Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận chính trị học hồ chí minh bàn về nội dung và phương thức lãnh đạo của đảng cộng sản tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.82 KB, 24 trang )

Tiểu luận Chính trị học
Đề tài: Hồ Chí Minh bàn về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
cộng sản.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Thực tiễn Cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng, vai trò lãnh đạo của
Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã trải qua biết bao gian nan thử thách.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân đồng thời
đã trở thành đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau, song có hai thời
kỳ khác nhau cơ bản: thời kỳ chính quyền chưa về tay nhân dân và thời kỳ
chính quyền đã về tay nhân dân. Do có những thuận lợi và khó khăn khác
nhau giữa hai thời kỳ đó, nên nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
cũng có những điểm khác quan trọng, song về bản chất lãnh đạo trong cả hai
thời kỳ đó vẫn có một điểm chung cơ bản: Lãnh đạo là ngọn đuốc soi đường,
là trí tuệ chỉ đường, là tổ chức, vận động, thuyết phục… không phải là mệnh
lệnh hành chính đối với Nhà nước và xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng được người quán triệt xuyên xuốt ở
nhiều tác phẩm luôn được Đảng ta vận dụng sang tạo và phát triển đặc biệt
là trong những văn kiện Đại hội Đảng. Nhận thức được tính đúng đắn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, đề tài đi sâu vào nghiên cứu và phân tích
những quan điểm của Người về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
để từ đó chỉ ra tính tất yếu khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng.

2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đã và đang được
đề cập rất nhiều ở những bình diện khác nhau. Tuy nhiên đề tài lấy tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho việc nghiên cứu và phân tích toàn


bộ nội dung để từ đó chỉ ra cách thức lãnh đạo của Đảng cũng như vai
trò to lớn của Đảng trong công cuộc giải phóng dân tộc và thực hiện
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

+ Mục đích của đề tài là phân tích nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.


+ Để đạt được mục đích trên đề tài đi sâu vào nghiên cứu vai trò lãnh
đạo của Đảng để chỉ ra nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng,
qua đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng trong tình hình hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng cộng
sản căn cứ theo những bài báo, tài liệu, ghi chép của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong những năm tháng hoạt động cách mạng cũng như những
tư tưởng được đúc kết lại từ sau di chúc của Người.
5. Kết cấu đề tài

Đề tài gồm 3 phần: Phần mở đầu
Nội dung gồm 2 chương
Phần kết luận
CHƯƠNG 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người
Việt Nam cộng sản đầu tiên. Từ đó, Người xác định mục tiêu của cách mạng
Việt Nam là giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Muốn hoàn

thành nhiệm vụ đó, Người khẳng định: "Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy". Vấn đề được
Người quan tâm hàng đầu về mặt tổ chức là sớm lập ra Đảng Cộng sản, một
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cống hiến to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã xây dựng thành công Đảng Cộng sản ở một
nước thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân nhỏ bé, nông dân chiếm
đại bộ phận dân cư. Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là xuất phát từ yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng. Trong quá trình lịch sử, Đảng luôn luôn được nhân dân
tín nhiệm và tỏ rõ vai trò của một tổ chức lãnh đạo, tiên phong trong cuộc
đấu tranh vì độc lập, tự do của đất nước, vì chủ nghĩa xã hội.
1.1 Nhận thức khái niệm “Đảng lãnh đạo” theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đảng lãnh đạo là một khái niệm được các nhà kinh điển Mác-Lênin
nêu ra vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đánh dấu sự trưởng thành về
mặt tổ chức với sự ra đời các đảng của giai cấp công nhân, lực lượng tiên


phong thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động thủ
tiêu chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội mới tiến bộ vì con người, không
còn bóc lột, áp bức, bất công. Từ những phân tích của V.I.Lênin về vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nga đối với quần chúng nhân dân lao động
trong cách mạng vô sản đã cho thấy, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo”
được hiểu là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp, là giai cấp công
nhân - thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân để làm sao có được sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của
đại đa số nhân dân lao động đối với đảng, kể cả khi đảng chưa giành được
chính quyền, nhằm xây dựng một xã hội tiến bộ theo mục tiêu của đảng.
V.I.Lênin viết rằng: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân
dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức đối với giai cấp vô sản, thì

cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ
đó không thể có ngay được và không phải do những cuộc bỏ phiếu quyết
định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian
khổ mới giành được. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để giành
lấy sự đồng tình, để giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động không
phải kết thúc khi giai cấp vô sản đã cướp được chính quyền. Sau khi giành
được chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục như trước, có điều là với
hình
thức
khác

thôi”
Trên cơ sở quan điểm của V.I.Lênin về đảng lãnh đạo, Hồ Chí Minh
không chỉ bằng hành động thực tiễn là sáng lập ra một đảng của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc để lãnh đạo toàn dân trong công
cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà đã
góp phần làm rõ cả nhận thức khái niệm về Đảng lãnh đạo. Theo Người:
“Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và làm cho tốt”; “Đảng lãnh đạo, nghĩa là
tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ
cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”.
Với các luận điểm trên, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” trong quan
điểm của Hồ Chí Minh đã được làm rõ qua các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo” là một khái niệm chỉ sự tác động, ảnh
hưởng của Đảng (qua các tổ chức đảng và đảng viên) đối với quần chúng
nhân dân. Tức chủ yếu chỉ nói đến sự lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng
nhân dân. Hồ Chí Minh không bao giờ sử dụng các khái niệm “Đảng lãnh
đạo Nhà nước” hay “Đảng lãnh đạo Chính quyền”, kể cả sau khi Đảng đã
lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền. Đảng lãnh đạo quần chúng nhân
dân có nghĩa là Đảng phải làm sao trở thành lực lượng tiên phong trong dân
chúng, vạch hướng, xác định được mục tiêu đúng đắn đáp ứng được lợi ích



