Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 170 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THÚY LIỄU

PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƢƠNG MẠI
CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

: 62 38 01 07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Hoàng Thế Liên

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THÚY LIỄU

PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƢƠNG MẠI
CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số

: 62 38 01 07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Hoàng Thế Liên

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Phạm Thị Thúy Liễu, nghiên cứu sinh khóa (2013 -2016) tại Học
viện Khoa học xã hội, xin cam đoan luận án “Pháp luật về tên thương mại của
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của cá nhân tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận án là do tác giả thực hiện. Các tài
liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân khác được tham khảo, sử
dụng, trích dẫn trong luận án đều đã được ghi rõ nguồn gốc một cách trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã cam đoan ở trên.
Tác giả luận án

Phạm Thị Thúy Liễu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ Luật Dân sự


CP

: Cổ phần

DN

: Doanh nghiệp

GCNNHHH

: Giấy chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa

SHTT

: Sở hữu trí tuệ

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TRIPS

: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ

TPP

: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương


WIPO

: Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ THUYẾT ................................................................................................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 8
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu ...................................................................... 20
CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÊN THƢƠNG MẠI
CỦA DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƢƠNG MẠI
CỦA DOANH NGHIỆP ............................................................................... 25
2.1. Những vấn đề lý luận về tên thương mại của doanh nghiệp........................ 25
2.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp .............................................................................................................. 40
2.3. Tìm hiểu kinh nghiệm pháp luật về tên thương mại ở các nước trên thế giới
và bài học cho Việt Nam .................................................................................... .57
CHƢƠNG 3.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÊN THƢƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM..................................................................................................... 66
3.1. Thực trạng pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp .................... .66
3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hộ tên thương mại của doanh nghiệp
ở Việt Nam ...................................................................................................... 91
3.3. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật

về tên thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam ....................................... .117
CHƢƠNG 4. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TÊN THƢƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP ..................... 125
4.1. Yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp……………………………………………………………………......125
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp ....... 136
KẾT LUẬN .................................................................................................. 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tên thương mại của doanh nghiệp là một trong những yếu tố đầu tiên tạo
lên sự thành công của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tên thương mại ít
được quan tâm không được xem là tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Ngày
nay, trong nền kinh tế thị trường, tên thương mại đã thực sự trở thành một tài sản
quan trọng của doanh nghiệp. Sự thành đạt của mỗi doanh nghiệp thường gắn liền
với giá trị tên thương mại mà doanh nghiệp đó đã tạo ra. Để có được một tên
thương mại có tên tuổi, doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều nguồn lực tài chính,
thời gian để tạo dựng bởi lẽ không doanh nghiệp nào có tên thương mại có giá trị
ngay từ khi khởi nghiệp mà nó đòi hỏi một quá trình lâu dài thông qua việc cung
cấp ra thị trường những sản phẩm ngày càng tốt hơn, giá cả hợp lý, thể hiện rõ
tính văn minh thương mại, sự chăm sóc khách hàng... Nhận thức rõ vấn đề đó, hầu
hết doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh
tốt rất quan tâm đến việc bảo hộ tên thương mại của doanh nghiệp mình.
Có thể nói, các quy định của pháp luật liên quan đến tên thương mại của
doanh nghiệp đã được xây dựng và đang từng bước được hoàn thiện, các hoạt
động bảo vệ quyền đối với tên thương cũng nỗ lực triển khai trên diện rộng.
Không phải là hàng hoá nhưng tên thương mại lại có ý nghĩa rất lớn trong hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp, nó là một trong những đối tượng cơ bản của
quyền Sở hữu trí tuệ (SHTT), vì vậy, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới
và pháp luật Việt Nam hiện nay rất coi trọng việc bảo hộ tên thương mại.
Tên thương mại đã được nhắc đến, được quy định trong các văn bản pháp
luật như: Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005; Luật Doanh nghiệp năm 2005 và
2014, Luật Thương mại năm 1997 và 2005; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa
đổi, bổ sung năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, hệ thống
pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp được xây dựng tương đối hoàn
chỉnh, đáp ứng chuẩn mực quốc tế như: Các cam kết tham gia Tổ chức thương
1


mại thế giới (WTO); Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)
của Việt Nam, các điều ước quốc tế đang có hiệu lực tại Việt Nam. Các thành
tựu đạt được là đáng trân trọng, nó là kết quả của hoạt động lập pháp, thực thi
pháp luật và chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, xét về tính hiệu quả, hệ thống pháp luật về tên thương mại của
doanh nghiệp ở Việt Nam đang đứng trước những thách thức và đòi hỏi lớn, cần
được tiếp tục hoàn thiện. Việc đổi mới tổ chức, cơ chế và phương thức bảo hộ
đối với những tài sản vô hình của doanh nghiệp như tên thương mại, nhãn
hiệu… cần được giải quyết trên cơ sở phân tích một cách khách quan thực trạng
pháp luật hiện có, đánh giá các ưu điểm, nhược điểm và chỉ ra những nguyên
nhân tồn tại cần khắc phục, đồng thời kết hợp với học tập kinh nghiệm quốc tế
để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao và hoàn thiện pháp luật về tên thương
mại nói riêng và hệ thống pháp luật liên quan nói chung.
Chính vì những lý do trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề “Pháp luật
về tên thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án.
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đặt ra và phân tích
quy định pháp luật Việt Nam về tên thương mại của doanh nghiệp, trong đó có
sự so sánh với các quy định pháp luật của các nước và các công ước quốc tế.

