Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn vận DỤNG THƠ văn TRONG dạy học LỊCH sử ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.29 KB, 21 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT XUÂN THỌ
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG THƠ VĂN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Người thực hiện: Hà Thụy Ngọc Diễm
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: Lich sử



- Lĩnh vực khác: ....................................................... 
Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
 Mô hình
 Phần mềm
 Phim ảnh
 Hiện vật khác

Năm học: 2012 – 2013



SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

BM02-LLKHSKKN

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Hà Thụy Ngọc Diễm
2. Ngày tháng năm sinh: 18/02/1987
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Ấp Thọ Hòa- Xã Xuân Thọ- Huyện Xuân Lộc- Tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại: 01675723063
ĐTDĐ:
6. Fax:

(CQ)/ 0613731769

(NR);

E-mail:

7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Xuân Thọ- Xuân Lộc- Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2010
- Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Lịch Sử
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn lịch sử
Số năm có kinh nghiệm:3
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:


2


BM03-TMSKKN

VẬN DỤNG THƠ VĂN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG
PHẦN I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1-Cơ sở lý luận:
Trong đời sống xã hội, lịch sử đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó vừa là
một công cụ của công tác sư phạm, lại có tác dụng giáo dục trí tuệ và tình cảm. Tri
thức lịch sử là một trong những bộ phận quan trọng nhất của nền văn hóa chung
của nhân loại và không có bộ phận quan trọng này thì không thể coi việc giáo dục
con người đã hoàn thành đầy đủ. Bác Hồ, lúc sinh thời đã rất quan tâm đến việc
học và truyền bá kiến thức lịch sử nước nhà. Câu thơ mở đầu trong quyển “Lịch sử
nước ta” của Bác được xem là “Tuyên ngôn”, “Lời chỉ dẫn sư phạm” trong giáo
dục lịch sử nói chung, trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông nói riêng: "Dân ta
phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" Trước hết phải “biết” và
trên cơ sở ấy để “tường” (“hiểu sâu sắc”) lịch sử, từ nguồn gốc dân tộc, từ thuở ban
đầu dựng nước và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho cuộc sống hiện
tại và tương lai Lịch sử không chỉ góp phần phát triển trí tuệ mà trong một chừng
mực không nhỏ, còn là công cụ giáo dục tình cảm , đạo đức, phẩm chất. Đó là giáo
dục lòng yêu nước, trung thành với dân tộc, với cách mạng, với Đảng ; là việc noi
gương người xưa để hành động trong ngày nay. Vì vậy, từ xưa, lịch sử được xem
là “triết lí của việc noi gương” (lịch sử treo “một tấm gương sáng” để người đời
sau noi theo, qua những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá khứ). Lịch sử có vai trò
to lớn như vậy, nhưng hiện nay trong xã hội và nhà trường, môn Lịch sử vẫn còn bị
xem là môn phụ. Học sinh thì học chiếu lệ, dạy học Lịch sử thì chưa được quan
tâm đúng mức. Giới trẻ hầu như chỉ tiếp cận với lịch sử đất nước qua các bài giảng

của thầy cô trong nhà trường và sách giáo khoa Lịch sử. Trong khi đó, học sinh lại
biết nhiều về lịch sử Trung Hoa qua các con đường đa dạng và dễ tiếp nhận. Làm
sao không bị hấp dẫn bởi những trang lịch sử Trung Hoa được trình bày sinh động
qua những bộ phim dã sử đầy kịch tính cùng những diễn viên nổi tiếng, xinh đẹp?
Vậy thực trạng đó bắt nguồn từ đâu? Đã có rất nhiều ý kiến thể hiện sự quan tâm
đặc biệt đến vấn đề dạy sử và học sử từ trước đến nay. Đặc biệt trong những năm
gần đây, khi nhìn vào kết quả học tập nói chung ở các khối trường phổ thông và
nhìn vào kết quả của các kỳ thi đại học nói riêng, toàn xã hội đã không thể không
3


chú ý đến bộ môn Lịch sử. Một thực trạng đó là: Kết quả học tập môn lịch sử của
học sinh rất yếu kém và đáng báo động. Vậy nguyên nhân là do đâu? Phải chăng
dạy sử và học sử hiện nay chưa tìm ra một “kim chỉ nam” chuẩn xác để định một
hướng đi chung? Như vậy, chúng ta thấy rằng: Dạy sử và học sử hiện nay đang thu
hút sự chú ý của toàn xã hội.
Trong nhà trường Phổ thông, cũng như các bộ môn Khoa học Tự Nhiên
(KHTN), các môn học thuộc KHXH như Văn học, Lịch sử,… có vai trò hết sức to
lớn trong việc hình thành và giáo dục nhân cách, đạo đức đối với học sinh nên lại
càng liên quan và hệ thống hơn.
2. Cơ sở thực tiễn:
“ Lịch sử là sự kiện”. Đó là một tổng kết mà ai trong chúng ta- những giáo
viên dạy sử cũng có thể thấy được. Bản thân những sự kiện lịch sử vốn đã khô
khan, nhất là những bài viết về các trận đánh có rất nhiều những con số về ngày,
tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những số liệu về các thành tựu đã đạt được trên
mọi lĩnh vực. Để chuyển tải cho học sinh những số liệu một cách khô cứng như
vậy, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng phương
pháp. Thực tế cho thấy, giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở cấp THPT nói chung
thường giảng dạy một cách khô khan, cứng nhắc, nặng về cung cấp kiến thức, sự
kiện một cách đơn thuần, truyền thụ kiến thức theo phương pháp đọc - chép do vậy

