ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
THỜI VUA LÊ – CHÚA TRỊNH (1545 – 1786)
GVHD: PGS.TS Trần Thị Mai
SVTH: Nguyễn Trung Hiểu
MSSV: 1156070010
1
Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam trãi qua giai đoạn phong kiến từ sau cuộc chiến thắng của
Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938 đến năm 1858 thực dân Pháp nổ súng
xâm lược biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chế độ phong
kiến Việt Nam cũng như mọi nền phong kiến Đông Á khác, ở đó Vua là người
đứng đầu, nắm mọi quyền lực chính trị, là người duy nhất nắm thần quyền, đại
diện cho đấng tôi cao nên được gọi là Thiên Tử. Vua đứng đầu nhà nước, nắm
quyền lập pháp, hành pháp và cả quyền xét xử. Tất cả người dân đều là thần dân
của Vua, được vua chăn dắt dạy bảo.
Quyền lực không phân chia mà luôn luôn thống nhất vào một mối duy nhất
và Vua là người nắm giữ quyền lực thống nhất ấy, đó là đặc điểm chính trị của chế
độ phong kiến.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam dưới chế độ phong kiến, ngoài những đặc
điểm chung của mọi chế độ phong kiến khác, nước ta mang những đặc trưng riêng
có và đã để lại những dấu ấn có ý nghĩa lịch sử sâu sắc.
Mang tính đặc thù chính trị, Việt Nam dưới thời Vua Lê – chúa Trịnh là một
giai đoạn lịch sử đặc biệt với sự tồn tại song song hai nguyên thủ trong một đất
nước thống nhất. Hai chính quyền Vua và chúa cùng tồn tại trong sự đan xen,
thống nhất, tác động lẫn nhau tạo nên một chính thể thống nhất.
Sự tồn tại gần như hai nhà nước trong một lãnh thổ quốc gia là điều hoặc là
không thể hoặc là sẽ khiến đất nước không ổn định vì sự đấu tranh tranh giành
quyền lực giữa các tập đoàn chính trị với nhau, tuy nhiên, Việt Nam dưới thời Vua
Lê – chúa Trịnh đã tồn tại gần như hai nhà nước trong một lãnh thổ và đó là thời kỳ
được đánh giá là thịnh trị và ổn định và không có giặc ngoại xâm lâu dài nhất từ
trước đến giờ trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
2
Với những đặc thù tồn tại duy nhất trong lịch sử dân tộc, chế độ “lưỡng đầu”
dưới thời Vua Lê – chúa Trịnh tạo ra những dấu ấn lịch sử sâu sắc khi cả hai chính
quyền cùng chung sống hài hòa, ổn định, tạo điều kiện cho đất nước phát triển
trong một thời gian lâu dài.
Một trong những nguyên nhân tạo nên sự ổn định chính trị dưới thời Vua Lê
– chúa Trịnh là cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước tập trung và phân chia quyền một
cách uyển chuyển, linh hoạt. Các cơ quan hành chính nhà nước dưới sự quản lý của
cả Vua và chúa đều không bị trùng lắp, giẫm chân lẫn nhau, mọi quyền lực được
phân định rõ ràng tạo nên một bộ máy nhà nước vận hành nhịp nhàng và ổn định
Do tính đặc thù chính trị cũng như những dấu ấn lịch sử trên người nghiên
cứu chọn đề tài “Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta dưới thời Vua Lê –
chúa Trịnh” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
3
Chương 1
KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ VUA LÊ - CHÚA TRỊNH
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ĐẶC BIỆT TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC
1.1
Khái quát bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành thể chế chính trị Vua
Lê – Chúa Trịnh
Chuyên chế trung ương tập quyền (mọi quyền hành tập trung vào tay người
đứng đầu nhà nước – ông vua chuyên chế) là đặc điểm thể chế chính trị của các
quốc gia phong kiến phương Đông; thế nhưng, ở Việt Nam thời kỳ từ 1545 đến
1786 lại tồn tại một thể chế chính trị đặc biệt: Vua Lê - Chúa Trịnh.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi vua cho mình nhà Mạc thành hình. Năm 1530, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc
Đăng Doanh, còn mình tự xưng là Thượng hoàng sống ở Cổ Trai (Dương Kinh).
Năm 1530, Lê Ý ở Thanh Hóa nổi quân chống lại nhà Mạc. Năm 1532,
Nguyễn Kim được sự giúp đỡ của vua Ai Lao, tập hợp lực lượng ngày đêm luyện
tập và tôn con của Lê Chiêu Tông tên là Ninh lên làm vua (Lê Trang Tông), đóng
đô ở Thanh Hóa, nhiều quan lại cũ của nhà Lê cũng theo về phò tá tạo nên một
triều đình mới đối lập với nhà Mạc ở phía Bắc. Đại Việt lúc đó có hai triều đình,
lịch sử gọi đó là thời kỳ Nam – Bắc Triều.
Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm, người huyện Vĩnh Lộc,
Thanh Hóa. Nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm tìm đến
xin gia nhập nghĩa quân. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con
gái là Ngọc Bảo cho. Nǎm 1539 ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực
quận công. Năm 1545, Nguyễn Kim bị một hàng tướng nhà Mạc đầu độc chết, vua
Lê phong con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay. Vừa được phong chức,
4
Trịnh Kiểm tìm mọi cách loại trừ phe cánh của Nguyễn Kim (bố vợ) để tập trung
quyền lực vào tay mình. Trịnh Kiểm đã sát hại người con cả của Nguyễn Kim là
Nguyễn Uông, người con trai thứ hai là Nguyễn Hoàng lo sợ phải nhờ chị gái mình
là Ngọc Bảo (vợ của Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa (Huế);
Trịnh Kiểm thuận ý cho vào. Họ Nguyễn vào đó ngấm ngầm lập “vương quốc”
riêng của mình chống lại họ Trịnh, nhưng bề ngoài vẫn tỏ vẻ thuần phục, giúp họ
Trịnh chống họ Mạc. Để tạo cơ sở thực lực chống lại họ Trịnh, các chúa Nguyễn đã
đẩy mạnh khai khẩn vùng đất Đàng trong mở rộng lãnh thổ đến tận vùng Hà Tiên,
An Giang.
Từ khi Trịnh Kiểm nắm quyền, họ Trịnh cai quản vùng phía Nam của Đại Việt
(trên danh nghĩa vẫn là dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía Bắc.
Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu “Phù Lê
diệt Mạc” (giúp Lê diệt Mạc), thanh thế họ Trịnh ngày một lớn. Ở vùng Tây Bắc,
anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên cát cứ tại Tuyên Quang sai người đến xin quy
phục. Sau đó năm 1550, có Lê Bá Ly là cựu thần nhà Lê sơ cùng thông gia là
Nguyễn Thiến cũng mang gia quyến về hàng.