Phân tích pháp luật về tên thương mại, thực trạng thực hiện pháp luật về tên
thương mại của doanh nghiệp hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện
các quy định của pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là: nhận diện đầy đủ bản chất của pháp
luật về tên thương mại của doanh nghiệp, đưa ra được khái niệm về tên thương
mại của doanh nghiệp và pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp; đánh
giá khách quan thực trạng quy định của pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp; tiến tới hạn chế và chấm dứt hành vi xâm phạm đối với tên thương mại

2


và nâng cao hiệu quả bảo vệ đối với tên thương mại của doanh nghiệp để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của nhà nước và người tiêu dùng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, để làm rõ cơ sở lý luận pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp, luận án cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tên thương mại của doanh nghiệp nhằm làm
rõ sự phát triển có kế thừa của khoa học pháp lý.
- Phân biệt tên thương mại của doanh nghiệp với một số đối tượng tương
tự với tên thương mại, từ đó chỉ ra sự khác biệt cơ bản và tầm quan trọng của tên
thương mại.
- Nghiên cứu nội dung pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp, các
điều kiện xác lập, bảo hộ tên thương mại của doanh nghiệp.
Thứ hai, để đánh giá đúng thực trạng pháp luật về tên thương mại của
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn áp dụng cần tập trung vào những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng pháp luật thông qua việc phân tích

các quy định của pháp luật hiện hành về tên thương mại của doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thông qua việc phân tích thực
tiễn xác lập, bảo vệ, thực thi quyền SHTT đối với tên thương mại của doanh
nghiệp.
Thứ ba, từ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tên
thương mại của doanh nghiệp, luận án đưa ra những đề xuất phương hướng, giải
pháp hoàn thiện pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Chỉ ra những yêu cầu, định hướng quan trọng để hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực thi phù hợp với tình hình trong nước và thế giới.
- Đề xuất một số giải pháp phù hợp để hoàn thiện pháp luật về tên thương
mại của doanh nghiệp hiện nay.

3


3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận án
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của
pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Tên thương mại được nghiên cứu trong luận án là vấn đề thuộc phạm trù
của sở hữu trí tuệ đã được công ước quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam quy
định. Vì vậy, luận án nghiên các quy định của điều ước quốc tế cũng như của
pháp luật về bảo hộ tên thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là việc bảo hộ tên thương mại của
doanh nghiệp bằng pháp luật. Do đó:
Về mặt lý luận, luận án không những sẽ làm rõ, làm phong phú, sâu sắc hơn
khái niệm tên thương mại với những đặc điểm riêng có, so sánh khái niệm tên
thương mại với các khái niệm có mối quan hệ khăng khít với tên thương mại mà
còn phân tích nhằm góp phần xác định rõ những nội dung của pháp luật về bảo

hộ tên thương mại của doanh nghiệp.
Về mặt thực tiễn, luận án tập trung phân tích, đánh giá pháp luật của Việt
Nam về tên thương mại của doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả việc đánh giá
thực trạng pháp luật và thực trạng thực thi pháp luật nhằm góp phần làm rõ
những thành tựu, những hạn chế của pháp luật trong quy định cũng như trong
thực tiễn thi hành để từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Từ mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả tiếp cận đối tượng nghiên
cứu bằng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
4.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thị trường trong thời kì này
để nghiên cứu.
4


Việc phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến tên thương mại của
doanh nghiệp là một nghiên cứu mới, khá phức tạp, vừa mang tính pháp lý, vừa
mang tính kinh tế, hơn nữa, việc thu thập thông tin gặp nhiều khó khăn, do vậy
việc phân tích số liệu thực tế chủ yếu dựa trên các tài liệu cụ thể được thu thập ở
trong và ngoài nước về lĩnh vực này. Chính vì vậy luận án sử dụng phương pháp
tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành khoa học xã hội nhân văn như lịch sử,
kinh tế, luật học nhằm làm rõ bản chất kinh tế, xã hội và pháp lý về pháp luật của
tên thương mại của doanh nghiệp, đánh giá mức độ phù hợp, nhất là tính khả thi
của các quy định này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, hệ thống hóa, phân tích nhằm làm rõ
cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của pháp luật về tên thương mại của
doanh nghiệp ở Việt Nam, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa học trong và

ngoài nước về những vấn đề liên quan đến luận án, các số liệu tổng hợp và sự
kiện thực tế, phương pháp này được sử dụng trong luận án nhưng trọng tâm là

chương 1, chương 2, chương 3.
- Phương pháp so sánh luật học: được sử dụng xuyên suốt luận án nhằm đối
chiếu quy định pháp luật qua các thời kỳ, với pháp luật các quốc gia để tìm ra
những điểm hợp lý trong các quy định pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp, học hỏi kinh nghiệm xây dựng pháp luật để hoàn hiện pháp luật về tên
thương mại.

- Phương pháp phân tích – dự báo, phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê… được sử dụng trong chương 4 để dự báo xu hướng phát triển của
kinh tế xã hội, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tên thương
mại của doanh nghiệp.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Là công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc của nghiên cứu sinh, luận
án có những đóng góp mới, cụ thể như sau:

5


Thứ nhất, Luận án là công trình nghiên cứu có tính hệ thống pháp luật về
tên thương mại của doanh nghiệp, lĩnh vực đặc thù của sở hữu trí tuệ, có tác động
trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trên thị trường và thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Các kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ
sung và phát triển những vấn đề lý luận pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp ở Việt Nam, làm rõ cơ sở khoa học nhằm ghi nhận và bảo hộ tên thương
mại của doanh nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Thứ 2, Luận án đã đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp
luật về tên thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những hạn

chế mà pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp cần phải khắc phục và
hoàn thiện trong thời gian tới.

