng lôi cuốn, tổ chức nhiều trò chơi
hay dạy cho các em những bài hát vui nhộn để tăng cường vốn từ
vựng và rèn luyện cấu trúc câu tạo cho học sinh ham thích môn học. Hệ
thống cho học sinh đầy đủ kiến thức trọng tâm đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng.
-Khuyến khích học sinh đổi sang Tiếng Anh những điều các em nói bằng
Tiếng Việt đồng thời sử dụng Tiếng Anh thường xuyên hơn ở lớp, hay nhóm
bạn học tập ở nhà.

-Khen thưởng tuyên dương những em có năng khiếu, có tiến bộ và có
tham gia phát biểu. Ngoài ra, cần thường xuyên giúp đỡ động viên các em
còn yếu kém và kịp thời sửa lỗi ngoại ngữ của các em một cách nhẹ nhàng,
để các em không bị mặc cảm, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói hoặc lười
học.
-Tạo giờ học thoải mái, sinh động, hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa thầy và
trò phát huy tốt tính tích cực tư duy của học sinh. Giáo viên nên dùng những
thuật ngữ đơn giản, dễ hiểu trong khi giảng bài.
-Cập nhập thông tin liên quan đến phương pháp giảng dạy Tiếng Anh
trong trường Tiểu học.
-Bản thân giáo viên luôn luôn tự học tự rèn, liên hệ trao đổi với đồng
nghiệp những kinh nghiệm trong giảng dạy.
-Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học, các trang thiết bị trong phòng
Tiếng Anh.
-Thực tế cho thấy, phương pháp giáo dục Tiếng Anh theo khuynh hướng
giao tiếp rất khó áp dụng cho một lớp học có sĩ số đông hoặc cho các em học
23


sinh người dân tộc. Ngoài việc phải vận dụng có nghệ thuật phương pháp
giáo dục như đã nêu trên, một tiết học muốn thành công còn phải phụ thuộc
rất nhiều yếu tố bên ngoài, trong đó cơ sở vật chất, thiết bị và trình độ học
sinh là những yếu tố cơ bản. Muốn vậy, trước hết giáo viên phải nắm được
mục tiêu của tiết học, nội dung tiết học, phương pháp kiểm tra đánh giá của
tiết học. Ngoài ra, giáo viên phải hiểu được đặc điểm của học sinh xem họ
còn thiếu những gì để đạt được mục tiêu của tiết học. Và để việc giảng dạy
Tiếng Anh có hiệu quả hơn, ngoài việc đổi mới chương trình, phương pháp
thì việc cần phải làm ngay là phân loại trình độ Tiếng Anh đầu vào của học
sinh, chia nhỏ lớp theo trình độ, giới hạn sĩ số lớp và phân bổ thời gian dạy
hợp lý.

Sau khi tôi áp dụng những phương pháp dạy từ vựng một cách linh hoạt
trong các tiết học, thật bất ngờ, các em tỏ ra rất háo hức khi được học từ
vựng, các em cởi mở hơn, không còn rụt rè nữa và cũng tham gia bài học tích
cực hơn, trong thời gian gần đây học sinh có nhiều tiến bộ ở môn Tiếng Anh.
Tuy kết quả chưa thật cao nhưng những tiến bộ bước đầu giúp tôi hưng phấn
hơn trong công tác. Một điều thật thú vị là sau giờ học, đôi lúc tôi bắt gặp các
em chỉ tay vào một vài vật dụng hoặc sự vật gì trên đường và gọi tên chúng
bằng những từ vựng Tiếng Anh mà các em đã được học một cách rất vui vẻ
và tự nhiên. Qua đó, tôi nhận thấy vốn từ vựng đã đi sâu vào các em một cách
khác nhẹ nhàng và tạo niềm vui hứng khởi cho các em.
Theo tôi, những phương pháp mà tôi đã áp dụng đã đem lại một hiệu quả
nhất định, giúp học sinh tăng vốn từ cũng những khả năng nhớ lâu lượng từ
đó một cách dễ dàng.
Việc áp dụng các kĩ năng trên trong giờ giảng nhằm nâng cao kết quả
học tập của học sinh, chất lượng bộ môn đã được nâng cao.
Năm học 2015-2016: Lớp 5A đạt
Lớp 4A đạt
24


Lớp 4B đạt
Lớp 3A đạt
Lớp 3B đạt
Lớp 3C đạt

PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Là một giáo viên Tiếng Anh Tiểu học tôi luôn trăn trở làm thể nào để
dạy cho học sinh hiểu và nắm chắc kiến thức mà các em không cảm thấy áp
lực. Chính vì vậy tôi thiết nghĩ việc trau dồi phương pháp không phải là của

riêng ai mà là vấn đề chung cho mọi giáo viên. Cùng một vấn đề song người
thầy phải làm thế nào để nó đơn giản nhất, dễ hiểu nhất, gây hứng thú nhất
khi truyền đạt cho các em, giúp các em hiểu và khắc sâu kiến thức. Trong các
phương pháp dạy học hay của các bạn đồng nghiệp mà tôi đã học hỏi và qua
thực tiễn dạy học tôi muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình trong phương
pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở học sinh Tiểu học .
Tuy nhiên một phương pháp giáo dục cố định không thể là chìa khoá
chung cho mọi giáo viên mà phải tuỳ thuộc từng hoàn cảnh lớp học, đối tượng
học, nội dung học để mỗi giáo viên cần điều chỉnh các hoạt động giảng dạy
hợp lý như nhà bác học Newton đã từng nói “Những điều ta biết chỉ là giọt
nước, những điều chưa biết đó là đại dương. Trên con đường chiếm lĩnh tri
thức thì không có đâu là bến bờ. Và trên con đường chiếm lĩnh đỉnh cao của
tri thức thì mỗi người lại có những phương pháp khác nhau”. Chúng ta không
thể có một phương pháp cụ thể cứng nhắc áp dụng cho tất cả các đối tượng
mà phải phụ thuộc vào trình độ nhận thức, năng khiếu, sở thích, niềm say mê
với môn học mà người dạy và người học chọn cho mình phương pháp riêng
để học tập và giảng dạy. Vì vậy bên cạnh những điều đã làm được thì tôi nhận
thấy đề tài của mình vẫn còn nhiều điểm thiếu sót và cứng nhắc cần phải được
25


×