Vào thời điểm này, ở phía Nam triều, Trịnh Kiểm đã chết (1570), binh quyền
vào tay Trịnh Tùng “Vua Lê và Trịnh Tùng sống với nhau khá hoà thuận, chính sự
được chỉnh đốn, quân sĩ tinh tráng, khoẻ mạnh, khí thế đang lên”. Còn phía Bắc
triều, sau khi vào Ðông Kinh, Mạc Mậu Hợp ham chơi bời, say đắm tửu sắc, không
để ý gì đến việc nước. Rất nhiều sớ của các quan khuyên răn Mạc Mậu Hợp nhưng
vô hiệu.
Giữa lúc đó quân đội Lê - Trịnh tấn công liên tiếp vào hậu cứ quân Mạc có lúc
đã phải huy động lực lượng chống trả đến 10 vạn quân, nhưng nhà Mạc vẫn thua
5
trận. Mạc Hậu Hợp lại bỏ kinh thành Thăng Long sang bến Bồ Ðề, chia quân giữ
phía Bắc sông Cái để tự vệ.
Khốn đốn là vậy mà Mạc Mậu Hợp vẫn lao vào ăn chơi trác táng. Thấy
Nguyễn Thị Niên, con gái của Nguyễn Quyện, vợ trấn thủ Nam Ðạo Sơn quận
công Bùi Văn Khuê, em gái hoàng hậu xinh đẹp, Mậu Hợp đem lòng yêu mến, bèn
ngấm ngầm tính kế giết Bùi Văn Khuê một tướng tài thống lĩnh toàn bộ lực lượng
thuỷ quân của Mạc để cướp vợ Khuê. Biết âm mưu ấy, vợ Văn Khuê mật báo cho
chồng. Văn Khuê đem quân bản bộ về giữ Gia Viễn, chống lại lệnh vua Mạc. Mạc
Mậu Hợp mấy lần vời không được phải cho quân tướng đến hỏi tội Văn Khuê. Văn
Khuê, một mặt đem quân chống giữ, mặt khác cho con là Bùi Văn Nguyên vào
hàng quân Trịnh và xin quân cứu viện. Trịnh Tùng rất mừng, thu nhận ngay và cho
quân ra cứu Văn Khuê. Thế là thuỷ quân, chỗ mạnh nhất đã lọt vào tay quân Trịnh.
Trịnh Tùng được Văn Khuê giúp nên thế thắng đã ở trong tay.
Ngày 25 tháng 11 năm Nhâm Thìn (1592), thuỷ quân Trịnh gồm 300 chiếc
thuyền đánh vào huyện Kim Thành, Mạc Mậu Hợp bỏ chạy, quân Trịnh thu được
rất nhiều vàng bạc, của cải, đồ dùng và con gái, bắt Thái hậu nhà Mạc giải về
Thăng Long. Tới sông Bồ Ðề, Thái hậu nhà Mạc nhảy xuống sông tự vẫn. Mạc
Mậu Hợp sợ đến nỗi phải trao hết quyền bính cho con trai là Toàn lên làm vua còn
mình thì chạy trốn.
Mạc Mậu Hợp chạy trốn tại một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhãn (Bắc Ninh).
Quân Trịnh sục tới, dân địa phương cho biết Mạc Mậu Hợp đóng giả sư ông, đến
ẩn ở chùa Mô Khê đã 11 ngày. Quân Trịnh đến chùa thấy Mậu Hợp nghiễm nhiên
ngồi xếp bằng, đang tụng kinh.
6
Quân Trịnh dùng voi chở Mạc Mậu Hợp và hai kỹ nữ, giải về kinh sư. Sau đó,
Mậu Hợp được cho sống ba ngày, xong chém đầu ở bãi cát Bồ Ðề, thủ cấp hiến
hoàng đế nhà Lê ở Vạn Lại (Thanh Hoá) và bị đóng đinh đem bêu ngoài chợ.
Như vậy, sau khi Trịnh Tùng đem quân đánh bại nhà Mạc ở Thăng Long
(1592) thống nhất Bắc Hà, triều Lê được khôi phục, vua Lê bấy giờ là Lê Thế
Tông. Tuy nhiên, cậy có công dẹp nhà Mạc khôi phục triều Lê, Trịnh Tùng lộng
hành, năm 1599 ông buộc vua Lê phải phong mình làm Đô nguyên súy, Tổng quốc
chính, Thượng phụ bình an vương. Từ đây ông nắm mọi quyền hành trong nước,
định ra luật lệ, sắp đặt Thế tử của triều Lê và được người đương thời gọi là Chúa.
Năm 1600 cho lập Phủ đình (Vương phủ) bên cạnh triều đình vua Lê, đặt thêm 2
chức Tham tụng, Bối tụng cùng Chúa bàn việc nước, lại đặt các chức võ quan cao
cấp cùng chỉ đạo chung. Quyền lực nằm cả trong tay họ Trịnh; chế độ Vua Lê –
Chúa Trịnh hình thành từ đó, chế độ này còn được gọi là chế độ “lưỡng đầu chế”,
tức vua chúa cùng làm nguyên thủ.
1.2. Nguyên nhân sự tồn tại chế độ “lưỡng đầu” ở nước ta
Sự tồn tại của chế độ “lưỡng đầu chế” ở nước ta là một nét đặc thù trong tiến
trình lịch sử dân tộc, ở đó Vua Lê và chúa Trịnh cùng tồn tại với cương vị là hai
người đứng đầu một nhà nước. Tuy nhiên, quyền lực thực sự nằm trong tay chúa
Trịnh còn vua Lê chỉ có hư quyền, sự hiện diện của vua Lê chỉ mang tính biểu
trưng cho một đất nước thống nhất và quyền lực tập trung. Do đó, nếu theo tiến
trình chung của lịch sử chúa Trịnh sẽ có thừa sức để đoạt ngôi, phế bỏ vua Lê để
nắm toàn bộ quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúa Trịnh chưa bao giờ dám cướp
ngôi nhà Lê và đó cũng chính là nguyên nhân cơ bản cho sự tồn tại của chế độ Vua
Lê – chúa Trịnh. Tại sao chúa Trịnh không dám cướp ngôi nhà Lê?
7
Thứ nhất, mặc dù triều Lê từ sau triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) đã
quá tàn tệ không còn đủ sức để khôi phục lại vị thế tập quyền của vương triều mình
như trước đây nữa, trong thời buổi hỗn loạn đó triều đình Vua Lê muốn tồn tại
được phải nhờ cậy vào thế lực của Chúa Trịnh; ngược lại, Chúa Trịnh muốn tiêu
diệt được các đối thủ của mình cũng phải dựa vào “cái bóng” của Vua Lê… Hay
nói một cách công bằng, cả hai tập đoàn phong kiến này đều phải cần đến nhau để
tồn tại.