Thứ 3, Luận án xác định về các định hướng và đưa ra nhiều giải pháp
vừa tổng thể, vừa có tính chất cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về tên thương mại của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định này trong thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận về tên thương mại của doanh nghiệp và đánh giá tính hiệu quả quy định của
pháp luật. Luận án khẳng định vai trò của tên thương mại đối với sự phát triển
của doanh nghiệp, luận án cũng chỉ ra các nhân tố tác động đến việc bảo hộ tên
thương mại của doanh nghiệp, qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực
trạng pháp luật về tên thương mại, chỉ ra nguyên nhân của một số hạn chế còn
gặp phải trong thực tiễn.
- Về thực tiễn: Luận án đưa ra những yêu cầu cần thiết, những định hướng
cơ bản để xây dựng và bảo hộ quyền SHTT đối với tên thương mại của doanh
nghiệp, tiếp đến luận án đưa ra ba nhóm giải pháp quan trọng hàng đầu để bảo vệ
quyền SHTT đối với tên thương mại của doanh nghiệp.

6


Ngoài ra, luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy khoa học pháp lý, phục vụ cho việc hoạch định chính sách về bảo hộ
tên thương mại của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết.

Chương 2. Những vấn đề lý luận về tên thương mại và pháp luật về tên
thương mại của doanh nghiệp.
Chương 3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tên
thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương 4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tên thương mại
của doanh nghiệp.

7


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Theo sát yêu cầu nghiên cứu của luận án, tác giả đã tiến hành tổng quan
các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan nhằm phát hiện những điểm
mà luận án có thể kế thừa và xác định những điểm luận án cần đi sâu nghiên cứu. Với
tinh thần trên, tác giả tập trung tổng quan những vấn đề chính sau đây.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nghiên cứu về khái niệm tên thương mại và pháp luật về tên thương mại
của doanh nghiệp.
Tên thương mại và pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp được
quan tâm nghiên cứu khá nhiều nhưng đa phần được thể hiện dưới dạng bài tham
luận hội thảo khoa học hoặc ý kiến tranh luận trong quá trình xây dựng các văn
kiện quốc tế về quyền SHTT. Đồng thời cũng có một số sách chuyên khảo
nghiên cứu dưới góc độ pháp luật, đáng kể là các công trình sau:
Nghiên cứu về tên thương mại và chỉ ra vai trò của tên thương mại phải kể
đến các tác giả: Ian McClure, John R Olesen, John Turner 123, 127, 143, kết
quả nghiên cứu cho thấy tên thương mại được ghi nhận và thực thi ở trên 200
khu vực địa lý trên toàn thế giới và mang lại những lợi thế kinh doanh cho doanh

nghiệp. Tác giả ALRies & Laura Ries 1 trong công trình nghiên cứu của mình
đã chỉ ra cách thức xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu của doanh
nghiệp, đặc biệt tác giả tập trung nghiên cứu cách thức để duy trì sự phát triển,
cạnh tranh của nhãn hiệu và thương hiệu trên thị trường, chỉ ra cho các doanh
nghiệp thấy được vai trò quan trong trọng việc xây dựng, bảo vệ thương hiệu của
mình. Nghiên cứu này cũng cho thấy đa số thành công của các doanh nghiệp trên
thế giới đều bắt đầu từ việc xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu của mình, các nhãn
hiệu nổi tiếng lại bắt nguồn từ việc sử dụng tên thương mại của doanh nghiệp và
8


ngày nay trở thành những thương hiệu nổi tiếng trên thế giới: “trong tiến trình
xây dựng nhãn hiệu, không gì gây lẫn lộn cho bằng sử dụng trọn vẹn một tên
công ty”. Các tên nhãn hiệu hầu như luôn chiếm ưu thế so với các tên công ty,
người tiêu dùng mua các nhãn hiệu, họ không mua công ty, do đó khi một tên
công ty được dùng làm tên nhãn hiệu (GE, Coca – cola, IBM) khách hàng xem
những tên này như là nhãn hiệu 116, tr.114.
Thông cáo báo chí năm 2013 của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) đã đưa
ra chủ đề “khám phá vai trò của thương hiệu trong nền kinh tế toàn cầu và sự
đổi mới trong hệ sinh thái”. Báo cáo chỉ ra rằng “các công ty trên toàn thế giới
đã bỏ ra gần nửa nghìn tỷ USD mỗi năm để chi cho hoạt động xây dựng thương
hiệu” 145. Francis Curry, Tổng giám đốc WIPO cho biết “một thương hiệu là
hiện thân danh tiếng và là hình ảnh của doanh nghiệp. Do đó, nó là một trong
những tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp, khi thị trường đã trở nên phân tán
và ảo hơn thì bảo vệ các thương hiệu danh tiếng càng trở lên quan trọng” 145.
Báo cáo cũng kết luận rằng: bằng chứng cho thấy rằng xây dựng thương
hiệu là một trong những cơ chế quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp để bảo
đảm cho việc tồn tại và phát triển.
Ở các nước khác trên thế giới, việc xác lập quyền đối với tên thương mại
được hình thành trên những cơ sở pháp lý khác nhau như: Sử dụng tên thương

mại (đa số các nước); Đăng ký bắt buộc (ở một số nước xã hội chủ nghĩa cũ, khu
vực Trung Mỹ…); Sử dụng hoặc đăng ký tên thương mại, trong đó hình thức
đăng ký được khuyến khích (ở một số nước như Thụy Điển, Srilanca, Tây Ban
Nha 22.
Theo công ước Paris 112:“tên thương mại được bảo hộ trong tất cả
các nước thành viên mà không bắt buộc phải đăng ký, tên thương mại có thể
hoặc không là một bộ phận cấu thành nhãn hiệu hàng hóa”. Vậy tên thương
mại và tên doanh nghiệp có trùng nhau không? Nghiên cứu vấn đề này cần
tham khảo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, đa số các quốc gia trên thế

