Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.4 KB, 126 trang )

mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật
về quyền chính trị của phụ nữ
7
1.1 Cơ sở lý luận về quyền chính trị của phụ nữ và pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ
7
1.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ
24
1.3. Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt
Nam là yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay
34
Chơng 2: quá trình hình thành, phát triển và thực
trạng pháp luật về quyền chính trị của
phụ nữ ở việt nam hiện nay
40
2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam
41
2.2 Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền chính
trị của phụ nữ ở Việt Nam
50
Chơng 3: phơng hớng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ ở việt
nam hiện nay
75
3.1. Phơng hớng hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ
nữ ở Việt Nam hiện nay


75
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của
phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
82
3.3. Một số kiến nghị 105
Kết luận 108
những công trình liên quan đến luận văn đã đợc
công bố
110
1
danh mục tài liệu tham khảo 111
phụ lục 116
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Danh ngôn Trung Quốc có câu: "Phụ nữ đỡ nửa bầu trời". Sự đúc kết
đó đã nói lên vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu của ngời phụ nữ
trong xã hội. Lẽ tất yếu, vai trò xã hội đòi hỏi vị trí xã hội tơng ứng. Tuy
nhiên, hàng ngàn năm nay, ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ vẫn phải chịu
những thiệt thòi về mặt vị trí xã hội so với nam giới. Điều đó đặc biệt thể hiện
ở sự bất bình đẳng với phụ nữ trong việc hởng thụ các quyền chính trị.
Cuộc đấu tranh cho vị thế bình đẳng của phụ nữ so với nam giới xuất
phát từ nghịch lý kể trên, bắt đầu từ buổi bình minh của chế độ phụ quyền.
Phát triển từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác, cho đến ngày nay, đấu tranh
cho vị thế bình đẳng của phụ nữ với nam giới, trong đó đặc biệt là quyền
chính trị của phụ nữ, đã không còn là vấn đề riêng biệt của mỗi quốc gia, mà
đã trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân loại và đợc thể chế hóa trong
nhiều công ớc quốc tế về quyền con ngời.
ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ chiếm 50,8% dân số và 48% lực lợng
lao động xã hội. Phụ nữ nớc ta trớc đây đã có những đóng góp hết sức to lớn
vào công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành và giữ gìn độc lập, xây dựng

2
Tổ quốc. Trong sự nghiệp Đổi mới hiện nay, phụ nữ Việt Nam vẫn luôn sát
cánh cùng nam giới phấn đấu vì mục tiêu "Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh" và có những đóng góp đáng kể trong các lĩnh vực
xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định xã hội cũng nh những cống
hiến xuất sắc trong việc chăm lo xây dựng gia đình, nuôi dỡng các thế hệ công
dân tơng lai của đất nớc. Không những vậy, nhiều phụ nữ còn mang lại những
vinh quang lớn cho đất nớc trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học,
nghệ thuật, thể thao.
Nhận thức rõ vị trí và vai trò quan trọng của ngời phụ nữ trong xã hội
nên ngay từ khi nớc nhà mới giành đợc độc lập, các quyền của công dân nói
chung và quyền của phụ nữ nói riêng đã đợc pháp luật Việt Nam ghi nhận và
khẳng định, trong đó có các quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ Điều
đó đã tạo điều kiện căn bản cho phụ nữ tham gia tích cực và hiệu quả vào các
hoạt động kinh tế, xã hội và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nớc tiếp tục quan tâm tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả hơn vào
lĩnh vực chính trị; nhờ vậy, phụ nữ Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội và
nhiều đại diện tham gia vào hệ thống chính trị, cũng nh vào việc đề xuất,
hoạch định, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của
Nhà nớc. Xét chung trên toàn thế giới và khu vực, Việt Nam là quốc gia đợc
đánh giá cao về mức độ bảo đảm quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ, thể
hiện ở tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội ở mức tơng đối cao.
Mặc dù vậy, trên thực tế ở Việt Nam, quyền bình đẳng về chính trị của
phụ nữ vẫn cha đợc bảo đảm một cách tơng xứng so với vai trò và khả năng
của phụ nữ trong xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ vẫn còn khoảng cách lớn giữa
tỷ lệ đại biểu nữ và nam trong các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp) và số lợng hạn chế phụ nữ nắm giữ các vị trí then chốt có quyền
ra quyết định trong các cơ quan của hệ thống chính trị (xem phụ lục 1 đến phụ
3

lục 7). Đơn cử, mặc dù ở mức cao trên thế giới, song tỷ lệ đại biểu Quốc hội
nữ khóa XI mới chỉ đạt 27,3%, tỷ lệ đại biểu nữ ở Hội đồng nhân dân cấp xã
nhiệm kỳ (2004-2007) là 20,1% [17, tr. 3-5]. Rõ ràng, tỷ lệ đại biểu nữ hiện
nay cha thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu là đại diện giới mình trong việc xây dựng
và hoạch định chính sách, pháp luật liên quan đến việc giải quyết các quyền
lợi chính đáng cho phụ nữ.
Thực tế kể trên đặt ra nhu cầu cấp thiết phải nghiên cứu tìm ra các
giải pháp tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trên
lĩnh vực chính trị, qua đó giúp phụ nữ tham gia và đóng góp ngày càng hiệu
quả hơn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nớc, cũng nh bảo đảm
thực hiện các cam kết quốc tế có liên quan của Nhà nớc ta, mà một trong
những hớng tiếp cận cơ bản là hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật trên
lĩnh vực này. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên
ngành lý luận và lịch sử nhà nớc và pháp luật tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam, tiếp cận từ nhiều
khía cạnh nh quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia vào quản lý nhà nớc và
các tổ chức xã hội của phụ nữ Tiêu biểu trong đó có thể kể nh:"Quyền bầu
cử và ứng cử của công dân trong chế độ ta" của Đàm Văn Hiếu (Tạp chí Luật
học, số 3, 1975; "Công ớc về việc loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối
với phụ nữ" của TS. Ngô Bá Thành (Tạp chí Luật học, số 2, 1982); "Phụ nữ:
những u ái và thiệt thòi- nhìn từ góc độ xã hội, pháp lý" của TS. Hoàng Thị
Kim Quế (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9, 2003); "Về một số vấn đề công
tác cán bộ nữ trong tình hình mới (Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị
4
37-CT/TƯ của Ban Bí th Trung ơng Đảng khóa VII)" của Hà Thị Khiết (Tạp
chí Khoa học về phụ nữ, số 3, 2004); "Quyền chính trị của phụ nữ trong Công

ớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trong pháp luật
Việt Nam" của TS. Nguyễn Văn Mạnh; "Công ớc của Liên hợp quốc và pháp
luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ" của Viện Nghiên cứu
khoa học pháp lý - Bộ T pháp. Riêng cuốn sách: "Vai trò của nữ cán bộ quản
lý nhà nớc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của TS. Võ Thị
Mai đề cập kỹ hơn, sâu hơn về một phần nội dung của đề tài đó là phụ nữ
tham gia vào quản lý nhà nớc.
Tuy các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số nội
dung liên quan đến đề tài luận văn, nhng đều cha nghiên cứu một cách hệ
thống cơ sở lý luận cũng nh các quy phạm pháp luật và những giải pháp cụ thể
góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ. Đề tài: "Hoàn
thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" là công
trình khoa học độc lập, không trùng lắp với các công trình nêu trên, nghiên
cứu có hệ thống cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Trong quá trình
nghiên cứu những nội dung của đề tài, tác giả có kế thừa, tham khảo kết quả
nghiên cứu ở các công trình khoa học nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn là đề xuất những phơng hớng, giải pháp hoàn
thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn
của nớc ta và các chuẩn mực quốc tế có liên quan mà Nhà nớc ta đã cam kết
thực hiện.
- Để thực hiện đợc mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm
vụ sau:
5
(1) Phân tích khái quát cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ để làm tiền đề đánh giá và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ.
(2)Tập hợp và phân tích hệ thống các quy phạm pháp luật hiện hành

liên quan đến việc bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam;
(3) Trên cơ sở những nhiệm vụ (1) và (2), chỉ ra những thành tựu và
hạn chế của pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở
Việt Nam và đề xuất các phơng hớng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
quyền chính trị của phụ nữ trong điều kiện xây dựng Nhà nớc pháp quyền
cũng nh xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
4. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu của luận văn
Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam là một
vấn đề có phạm vi rộng, không chỉ liên quan đến pháp luật, mà còn gắn liền
với nhiều lĩnh vực khác nh kinh tế, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, với khuôn
khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu về hệ thống các
quy phạm pháp luật liên quan đến việc bảo đảm các quyền chính trị cơ bản
của phụ nữ ở Việt Nam, trong đó tập trung vào các quyền bầu cử và ứng cử
vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền tham gia quản lý nhà nớc,
xã hội và quyền tham gia các tổ chức chính trị - xã hội.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn đợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nớc và pháp luật trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là đờng lối, chủ trơng
đổi mới của Đảng về nhận thức chính trị, về quyền chính trị của phụ nữ trong
điều kiện xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Các phơng pháp cụ thể mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài bao
gồm phơng pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, so sánh, thống kê
6
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
So sánh với các công trình khoa học khác trực tiếp hoặc gián tiếp liên
quan đến vấn đề về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam, luận văn có một
số đóng góp mới về khoa học nh sau:
- Về cách tiếp cận: Luận văn lần đầu tiên tiếp cận nghiên cứu về quyền
chính trị của phụ nữ ở Việt Nam thông qua việc gắn các quy định pháp luật có

liên quan với vấn đề bình đẳng giới và quyền của phụ nữ trong pháp luật quốc tế.
- Về nội dung: Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các tiêu chuẩn pháp lý
có liên quan và các điều kiện tác động về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa ở
Việt Nam, luận văn lần đầu tiên khái quát hóa, phân tích và đánh giá một cách
có hệ thống các quy phạm pháp luật hiện hành về quyền chính trị của phụ nữ ở
Việt Nam cũng nh việc thực hiện những quy định này trong thực tế Luận
văn cũng đề xuất các phơng hớng và luận chứng những giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, nhất
là sự cần thiết phải ban hành Luật Bình đẳng giới ở Việt Nam, trong đó có
những quy định về sự bình đẳng trong lĩnh vực chính trị của phụ nữ.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả luận văn đạt đợc, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam trong thời
gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về vấn đề liên quan đến quyền chính trị của phụ nữ trong các trờng đào
tạo cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng của Đảng và Nhà nớc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chơng, 8 tiết.
7

8
Chơng 1
Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật
về quyền chính trị của phụ nữ
1.1. Cơ sở lý luận về quyền chính trị của phụ nữ và pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ
Ngày nay quyền của phụ nữ tham gia hoạt động chính trị đã đợc tôn