Thứ hai, Chúa Trịnh hơn ai hết là người tinh thông thời cuộc lúc đó. Trong
bối cảnh từ XVI đến XVIII ở nước ta có 4 thế lực phong kiến tham gia tranh giành
quyền lực (Lê, Trịnh, Mạc, Nguyễn), trong đó có 03 thế lực cát cứ thành quốc gia
riêng đó là: Bằc triều (Mạc), Nam triều (Lê - Trịnh), Đàng trong (Nguyễn); từ sau
1592: Mạc ở Cao Bằng, Lê – Trịnh ở Đàng ngoài, Nguyễn ở Đàng trong; từ năm
1668 chỉ còn hai thế lực: Lê – Trịnh ở Đàng ngoài, Nguyễn ở Đàng trong; thế
nhưng, theo quan điểm của phong kiến thời điểm đó dù có 4, 3 hoặc 2 thế lực
phong kiến cùng tồn tại thì chỉ có Vua Lê là “chính danh” thực quyền và đã được
“Thiên triều” Trung Quốc ban sắc phong. Do đó Chúa Trịnh nghe theo lời khuyên
của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Giữ chùa thì ăn oản”; nếu cướp ngôi của
Vua Lê, Chúa Trịnh sẽ bị phạm 2 điều cấm kỵ: thứ nhất Chúa Trịnh sẽ bị coi là
“phản nghịch” (giặc), dư luận trong nước sẽ phản đối, thứ hai bị “Thiên triều” của
Trung Quốc trừng phạt. Vì thế nên Chúa Trịnh không những không cướp ngôi của
Vua Lê giống như Mạc Đăng Dung (1527) và cũng không “lộ mặt” chống đối nhà
Lê như các tập đoàn phong kiến khác, lại càng không có mưu đồ cát cứ kiểu như
tập đoàn phong kiến Nguyễn ở Đàng trong; mà Chúa Trịnh đã khôn khéo “lựa
thời” từng bước lấn át, tiến tới tiếm quyền của Vua Lê, biến Vua Lê thành “cái
bóng” và thực sự Vua Lê đã bị biến thành “cái bóng” từ lúc nào không biết. Tinh
8
ranh hơn, Chúa Trịnh còn biết dùng “cái bóng” của Vua Lê để che đậy cho những
toan tính riêng của mình và rất thành công.
Thứ ba, trong suốt thời kỳ tham gia chính sự họ Trịnh có nhiều đối thủ:
Ở phía Bắc có hai đối thủ: một là “Thiên triều” ở phương Bắc (phong kiến
Trung Quốc) luôn dình dập chỉ chờ cơ hội là hành binh dưới danh nghĩa “Phù Lê,
diệt Trịnh”, điều này các đời Chúa Trịnh luôn canh cánh bên lòng không bao giời
quyên. Hai là, sau năm 1592 ở Cao Bằng vẫn còn tàn dư nhà Mạc, lại được nhà
Minh ủng hộ luôn là mối đe dọa đối với tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh. Vì thế họ
Trịnh không dám cướp ngôi nhà Lê làm thay đổi cả một triều đại.
Phía Nam là tập đoàn phong kiến Nguyễn – kẻ thù “không đội trời chung”
của họ Trịnh. Sau cuộc tấn công không thành năm 1620, mối mâu thuẫn giữa hai
tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, Nguyễn ở Đàng trong ngày càng
sâu sắc và đến lúc không thể điều hòa được nữa. Tình trạnh này làm cho không khí
chính trị ở nước ta hết sức căng thẳng. Hai bên đã chuẩn bị lực lượng cho một cuộc
“so đao, đấu súng” mới. Và cái gì đến đã đến, năm 1627, cuộc chiến tranh TrịnhNguyễn chính thức bùng nổ, kép dài hơn một nửa thế kỷ. Tuy mạnh yếu từng lúc
khác nhau, nhưng cả thảy hai bên đã dánh nhau tới 7 lần lớn, lúc quân Trịnh đánh
vào, lúc họ Nguyễn đánh ra. Cuối cùng không phân thắng bại, hai bên đã lấy sông
Gianh làm ranh giới chia đôi đất nước (1672).
Trong khi tập đoàn phong kiến Vua Lê - Chúa Trịnh suy yếu thì chính quyền
của các chúa Nguyễn ở Đàng trong lại hưng thịnh phát triển về mọi mặt từ chính trị
đến kinh tế, văn hóa, xã hội,…đã làm cho Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài luôn phải
cảnh giác phòng bị. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho họ Trịnh
không thể cướp ngôi nhà Lê, dẫn tới sự tồn tại của thể chế chính trị Vua Lê-Chúa
Trịnh trong một thời gian rất dài từ 1545 đến 1786.
9
1.3. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước “lưỡng đầu chế”
Trong lịch sử dân tộc, lần đầu tiên xuất hiện tình trạng bên cạnh ngai vàng
của nhà vua lại có phủ chúa, lịch sử gọi là thời kỳ Vua Lê – Chúa Trịnh còn được
gọi là nhà nước “Lưỡng đầu chế”, nhà nước dưới thời Vua Lê – chúa Trịnh mang
những nét đặc thù:
Thứ nhất, chế độ Vua Lê – Chúa Trịnh không phải là sự chia đôi quyền lực
giữa Vua Lê với Chúa Trịnh theo công thức cân bằng nhau 50/50; lại càng không
phải là một sự “mặc cả” giữa Vua Lê với Chúa Trịnh trong những lúc gian truân bị
nhà Mạc lật đổ mà trên thực tế từ 1545 đến 1786 họ Trịnh đã nắm toàn bộ quyền
lực trong triều và thay mặt nhà vua điều hành đất nước. Bằng chứng trong thời kỳ
này Chúa Trịnh đã nhiều lần “mượn danh” Vua Lê mang quân đi tiễu phạt nhà Mạc
và cũng đã nhiều lần mang đại binh vào đánh các chúa Nguyễn ở Đàng trong
nhưng không thành. Cho đến khi đất nước bị chia cắt thành Đàng trong và Đàng
ngoài (1672) thì thực chất cũng là sự phân chia quyền lực giữa hai tập đoàn phong
kiến Trịnh (ở Đàng ngoài), Nguyễn (ở Đàng trong) chứ không phải giữa Vua Lê
với các Chúa Nguyễn, cho nên sự tồn tại của Vua Lê trong thực thể chính trị này
thực chất chỉ là “cái bóng”.
Thứ hai, thể chế Vua Lê – Chúa Trịnh tồn tại được trong suốt thời kỳ từ
1545 đến 1786 là dựa vào tài năng của các Chúa Trịnh chứ không phải của Vua Lê.
Sự khôn khéo và tài năng của Chúa Trịnh được thể hiện ở chỗ: Chúa Trịnh rất am
hiểu thời cuộc và đối thủ của mình từ đó để có cách ứng phó hài hòa với các bên.