9


giới quy định tên thương mại là tên doanh nghiệp và được sử dụng làm nhãn hiệu
thương mại tạo thành thương hiệu của doanh nghiệp. Ví dụ: Pháp luật Hoa Kỳ quy
định: quyền đối với tên thương mại được xác lập bằng cách ưu tiên thông qua,
doanh nghiệp đầu tiên nộp đơn xin bảo hộ tên thương mại với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền một cách tích hợp sẽ có quyền đối với tên thương mại đó [125].
Quy định của Công ước Paris: “tên thương mại được bảo hộ có thể hoặc không là
một phần của một nhãn hiệu hàng hoá” [112].
Theo quy định tại điều 41, Hiệp định TRIPS chúng ta thấy rõ hơn yêu cầu
quốc tế đặt ra là “Các thành viên phải bảo đảm rằng các thủ tục thực thi quyền
nêu tại Phần này phải được quy định trong luật quốc gia của mình để tạo khả
năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền sở
hữu trí tuệ được đề cập trong Hiệp định này, trong đó có những biện pháp chế
tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và những biện pháp chế tài
nhằm ngăn chặn không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Các thủ tục đó phải
được áp dụng theo cách thức nhằm tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động
thương mại hợp pháp và nhằm quy định các biện pháp bảo đảm cho các thủ tục
đó không bị lạm dụng” 115.

Các công trình nghiên cứu liên quan đến tên thương mại nêu trên đã
nghiên cứu quy định của pháp luật SHTT các quốc gia trên thế giới và đưa ra các
cách thức giúp doanh nghiệp bảo vệ quyền SHTT đó, đây là các tài liệu rất hữu
ích mà chúng ta có thể tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật SHTT ở
Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu về thực trạng thực hiện pháp luật và bảo vệ tên thương của
doanh nghiệp.
Không chỉ có các công trình nghiên cứu lý luận về tên thương mại mà
thực trạng thực hiện pháp luật tại các quốc gia cũng có nhiều tranh chấp đã được
giải quyết để làm cơ sở tham khảo cho quá trình nghiên cứu đề tài.

10


Một số vụ tranh chấp điển hình liên quan đến việc xác định tên thương
mại, nhãn hiệu của Tòa án EU như: Vụ án 9ECJ liên quan đến: “BABY DRY
and DRY BABY” trong vụ việc C-383/99P – Procter&Gamble v OHIM;
Hoặc án T-473/11 liên quan đến tuổi thọ sản phẩm sức khỏe v OHMI –
WELEDA cho nhãn hiệu (MENOCHRON);
Hoặc bản án C-420/13 liên quán đến Netto Marken giảm giá bao gồm các
lĩnh vực: “ Phạm vi - Khái niệm về dịch vụ - thương mại bán lẻ dịch vụ - Mức
độ yêu cầu rõ ràng và chính xác liên quan đến việc xác định các dịch vụ mà
thương mại bảo hộ nhãn hiệu là tìm - Sử dụng các tiêu đề lớp của Bảng phân loại
Nice cho các mục đích về việc đăng ký nhãn hiệu thương mại - Khả năng sau đó
làm thay thế, bổ sung hợp báo cáo ban đầu chỉ bao gồm các chỉ dẫn hoặc các lớp
học chung - Mức độ bảo vệ thương hiệu” [146];
Bản án T-199/13 liên quan DTM RICAMBI v OHMI - STAR (STAR)
“Một hành động bãi bỏ mang của người nộp đơn cho các nhãn hiệu tượng trưng
chứa từ yếu tố 'STAR' đối với hàng hóa lớp 7, 9 và 12 chống lại quyết định R
124/2012-1 của Hội đồng quản trị đầu tiên của phúc thẩm của Văn phòng Hài

hòa hóa thị trường nội (OHIM) của ngày 24 tháng 1 năm 2013, bác bỏ kháng cáo
chống lại quyết định của Bộ phận của phe đối lập từ chối đăng ký nhãn hiệu.
Hay tranh chấp liên quan đến tên thương mại của các doanh nghiệp nổi
tiếng với sản phẩm được tiêu dùng trên toàn thế giới như: Ngày 10 tháng 7 năm
2014, Tòa án Công lý của Liên minh châu Âu (CJEU) đã ra phán quyết trong vụ
tranh chấp giữa Apple Inc v Deutches - und Markenamp (Patent Đức và Mark
Văn phòng Thương mại) (C-421/13) Apple áp dụng cho một nhãn hiệu thương
mại Hoa Kỳ về thiết kế cửa hàng bán lẻ của mình trong năm 2010 [146]. Các
nhãn hiệu thương mại của Mỹ đã được đăng ký cho "dịch vụ cửa hàng bán lẻ có
tính năng máy tính, phần mềm máy tính, thiết bị ngoại vi máy tính, điện thoại di
động, thiết bị điện tử tiêu dùng và các phụ kiện và các cuộc biểu tình của các sản
phẩm liên quan quyền có liên quan" . Các nhãn hiệu thương mại đã được cấp vào
tháng 1 năm 2013 và Apple sau đó tìm cách mở rộng các thương hiệu quốc tế
11