trọng và thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tham gia của họ vào đời
sống chính trị xuất phát từ giá trị phổ quát của quyền con ngời. Cũng nh nam
giới, phụ nữ, với t cách là con ngời, có quyền đợc hởng tất cả các quyền mà
"tạo hóa đã ban cho họ" và quyền tham gia đời sống chính trị - xã hội. Nhng
tất cả những quyền đó chỉ thực sự có ý nghĩa và trở thành hiện thực khi chúng
đợc bảo đảm bằng pháp luật. Nói cách khác, quyền chính trị của phụ nữ sẽ đ-
ợc hiện thực hóa khi chúng đợc thể chế hóa trong pháp luật và bảo đảm cho
các quy định của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ đợc thực hiện trong
thực tế. Nh vậy, để nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về quyền chính trị của phụ nữ trớc hết phải nghiên cứu cơ sở lý luận về
quyền chính trị và pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền chính trị của phụ nữ
1.1.1.1. Khái niệm quyền chính trị và quyền chính trị của phụ nữ
Để làm rõ khái niệm về quyền chính trị của phụ nữ, trớc hết cần phải
làm rõ các khái niệm chính trị, quyền chính trị.
Chính trị là một khái niệm vừa phản ánh quy luật phát triển của lịch
sử, vừa mang tính triết học sâu sắc. Xét từ góc độ khoa học lịch sử, chính trị
luôn là nội dung bao hàm trong mọi cuộc đấu tranh giai cấp, gắn liền với quá
9
trình hình thành và phát triển của nhà nớc và xã hội. Cả C.Mác và Ph.ăngghen
đều cho rằng lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trớc đến nay chỉ là lịch sử đấu
tranh giai cấp [21, tr. 596-597]. Do vậy, chính trị không tách rời khỏi lịch sử
phát triển của mọi xã hội và đấu tranh giai cấp. Xét từ góc độ triết học, chính
trị đợc cho là sự tham gia vào các công việc của Nhà nớc, việc quy định những
hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nớc. Lĩnh vực chính trị bao
hàm các vấn đề chế độ nhà nớc, quản lý đất nớc, lãnh đạo các giai cấp, vấn đề
đấu tranh đảng phái, v.v [35, tr. 161]. Nói cách khác, nói đến chính trị là nói
đến quyền lực nhà nớc. Từ phân tích trên, xét ở góc độ chung nhất, có thể thấy
chính trị thực chất là quan hệ giữa các giai cấp, trong đó chủ yếu là quan hệ giữa
giai cấp cầm quyền với các giai cấp khác trong xã hội mà nội dung của quan hệ

đó là vấn đề chính quyền thuộc về ai, của ai và vì ai. Xét ở góc độ riêng, chính
trị chỉ thực sự có nghĩa khi nó đợc hiện thực hóa gắn với chủ thể là con ngời,
là giai cấp cụ thể. Và khi nói đến con ngời thì không thể không gắn đến
quyền. Quyền ở đây không mang nghĩa là vơng quyền hay thần quyền, mà là
quyền vốn có và tự nhiên của mỗi con ngời, không phải do bất kỳ ai hoặc thế
lực nào ban phát. Sự kết hợp giữa nội dung của chính trị với bản chất của
quyền con ngời chính là cơ sở dẫn đến sự thừa nhận về quyền chính trị.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền chính trị. Trong giáo trình đại
cơng phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy của trờng Waynesboro ở bang
Pennsylvania (Mỹ), quyền chính trị đợc định nghĩa một cách đơn giản: là những
yêu cầu pháp lý của công dân đợc tham gia trong chính quyền và đợc đối xử
công bằng [53]. Giáo trình này cũng chỉ rõ, quyền chính trị bao gồm quyền đ-
ợc bỏ phiếu, khởi kiện, họp và tham gia cơ quan nhà nớc.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy quyền chính trị trớc hết là một quyền
pháp lý, đợc thừa nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Bên cạnh đó, theo định nghĩa
này, quyền chính trị gắn và chỉ gắn với những cá nhân có t cách công dân;
những ngời không có quốc tịch, nhập c bất hợp pháp, ngời nớc ngoài c trú và
10
làm việc trên lãnh thổ nớc khác, ngời tỵ nạn sẽ không có hoặc chỉ đợc hởng
một cách hạn chế các quyền chính trị, đặc biệt là không đợc hởng "quyền đợc
bỏ phiếu, khởi kiện, họp và tham gia cơ quan nhà nớc".
Từ điển Luật học Mỹ (Black Law Dictionary) định nghĩa, quyền chính
trị: "Là những quyền có thể đợc thực hiện trong quá trình thành lập hay quản
lý chính quyền. Các quyền của công dân đợc xác lập hoặc công nhận bởi
Hiến pháp dành cho họ quyền tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc
thành lập hoặc trong quản lý chính quyền" [51, tr. 1159]. Định nghĩa này
khẳng định chắc chắn thêm về mặt pháp lý đối với quyền chính trị, vì trớc
tiên, nó là "quyền của công dân" và sau đó là, "đợc xác lập hoặc công nhận
bởi Hiến pháp". Tuy nhiên, phạm vi quyền chính trị ở đây lại tơng đối hẹp, vì
nó chỉ bao gồm "quyền tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc thành lập

hoặc trong quản lý chính quyền".
Một định nghĩa khác trong Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển
Bách khoa của Việt Nam ấn hành năm 1999 cho rằng, quyền chính trị là quyền
tham gia quản lý nhà nớc của công dân. Đó là quyền quan trọng nhất của công
dân, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền làm chủ nhà nớc, làm chủ xã hội đ-
ợc thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau nh công dân có quyền bầu cử,
quyền ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nớc. Nhân dân có quyền đóng
góp ý kiến vào việc xác định các chính sách để xây dựng và phát triển mọi
mặt kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, đối nội, đối ngoại của đất n-
ớc. Nhân dân có quyền tham gia xây dựng pháp luật, tham gia giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nớc, các tổ chức xã hội, kiến nghị với cơ quan nhà
nớc biểu quyết khi Nhà nớc tổ chức trng cầu dân ý [40, tr. 415]. So với hai
định nghĩa trên, định nghĩa này khá sâu sắc và toàn diện, thể hiện đợc vị trí
quan trọng và nội dung cụ thể của quyền chính trị trong số các quyền con ng-
ời. Tuy nhiên, nó lại "bỏ quên" một vấn đề có ý nghĩa then chốt mà có thể bảo
đảm cho quyền chính trị đợc thực hiện trong thực tiễn, đó là vấn đề quyền
11
chính trị phải đợc bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Bất kỳ quyền con ngời
nào muốn đợc thực hiện phải đợc quy định trong pháp luật và bảo đảm cho
các quy định đó đợc thực hiện trên thực tế.
Từ những định nghĩa trên đây, có thể rút ra một khái niệm chung về
quyền chính trị nh sau:
Quyền chính trị là một trong những quyền quan trọng nhất của công
dân, đợc Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; nó xác lập năng lực pháp lý của
công dân trong việc tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản lý nhà nớc,
quản lý xã hội.
Nh vậy, khái niệm này cho thấy, thực hiện quyền chính trị là phải bảo
đảm đợc hai nội dung sau:
Thứ nhất, công dân tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nớc và quản lý
xã hội.