Đặc biệt, để có thể trụ được trước những đối thủ mạnh như Mạc, Nguyễn… không
có cách nào khác Chúa Trịnh phải tìm cách gây dựng cơ sở thực lực, thường xuyên
chỉnh đốn quân sĩ, xây dựng quân đội hùng mạnh dựa chủ yếu vào thủy binh, có
chính sách mền dẻo đối với các tù trưởng miền núi, kiên quyết tiêu diệt các thế lực
10
cát cứ, canh giữ và bảo toàn được cương vực lãnh thổ... Tất cả những việc làm đó
đã giúp cho Chúa Trịnh trụ được trong thời buổi đầy sóng gió và loạn lạc.
Thứ ba, tính độc đáo của thể chế chính trị Vua Lê – Chúa Trịnh là chỉ xuất
hiện một lần duy nhất trong lịch sử phong kiến dân tộc; quyền lực tuy nằm trong
tay Chúa Trịnh nhưng vẫn thuộc bộ máy nhà nước trung ương, còn thời kỳ Thiên
Hoàng – Mạc Phủ ở Nhật Bản (1192-1867): quyền lực của Thiên hoàng chỉ là hình
thức, các lãnh chúa phong kiến ở các địa phương mới là tầng lớp nắm thực quyền.
11
CHƯƠNG 2
CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
Ở NƯỚC TA DƯỚI THỜI VUA LÊ – CHÚA TRỊNH
2.1. Khái quát chung về vai trò, vị trí, quyền hạn của vua Lê – chúa Trịnh
Chính quyền Lê - Trịnh là “lưỡng đầu” chế điển hình trong lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, điển hình về độ dài của thời gian tồn tại (suốt hai thế kỷ),
điển hình cả về độ sâu của các yếu tố cấu thành một thể chế “lưỡng đầu”. Chế độ
chính quyền Lê – Trịnh là chính quyền của hai dòng họ - hai thế lực phong kiến
lớn, vừa phải dựa vào nhau để trị nước quản dân, vừa mâu thuẫn với nhau về
quyền lực và quyền lợi.
Thiết chế “lưỡng đầu” được đặc trưng bởi tính nhị nguyên trong phân chia
ngôi vị vua – chúa và bản chất quyền lực của hai cương vị đó. Trong cơ chế này,
vua là một biểu tượng quan trọng nhưng chỉ có hư quyền; còn chúa ở địa vị thứ
yếu nhưng lại nắm thực quyền lực cai trị đất nước. Tất cả được phản ánh trong câu
nói ngắn gọn nhưng súc tích thường được người đương thời nhắc đến: “Hoàng gia
giữ uy phúc, Vương phủ nắm quyền bính”.
2.1.1 Vị trí, vai trò của Vua Lê
Vua Lê vẫn là “thiên tử”, người có quyền năng tối thượng, đại diện hợp pháp
duy nhất của quốc gia.
Xét về hình thức, vua Lê có những đặc quyền không ai có được. Chỉ có vua
Lê mới được sử dụng hoàng bào, thể hiện địa vị chí tôn, vượt trên tất cả các quần
thần. Pháp luật nhà Lê nghiêm cấm tất cả các quan lại và dân chúng không được sử
12
dụng sắc phục của nhà vua. Trong mọi điển lễ quốc gia, những nghi thức cử hành
đối với Hoàng đế luôn là trang trọng nhất. Tất cả biểu thị sự trang nghiêm trước
quyền uy của đấng trị vì muôn dân.
Xét về nội dung, vua Lê có những vai trò không thể thay thế, đặc biệt là trên
phương diện thần quyền. Hoàng đế là người duy nhất có quyền phong sắc cho bách
thần và cử hành những nghi lễ trọng đại nhất. Trên phương diện thế quyền, vua Lê
về danh nghĩa là nguyên thủ nhưng thực chất đã chia quyền cùng chúa Trịnh trên
cương vị người đứng đầu nền lập pháp, tư pháp và hành pháp quốc gia.
Vua Lê vẫn là vị thẩm phán cao nhất về phương diện biểu kiến, duy nhất có
quyền ban bố chiếu đại xá, giảm miễn tội cho các phạm nhân.
Vua là người trực tiếp có quyền gia phong, thăng giáng, bãi miễn đối với các
chức quan từ hàm tam phẩm trở lên, kể cả ngôi chúa.
2.1.2. Vị trí và quyền hạn của chúa Trịnh
Trên danh nghĩa pháp lý, chỉ có Lê đế mới được coi là vị vua độc tôn duy
nhất trên toàn cõi Đại Việt và chỉ có vua Lê mới có niên hiệu, còn Trịnh Vương
vẫn chỉ là bầy tôi của nhà vua, nhưng là một bầy tôi đặc biệt, vượt lên trên tất cả
các bầy tôi khác.
Mặc dù các chúa Trịnh đều được các vua Lê tổ chức nghi lễ phong vương
cho mình một cách trọng thể, nhưng Trịnh vương không phải là vua, “vương” chỉ
là tước, một tước vị cao nhất. Vì thế, trong một số nghi thức nhất định, chúa Trịnh
không được phép vượt quá giới hạn trên. Chẳng hạn, trong lễ phục của các chúa
Trịnh chỉ được mặc tử bào, đồng sắc với triều phục của các quan tước công và
Thượng thư Lục bộ.
13
Về phương diện lập pháp, chúa cũng có quyền ban hành những văn bản có
tính pháp quy dưới dạng các lệnh hay lệnh dụ (nếu có tính chất ngăn cấm, khuyên
răn) hoặc chỉ hay chỉ truyền (để ban bố những thể lệ, luật lệnh). Các văn bản pháp
luật do chúa ban hành có tính ứng dụng cao, là sự cụ thể hóa các chiếu, sắc dụ của
nhà vua trong đời sống thực tiễn. Nhà vua hay triều đình cũng không có sự can
thiệp hay kiểm soát nào đối với các văn bản lập pháp do chúa ban hành.
Chúa Trịnh cũng là người đứng đầu nền hành chính quốc gia. Với chức Tổng
quốc chính do vua Lê phong, chúa Trịnh có toàn quyền trong việc tuyển bổ, thăng
giáng, bãi miễn các chức quan và ban hành lệnh dụ, chỉ truyền đối với các quan
ngoại nhiệm, quan hàm từ tam phẩm trở xuống, mà trên thực tế họ mới chính là
những người thực sự điều hành nền nội chính. Chúa Trịnh cũng có quyền ban hành
những mệnh lệnh có tính lập quy, những quyết định hành chính liên quan đến việc
điều động mọi chức quan lại trong ngoài. Với chức Đại nguyên súy, chúa Trịnh
cũng chính là vị tổng chỉ huy quân đội cả nước, toàn quyền điều động, tuyển bổ
binh lính, thăng giáng tướng lĩnh, quyết định những chính sách quốc phòng và nắm
quyền cao nhất về việc đảm bảo an ninh quốc gia. Chúa Trịnh còn là người kiểm
soát toàn bộ nền kinh tế, tài chính trong nước. Trên phương diện bang giao, chúa
Trịnh nắm thực quyền trong việc quyết định đường lối ngoại giao, đón tiếp các sứ
thần ngoại quốc và cử người đi sứ nước ngoài…
Nhìn chung lại, chúa Trịnh nắm hầu hết quyền hành cai trị đất nước, còn vua
Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa, rất ít quyền lực. Địa vị, chức tước và quyền lực của
chúa được cha truyền con nối, cũng như sự thế tập ngôi báu hư vị của vua. Điều đó
trở thành tập quán chính trị bền vững của cơ chế lưỡng đầu Lê – Trịnh.