và nguyện vọng cơ bản của đông đảo quần chúng nhân dân; đồng thời phải
có được uy tín cao do làm tốt sứ mệnh “người đày tớ trung thành của nhân
dân” từ đó mà vận động, thuyết phục được quần chúng nhân dân ủng hộ, đi
theo
Đảng.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo là một khái niệm không gắn với quyền lực.
Tức Đảng không dựa vào quyền lực (quyền lực được hiểu theo nghĩa có sự
cưỡng bức, ép buộc) trong sự ảnh hưởng, trong quá trình tác động của chủ
thể lãnh đạo là Đảng đến đối tượng lãnh đạo là quần chúng nhân dân. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân có đặc điểm là sự vận động
mang tính thuyết phục. Đảng lấy uy tín của mình là một Đảng có “đạo đức
và văn minh” để thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo, ủng hộ, thực hiện
các cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng. Điều đó diễn ra cả trước và
sau khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền.
Thứ ba, khái niệm Đảng lãnh đạo được hiểu như một hình thức của
cuộc đấu tranh giai cấp cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chính từ trong cuộc đấu tranh đó, Đảng đã tỏ ra là
lực lượng “có sức hấp dẫn lớn”, được quần chúng nhân dân tin yêu, ca ngợi,
tự nguyện suy tôn là lực lượng giữ địa vị lãnh đạo. Sau khi Đảng lãnh đạo
nhân dân giành được chính quyền, sự suy tôn đó được kiểm chứng chủ yếu
qua các đợt bầu cử dân chủ và khi mà có đa số đảng viên của Đảng được bầu
vào các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp. Tuy nhiên, nhân dân tự nguyện
suy tôn địa vị lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là Đảng có thể giữ mãi địa
vị đó nếu Đảng đánh mất niềm tin của nhân dân, đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay nếu Đảng không chiến thắng được trong cuộc đấu tranh gian khổ
chống chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ rằng: “Đảng không
thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một
bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu

tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách
đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị
lãnh đạo”; rằng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân”.
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có những nhận thức sớm về
Đảng cầm quyền. Tuy không nêu rõ khái niệm “Đảng cầm quyền” là như thế
nào, nhưng qua những bài viết, bài nói của Người cho thấy rằng, “Đảng cầm
quyền” là khái niệm có những điểm khác với “Đảng lãnh đạo”. Đảng cầm
quyền là một khái niệm gắn với quyền lực. Theo Người, Đảng cầm quyền


cũng tức là Đảng nắm chính quyền, nghĩa là Đảng có quyền lực trong thực
tế. Tuy nhiên, Đảng ta là đội tiên phong không chỉ của giai cấp công nhân
mà là của cả dân tộc, “Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là đảng
của toàn dân; đồng thời, những cán bộ, đảng viên của Đảng trực tiếp thi
hành những nhiệm vụ quản lý trong bộ máy nhà nước đều chỉ là những
người được nhân dân “ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân. Do vậy, ở nước
ta, Đảng nắm chính quyền cũng tức là nhân dân nắm chính quyền, bởi Đảng
chỉ là lực lượng tiêu biểu, đại diện cho toàn dân nắm chính quyền. Cán bộ,
đảng viên trong bộ máy nhà nước có quyền lực nhưng quyền lực đó là thuộc
về nhân dân. Người viết: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân
bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”. Có thể thấy, đây là
một nét đặc thù của Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay. Điều này không
có được đối với các đảng cầm quyền ở nhiều nước trên thế giới, khi mà đảng
cầm quyền chỉ là đảng đại diện cho một lực lượng trong nhiều lực lượng
khác nhau của các giai cấp, tầng lớp dân chúng trong xã hội.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Đảng lãnh đạo”,
“Đảng cầm quyền” nêu trên có ý nghĩa rất lớn đối với chúng ta hiện nay

trong việc nhận thức đúng đắn nội hàm của các khái niệm đó làm cơ sở để
đổi mới phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng một
cách
đúng
hướng.
Trước hết, trong mối quan hệ, tác động của Đảng đối với Nhà nước mà từ
trước đến nay chúng ta coi là quan hệ “lãnh đạo”, “Đảng lãnh đạo Nhà
nước” cần phải có sự nhận thức lại rõ hơn. Đây phải được coi là quan hệ gắn
với quyền lực, do sự “cầm quyền” của Đảng. Tức Đảng có quyền lực, “Đảng
cầm quyền”, nắm quyền lực nhà nước bằng cách “Đảng “hóa thân” sự lãnh
đạo của mình trong sự quản lý của Nhà nước, trên từng phương diện của đời
sống kinh tế-xã hội”. Do vậy, hoạt động của Đảng hiện nay vừa có sự lãnh
đạo, vừa có sự cầm quyền với các phương thức lãnh đạo và phương thức
cầm
quyền
của
Đảng.
Phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có những
điểm giống nhau và khác nhau. Điểm giống nhau chủ yếu ở chỗ: Sự tác
động, ảnh hưởng của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội đều nhằm
hướng tới thực hiện các cương lĩnh, mục tiêu do Đảng đề ra; Đảng phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật. Điểm khác nhau chủ yếu ở chỗ: Phương thức
lãnh đạo của Đảng tập trung ở việc xác định đúng đắn đường lối, mục tiêu
thể hiện trong các cương lĩnh, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của
công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục của Đảng; ở việc toàn Đảng, mỗi
đảng viên luôn tự rèn luyện, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu về mọi