Thứ hai, công dân tham gia gián tiếp vào quản lý nhà nớc và quản lý
xã hội.
Tăng cờng sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của công dân vào quản
lý nhà nớc và xã hội chính là tăng cờng chế độ dân chủ trong xã hội, bảo đảm
sự tham gia rộng rãi của mọi giới, không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào.
Trực tiếp tham gia quản lý nhà nớc và xã hội là việc ngời dân trực tiếp đảm
nhận các cơng vị trong bộ máy chính quyền nhà nớc, các tổ chức xã hội, đồng
thời cũng là ngời trực tiếp thực hiện các chính sách và pháp luật của nhà nớc.
Còn gián tiếp tham gia quản lý nhà nớc và xã hội là việc ngời dân thông qua
các cơ quan đại diện của Nhà nớc, tổ chức xã hội để bày tỏ ý kiến, quan điểm
vào việc xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật.
Bảo đảm thực hiện quyền chính trị của công dân qua hai nội dung trên
cũng chính là thực hiện tốt phơng thức: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
12
tra". Dân ở đây bao gồm cả nam và nữ. Vì thế phụ nữ cũng là chủ thể của ph-
ơng thức trên và cũng có quyền chính trị.
Vậy quyền chính trị của phụ nữ là gì? Thực tế, theo khái niệm quyền
chính trị nêu trên, đối tợng hởng thụ quyền là công dân, tức bao gồm tất cả
những ngời có quốc tịch của một quốc gia, không phân biệt giới tính và tuổi
tác, thì nội hàm của quyền chính trị của phụ nữ cũng chính là nội hàm của
khái niệm quyền chính trị nói chung. Tuy nhiên, xuất phát từ góc độ bình
đẳng giới và quyền con ngời của phụ nữ, có thể rút ra một khái niệm về quyền
chính trị của phụ nữ nh sau:
Quyền chính trị của phụ nữ là một trong những quyền con ngời quan
trọng nhất của phụ nữ, đợc Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; nó xác lập năng
lực pháp lý bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong việc tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào quản lý nhà nớc, quản lý xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm của quyền chính trị của phụ nữ
Xem xét quyền chính trị của phụ nữ trong mối tơng quan với các
quyền khác trong hệ thống các quyền con ngời, cũng nh trong sự phát triển

chung của mọi xã hội, có thể rút ra ba đặc điểm của quyền chính trị của phụ
nữ nh sau:
- Quyền chính trị của phụ nữ là yếu tố xác lập vị thế pháp lý bình
đẳng của phụ nữ với nam giới trong đời sống chính trị - xã hội.
Khi xem xét quyền chính trị của phụ nữ, không thể không nhìn từ góc
độ bình đẳng giới và pháp luật. Việc bảo đảm quyền chính trị là cơ sở để xác
lập địa vị pháp lý bình đẳng của ngời phụ nữ với nam giới, bởi chỉ thông qua
đó, phụ nữ mới đợc tham gia vào quá trình ra những quyết định gắn liền với
các quyền, lợi ích của họ trên mọi lĩnh vực, từ đó hạn chế và tiến tới xóa bỏ
hoàn toàn những phân biệt đối xử về giới mà họ thờng là nạn nhân. Tuy
13
nhiên, bình đẳng ở đây phải là bình đẳng về thực chất; và chỉ có bình đẳng về
thực chất mới là cơ sở để bảo đảm bền vững địa vị pháp lý bình đẳng của phụ
nữ. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa bình đẳng và pháp luật. Biểu hiện
của bình đẳng về thực chất là phụ nữ thực hiện đợc quyền chính trị và xác lập
đợc địa vị pháp lý của mình, đợc tham gia một cách dân chủ vào mọi hoạt
động của đời sống chính trị và đời sống công cộng. Ngợc lại, pháp luật là
công cụ để bảo đảm và bảo vệ quyền tham gia bình đẳng của phụ nữ. Trong
mối quan hệ biện chứng này, phụ nữ vừa là ngời hởng thụ quyền, nhng đồng
thời cũng là chủ thể trực tiếp đấu tranh xóa bỏ định kiến, tham gia xây dựng
pháp luật về quyền bình đẳng của mình. Trong khi quyền chính trị của nam
giới hầu nh mặc nhiên đợc thừa nhận thì quyền chính trị của phụ nữ phải trải
qua quá trình đấu tranh mới đợc ghi nhận trong pháp luật, đợc thực hiện
trong thực tế. Xác lập và thực hiện đợc quyền chính trị của phụ nữ là yếu tố
quyết định để xác lập và bảo đảm thực hiện sự bình đẳng nam nữ.
- Quyền chính trị của phụ nữ là hình thức pháp lý thể hiện bản chất
dân chủ, bình đẳng của xã hội.
Bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ đợc thực thi trên cơ sở không
phân biệt đối xử và bình đẳng thực chất chính là bảo đảm cho phụ nữ tham gia
vào xây dựng và quản lý nhà nớc và xã hội. Sự tham gia của phụ nữ vào các