14
2.2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính ở nước ta thời
vua Lê – chúa Trịnh
2.2.1. Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính trung ương
Về hình thức, triều đình vua Lê vẫn được tổ chức theo mô hình thời Lê sơ
bao gồm các quan đại thần, Lục Bộ, Lục Khoa, Lục Tự và các cơ quan khác. Các
cơ quan này, về cơ bản, vẫn có cơ cấu tổ chức và chức năng như trước dây nhưng
quyền hạn ngày càng bị hạn chế bởi các cơ quan bên phủ chúa.
Với vị trí và quyền lực của mình, chúa Trịnh lập ra Phủ đường trong thế đối
sánh với triều đình nhà Lê. Nếu Triều đình có các văn thư phòng giúp việc Hoàng
đế, có Lục bộ để điều hành các việc chuyên môn; thì Phủ chúa cũng lập ra các văn
phòng riêng, có Lục phiên để quản lý mọi hoạt động của đất nước.
Sơ đồ: Tổ chức bộ máy hành chính trung ương thời Lê – Trịnh
Để có thể nắm được cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, đồng thời thấy được sự khác
nhau giữa chính quyền Vua Lê và chúa Nguyễn, cần phân tích và chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt vị trí, vai trò của từng cơ quan.
15
2.2.1.1 Triều đình và Phủ đường
Triều đình (hay triều đường) là nơi dự bàn quốc sự của đại thần văn võ bá
quan. Tuy nhiên, dưới thời Vua Lê – chúa Trịnh vai trò họp bàn chính sự của triều
Lê không còn. Đây trở thành nơi hội tụ của quần thần chủ yếu để thăm viếng, chúc
tụng vua Lê theo nghi lễ định kỳ hàng tháng vào các ngày sóc (mồng một), vọng
(ngày rằm) hoặc những ngày đại lễ khánh hạ hay khi vua ban hành các sắc dụ,
chiếu chỉ. Hoạt động thường nhật của triều đình do Lục bộ tiến hành cũng không
còn như trước.
Phủ đường là nơi chúa Trịnh tụ họp các đại thần để luận bàn những việc
quân quốc trọng sự và điều hành toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước. Tuy cách bài trí và các nghi lễ cử hành nơi Phủ chúa không trang nghiêm và
phức tạp như bên Triều đình nhưng đây thực sự là nơi họp bàn chính sự của đất
nước.
Các chúa Trịnh trực tiếp nắm quyền điều động Ngũ phủ quân, thường xuyên
hội họp các tướng sĩ và các đại thần để bàn việc quân cơ nên nơi ấy thường được
gọi là Phủ đường. Sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Tùng đặt chức Tham tụng và Bồi
tụng đứng đầu hàng văn bên Phủ đường, gọi là quan Phủ liêu; còn đứng đầu hàng
võ (tức đứng đầu Ngũ phủ quân) là chức Chưởng phủ, Thự phủ và Quyền phủ, gọi
là quan Ngũ phủ; hợp nhất các chức Tham tụng, Bồi tụng, Chưởng phủ, Thự phủ
và Quyền phủ gọi là quan Ngũ phủ Phủ liêu - trực tiếp điều hành mọi hoạt động
hành chính và là những chức có quyền hạn lớn nhất trong bộ máy quan lại thời Lê
– Trịnh.
Chức Tham tụng được chúa Trịnh lập năm 1600, giữ ngôi vị Tể tướng bên
Phủ liêu. Những người giữ chức Tham tụng không cần lắm đến phẩm trật do Triều
đình ban, mà cốt phải là người có năng lực, trung thành với chúa. Họ cũng không
16
nhất thiết phải đỗ đạt khoa bảng. Tuy chức Tham tụng chưa được quy định phẩm
hàm nhưng những người giữ chức này có quyền hạn rất lớn. Họ đồng thời còn
kiêm giữ nhiều chức vụ quan trọng khác bên triều đình.
Chức Bồi tụng ra đời năm 1601, giữ vai trò quan trọng thứ hai bên Phủ
đường. . Khi cử người giữ chức Bồi tụng, chúa Trịnh cũng không câu nệ ở đường
xuất thân (có 12/67 trường hợp không Tiến sĩ) hoặc phẩm hàm của họ bên Triều
đình. Những người giữ chức vụ Bồi tụng thường đồng thời là Thị lang, Thượng thư
Lục bộ, quan Ngự sử đài, ngoài ra còn kiêm giữ đại thần trọng chức, quan Quốc tử
giám, võ quan cao cấp, Đông các hoặc Hàn lâm viện. Những người này chủ yếu
mang tước hầu, tước bá, tước nam, số ít mang tước công và tước tử.
Các chức Chưởng phủ, Thự phủ, Quyền phủ là những võ quan cao cấp đứng
đầu Ngũ phủ quân và trực tiếp thống lĩnh quân đội toàn quốc. Người được chọn
giữ chức này thường là những tay chân thân cận của chúa Trịnh. Họ cũng đồng
thời là những bậc huân thần, được ban phong tước phẩm rất cao bên triều đình.
Qua phân tích, so sánh giữa Triều đình của Vua Lê và Phủ đường của cúa
Trịnh có thế thấy Phủ đường có chức năng như một triều đình thứ hai nhưng quan
trọng hơn. Với cơ quan tối cao riêng có - Ngũ phủ Phủ liêu trực tiếp đảm trách việc
điều hành toàn bộ guồng máy hành chính quốc gia và nắm thực quyền cai trị đất
nước. Những quan chức làm việc tại Phủ đường là những đại thần cao cấp nhất, trụ
cột của triều Lê – Trịnh. Họ đồng thời cũng nắm giữ những trọng trách bên triều
đình, nhờ vậy mà phủ chúa thâu tóm mọi hoạt động của vua Lê.
2.2.1.2 Các văn thư phòng
Bên cạnh các cơ quan chuyên trách riêng rẽ, cả Triểu đình và Phủ đường
cùng quản lý cơ quan văn thư phòng để triển khai các công việc chung của Triều
đình và Phủ đường, do đó chính quyền Lê – Trịnh cùng lúc duy trì ba loại cơ quan
văn phòng ở trung ương: các văn thư phòng giúp việc Hoàng đế gồm Thông chính
17
ty, Bí thư giám và Hoàng môn sảnh; các văn thư phòng giúp việc nhà chúa gồm
Phủ liêu, Bí thư các; và các văn thư phòng giúp việc chung cho cả vua và chúa là
Hàn lâm viện, Đông các và Trung thư giám. Các cơ quan cụ thể trong cơ quan văn
phòng thư có vai trò quan trọng trong tổ chức và vận hành bộ máy hành chính
Trung ương:
Thông chính ty là cơ quan giữ nhiệm vụ liên lạc, chuyển đạt công văn, mệnh
lệnh của vua tới quan lại và dân chúng cùng các tấu chương của quan, các đơn từ,
khiếu nại của dân tới nhà vua.