mặt, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thực sự là “người
đày tớ trung thành của nhân dân”, trở thành ngọn cờ dẫn đường, vận động,

thuyết phục nhân dân tự nguyện đi theo, ủng hộ Đảng, phấn đấu thực hiện
thắng lợi đường lối, mục tiêu của Đảng. Phương thức cầm quyền của Đảng
tập trung ở việc thực hiện công tác cán bộ, cắt cử và nắm chắc, kiểm tra,
giám sát những cán bộ ưu tú của Đảng giữ những vị trí chủ chốt của bộ máy
nhà nước để trực tiếp và độc lập với những thẩm quyền nhất định trong việc
điều hành quá trình hoạch định và thực thi các quyết định, chính sách của
chính quyền nhà nước các cấp trên cơ sở pháp luật và các cơ chế đã được thể
chế hóa nhằm thực hiện các định hướng mục tiêu của Đảng.
Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng là hai mặt hoạt động có quan hệ gắn bó
chặt chẽ với nhau. Một mặt, để có và giữ vững địa vị cầm quyền, đòi hỏi
Đảng phải có và giữ vững địa vị lãnh đạo, tức Đảng phải luôn có được vị trí
tiên phong trong toàn xã hội, luôn được nhân dân tin yêu, đồng tình ủng hộ.
Mặt khác, để có và giữ vững địa vị lãnh đạo, thì ngoài việc Đảng phải
thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, tức nâng cao năng lực hoạch định
đường lối, chính sách đảm bảo đúng đắn, hợp lòng dân; làm tốt công tác tư
tưởng tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và toàn xã hội; làm tốt sứ mệnh
“người đày tớ trung thành của nhân dân”, Đảng còn phải thường xuyên nâng
cao năng lực cầm quyền của mình, tức làm tốt công tác tổ chức cán bộ, bảo
đảm hiệu quả cao trong quản lý của Nhà nước bởi đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng ở các cơ quan quyền lực nhà nước và trên mọi lĩnh vực của đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung lãnh đạo của Đảng
Khi thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, có khả năng
tập hợp các tầng lớp nhân dân khác đoàn kết đứng lên làm cách mạng. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Lênin đã viết: "Trong tất
cả các nước, chỉ có sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội với phong trào công
nhân mới xây dựng được một cơ sở vững chắc cho cả hai. Nhưng trong mỗi
nước, sự kết hợp ấy lại là sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng

những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian". Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, con đường của cách mạng Việt Nam đi từ cách
mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào yêu
nước giải phóng dân tộc thì rộng rãi, sôi nổi, còn giai cấp công nhân mới
hình thành, phong trào công nhân còn non yếu; do vậy, quá trình thành lập
Đảng không thể chỉ dựa vào phong trào công nhân mà còn phải dựa cả vào


phong trào yêu nước. Ngay sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm
1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ Đảng ta trở thành Đảng cầm
quyền, vì từ đó, Đảng lãnh đạo cách mạng trong điều kiện đã có chính
quyền. Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không thay đổi bản chất, không thay
đổi mục đích lý tưởng của mình. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng
cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách, các định hướng về chủ trương
công tác; bằng tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức, kiểm tra và
bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lựa chọn, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ phẩm chất, đạo đức và năng lực vào trong các cơ quan
lãnh đạo chính quyền theo đúng quy trình, thủ tục và pháp luật của Nhà
nước. Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật
thiết với nhân dân và luôn luôn chịu sự giám sát của nhân dân. Là lực lượng
duy nhất cầm quyền, Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước nhân dân về
sự bảo vệ toàn vẹn độc lập dân tộc, về sự phát triển của đất nước, về hiệu lực
và hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đảng cầm quyền không chỉ
nắm và lãnh đạo chính quyền mà còn phải nắm và sử dụng các công cụ khác,
hướng chúng phục vụ đắc lực nhất cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Đảng cầm quyền vừa là
người lãnh đạo, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào
kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1930

khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80
năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến
thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên
tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn
soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương" của các sĩ phu
yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng
phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử.
Các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh
chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ có phong trào
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt
Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu
đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những
thắng lợi vẻ vang.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn bám sát thực tiễn cách
mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ
mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ


chiến lược của cách mạng. Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã
trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng
bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng
Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945)
mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng
và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to

lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì
hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường".
Thứ hai, Đảng phải luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định
đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên
giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ
giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã
biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu
tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng
kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt
Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng (7/1945),
Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần
và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù
hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập. Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945),
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả
nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng
với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây
dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực
dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng
chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là
chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến
quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực
lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn
tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ
những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã



xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa
tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành triệt để cách
mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc
trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai
cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản
và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Hiện nay nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất
nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải
xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Trong khi đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, Đảng phải luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn,
sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có
nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật
những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch
sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã
hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước
có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp
dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng
sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói
đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ
những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân,
bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và
nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân

dân là bí quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ
khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy nhưng trọng tâm lại là
đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho
sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
trong những năm tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác
định rõ 8 phương hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực
hiện: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc
quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh.
Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta
sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi
to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng
Cùng với việc giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng

cầm quyền, trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong điều kiện có chính
quyền. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng vẫn luôn là đội tiền phong
của giai cấp công nhân, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, danh dự và
lương tâm của cả dân tộc. Không thay đổi bản chất của Đảng, không
thay đổi mục đích, lý tưởng của mình là: giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng nhân loại, song đã có sự thay đổi căn
bản về điều kiện và phương thức hoạt động của Đảng. Trước những
thử thách mới, với vị thế và quyền lực mới, Đảng cũng đồng thời
đứng trước vấn đề mới, đó là làm thế nào để quyền lực cùng những
đặc quyền không làm tha hoá Đảng, không làm biến chất đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng cách lãnh đạo của Đảng. Ở nhiều
tác phẩm, nhiều bài viết, bài nói chuyện, Người đã đề cập sâu sắc và tỉ mỉ,
cụ thể vấn đề này. Trước hết Người nói về lãnh đạo và kiểm soát. Chẳng
những phải lãnh đạo quần chúng mà lại phải học hỏi quần chúng. "Nghĩa là:


người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh
nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài
kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng
viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình". Người nhấn mạnh
đến việc lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người
"không quan trọng". Hồ Chí Minh đã hơn một lần khẳng định rằng, Đảng
không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Những người cộng sản Việt
Nam không một chút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là; hết lòng,
hết sức phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH hoàn toàn
thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới. Do vậy, hơn bao giờ hết
Đảng cầm quyền càng phải phấn đấu, rèn luyện để trở thành một Đảng thật
trong sạch vững mạnh, phải xây dựng Đảng trên cơ sở “lấy dân làm gốc”.
Nhận thức được vị trí và vai trò của Đảng đối với vận mệnh của dân tộc, để
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ

trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh đặt vấn đề: Lãnh đạo đúng nghĩa là
thế nào? Theo Người, cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà
viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Lãnh đạo đúng nghĩa là:
- Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định
phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những
người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
- Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp
sức thì không xong.
- Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần
chúng giúp mới được.
Người lãnh đạo phải thấu hiểu, phải nhìn từ trên xuống và cũng lắng nghe ý
kiến từ dưới lên. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đòi hỏi: Phải ra quyết định đúng
đắn trên cơ sở nắm vững lý luận, quan điểm, trên cơ sở phân tích tình hình
thực tiễn và lắng nghe ý kiến của nhân dân và với cách nhìn toàn diện, bao
quát và cụ thể. Phải tổ chức thực hiện cho đúng đắn, tổ chức quần chúng
nhân dân thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, những quyết định cụ thể
của từng tổ chức Đảng và cấp uỷ Đảng. Phải kiểm tra, kiểm soát việc thực
hiện quyết định. Hồ Chí Minh cũng bàn kỹ việc lãnh đạo: "Bất kỳ công việc
gì, cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: một là liên hợp chính sách
chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng".


Thế nào là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng? Người cho rằng: bất
kỳ việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung, không thể động
viên khắp quần chúng. "Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung, làm khắp
cả một lúc, mà không trực tiếp nhằm một nơi nào đó, thực hành cho kỳ
được, rồi lấy kinh nghiệm nơi đó mà chỉ đạo những nơi khác, thì không thể
biết chính sách của mình đúng hay sai. Cũng không thể làm cho nội dung
của chính sách đó đầy đủ, thiết thực". Việc lãnh đạo, chỉ đạo chung, bao quát
phải đi liền với thực hiện có trọng điểm, từ kinh nghiệm của điểm mà phát

triển chỉ đạo ra diện rộng. Đó là cách lãnh đạo chắc chắn và có hiệu quả.
Điều đó cũng đòi hỏi người lãnh đạo cùng với nắm những vấn đề chung, chỉ
đạo chung phải chú ý những vấn đề cụ thể, thiết thực. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh "Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những việc thiết
thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới, để
rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ
phân". Đó là một cách vừa lãnh đạo vừa học tập.
Thế nào là liên hợp lãnh đạo với quần chúng? Câu hỏi đó được Hồ Chí
Minh đặt ra nhiều lần và được lý giải cặn kẽ đồng thời cũng khái quát thành
một nguyên tắc trong sự lãnh đạo của Đảng. "Bắt kỳ việc gì (thí dụ việc
chỉnh đốn Đảng), người lãnh đạo phải có một số người hăng hái làm trung
kiên cho sự lãnh đạo. Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hợp với quần
chúng, công việc mới thành". Hồ Chí Minh chỉ rõ, nếu chỉ có sự hăng hái
của nhóm trung kiên, mà không liên hợp với sự hăng hái của quần chúng,
nhóm trung kiên sẽ phải chạy suốt ngày mà không kết quả mấy. Nếu chỉ có
sự hăng hái của quần chúng mà không có sự hăng hái của nhóm trung kiên
để tổ chức và dìu dắt, thì sự hăng hái của quần chúng sẽ không bền và không
thể tiến tới. Phân tích lực lượng quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bất kỳ
nơi nào quần chúng cũng có ba hạng người: hăng hái, vừa vừa và kém.
Những người vừa vừa là nhiều hơn hết. Những người hăng hái và kém thì ít
hơn. "Vì vậy, người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự
lãnh đạo, do trung kiên đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém tiến
nên". Người cũng cho rằng, nhóm trung kiên đó do công tác và tranh đấu
trong quần chúng mà nảy nở ra chứ không phải tự ngoài quần chúng, xa
cách quần chúng mà có được. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: sự lãnh đạo trong
mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng "Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc lẻ tẻ của quần chúng, rồi
phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi
đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, và làm cho nó thành ý kiến
của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó.

Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng


hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu
điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích làm cho quần
chúng giữ vững và thực hành". Cứ như thế, theo Hồ Chí Minh, lần sau chắc
đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. "Đó là cách lãnh đạo cực
kỳ tốt". Người cũng cho rằng, vì không biết gom góp ý kiến của quần chúng,
kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của những người lãnh đạo
thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế. "Vì vậy, trong công việc
chỉnh đốn Đảng, cũng như trong mọi công việc khác, quyết phải thực hành
cách liên hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách chung với
chỉ đạo riêng". Chính điều đó "phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu, chủ
quan, bàn giấy". Hồ Chí Minh cũng nêu rõ người lãnh đạo học hỏi quần
chúng nhưng không theo đuôi quần chúng. Người cho rằng, dân chúng rất
khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng,
phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng. Mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công
tác, mỗi một chính sách của Đảng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm
của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Người nhấn
mạnh: "Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng
hộ, việc gì làm cũng không nên".
Theo Hồ Chí Minh, làm việc với dân chúng có hai cách:
Thứ nhất, làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. ép dân
chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột
vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo. Có nhiều cán bộ làm theo cách đó.
Họ còn tự đắc rằng: làm như thế, họ vẫn "làm tròn nhiệm vụ", làm được
mau, lại không rầy rà. Họ quên rằng: Đảng ta và Chính phủ ta làm việc là
làm cho dân chúng. Việc gì, cũng vì lợi ích của dân mà làm. Làm theo cách
quan liêu thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng
về mặt chính trị là thất bại. Thứ hai, làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng

hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng
hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm. Như thế
hơi phiền một chút, phiền cho những người biếng học hỏi và giải thích.
Nhưng việc gì cũng nhất định thành công". Hồ Chí Minh phân tích một cách
cặn kẽ để chỉ ra sự nhận thức không đúng trong cách lãnh đạo, làm việc của
cán bộ, đảng viên. "Có người nói rằng: mọi việc họ đều phụ trách trước
Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách
trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà
phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì
Đảng và Chính phủ vì dân mà làm các việc và cũng phụ trách trước nhân
dân. Vì vậy nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ
trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và


Chính phủ". Lắng nghe ý kiến, bàn bạc với dân chúng, học hỏi dân chúng
nhưng không theo đuôi dân chúng. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Cố nhiên, không
phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ phải dùng
cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh... Chọn lấy ý kiến đúng, đưa
ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để nâng cao dần dần sự giác ngộ của
dân chúng".
Nhấn mạnh quyết tâm "bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh lệnh",
Hồ Chí Minh đề ra những nguyên tắc trong thực hiện sự lãnh đạo của Đảng:
- Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân
chúng.
- Tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách
giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân
chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa
chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.
- Chớ khư khư giữ theo "sáo cũ". Luôn luôn phải theo tình hình thiết thực
của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng mà tổ

chức họ, tuỳ hoàn cảnh thiết thực trong nơi đó, và lúc đó, đưa ra tranh đấu.
- Chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập
trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành đường lối để lãnh đạo quần
chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà
hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân.
- "Phải đưa chính trị vào giữa dân gian". Trước kia, việc gì cũng từ "trên dội
xuống". Từ nay việc gì cũng phải từ "dưới nhoi lên".
Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội cũng là từ lực lượng của nhân dân, vì lợi ích, sự sung
sướng và hạnh phúc của nhân dân. Sự nghiệp của Đảng và nhân dân là thống
nhất. Đảng cũng không có lợi ích nào khác là lợi ích của giai cấp, dân tộc và
nhân dân. Vì vậy, xử lý đúng đắn nhất mối quan hệ giữa Đảng và dân vừa là
nội dung, phương pháp lãnh đạo của Đảng vừa và sự bảo đảm nâng cao chất
lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng trí tuệ và
kinh nghiệm bản thân đã đưa ra những chỉ dẫn, những ý kiến rất giản dị
nhưng vô cùng sâu sắc, toàn diện về nội dung lãnh đạo, cách lãnh đạo của
Đảng. Những chỉ dẫn đó có ý nghĩa thiết thực đối với việc nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Những điều
chỉ dẫn của Bác không những có giá trị đối với sự lãnh đạo của Trung ương
mà còn rất cụ thể, thiết thực đối với từng tổ chức Đảng, từng cấp uỷ Đảng và
đối với từng cán bộ, đảng viên. Thước đo trình độ, hiệu quả lãnh đạo của


Đảng là kinh tế của đất nước phát triển, chính trị-xã hội ổn định, lòng tin của
nhân dân được nâng cao, đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần của nhân
dân không ngừng được cải thiện, hệ thống chính trị vững mạnh, quốc phòng
an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại được mở rộng và vị thế của đất
nước không ngừng tăng lên trên trường quốc tế. Hãy nhìn nhận những kết
quả đáng tự hào đó để thấy rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
với tư cách một Đảng cầm quyền. Đại hội IX của Đảng (4-2001) và nhiều