cấp ra quyết định chắc chắn sẽ giúp cho những chính sách của nhà nớc, đặc
biệt là những chính sách liên quan đến phúc lợi xã hội, mang tính cân bằng về
giới hơn. Bên cạnh đó, nó còn là biểu hiện của việc tăng cờng dân chủ trong
xã hội.
Quyền chính trị của phụ nữ bao gồm quyền bầu cử và ứng cử, quyền
tham gia quản lý nhà nớc và một số quyền khác. Theo Công ớc Liên hợp
quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, việc bảo đảm thực
thi quyền chính trị của phụ nữ phải dựa trên ba nguyên tắc, đó là: bình đẳng,
không phân biệt đối xử và trách nhiệm quốc gia. Bình đẳng và không phân
14
biệt đối xử là yêu cầu khách quan; trong khi trách nhiệm quốc gia bao hàm
cả việc bảo đảm dân chủ xã hội. Xét về mặt lịch sử, dân chủ và bình đẳng
không chỉ là nhu cầu của con ngời mà còn là yêu cầu khách quan. Hai phạm
trù này không tách biệt, mà ngợc lại, chúng hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Dân
chủ ở đây bao gồm dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp, trong đó biểu hiện
của dân chủ trực tiếp chính là sự tham gia của cả hai giới trong quản lý nhà
nớc, còn dân chủ gián tiếp là bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện
quyền lực nhân dân. Nh vậy, thực thi dân chủ bao hàm cả yêu cầu thực thi
một phần quyền chính trị của phụ nữ; và ngợc lại, bảo đảm thực thi quyền
chính trị của phụ nữ mới thực hiện đợc dân chủ, bình đẳng một cách đầy đủ
trong đời sống xã hội. Nói cách khác, xã hội nào xác lập và thực hiện đợc
quyền chính trị của phụ nữ mới là xã hội dân chủ, bình đẳng thực sự.
- Quyền chính trị của phụ nữ là cơ sở và nền tảng để bảo đảm thực
hiện các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của phụ nữ.
Bảo đảm thực hiện quyền chính trị, hay quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa của phụ nữ là bảo đảm thực hiện các quyền con ngời của phụ nữ đã đợc
pháp luật quy định và bảo vệ. Quyền con ngời là một hệ thống các quyền
thống nhất với nhau. Vì vậy, có thể khẳng định cả hai nhóm quyền này đều
quan trọng nh nhau và có quan hệ mật thiết với nhau.
Trong hệ thống quyền con ngời, quyền chính trị thờng là những quyền

đợc đề cập đầu tiên trong số những quyền mà phụ nữ có. Chính vì vậy, để xác
lập vị thế bình đẳng của phụ nữ trong xã hội, trớc hết phải xét đến quyền
chính trị.
Về cơ bản, phụ nữ cũng đợc hởng các cơ hội bình đẳng nh nam giới
nhng để có sự bình đẳng thực chất, phụ nữ phải đợc bảo đảm thực hiện các
quyền chính trị của họ. Nói cách khác, họ phải đợc tham gia trực tiếp và gián
tiếp vào quản lý nhà nớc, quản lý xã hội; tham gia vào quá trình phát triển
kinh tế, xã hội của đất nớc. Do đó, quyền chính trị của phụ nữ đóng vai trò là
15
nền tảng, có tính quyết định tới việc thực hiện các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa.
1.1.2. Khái niệm, nội dung và đặc điểm của pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
Phụ nữ với t cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền nh một
công dân, trong đó có quyền chính trị. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch
sử, xã hội và văn hóa, trên thực tế, những định kiến coi thờng phụ nữ vẫn còn
ảnh hởng nặng nề trong đời sống chính trị - xã hội. Hiến pháp và pháp luật có
thể ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ và phụ nữ cũng có những quyền nh nam
giới, nhng do những định kiến về phụ nữ nên phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại,
khó khăn khi tham gia vào đời sống chính trị, tham gia quản lý nhà nớc và
hoạt động xã hội. Chính vì vậy, ngoài những quy định chung về quyền con ng-
ời, quyền công dân, pháp luật còn có những quy định riêng dành cho phụ nữ,
bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ.
Nh vậy, phụ nữ hoàn toàn có quyền tự do thực hiện quyền chính trị của
mình nh bản chất của các quyền con ngời. Nhng việc thực hiện quyền đó chỉ
có hiệu lực và hiệu quả khi nó đợc đặt dới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp
với pháp luật. Do định kiến coi thờng phụ nữ còn nặng nề nên để bảo đảm cho
phụ nữ thực hiện đợc những quyền chính trị của họ trong thực tế, nhà nớc phải
ban hành nhiều quy định trong pháp luật, trong đó có cả những chế tài nghiêm

khắc xử lý các hành vi vi phạm quyền chính trị của phụ nữ. Nh vậy, pháp luật
không chỉ ghi nhận, cụ thể hóa quyền chính trị của phụ nữ mà còn quy định
những thiết chế bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể nêu khái niệm pháp luật về quyền
chính trị của phụ nữ nh sau: Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là tổng
thể các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện và
16
bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng và không phân biệt
đối xử.
1.1.2.2. Nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
Nói đến nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là đề
cập tới các quy phạm pháp luật cụ thể hớng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ
năng lực và t cách pháp lý bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.
Dới góc độ pháp luật quốc tế, những quy định liên quan trực tiếp và
gián tiếp đến quyền chính trị của phụ nữ có thể đợc tìm thấy trong nhiều văn
kiện quốc tế về quyền con ngời, tiêu biểu nh Tuyên ngôn thế giới về quyền
con ngời (UDHR) năm 1948, Công ớc về các quyền chính trị của phụ nữ năm
1952, Công ớc Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 và
Công ớc Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW) năm 1979.
Công ớc CEDAW không phải là văn kiện pháp lý chuyên biệt quy
định về các quyền con ngời của phụ nữ, vì các quyền nh vậy đã đợc thừa nhận
trong các điều ớc quốc tế khác về nhân quyền đã đợc ban hành trớc đó, cụ thể
nh các điều ớc kể trên. Tuy nhiên, Công ớc CEDAW có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với việc hiện thực hóa các quyền con ngời của phụ nữ, trong đó có
quyền chính trị, bởi lẽ công ớc này xác định các cách thức, biện pháp nhằm
loại trừ những sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong việc hởng thụ các quyền
con ngời. Nói cách khác, mục đích của Công ớc CEDAW là trao cho phụ nữ
những quyền con ngời đã đợc thừa nhận nhng trên thực tế họ cha đợc hởng,
bởi có những sự phân biệt đối xử với phụ nữ [49, tr. 64].