theo Thoả ước Madrid. Ngày 24 tháng 1 năm 2013, Văn phòng Marks thương
mại của Đức từ chối gia hạn nhãn hiệu thương mại quốc tế trên. Apple kháng
cáo lên Tòa án Bằng sáng chế Liên bang của Đức, trong đó cho rằng thiết kế của
cửa hàng là khác biệt từ cách bố trí thông thường của các cửa hàng bán lẻ trong
lĩnh vực điện tử nên có thể được đăng ký là nhãn hiệu thương mại trong Liên
minh châu Âu.
Sau khi nghiên cứu CJEU cũng cho rằng Apple có thể áp dụng để đăng ký
cửa hàng bố trí không chỉ đối với hàng hóa chính mình, mà còn cho các dịch vụ,
miễn là các dịch vụ này không tạo thành một phần không thể thiếu của việc chào
bán các mặt hàng.
Qua cách giải quyết từ các bản án cho thấy Tòa án EU đã tập trung vào
các quy định của pháp luật mà các bên đã tham gia để giải quyết sao cho phù
hợp nhất nhằm bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp.
Từ các tài liệu đã tìm hiểu được cho thấy, hiện nay việc bảo hộ tên thương

mại, nhãn hiệu, thương hiệu của các quốc gia trên thế giới đã được quy định cụ
thể nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để
nghiên cứu một cách hệ thống về pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp
một cách toàn diện thì vẫn cần có các công trình nghiên cứu ở mức độ chuyên
sâu hơn.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về khái niệm tên thương mại và pháp luật về tên thương mại
của doanh nghiệp.
Tên thương mại là sản phẩm trí tuệ và tài sản vô hình của doanh nghiệp,
bởi vậy, việc bảo hộ tên thương mại có ý nghĩa rất lớn. Bảo hộ tên thương mại
tạo nên một công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp quảng bá và lưu thông hàng
hoá một cách có hiệu quả trên thị trường cũng như bảo vệ và phát triển thị phần
của mình, bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế [22]. Việc bảo hộ tên thương mại đầy đủ và có hiệu quả là cơ sở
để chúng ta tham gia vào các sân chơi lớn, các thị trường song phương, khu vực
12


và toàn cầu, thu hút đầu tư và công nghệ nước ngoài, từ đó tạo ra những bước
khởi sắc mới cho nền kinh tế. Bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ tên
thương mại nói riêng đã trở thành một cam kết quan trọng mà Việt Nam phải
thực hiện trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Pháp luật về SHTT đối với tên thương mại còn được tiếp cận trong bối
cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế, thương mại diễn ra ngày càng sôi
động. Bảo hộ quốc tế quyền SHTT đối với tên thương mại là một hoạt động có
tính tất yếu, khách quan, không ngừng được phát triển, các đối tượng được bảo
hộ bằng các thiết chế quốc tế và không ngừng chi tiết hoá nội dung bảo hộ 45,
83, 84. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, để có thể
cạnh tranh với các đối thủ của mình trong khu vực và trên thế giới, các doanh
nghiệp nước ta cần phải nhận thức đầy đủ và trang bị cho mình hiểu biết cần

thiết về tài sản trí tuệ để xây dựng chiến lược phát triển phù hợp cho doanh
nghiệp. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp có được những lợi thế cạnh tranh như
mong muốn trên thị trường trong và ngoài nước, có nhiều lợi ích mang lại sau
khi doanh nghiệp đã xây dựng cho mình được một chiến lược phát triển tên
thương mại phù hợp.
Qua các công trình nêu trên, chúng ta có thể thấy các vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật về tên thương mại đã được các tác giả nghiên cứu và giải đáp
một cách có hệ thống, có giá trị khoa học và thực tiễn. Nếu như trước đây, hầu
hết các doanh nghiệp tập trung vào đầu tư cho các tài sản hữu hình và xem đó
như yếu tố tiên quyết trong việc tạo dựng thành công cho doanh nghiệp thì xu
thế hội nhập quốc tế đã đem đến cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh
nhưng cũng không ít thách thức trong cạnh tranh, chính vì vậy, các doanh nghiệp
đã thay đổi nhận thức về yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh trên thương
trường đó là phải coi trọng việc bảo vệ tài sản vô hình của doanh nghiệp từ bí
quyết kỹ thuật đến các ý tưởng, chiến lược kinh doanh, nhãn hiệu, kiểu dáng, tên
thương mại, thương hiệu và các kết quả vô hình khác được tạo ra bởi sự sáng