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã có những bước đổi mới
quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng từ phát huy dân chủ trong Đảng,
trong xã hội để quyết định những vấn đề lớn của đất nước, đến cải tiến quy
trình ra Nghị quyết chú ý đến tính cụ thể, thiết thực của các vấn đề đặt ra. Từ
quá trình chỉ đạo thực tiễn đến việc chú trọng tổng kết thực tiễn kết hợp với
nghiên cứu lý luận để có những điều chỉnh trong nhận thức và hành động.
Chú trọng tăng cường quan hệ giữa Đảng và dân và từng bước khắc phục
bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy Đảng và Nhà nước các
cấp. Cần có cách nhìn tổng thể để thấy những cái được lớn, đồng thời cũng
thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo để
không ngừng hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng. ở các
địa phương, nội dung và cách lãnh đạo của Đảng bộ, cấp uỷ lại càng phải cụ
thể, thiết thực theo như chỉ dẫn của Bác Hồ. Làm sao cho mỗi xã, phường,
huyện, quận, tỉnh, thành phố, thực hiện tốt đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, không để người dân còn đói nghèo, lam lũ, đẩy lùi tệ nạn xã
hội và tiêu cực làm cho nhân dân sung sướng, hạnh phúc. Làm được như thế
nghĩa là sự lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả.
CHƯƠNG II: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
2.1 Vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay
Tiếp tục sự nghiệp và truyền thống của Đảng đã giữ vai trò lãnh đạo cách
mạng ngay khi ra đời, sau khi giành được chính quyền, từng bước thực hiện
chuyển biến giai đoạn cách mạng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo tiến trình cách mạng của dân tộc. Đây
là thực tế lịch sử đã diễn ra ở miền Bắc từ tháng 7 nǎm 1954 và trên cả nước
từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm 1975- giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đã và sẽ tiếp
tục là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi, vì cách mạng xã hội chủ nghĩa
là cuộc cách mạng tự giác. Chỉ có Đảng, người nắm vững lý luận Mác Lênin, mới nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật phát triển của
xã hội, đề ra đường lối và phương pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ



nghĩa phù hợp với thực tiễn nước ta. Trong thời kỳ quá độ, tất yếu còn tồn
tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, có những lợi ích và nhận thức khác nhau,
nhưng sự lãnh đạo của Đảng đã bảo đảm thực hiện đúng đắn các mối quan
hệ kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động - mục
tiêu và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Về tổ chức thực tiễn, do
trong xã hội có nhiều tổ chức khác nhau, cần quy tụ sự hoạt động của mọi tổ
chức xã hội nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng
đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đóng vai trò người tổ chức, phối
hợp sự hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, đoàn thể và tổ chức xã hội.
Trước đây, ở miền Bắc đã từng có những lực lượng thù địch và đối lập đòi
Đảng chia quyền lãnh đạo. Ngày nay, lại có một số người chịu ảnh hưởng
của thuyết đa nguyên chính trị, đòi lập chế độ đa đảng, đòi xét lại vai trò
lãnh đạo của Đảng, đòi Đảng trả lại quyền cho "nhân dân"... thực chất là tìm
cách thủ tiêu, hoặc hạ thấp vai trò của Đảng. Song sự thật lịch sử dân tộc ta
từ khi có Đảng đã chứng tỏ rằng Đảng ta nắm vai trò duy nhất lãnh đạo cách
mạng là một tất yếu lịch sử. Có sự lãnh đạo của Đảng ta mới có những thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Tình trạng có nhiều lực lượng đối lập trong xã
hội không phải là biểu hiện của dân chủ chân chính; ngược lại, làm trở ngại,
khó khǎn cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Khẳng định vai trò
lãnh đạo duy nhất của Đảng ta là bài học lớn của lịch sử Đảng và lịch sử dân
tộc.
2.1.1 Về xác định đường lối chính trị
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp đúng đắn những nguyên
lý phổ biến với đặc điểm dân tộc. Đồng chí Nguyễn ái Quốc là người Việt
Nam đầu tiên tiếp thu và khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi
rõ, Đảng lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc. Nghiên cứu sự lãnh đạo
của Đảng từ khi ra đời đến nay, thấy rõ: khi quyết định đường lối trong cách

mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong
lãnh đạo khởi nghĩa cũng như chiến tranh cách mạng, Đảng ta đều quán triệt,
vận dụng sáng tạo những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
coi đó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Đảng luôn coi trọng giáo
dục phương pháp tư duy lý luận khoa học, tránh mắc giáo điều hay xét lại,
phủ nhận những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ, sáng tạo.Muốn vận dụng đúng đắn học thuyết Mác Lênin phù hợp với hoàn cảnh và đặc điểm dân tộc, đòi hỏi phải có tinh thần
độc lập, tự chủ, với phương pháp tư duy khoa học, sáng tạo. Nét nổi bật và
cũng là cơ sở của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng ta và