Trong số các điều khoản quan trong nhất của Công ớc CEDAW, Điều
7 xác lập phạm vi quyền chính trị của phụ nữ, bao gồm: quyền tham gia bỏ
phiếu trong mọi cuộc bầu cử, trng cầu dân ý; quyền ứng cử; quyền tham gia
xây dựng và thực hiện các chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ
17
nhà nớc; quyền tham gia các tổ chức và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến
đời sống công cộng và chính trị của đất nớc. Điều này cũng yêu cầu các quốc
gia thành viên phải tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để xóa bỏ sự phân
biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chính trị, công cộng của đất nớc, đặc
biệt là trong việc hởng thụ các quyền chính trị cụ thể nêu trên.
Điều 8 Công ớc CEDAW mở rộng phạm vi quyền chính trị của phụ nữ
ra ngoài biên giới quốc gia, bằng việc yêu cầu các quốc gia thành viên phải
tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm cho phụ nữ có cơ hội
đại diện cho Chính phủ họ ở cấp độ quốc tế và tham gia vào công việc của các
tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng với nam giới và không có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào.
Theo tinh thần của Công ớc CEDAW, có ba nguyên tắc pháp lý cần
tuân thủ để bảo đảm việc thực thi các quyền con ngời của phụ nữ, trong đó có
quyền chính trị, đó là: nguyên tắc về trách nhiệm quốc gia; nguyên tắc không
phân biệt đối xử; và nguyên tắc bình đẳng về giới. Cả ba nguyên tắc này đều
quan trọng, tuy nhiên, từ góc độ thực tiễn, hai nguyên tắc bình đẳng và không
phân biệt đối xử giữ vai trò chủ đạo và có tính xuyên suốt, bởi lẽ, đây là những
nguyên tắc đợc coi nh là chuẩn mực khi xem xét việc bảo đảm thực hiện bất
cứ quyền nào của phụ nữ, trong bất cứ mối quan hệ nào (gia đình, cộng đồng,
xã hội, quốc gia và quốc tế.)
Trên nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử, thực hiện quyền
chính trị của phụ nữ là bảo đảm quyền dân chủ trong xã hội. Dân chủ về lý
thuyết gồm dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Biểu hiện của dân chủ trực
tiếp là phụ nữ cũng nh nam giới đợc trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình
quản lý nhà nớc, từ khâu xây dựng, hoạch định chính sách đến triển khai công

việc cụ thể, hoặc trực tiếp tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ
quan công quyền thực hiện quyền lực đợc giao. Đặc biệt, dân chủ ở cơ sở thể
18
hiện ở chỗ phụ nữ đợc tham gia góp ý kiến bằng nhiều hình thức vào các vấn
đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong đó có những vấn đề liên quan đến
lợi ích của họ. Hình thức điển hình của dân chủ gián tiếp là phụ nữ tham gia
bầu cử ngời đại diện và ứng cử vào các cơ quan dân cử, cơ quan đại diện
quyền lực nhà nớc.
ở Việt Nam, quyền chính trị của phụ nữ với tính cách là quyền công
dân sớm đợc xác lập bằng pháp luật cùng với sự ra đời của Hiến pháp đầu tiên
năm 1946. Ngay từ thời điểm này, phụ nữ đã đợc công nhận có địa vị công
dân bình đẳng so với đàn ông: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi ph-
ơng diện" (Điều 9). Quyền bình đẳng nam nữ trong bầu cử và ứng cử trở thành
quy tắc xuyên suốt trong các Hiến pháp từ 1946 đến nay: Công dân, không
phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngỡng, tôn giáo, trình độ
văn hóa, thời hạn c trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi
trở lên đều có thể đợc bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ
những ngời bị pháp luật hoặc tòa án nhân dân tớc các quyền đó.
Phù hợp với tinh thần của Công ớc CEDAW, Hiến pháp và pháp luật
Việt Nam cũng có những quy định xác lập quyền bình đẳng của phụ nữ tham
gia xây dựng và thực hiện các chính sách của Chính phủ, tham gia các chức vụ
nhà nớc và thực hiện chức năng công cộng ở mọi cấp. Cụ thể, Điều 53 Hiến
pháp năm 1992 (đã sửa đổi) quy định rõ: "Công dân có quyền tham gia quản
lý nhà nớc và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nớc và địa
phơng, kiến nghị với cơ quan nhà nớc ". Để hiện thực hóa quy định có tính
định hớng này, Đảng và Nhà nớc Việt Nam đã ban hành nhiều luật, văn bản d-
ới luật nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng của họ tham
gia vào quản lý nhà nớc, quản lý kinh tế và xã hội. Nhờ chính sách pháp luật
nh vậy mà trong những năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nớc, phụ nữ
đã đợc giải phóng sức lao động và sáng tạo của họ, phát huy hết tiềm năng, có