Bí thư giám trông coi về thư viện của Triều đình, đồng thời có nhiệm vụ sao
chép, lưu giữ những công văn đệ đạt lên vua hoặc do vua ban hành.
Hoàng môn sảnh là cơ quan chuyên việc giữ ấn và đóng ấn của vua vào các
văn thư.
Phủ liêu là cơ quan thuộc quyền điều khiển trực tiếp của nhà chúa, có nhiệm
vụ trông coi mọi công việc bên Phủ đường, từ việc nghi lễ đến việc thu và phát các
công văn, giấy tờ.
Bí thư các là các cơ quan có nhiệm vụ phê duyệt công văn, sổ sách và lưu
trữ các hồ sơ bên phủ chúa, do hai quan Học sĩ đứng đầu và các viên Chính tự giúp
việc. Bí thư các được thiết lập tương đối giống với Bí thư giám bên cung vua.
Hàn lâm viện thời Lê – Trịnh vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức và hoạt động
giống triều Lê sơ. Đây là cơ quan có nhiệm vụ khời thảo các bài chế, cáo, thơ văn,
văn thư nhưng có điều khác trước là Hàn lâm viện thời kỳ này phải thừa mệnh của
cả vua và chúa.
Đông các là cơ quan chuyên việc sửa chữa các bài chế cáo, thơ, ca, văn thư
của vua và chúa. Đồng thời, Đông các còn có nhiệm vụ khác là trông coi việc bảo
cử ở triều đình, sẵn sàng tâu trình lên vua hoặc khải với chúa về những chức vị xét
thấy chưa hợp lý. Các quan Đông các thời Lê – Trịnh có vị trí khá quan trọng trong
bộ máy chính quyền, bởi ngoài chức danh Đông các họ còn thường kiêm nhiệm
18
thêm các chức khác như Thượng thư, Tả hữu thị lang các Bộ, Tham tụng, Bồi tụng
bên Phủ liêu hoăc chí ít cũng là Thừa chính, Tham chính, Đốc đồng các trấn.
Trung thư giám là cơ quan phụ trách việc biên chép các tờ kim tiên, ngân
tiên, chế, cáo, sắc và các bài biểu, giản, văn tế ở điện miếu. Đứng đầu Trung thư
giám là viên Trung thư giám Xá nhân, giúp việc có các chức Trung thư giám Điển
thư chuyên khảo về kinh điển và văn thư, Trung thư giám Chính tự lo việc hiệu
đính lại văn bản các bài văn thư.
2.2.1.3 Lục bộ và Lục phiên
Lục bộ và Lục phiên là hai loại cơ quan cơ bản của Triều đình và của Phủ
chúa. Chúng thể hiện rõ nhất sự phân định cơ cấu quyền hạn giữa hai bên.
Cơ cấu tổ chức của Lục bộ được hoàn thiện dưới thời Lê Thánh Tông (1460
– 1497) và tiếp tục được duy trì đến hết thời Lê – Trịnh. Phụ trách mỗi Bộ vẫn là
một ban điều hành gồm một Thượng thư và hai viên Tả hữu thị lang. Để giải quyết
những công việc thường nhật, mỗi Bộ đều có một cơ quan văn phòng trung ương là
Tư vụ sảnh. Tùy theo khối lượng công việc mà mỗi Bộ có một hoặc một vài cơ
quan chuyên môn và các Nha môn thừa hành.
Giúp việc cho Lục bộ có Lục tự, gồm: Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc
tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự và Thượng bảo tự. Đứng đầu mỗi tự là một viên Tự
khanh, một viên Thiếu khanh và một viên Tự thừa. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của
Lục phiên và sự suy giảm quyền lực của Lục bộ, Lục tự thời Lê –Trịnh không còn
đóng vai trò quan trọng như trước, các chức đặt ra chỉ là “hàm hư không và nhàn
tản”. Cơ cấu tổ chức không thay đổi như số nhân viên (quan và lại), đặc biệt số lại
viên các bộ có sự biến động lớn qua các thời kỳ tùy theo phạm vi hoạt động và
quyền hạn của Lục bộ tại những thời điểm tương ứng.
Lục phiên là cơ quan thừa hành công vụ quan trọng nhất của Phủ đường thời
Lê – Trịnh. Lúc mới thành lập chỉ ba Phiên (Hộ phiên, Binh phiên, Thủy sư phiên),
19
đến năm 1718, chúa Trịnh Cương bỏ Thủy sư phiên, lập thêm bốn Phiên mới là Lại
phiên, Lễ phiên, Công phiên, Hình phiên cùng với Hộ phiên, Binh phiên đặt ra từ
trước thành Lục phiên, tương ứng với Lục bộ bên triều đình. Công việc thuế khóa
trước đây do 46 hiệu phụ trách, nay do chúa Trịnh gộp lại thành 06 cung (Lục
cung) trực thuộc Lục phiên là: Tả trung cung, Hữu trung cung, Đông cung (gồm
hai hiệu Đông giáp và Đông ất), Nam cung (gồm hai hiệu Nam giáp và Nam ất),
Đoài cung (Đoài giáp và Đoài ất) và Bắc cung (Bắc giáp và Bắc ất). Cơ chế Lục
phiên tồn tại đến năm 1787 thì bị bãi bỏ cùng với sự kết thúc vương quyền của
chúa Trịnh.
Đứng đầu mỗi phiên là quan Tri phiên, các Phó tri phiên, Thiêm tri phiên
giúp việc. Lúc đầu, với nhiệm vụ chủ yếu là trông coi việc thu thuế do các hiệu
đem nộp nên các chức trưởng quan Lục phiên không mấy quan trọng, nhà chúa
thường dùng 02 viên Tri phiên, 02 Phó tri phiên và 02 Thiêm tri phiên ở mỗi phiên.
Đến khi Trịnh Giang hiệu định quan chế (năm 1751) các chức quan Lục phiên trở
nên rất quan trọng. Phần lớn trong số họ là các văn thần xuất thân khoa mục. Riêng
chức Tri phiên chỉ đặt một người chuyên trách và thường do Thượng thư các bộ
đảm nhiệm. Trợ giúp Tri phiên vẫn gồm 02 Phó tri phiên và 02 Thiêm tri phiên như
trước. Chức Phó tri phiên thường được chọn trong số các viên Thiêm tri, tự khanh
“ở chức đã lâu năm, làm việc xứng chức, và nghiêm nghị ngay thẳng” để bổ
nhiệm. Bên cạnh các chức trưởng quan nắm quyền quản lý chung, mỗi phiên còn
có bộ phận thừa hành công vụ là các Nội sai và Lại viên. Các chức Nội sai và Lại
viên đều do chúa Trịnh tùy ý bổ dụng, cốt chọn người có năng lực, trung thành với
nhà chúa chứ không có quy định thống nhất.