đồng chí Nguyễn ái Quốc đánh giá đúng sức mạnh của yếu tố dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc;
nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, lập mặt trận đoàn kết dân tộc trên cơ
sở liên minh công nông, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại.Đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân, đó là quy luật phổ biến.Để vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin một cách sáng tạo, cần chống bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
Bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương,
chính sách cụ thể, giữa chỉ đạo chiến lược và hình thức, bước đi cụ thể.
Trong lãnh đạo cách mạng, điều quan trọng hàng đầu là vạch ra đường lối
chiến lược đúng đắn. Kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta chỉ rõ: đường lối
chiến lược đúng bảo đảm cho cách mạng phát triển thuận lợi, vững vàng
trong mọi tình huống, đoàn kết được nội bộ, do đó mà cách mạng chắc chắn
thành công. Song nghệ thuật lãnh đạo đòi hỏi phải cụ thể hoá đường lối
thành chủ trương, chính sách, biện pháp thực hiện, phải đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ trước mắt, bước đi, hình thức tổ chức, phương pháp tiến hành cụ
thể. Hướng vào thực tiễn mà kiểm nghiệm, hoàn chỉnh cụ thể hoá đường lối.
Để có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, Đảng phải tuân theo các quy
luật khách quan.Coi trọng khảo sát thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, trân
trọng sáng kiến của các địa phương và cơ sở, đó là những kinh nghiệm quý,

rất cần thiết cho việc hoàn chỉnh, cụ thể hoá đường lối, chính sách ngày càng
đúng đắn.
2.1.2 Về công tác tư tưởng và xây dựng Đảng về tư tưởng
Nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, một nhiệm vụ
trọng yếu là thường xuyên tiến hành công tác tư tưởng trong Đảng đồng thời
lãnh đạo công tác tư tưởng trong mọi tổ chức và toàn xã hội. Công tác tư
tưởng có nhiệm vụ góp phần làm phong phú và quán triệt học thuyết MácLênin, tạo cơ sở cho việc đề ra đường lối chính trị đúng đắn, truyền bá thế
giới quan và nhân sinh quan cách mạng cùng đường lối của Đảng trong các
cấp bộ đảng và toàn dân; nâng cao nhận thức và cổ vũ nhân dân hành động
theo con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra; đấu tranh chống những
quan điểm tư tưởng sai trái, phản động. Cần nắm vững công tác lý luận, làm
cho lý luận luôn bám sát thực tiễn, thực sự có tác dụng chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách. Sự lạc hậu
về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bệnh giáo điều, sùng bái
kinh nghiệm nước ngoài; mặt khác, lại chủ quan, duy ý chí, không coi trọng
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang
đòi hỏi đảng phải đổi mới tư duy lý luận , nhất là tư duy về chủ nghĩa xã hội.


Để làm việc đó, cần khắc phục nếp nghĩ giáo điều, chủ quan, duy ý chí, đề
cao tinh thần sáng tạo, đi sâu tổng kết quá trình cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nước ta, tham khảo kinh nghiệm của các nước, từ đó rút ra
những kết luận, từng bước đổi mới và nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta.
2.1.3 Về lãnh đạo tổ chức và tổ chức thực hiện
Vai trò lãnh đạo chính trị đòi hỏi Đảng nắm vững và làm tốt mặt lãnh đạo tổ
chức và tổ chức công tác thực tiễn. Theo học thuyết Mác - Lênin, Đảng
không phải là một câu lạc bộ, mà là đội tiên phong trong cuộc đấu tranh
nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, Đảng hành động cách mạng
bằng tổ chức, do đó phải gắn việc xác định đường lối, lãnh đạo tư tưởng với
lãnh đạo tổ chức. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã nhận rõ ý nghĩa trọng

yếu của công tác tổ chức. "Nếu công việc đó làm không đúng thì nguy hại
cho Đảng rất lớn". Thử thách lớn đầu tiên đối với nǎng lực lãnh đạo tổ chức
của Đảng ta là ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám, nhất là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, chứng tỏ Đảng ta không chỉ thành
công trong việc vạch đường lối chính trị, mà còn trong lãnh đạo tổ chức. Có
thể khẳng định khi hoạt động bí mật, khi công khai, trong lãnh đạo khởi
nghĩa cũng như tiến hành chiến tranh cách mạng, Đảng ta đều coi trọng công
tác tổ chức, từng bước đạt tới trình độ khoa học, bảo đảm động viên, tập hợp
mọi lực lượng và nǎng lực đó một cách có hiệu quả. Chuyển sang giai đoạn
cách mạng xã hội chủ nghĩa, công tác tổ chức có quy mô rộng lớn, với
những nội dung mới mẻ, với những khó khǎn, phức tạp hơn nhiều. Đảng trở
thành người lãnh đạo thực tế toàn bộ xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, vǎn hoá, tư tưởng... Đảng không chỉ lãnh đạo tổ chức thực hiện
những nhiệm vụ chính trị, mà còn lãnh đạo việc tổ chức quản lý toàn bộ đời
sống xã hội. Mặc dù còn nhiều yếu kém, và khuyết điểm trong tổ chức thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, song Đảng ta cũng đã có những thành công
nhất định và từng bước nâng cao tri thức, kinh nghiệm về mặt này.
2.2 Những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
trong tình hình hiện nay
Thứ nhất là tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Điều này có nghĩa là
phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó không ngừng nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên,
trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ


tình huống nào; kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ
hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.