19
những đóng góp nhất định vào những thành tựu trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Ngoài những quy định xác lập ngày càng rõ ràng và cụ thể hơn về
quyền chính trị của phụ nữ trong Hiến pháp, quyền chính trị của phụ nữ cũng
đợc cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác. Đặc biệt, phù hợp với tinh
thần của Công ớc CEDAW, trong số những văn bản pháp luật nh vậy có
những văn bản chứa đựng những quy định với những thiết chế nghiêm minh
nhằm bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ, bao gồm việc bảo đảm thực hiện,
chống các hành vi xâm phạm quyền chính trị của phụ nữ đã đợc xác lập trong
pháp luật và biện pháp xử lý tơng ứng, nh Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
Hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính Chẳng hạn, để bảo đảm thực
hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong bầu cử và ứng cử, Bộ luật Hình sự hiện
hành của Việt Nam quy định những chế tài đối với tội xâm phạm quyền bầu
cử và ứng cử của công dân, và tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ
(Điều 126 và 130). Những quy định này của Bộ luật Hình sự hay các quy định
tại Luật Bầu cử sửa đổi năm 2001 là cơ sở bảo vệ về mặt pháp lý nói chung
đối với quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ, kể cả việc ngăn ngừa sự phân biệt
đối xử với phụ nữ trong đời sống chính trị và công cộng của đất nớc.
Nh vậy, quyền chính trị của phụ nữ đã có một cơ sở pháp lý khá đầy
đủ và toàn diện, từ việc xác lập đến bảo vệ bằng pháp luật. Pháp luật của Việt
Nam đã có những quy định riêng, nhng đồng thời cũng rất hài hòa với pháp
luật quốc tế trong việc khẳng định quyền chính trị của phụ nữ - một trong
những quyền quan trọng nhất của phụ nữ cần đợc bảo vệ, trên cơ sở bình đẳng,
không phân biệt đối xử cùng với trách nhiệm quốc gia và cả cộng đồng quốc
tế, vì dân chủ và sự tiến bộ của phụ nữ.
1.1.2.3. Đặc điểm của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
20
Từ phân tích về nội dung của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở
trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của pháp luật về quyền chính trị của

phụ nữ nh sau:
- Thứ nhất, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ bao gồm các quy
định của pháp luật về quyền chính trị của công dân nói chung và các quy
định trực tiếp về quyền chính trị của phụ nữ nói riêng.
Quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam đợc thể hiện và đợc pháp luật
bảo vệ với t cách là các quyền công dân, Phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ
có các quyền chính trị của một công dân, đợc tham gia vào mọi hoạt động
trong đời sống chính trị và đời sống công cộng của đất nớc. Tuy vậy, để khẳng
định quyền chính trị và quyền bình đẳng của phụ nữ, Hiến pháp và những văn
bản pháp luật liên quan cũng có những quy định riêng về nội dung quyền
chính trị và quyền bình đẳng của phụ nữ. Ví dụ, ngoài những quy định chung
về quyền công dân đợc quy định trong chơng về nghĩa vụ và quyền lợi của
công dân trong Hiến pháp, còn có những quy định riêng về quyền của phụ nữ.
Điều 7 Hiến pháp 1946 xác định: "Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng tr-
ớc pháp luật, đều đợc tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo
tài năng và đức hạnh của mình". Đồng thời, Điều 9 của Hiến pháp này nhấn
mạnh thêm: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phơng diện". Đồng
thời, các chế tài nhằm bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Chẳng
hạn, ngoài những quy định về quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở
Chơng III Hiến pháp 1959 khẳng định:
Phụ nữ nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng
với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
gia đình. Cùng làm việc nh nhau, phụ nữ đợc hởng lơng ngang với
nam giới. Nhà nớc bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên
chức đợc nghỉ trớc và sau khi đẻ mà vẫn hởng nguyên lơng
21
Những quy định nh vậy đã hình thành nên một hệ thống các quy phạm
pháp luật quy định trực tiếp đến quyền chính trị và các quyền khác của phụ
nữ.
- Thứ hai, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là tổng hợp nhiều

quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để bảo vệ
quyền chính trị của phụ nữ. Với nội dung rộng nh đã đề cập ở trên, việc xác
lập và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ không chỉ đợc quy định tại Hiến
pháp, mà còn đợc quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nh: Luật Bầu
cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Dân
sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Khiếu nại, tố cáo, Bộ luật
Lao động Đặc biệt, trong những văn bản pháp luật này đều có những quy
định riêng về quyền của phụ nữ nhằm mục đích bảo vệ và bảo đảm việc thực
hiện quyền chính trị của phụ nữ. Ngoài ra, hệ thống các quyền con ngời là
thống nhất, việc thực hiện quyền này là cơ sở và tiền đề cho việc bảo đảm thực
hiện các quyền khác. Do đó, tuy không trực tiếp quy định về quyền chính trị
của công dân nói chung hay của phụ nữ nói riêng, song cũng không vì thế mà
bỏ qua những văn bản pháp luật quy định một cách gián tiếp về quyền chính
trị của phụ nữ hoặc các quyền liên quan, nh Luật Giáo dục Chính vì vậy,
việc bảo đảm thực hiện quyền chính trị của phụ nữ không chỉ căn cứ vào
những quy phạm pháp luật riêng quy định về quyền chính trị của phụ nữ, mà
còn liên quan đến nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nói cách khác, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là sự tổng hợp của
nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo
đảm quyền chính trị của phụ nữ đợc thực hiện trên thực tế và hiệu quả.
- Thứ ba, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ là sự kết hợp hài
hòa giữa các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, là biểu hiện
22
của sự tiếp thu t tởng tiến bộ của pháp luật quốc tế về quyền chính trị của phụ
nữ kết hợp với bản sắc văn hóa của Việt Nam.
Thúc đẩy và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ không chỉ là mối quan
tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào, mà nó đã trở thành nghĩa vụ và
trách nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Nh trên đã đề cập, cộng đồng quốc
tế đã thông qua nhiều văn kiện pháp lý quy định về quyền chính trị của phụ nữ.