13


tạo, đổi mới của doanh nghiệp. Trên thực tế, các yếu tố đó đã đem lại giá trị kinh
tế cao gấp nhiều lần cho các doanh nghiệp.
Pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp trong thời gian qua đã nhận
được nhiều sự quan tâm luận giải của các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà nghiên
cứu như: Bùi Huyền, Lê Đình Nghị, Vũ Thị Hải Yến, Lê Thị Nam Giang, Phạm
Vũ Khánh Toàn 3, 22, 52, 133 ở nhiều khía cạnh. Qua nghiên cứu các công
trình khoa học đã nêu ở mức độ khái quát, có thể thấy các vấn đề sau đây đã
được các tác giả nghiên cứu, lý giải như sau:
Xuất phát từ đặc tính phân biệt của tên thương mại có thể tạo ra lợi thế
trong cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng lĩnh vực. Do đó, khi có

uy tín thì tên thương mại có thể giúp cho doanh nghiệp tăng giá trị của hàng hóa
trong khi giá trị vật chất không thay đổi. Tên thương mại muốn được bảo hộ thì
doanh nghiệp phải xem xét hiện trạng pháp lý của các đối tượng đó có thỏa mãn
các tiêu chuẩn bảo hộ theo Luật SHTT không. Cụ thể là, xem tên thương mại
hiện có của doanh nghiệp có đáp ứng được tính phân biệt giữa doanh nghiệp với
các doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực, địa bàn kinh doanh và đã được sử
dụng trên thực tế chưa. Khi thỏa mãn các điều kiện trên thì tên thương mại của
doanh nghiệp sẽ được nhà nước bảo hộ.
Tác giả Lê Tùng 55 trong bài viết đã chỉ rõ thế nào là tên thương mại
của doanh nghiệp - một việc tưởng dễ mà hoá khó. Việc xác định đâu là tên
thương mại để làm cơ sở cho việc huỷ bỏ hiệu lực của một nhãn hiệu đang được
bảo hộ còn là vấn đề còn gặp nhiều khó khăn, do vậy cần thiết phải quy định tên
thương mại và pháp luật bảo vệ tên thương mại của doanh nghiệp. Còn tác giả
Bùi Huyền 21, Nguyễn Thị Quế Anh 67 trong bài viết đã chỉ ra sự cần thiết
phải ghi nhận và bảo vệ tên thương mại của doanh nghiệp. Tên thương mại nổi
tiếng có thể giúp doanh nghiệp đạt được các vị thế dẫn đầu trong ngành nghề,
lĩnh vực mà nó tham gia, người tiêu dùng sẽ bị thu hút mạnh mẽ bởi danh tiếng
của nó. Sự nổi tiếng còn tạo ra sự bền vững về vị thế và phạm vi kinh doanh của

14


doanh nghiệp trên thị trường, tạo ra sự linh hoạt chủ động của chủ sở hữu trong
kinh doanh. Tên thương mại nổi tiếng sẽ làm tăng giá trị về kinh tế của tên
thương mại, tạo cơ hội cho doanh nghiệp hội nhập vào thị trường thế giới.
Trong quá trình soạn thảo sửa đổi, bổ sung Luật SHTT năm 2009 đã có
nhiều ý kiến đề nghị, thậm chí là đấu tranh để đưa việc xác lập và bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp vào Luật SHTT trong đó có tên thương mại, tiêu biểu là các
ý kiến của các tác giả: TS.Dương Tử Giang, TS.Phạm Vũ Khánh Toàn, Công ty
luật Baker & Mc Kenzie 101 thực ra ý kiến của các tác giả nên trên rất phù hợp

với xu hướng chung của thế giới. Rất nhiều quốc gia trong pháp luật của mình đã
ghi nhận, bảo hộ tên thương mại của doanh nghiệp. Do vậy, khi chọn một tên
thương mại mạnh có thể tăng tốc cao trong nhận thức thương hiệu và dù bạn
là ai thì tên thương mại của doanh nghiệp phải phân biệt được với doanh
nghiệp đối thủ.
Quyền đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng mà không
phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục đăng ký nào. Việc đăng ký tên chủ thể kinh doanh
theo quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục đăng ký hoạt
động của doanh nghiệp và của các chủ thể kinh doanh khác chỉ có ý nghĩa ghi
nhận ý định sử dụng tên gọi của chủ thể đó mà không có ý nghĩa xác lập quyền.
Khi cá nhân, tổ chức tiến hành hoạt động kinh doanh thì cần phải có tên gọi, tên
giao dịch và thông thường tên gọi này được xác định trong bản khai đăng ký
kinh doanh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Luật thương mại
Việt Nam quy định “Nội dung đăng ký kinh doanh gồm: Tên thương nhân, tên
người đại diện có thẩm quyền, tên thương mại, biển hiệu, địa chỉ giao dịch
chính thức, ngành nghề kinh doanh, vốn điều lệ hoặc vốn đầu tư ban đầu,
thời hạn hoạt động, chi nhánh, cửa hàng, văn phòng đại diện nếu có”[77].
Ngoài ra, các nghiên cứu lý luận pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp
cũng được các tác giả nghiên cứu một cách công phu, có hệ thống qua các công
trình 21, 22, 44, 66, 67, 99 đây là cơ sở lý luận quan trọng cho việc làm rõ

15


những đặc thù trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp.
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, chúng ta thấy quy định của
pháp luật SHTT về tên thương mại của Việt Nam là tương đối phù hợp với
công ước Paris và pháp luật của nhiều nước trên thế giới.
Nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật và bảo vệ tên thương của