Như vậy, xét về nguồn gốc, Lục phiên là một sản phẩm đặc biệt và riêng có
của thời Lê – Trịnh. Tổ chức này chưa từng xuất hiện trong lịch sử Việt Nam trước
đó và cả về sau. Tuy là một cơ quan chuyên trách mới được thành lập nhằm đối
trọng với Lục bộ của Triều đình nhưng phạm vi quyền hạn và sự phân công nhiệm
20
vụ giữa Lục bộ và Lục phiên theo thời gian cho thấy được vai trò của Lục phiên
ngày càng quan trọng và ngược lại Lục bộ ngày càng mất dần vị trí trong bộ máy
tổ chức nhà nước cùng với xu hướng tất yếu khi mà vai trò của các vua Lê ngày
càng bị thu hẹp nhường chỗ cho sự gia tăng quyền lực của chúa Trịnh.
Từ năm 1817 chúa Trịnh lập đủ Lục phiên đảm nhận trách nhiệm trông coi
ruộng đất, nhân khẩu và thu tô thuế ở 7115/7727 xã thuộc 11/13 trấn cả nước.
Công việc này trước đây do bộ Hộ thuộc Lục bộ đặc trách, nay bộ Hộ chỉ còn
quyền thu tô thuế ở phủ Trung đô và 612 xã còn lại thuộc hai trấn Thuận Hoá và
Quảng Nam (trên thực tế hai trấn này đang thuộc quyền cai quản của các chúa
Nguyễn). Bộ Hộ cũng không còn nắm quyền quản lý ngân sách quốc gia, mà giới
hạn nhiệm vụ chỉ còn là ấn định các khoản thu chi cho riêng nhà vua, đồng thời
quản lý tài sản, vật dụng hoàng cung. Quyền quản lý việc thu chi cho Phủ chúa và
toàn bộ nền tài chính quốc gia nay thuộc cả về Hộ phiên thuộc Lục phiên. Đối với
nhiệm vụ cấp phát thóc tiền, lương bổng cho quan lại trong ngoài và binh sĩ, bộ Hộ
nay chỉ còn đóng vai trò trung gian, tiếp nhận đề nghị từ phía các Bộ, chuyển đạt
và nhận tiền từ các Phiên tương ứng rồi chuyển lại cho Bộ theo yêu cầu.
Với những Bộ còn lại (Lại, Lễ, Công), tuy Lục phiên không can thiệp trực
tiếp vào chức trách chuyên môn, nhưng lại kiểm soát và chi phối tới các Bộ này
thông qua đặc quyền cấp phát kinh phí, lương bổng, phẩm vật.
Như vậy ngay sau khi Lục phiên được thành lập đầy đủ, vai trò vị trí của nó
đã được nâng lên cao cùng với sự giảm sút vai trò của Lục Bộ.
2.2.1.4 Một số bộ phận, cơ quan khác
Lục khoa
Lục khoa là cơ quan chuyên trách giám sát hoạt động của sáu Bộ. Đứng đầu
mỗi Khoa là các Đô cấp sự trung và Cấp sự trung. Những chức vụ này được triều
đình khá coi trọng và thường kiêm chức Bồi tụng bên Phủ chúa.
21
Dưới thời Trung hưng, sự xuất hiện của Lục phiên và sự suy giảm quyền lực
của Lục bộ, vai trò của Lục khoa không còn được như trước. Năm 1674, khi chúa
Trịnh định chức trách trăm quan thì chỉ có hai Khoa được nhắc đến là Lại khoa và
Hình khoa, trong đó: “Lại khoa có nhiệm vụ trả lại, bác đi, như thấy Lại bộ bổ
dụng người vô tài thì bác bỏ mà trả lại. Hình khoa có nhiệm vụ trả lại, bác đi, như
thấy Hình bộ xử đoán không công cũng bác đi mà trả lại”. Đến năm 1751, chúa
Trịnh ban hành lệnh dụ mới, chức vụ sáu Khoa phần nào được khôi phục. Lệnh dụ
nêu rõ: “Gần đây duy chỉ có Lại khoa duyệt các chức do Lại bộ bổ dụng, Hình
khoa chuyển giao các nha môn xét lục những vụ án tội nhẹ, Lễ khoa phụng mệnh
ban quan lịch, Công khoa thì ban xuân ngưu, còn Hộ khoa, Binh khoa thì không
chuyên giữ chức vụ gì. Nay nên cho sáu Khoa điều chiếu lệ cũ, hễ các Bộ xét hỏi
không công bằng, đều được bác trả lại”.
Đến đây, Lục khoa trở thành công cụ, “tai mắt” của nhà chúa trong việc
thanh tra, giám sát hoạt động của Lục bộ bên triều đình.
Ngự sử đài
Ở trung ương, quan Ngự sử gồm các chức Đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Thiêm
đô ngự sử và Đề hình giám sát ngự sử. Giám sát ngự sử cùng với Hiến ty là cơ
quan thanh tra, giám sát ở địa phương.
Chức trách của Ngự sử đài có mấy điểm sau: Một là, Đàn hặc các quan:
Quan chế thời Trung hưng cho phép Ngự sử đài có quyền hặc tội mọi chức quan và
cơ quan trong bộ máy chính quyền, từ chức Tể tướng (Tham tụng) trở xuống; Hai
là, tham bàn chính sự: Ngự sử đài có quyền dâng sớ hoặc tấu lên vua hay chúa về
những sai lầm, thiếu sót của chính sự nước nhà cũng như được phép bày tỏ ý kiến
trong mọi quyết định của vua và chúa; Ba là, can gián vua hoặc chúa: thông qua
quyền được tham bàn chính sự thì nhiệm vụ này phần nào vẫn được thực hiện, tuy
nhiên điều này tuyệt đối không được nhắc tới trong các quy định thời Trung hưng;
Bốn là, tham gia vào việc tuyển bổ, khảo xét quan lại: Ngự sử đài chỉ được tham
22
dự vào việc xét bàn thành tích, quyết định thăng giáng những quan lại thuộc nha
môn Đề lĩnh, Phủ doãn, Trấn thủ, Lưu thủ hay Thừa ty; Năm là, Xét xử các án:
dưới thời Trung hưng, Ngự sử đài là cơ quan phúc thẩm cao nhất, có quyền xét xử
mọi án kiện, án ngờ trong Kinh và từ các địa phương gửi về (rất ít trường hợp phải
chung thẩm ở Phủ đường).