Những văn kiện pháp lý nh vậy đều thể hiện t tởng tiến bộ của nhân loại về giải
phóng phụ nữ, bảo đảm sự bình đẳng và nâng cao địa vị của phụ nữ.
Trong số những văn kiện pháp lý quốc tế quy định trực tiếp hoặc gián
tiếp về quyền chính trị của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn hai
công ớc quan trọng nhất có liên quan là: Công ớc ICCPR và Công ớc
CEDAW. Trong quá trình xây dựng pháp luật, Nhà nớc Việt Nam luôn xem
xét khả năng thể chế hóa những quy định tiến bộ của pháp luật quốc tế vào hệ
thống pháp luật quốc gia. Đây cũng là một phần trong trách nhiệm quốc gia
(trách nhiệm lập pháp) khi Việt Nam gia nhập và phê chuẩn những công ớc
này. Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật, chúng ta cũng dựa trên truyền thống
văn hóa và hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam để có điều chỉnh và thông qua
những quy phạm pháp luật phù hợp. Chính vì thế, pháp luật Việt Nam thể hiện
t tởng tiến bộ, có tính thuyết phục, phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Các quy phạm pháp luật về quyền chính trị
của phụ nữ trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện rõ t tởng trên, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử.
1.1.3. Vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ
Vai trò của pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ thể hiện ở những
điểm cơ bản sau:
- Một là, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ thể chế hóa đờng
lối, chủ trơng và chính sách của Đảng về quyền chính trị của phụ nữ.
23
Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào kể từ khi xuất hiện Nhà nớc và giai
cấp, pháp luật luôn luôn là công cụ để thể chế hóa đờng lối, chủ trơng và
chính sách của giai cấp cầm quyền. ở nớc ta, Đảng là lực lợng lãnh đạo Nhà
nớc và toàn xã hội.
Đối với phụ nữ, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng luôn dành sự quan
tâm đặc biệt cho phụ nữ, bảo vệ lợi ích chính đáng của phụ nữ trên mọi mặt
của đời sống chính trị - xã hội. Trong Luận cơng Chính trị năm 1930 của
Đảng, t tởng giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ đã đợc ghi

nhận, trở thành tuyên ngôn đầu tiên về quyền bình đẳng nam nữ, phụ nữ đợc
công nhận ngang hàng với nam giới về mặt chính trị. Tiếp đó, Đảng còn ban
hành nhiều chỉ thị và nghị quyết có tính chất định hớng và chỉ đạo nhằm bảo
đảm quyền chính trị của phụ nữ, ví dụ Nghị quyết số 153-NQ/TW, ngày 10
tháng 01 năm 1967 về "Công tác cán bộ nữ", Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 07
tháng 6 năm 1984, "Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ", v.v
T tởng chỉ đạo nhất quán và xuyên suốt trong tất cả các văn bản trên của Đảng là
bảo đảm quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử với phụ nữ. T tởng này cũng
trở thành nguyên tắc chung và đợc thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nớc, biến nó trở thành chuẩn mực, quy tắc xử sự bắt buộc chung đối với toàn
xã hội. Tuy nhiên, một thực tế cho đến nay là pháp luật của chúng ta cha thể
chế hóa đầy đủ, cụ thể và thiếu những thiết chế bảo đảm thực hiện trên thực tế
đờng lối, chủ trơng và chính sách của Đảng về phụ nữ nói chung và quyền
chính trị của phụ nữ nói riêng. Điều này đã ảnh hởng không nhỏ đến quá trình
thực hiện quyền chính trị của phụ nữ trên thực tế.
- Hai là, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ tạo cơ sở pháp lý
vững chắc nhằm thực hiện và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ.
Với chức năng là công cụ để Nhà nớc quản lý, bảo vệ các giá trị và
bảo đảm công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
không chỉ xác lập, mà còn bảo vệ (bao gồm bảo đảm thực hiện, chống các vi
24
phạm liên quan) quyền chính trị của phụ nữ. Pháp luật là tập hợp những quy
định trong đó nêu các quy tắc xử sự chung cho phép hoặc bắt buộc các chủ thể
pháp luật phải xử sự theo. Nói cách khác, các chủ thể của pháp luật, từ các cơ
quan của Đảng, Nhà nớc đến các đoàn thể và tổ chức xã hội, mọi cá nhân
công dân có trách nhiệm thực hiện các quy định của pháp luật. Hiến pháp và
pháp luật của Việt Nam luôn nhất quán bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ.
Hiến pháp 1992 sửa đổi của nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định rõ: "Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, không ngừng
phát huy vai trò của mình trong xã hội".

Bên cạnh đó, pháp luật còn có những quy định về hình thức, biện pháp
xử lý hành vi vi phạm quyền chính trị của phụ nữ. Ví dụ, Điều 126 Bộ luật
Hình sự năm 1999 quy định về các biện pháp chế tài đối với tội xâm phạm
quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân nói chung, trong đó có quyền bầu
cử, ứng cử của phụ nữ nói riêng: "Ngời nào lừa gạt, mua chuộc, cỡng ép hoặc
dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của
công dân thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt
tù từ ba tháng đến một năm". Nh vậy, pháp luật đã có những quy định xác lập
và bảo vệ quyền chính trị của phụ nữ. Nhờ đó, từ khi khai sinh nớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa, phụ nữ Việt Nam đã đợc giải phóng, đã có quyền tham gia
đời sống chính trị của xã hội
- Ba là, pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ đã động viên, khuyến
khích và tạo cơ sở pháp lý để phụ nữ đấu tranh thực hiện quyền chính trị
của mình.
Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ không chỉ xác lập địa vị bình
đẳng của phụ nữ trong đời sống chính trị mà là những quy tắc xử sự đợc sử
dụng nh thớc đo chuẩn mực chung, đồng thời có tính chất bắt buộc đối với
mọi thành phần trong xã hội nhằm thực hiện bảo vệ quyền chính trị của phụ
25

×