doanh nghiệp.
Đã có khá nhiều nghiên cứu về thực tiễn thực hiện và phương thức bảo vệ
tên thương mại; đặc biệt, trong thời gian gần đây, cùng với việc mở rộng thị
trường và tăng cường cạnh tranh, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được,
nhiều tiêu cực đã xảy ra như là hậu quả của những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Trên thực tế, có không ít những tranh chấp về tên thương mại, nhãn
hiệu… của doanh nghiệp diễn ra ở cả trong và ngoài nước, điều này đã làm ảnh
hưởng trực tiếp tới uy tín, doanh thu của doanh nghiệp. Tên thương mại của
doanh nghiệp đã bị các chủ thể khác vì mục đích lợi nhuận mà sẵn sàng tìm mọi
cách để lợi dụng, gây thiệt hại đáng kể về kinh tế và uy tín cho các chủ sở hữu.
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ sở hữu, Nhà nước đã ban hành các
văn bản pháp luật và những quy định chuyên ngành phù hợp, trong đó quy định
rõ cơ chế bảo vệ tên thương mại của doanh nghiệp. Công tác phòng, chống việc
xâm phạm tên thương mại được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
tích cực, mang lại nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, hiện tượng xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh không lành mạnh đối với tên thương mại của
doanh nghiệp vẫn tiếp tục diễn ra phức tạp, đặt ra nhiều thách thức đối với các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đối với các chủ doanh nghiệp.
Để góp phần giải quyết có hiệu quả các thách thức đặt ra, một trong những
nhiệm vụ cần làm là nghiên cứu để nhận diện, xác định cho rõ và đầy đủ các hành
vi xâm phạm quyền SHTT đối với tên thương mại của doanh nghiệp.
Phục vụ cho yêu cầu này, đã có nhiều tác giả dày công nghiên cứu 20,
21, 52, 55, 66, 67, 135. Các công trình này không chỉ dừng ở việc phân tích các
16


khía cạnh lý luận, đánh giá các quy định của pháp luật thực định mà còn mổ xẻ
nhiều vụ tranh chấp về tên thương mại xảy ra trong đời sống xã hội, qua đó làm
sinh động hơn những nhận định, kết luận khoa học, đồng thời cũng đặt ra một số
vấn đề cần được tiếp tục quan tâm nghiên cứu để làm rõ hơn, sâu sắc hơn. Chẳng

hạn như: tên doanh nghiệp và tên thương mại của doanh nghiệp có đồng nhất
không? nhãn hiệu và tên thương mại có trùng nhau không? tên thương mại và
thương hiệu doanh nghiệp tác động qua lại với nhau như thế nào?
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
- Đánh giá, nhận xét chung về những vấn đề luận án kế thừa
Nhìn chung, các nghiên cứu về tên thương mại của doanh nghiệp được
thực hiện trên các khía cạnh sau:
(i) Đã có khá nhiều những nghiên cứu pháp luật về tên thương mại và điều
kiện bảo hộ tên thương mại. Ở đây, các vấn đề như: điều kiện bảo hộ, cơ chế bảo
vệ đối với tên thương mại của doanh nghiệp được lý giải sâu sắc.
(ii) Nghiên cứu về mối quan hệ giữa chính sách bảo hộ và pháp luật bảo
hộ đối với tên thương mại của doanh nghiệp, các nghiên cứu này đã đề cập ở
mức độ khác nhau về mối quan hệ giữa tên doanh nghiệp và tên thương mại, các
nhóm nghiên cứu, các tác giả nêu trên đã chỉ ra mối quan hệ giữa tên doanh
nghiệp, tên thương mại và sự cần thiết phải bảo hộ đối với tên thương mại của
doanh nghiệp; đã đề cập đến vấn đề phân biệt tên thương mại và nhãn hiệu,
những trường hợp nhãn hiệu và tên thương mại trùng nhau thì pháp luật sẽ bảo
hộ như thế nào: “tên thương mại là tên gọi còn tên nhãn hiệu là dấu hiệu”. Theo
một cách suy nghĩ khác thì tên thương mại thường được tiếp nhận là thành phần
tên riêng của công ty như ghi trong Giấy đăng ký kinh doanh còn nhãn hiệu là
tên một sản phẩm hay dịch vụ nào đó do doanh nghiệp đưa ra thị trường, đó là sự
khác biệt.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì tên thương mại và nhãn hiệu có
thể là một. Vậy thì lúc này, tên thương mại có còn được hiểu là thành phần tên
riêng của doanh nghiệp như trong Giấy đăng ký kinh doanh không? Điều này
17


chưa được làm rõ trong các văn bản hướng dẫn thi hành và đây sẽ là một trong
những nguyên nhân làm cho tranh chấp xẩy ra nhiều trong tương lai vì từ lâu

tình trạng doanh nghiệp trùng tên đã là vấn đề hóc búa cho các cơ quan quản lý
nhà nước, cơ quan tư pháp, và cho cả các doanh nghiệp bị trùng tên. Nguyên
nhân của việc trùng tên doanh nghiệp đáng tiếc lại có từ quy định của pháp luật
doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu đã phản ánh các quy định của pháp luật
hiện nay đang còn có những bất cập cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
(iii) Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo
hộ tên thương mại của doanh nghiệp.
Nghiên cứu thực trạng pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp là
nghiên cứu tổng quan những quy định của pháp luật dân sự, pháp luật thương
mại, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật sở hữu trí tuệ để làm rõ giá trị đích thực
của tên thương mại, đồng thời đánh giá thực tiễn vận hành của các quy định đó
trong thực tế.
(iv) Nghiên cứu các biện pháp bảo hộ và chế tài xử lý đối với hành vi xâm
phạm tên thương mại của doanh nghiệp: bảo vệ tên thương mại của doanh
nghiệp không chỉ bảo đảm quyền tài sản của các chủ thể quyền SHTT mà còn là
động lực cho sự phát triển không ngừng các sáng tạo trong thương mại, là yếu tố
có ý nghĩa quan trọng đối với sức mạnh của mỗi quốc gia. Quy định của pháp
luật về bảo vệ tên thương mại là không cho phép các chủ thể sử dụng tên thương
mại mà người khác đã sử dụng nếu hoạt động kinh doanh của chủ thể này là
cùng lĩnh vực và cùng khu vực với hoạt động kinh doanh của chủ thể mang tên
thương mại đó 99. Để được bảo vệ, tên thương mại của doanh nghiệp phải
được chủ thể xác lập quyền sở hữu hợp pháp thông qua quá trình sử dụng. Thực
tiễn xử lý các hành vi xâm phạm tên thương mại của doanh nghiệp trong thời
gian qua chủ yếu dừng lại ở xử phạt vi phạm hành chính và tranh chấp dân sự,
hầu như chưa có vụ nào bị xử lý về hình sự. Để có thể bảo đảm quyền lợi của
các chủ thể thì rất cần một bộ phận chuyên trách về SHTT ở tòa án để giải quyết