Các chức quan Ngự sử thời Lê – Trịnh vẫn giữ vai trò quan trọng nên được
tuyển lựa khá kỹ càng, phần lớn trong số họ đều tiến thân bằng khoa mục. Riêng
chức Đô ngự sử, theo quy định năm 1721 bắt buộc phải chọn trong số những người
đỗ Tiến sĩ, quan tiến triều thì không được dự. Người giữ chức Đô ngự sử thời
Trung hưng thường kiêm chức Thượng thư Lục bộ hoặc Tham tụng, Bồi tụng bên
Phủ liêu. Đến năm 1772, để đảm bảo tính khách quan và độc lập của Ngự sử đài
khi thực thi nhiệm vụ, chúa Trịnh đã đặt lệnh quy định quan chính phủ không được
kiêm giữ chức ngôn quan.
Với quyền hạn và chức trách được giao, Ngự sử đài trở thành cơ quan giữ
vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức chính quyền Lê – Trịnh, có điều khác trước
là cơ quan này thực sự trở thành “tai mắt” của Trịnh vương trong việc giám sát
toàn bộ hoạt động của bộ máy.
2.2.1.5 Các cơ quan chuyên môn
Để thực hiện các công việc ngoài trách nhiệm của Lục bộ và Lục phiên, triều
Lê – Trịnh tiếp tục duy trì hoạt động của các cơ quan chuyên môn, gồm: Quốc sử
giám, Quốc sử viện, Tư thiên giám, Hà đê sứ và các sở về nông nghiệp…
2.2.2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Trên danh nghĩa, hệ thống chính quyền địa phương phụ thuộc vào cả vua và
chúa. Nhưng trong thực tế, do chúa có quyền tuyển bổ, thăng giáng, thuyên chuyển
những quan lại từ hàm tứ phẩm trở xuống và các quan lại địa phương cũng thường
mang hàm từ tứ phẩm trở xuống, nên chính quyền địa phương hầu như là của chúa.
23
Chính quyền địa phương thời Lê – Trịnh về cơ bản vẫn phỏng theo thời
Hồng Đức (các cấp: đạo, phủ, huyện – châu, xã), tuy vậy có một vài thay đổi. Đầu
thế kỷ XVII, chúa Trịnh đổi 13 xứ thừa tuyên thành 13 trấn (đổi đạo thành trấn).
Đến đầu thế kỷ XVIII, trấn lại được đổi lại thành Thừa tuyên. Chính quyền mỗi
trấn là Tam ty (Trấn ty, Thừa ty, Hiến ty). Đứng đầu Trấn ty là Đốc trấn hoặc Trấn
thủ (như ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An) hay Lưu thủ (như ở Thanh Hóa, Hưng
Hóa, Tuyên Quang) chuyên giữ quyền hành về quân sự, an ninh trật tự, xét xử các
vụ kiện, vụ án. Từ năm 1726 lập thêm chức Tuần phủ giúp việc cho Trấn thủ. Thừa
ty chuyên trông coi các công việc quản lý dân tình, hành chính sự vụ, xem xét công
trạng các quan lại trong địa hạt của Trấn, đứng đầu là quan Thừa chính sứ. Hiến ty
chuyên giám sát các hoạt động công vụ của các quan lại trong Trấn, tổ chức đi tuần
để dò xét tình hình và thẩm định lại những việc do Trấn thủ xét xử, đứng đầu là
quan Hiến sát. Dưới trấn vẫn là cấp phủ, huyện (hoặc châu) và xã – đứng đầu là Tri
phủ, Tri huyện (hoặc Tri châu) và các xã trưởng.
2.3 Tổng kết, đánh giá cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước dưới thời Vua Lê –
chúa Trịnh
2.3.1 Về mặt tích cực
2.3.1.1 . Thể chế lưỡng đầu vua Lê chúa Trịnh là cả một hệ thống cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước chặt chẽ - một trong những nguyên nhân làm cho thể
chế này có thể tồn tại lâu dài tới hai thế kỷ
Ngoài đặc điểm là một chế độ “lưỡng đầu” điển hình và chỉ xuất hiện duy
nhất một lần trong lịch sử, nhà nước dưới thời Vua Lê – chúa Trịnh còn mang một
đặc điểm rất lớn của thể chế này là cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước được tổ
chức chặt chẽ, phân định quyền lực rõ ràng thể hiện ở các thể chế nhà nước, giữa
triều đình và phủ chúa, giữa Lục bộ và Lục phiên. Bên cạnh hệ thống các cơ quan
đại thần, Lục bộ ở triều đình thì ở thời Lê - Trịnh cũng thấy xuất hiện một cơ quan
mới của Phủ chúa có chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ giống như các cơ quan đại
24
thần như Ngũ phủ liêu, Lục phiên - hai hệ thống cơ quan này đối trọng và kiểm
soát lẫn nhau. Phương thức tổ chức bộ máy như thế làm cho giữa các cơ quan của
phủ chúa và của vua có sự phân định quyền hạn rõ ràng, có sự phối hợp công vụ
chặt chẽ, để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả cai trị của nhà nước phong kiến, giữ vững
nền thống trị của giai cấp phong kiến đương thời. Giữa Triều đình vua Lê và Phủ
đường chúa Trịnh luôn có sự lồng ghép trong nhau, phối hợp cùng nhau: cùng
đóng ở Thăng Long, không ít chức quan bên triều đình kiêm nhiệm công việc bên
phủ chúa và ngược lại, nhiều công việc nơi phủ chúa lại được thực hiện thông qua
các triều thần; mặt khác, đội ngũ quan lại này lại được tuyển chọn và bổ dụng dựa
trên uy thế của nhà vua và quyền quyết định của các chúa Trịnh.
Lần đầu tiên trong lịch sử một nhà nước phong kiến có hai người đứng đầu
của hai dòng họ, hệ thống cơ quan là triều đình và phủ chúa cùng tồn tại song song.
Trong đó phần lớn các cơ quan bên phủ chúa: Ngũ Phủ liêu, Lục phiên là chưa
từng có trong các nhà nước phong kiến khác. Không chỉ có vậy, để hai hệ thống
này có thể hoạt động bình thường, hiệu quả những người cầm quyền đã có nhiều
biện pháp thiết lập quyền lực, phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa
các cơ quan của hai hệ thống triều đình và phủ chúa. Nhưng dù với phương pháp
nào cũng phải đảm bảo tiêu chí quyền lực tập trung vào phủ chúa, triều đình trở
thành đối trọng song không có thực quyền. Như vậy có thể nói sự hợp lý trong tổ
chức là một trong những nguyên nhân làm cho thể chế này có thể tồn tại lâu dài tới
hai thế kỷ.
2.3.1.2. So với thời kỳ lịch sử trước đó, các văn thư phòng thời Lê – Trịnh có
thay đổi nhiều hơn về số lượng và phân công thực thi nhiệm vụ cũng như trách
nhiệm rõ ràng hơn
So với thời Lê sơ và Mạc, các văn thư phòng triều Vua Lê – chúa Trịnh
nhiều hơn về số lượng và có nhiều thay đổi trong phân công thực thi nhiệm vụ.
Ngoài Thông chính ty, Bí thư giám, Hoàng môn sảnh vẫn được giữ nguyên như
25