Hai là nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. Tăng
cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về
đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới; không ngừng
phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý
luận; tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích
tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý
luận. Đảng phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa
tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng; tuyên
truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ
vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt,
giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng. Trong Đảng phải đoàn kết và
kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận xã hội; đổi mới hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng
thiết thực, hiệu quả.
Thứ ba, cán bộ Đảng viên phải rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng
viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Cán bộ, đảng
viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân
dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức
đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng,
hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước; đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng. Bên cạnh đó triển khai thực hiện tốt

Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất lượng
công tác vận động nhân dân; định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư
cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi
phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống
chính trị. Đảng phải tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ


chức của các tổ chức trong hệ thống chính trị; sớm tổng kết việc thực hiện
sáp nhập một số ban, bộ, ngành trung ương để có chủ trương phù hợp; kiện
toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công
tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược; tổng kết, đánh giá đúng thực trạng,
đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt
động của các tổ chức đảng, nhất là của đảng đoàn, ban cán sự đảng. Đặc biệt
phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ
ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương;
giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên
tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
Thứ năm, Đảng phải kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đảng viên. Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các
loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; kiện toàn tổ chức của hệ thống
chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Hơn nữa đổi
mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng
đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng; xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ
thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức lối sống của
đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền
phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện

nhiệm vụ được giao; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư
cách đảng viên.
Sáu là đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Đảng tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới
tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác
cán bộ; xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có
tài. Bên cạnh đó không ngừng nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp; làm tốt công tác quy
hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia
trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; đánh giá và sử
dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung,
hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm
thước đo chủ yếu; không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ
nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với


cán bộ lãnh đạo, quản lý; kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất,
năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút. Có chế tài xử lý
nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy
tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương; thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh
đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư tưởng cục
bộ, khép kín; tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ. Chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu
ngành; đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ
tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển. Nghiên cứu ban hành và
thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề về
lịch sử chính trị; giải quyết dứt điểm những vụ việc tồn đọng.
Bảy là đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Các cấp uỷ,

tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng và phải chú trọng kiểm tra, giám sát
người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân
các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của
Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư
pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và
thẩm quyền của mỗi cơ quan. Ngoài ra phải hoàn thiện quy chế phối hợp
giữa Ủy ban kiểm tra Đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp
luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xừ lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
Cuối cùng là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Tập trung rà
soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy
chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; khắc phục tình trạng
Đảng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà
nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đổi mới phong cách, lề
lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến địa
phương, cơ sở; thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh
thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của
người đứng đầu; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng
viên, cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân cùng với đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị
quyết của Đảng; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc


phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp, sâu
sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm.


Kết luận
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát triển.
Để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm bắt thời
cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ, nâng cao tầm trí tuệ. Mỗi
cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, chung tay xây dựng Đảng ta thực sự trong
sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”. Đảng ta là Đảng cầm quyền.
Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản lĩnh
chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế
giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Muốn đề ra đường lối, chủ
trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu
cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường
lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong hoạch định đường lối phải
tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác
dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng
kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng. Việc
xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh “Đảng… phải có chủ nghĩa làm cốt”. Đảng phải kiên định nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ
nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết
trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy
yếu thoái hóa, biến chất của tổ chức Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của
Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất ổn định chính trị – xã hội là một nguy cơ
lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần
thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát
triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Toàn Đảng phải

quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong
thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng xã
hội mới là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ
vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để


tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến
đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và
tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám
nghĩ dám làm,… không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người
trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dán tộc, vấn đề có ý
nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng. Ba là, kiên
quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong
Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể
Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà
nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong
của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Cuối cùng là tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai
trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc
sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xác định Hiến pháp và pháp luật là quyền lực
tối thượng, điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó, việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan trọng,

thể hiện năng lực cầm quyền của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng hiện nay phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Ngày nay, vai trò của các
tổ chức chính trị – xã hội ngày càng mở rộng. Đảng tiếp thu những ý kiến
của các tổ chức đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ
trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn
xã hội. Cần quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Đảng không
thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là
một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và trung thực nhất. Chỉ trong
đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính
sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa
vị lãnh đạo”.
Danh mục tài liệu tham khảo


1. Bùi Đình Phong. Phạm Ngọc Anh, Một Số Vấn Đề Trong Tư
Tưởng Hồ Chí Minh Về Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nxb Lao động.
2. Nhiều Tác Giả (06- 2009), Giáo Trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia.
3. Nhiều tác giả( 05- 2006), Đổi Mới, Chỉnh Đốn Đảng, Nâng
Cao Năng Lực Lãnh Đạo Và Sức Chiến Đấu Của Đảng, Nxb Quân
đội nhân dân.
4. Nhiều Tác Giả( 02- 2009), Giáo Trình Đường Lối Cách Mạng
Của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.
5.
Nhiều Tác Giả( 09- 2008), Hỏi Đáp Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về
Đảng Cộng Sản, Nxb Quân đội nhân dân .
6. Thanh Quang( 01- 2009), Vận Dụng Và Phát Triển Tư Tưởng
Hồ Chí Minh Trong Xây Dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng, Nxb Văn hóa
Thông tin .

7. Thành Duy( 07- 2005), Tư Tưởng Hồ Chí Minh - Những Nội
Dung Cơ Bản, Nxb Phương Đông.
8. Trịnh Huỳnh Thúc.( 04- 2006), Giáo Trình Lịch Sử Đảng
Cộng Sản Việt Nam (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng), Nxb
Chính trị quốc gia.



×