18



các tranh chấp liên quan đến SHTT nói chung và tên thương mại của doanh
nghiệp nói riêng.
(v) Nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về tên thương mại
của doanh nghiệp. Tình hình nghiên cứu và đề xuất về giải pháp hoàn thiện pháp
luật về tên thương mại của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay chưa được nghiên
cứu nhiều, mới có các công trình nghiên cứu như 21, 22, 66, 67, 71] và các
nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc nên lên sự cần thiết phải hoàn thiện pháp
luật về tên thương mại. Hiện nay, mặc dù hệ thống pháp luật về SHTT Việt Nam
đã có nhiều tiến bộ, khá hoàn chỉnh và khá phù hợp với các tiêu chuẩn của các
điều ước quốc tế liên quan đến SHTT mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, tạo
hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động sở hữu trí tuệ, song vẫn cần thiết phải
tiếp tục được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức để bảo đảm hơn nữa tính
thống nhất, đồng bộ, minh bạch, công bằng khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ
thống pháp luật SHTT Việt Nam, phù hợp hơn với thực tiễn ở Việt Nam cũng
như với tiêu chuẩn quốc tế 101.
Tóm lại, các nghiên cứu nêu trên đã giải quyết mối quan hệ giữa tên thương
mại với các đối tượng khác của quyền SHTT và pháp luật về tên thương mại của
doanh nghiệp hiện nay, như: đề cập và phân tích cơ sở lý luận của pháp luật về
tên thương mại của doanh nghiệp, đã khái quát được đặc điểm, điều kiện bảo hộ
tên thương mại của doanh nghiệp; làm rõ tên thương mại, điều kiện tên thương
mại được bảo hộ, trình tự thủ tục để xác lập tên thương mại; bước đầu có những
nghiên cứu về giá trị tài sản của quyền SHTT trong đó có đánh giá vai trò tài sản
trí tuệ đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Kết quả của các công trình nghiên
cứu đã khái quát cho tác giả luận án một cách khá đầy đủ về thực trạng pháp luật
và thực trạng thực thi pháp luật về tên thương mại, từ đó giúp tác giả có cơ sở để
mở rộng nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa một số vấn đề như sau:
Những vấn đề luận án tiếp tục triển khai nghiên cứu
- Nghiên cứu về tên thương mại, tên doanh nghiệp: Luận án đi sâu nghiên
cứu về các vấn đề liên quan đến tên thương mại, tên doanh nghiệp mà hiện nay
19



đang còn nhiều vướng mắc từ đó đưa ra khái niệm về tên thương mại của doanh
nghiệp.
- Nghiên cứu về pháp luật, thực trạng thực hiện pháp luật: Luận án tiếp
tục nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật, thực trạng thực hiện pháp
luật về bảo hộ tên thương mại của doanh nghiệp, từ đó đưa ra khái niệm và đặc
điểm pháp luật về tên thương mại và chỉ ra những thành tựu và hạn chế cần của
pháp luật khắc phục.
- Đề xuất kiến nghị, giải pháp liên quan đến pháp luật về tên thương mại
của doanh nghiêp phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo lợi
ích của các chủ thể.
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
1.2. 1. Lý thuyết nghiên cứu được áp dụng
Để thực hiện luận án, nghiên cứu sinh dựa trên những cơ sở lý thuyết sau đây:
- Lý thuyết về cạnh tranh được áp dụng để giải quyết những nội dung trong
luận án như: đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tên thương mại của doanh
nghiệp và cơ chế bảo vệ chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Nguyên tắc thương mại công bằng là sự hợp tác đặt trên nền tảng đối
thoại, minh bạch và tôn trọng, hướng đến cân bằng thương mại quốc tế. Với mục
đích xây dựng và phát triển hệ thống thương mại toàn cầu dựa trên nguyên tắc
bình đẳng trong sản xuất và kinh doanh, thương mại công bằng góp phần vào sự
phát triển bền vững bằng cách đề ra những điều kiện thương mại lành mạnh hơn
và đảm bảo quyền lợi của các nhà sản xuất và người lao động có hoàn cảnh khó
khăn. Một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống sở hữu trí tuệ là nguyên
tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội. Nguyên tắc này
được thể hiện xuyên suốt toàn bộ quá trình bảo hộ từ xác lập quyền, duy trì quyền
cho đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Bản chất của nguyên tắc cân bằng lợi ích
giữa chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội là sự dung hoà quyền lợi giữa các bên
nhằm tạo ra điều kiện tồn tại và phát triển cho chính các bên, cao hơn nữa là thúc

đẩy sự phát triển của văn học, khoa học và kỹ thuật. Mỗi bên sẽ phải hi sinh một
20


×