không gây được hứng thú học tập cho học sinh, làm cho tiết học trở nên nặng nề.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho học sinh chưa thích học
bộ môn Lịch Sử.
Tuy nhiên, trái với thực trạng trên. Qua giảng dạy và dự giờ đồng nghiệp
trong 2 năm qua, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất
quý. Đó là: khi áp dụng kiến thức thơ, văn, ca dao vào việc giảng dạy Lịch sử sẽ
gây hứng thú cho học sinh trong việc tiếp thu bài. Những tiết học như vậy trở nên
sinh động hẳn, để lại trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc chắn những
sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn. Qua
thể nghiệm nhiều lần dạy hai cách ở 1 tiết học: một là giảng dạy không vận dụng
kiến thức thơ văn, ca dao; hai là có vận dụng kiến thức thơ văn, ca dao vào trong
tiết dạy, tôi thấy chất lượng hai tiết dạy hoàn toàn khác nhau, kể cả tâm lý, hứng
thú của người dạy cũng hoàn toàn khác nhau.

4


Trên thực tế, sự phong phú của nguồn thơ, văn, ca dao, dân ca, chuyện cổ....
viết về Lịch sử hoặc liên quan đến Lịch Sử vô cùng phong phú, nếu người giáo
viên biết cách vận dụng, chắc chắn sẽ đạt kết quả cao trong giảng dạy lịch sử dân
tộc. Vì vậy, thông qua đề tài nghiên cứu này, tôi muốn góp phần nhỏ trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục ở bộ môn lịch sử
PHẦN II – GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Như đã nói ở trên, nguồn thơ, văn… của chúng ta (liên quan đến Lịch sử) rất
phong phú. Trong điều kiện chủ quan và khách quan cho phép, tôi chỉ giới hạn
phạm vi tìm hiểu là: Bước đầu khai thác và vận dụng một số kiến thức thơ, văn
(chủ yếu là thơ, ca dao) vào việc giảng dạy một số bài trong chương trình Lịch sử
Lớp 10, 12 THPT
PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng, phạm vi vận dụng của đề tài là chương trình Lịch sử lớp10, 12.

Vì vậy, trước hết cần phải nghiên cứu kỹ chương trình này. Đặc biệt là các bài có
thể khai thác, vận dụng được. Trong khi thực hiện công đoạn này, cần phải liên hệ,
so sánh và đặt nó trong mối quan hệ liên quan với chương trình môn Văn học
lớp10, 11, 12 - bậc PTTH. Đây là một thao tác rất quan trọng, góp phần xác định
được đúng mức độ vận dụng của đối tượng là học sinh lớp10, 12, tránh sa đà, ôm
đồm.
2. Tiến hành sưu tầm các bài thơ, văn ca dao… có quan hệ sát với nội dung
các bài Lịch sử thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Cần lưu ý rằng, không phải
trong một bài thơ liên quan ta có thể khai thác được hết cả bài mà nên lựa chọn
những đoạn thơ sát nhất, “đắt” nhất để sử dụng.
3. Chọn lựa, phân loại các kiến thức thơ, văn ca dao phù hợp với yêu cầu,
phương pháp giảng dạy lịch sử theo từng mảng: thơ về tiểu sử, cuộc đời nhân vật
Lịch sử; thơ văn về diễn biến trận đánh hay biến cố Lịch sử, thơ văn trần thuật về
tội ác của giai cấp thống trị, của bọn xâm lược… Sau khi phân loại, tiến hành sắp
xếp nguồn tư liệu đó thành từng chủ đề.
4. Khai thác, vận dụng các kiến thức đó vào từng bài lịch sử đã giới hạn.
5. Góp ý với các đồng nghiệp khai thác và vận dụng kiến thức thơ, văn vào
việc giảng dạy trong khi bản thân mình trực tiếp dự giờ để có điều kiện kiểm
chứng và so sánh.
6. Đi thực tế ở một số trường phổ thông trung học nếu điều kiện cho phép.
PHẦN IV: NỘI DUNG
5


I-

KHAI THÁC MỘT SỐ KIẾN THỨC THƠ- CA DAO VẬN DỤNG VÀO
VIỆC GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI LỊCH SỬ LỚP 1O
Câu thơ, lời nhạc, tục ngữ, ca dao đều là những cảm xúc được bật ra tự nhiên
từ tình cảm chân thực và có được từ trải nghiệm cuộc sống. Ở bộ môn lịch sử, nếu

giáo viên biết vận dụng những dẫn chứng từ thơ ca thì tiết dạy sẽ sinh động và hiệu
quả hơn nhiều.
Ca dao là một bộ phận của văn học. Nó không chỉ là một sản phẩm nghệ thuật
dân gian mà còn tâm thức của dân gian về những hiện tượng lịch sử, xã hội nhất
định. Ca dao phản ánh lịch sử trực tiếp hoặc gián tiếp, ở những góc độ, những cung
bậc khác nhau. Kí ức dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong ca dao thì
thường không được ghi rõ về mốc thời gian, nhưng nó rất dễ nhớ bởi nó thường
được diễn đạt bởi thể thơ lục bát, bằng những hình ảnh sinh động và phản ánh rất
chân thực cái nhìn của dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà nhân dân
quan tâm.
Vì vậy, chúng ta cũng có thể khai thác ca dao như là một nguồn tư liệu bổ ích
phục vụ cho các bài giảng lịch sử. Cụ thể ở chương trình lịch sử lớp 10 có thể áp
dụng ở một số bài:
1-Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam
- Giáo viên có thể giới thiệu sự ra đời của nhà nước Văn Lang Âu Lạc, qua đó
khắc sâu cho học sinh về ngày dỗ tổ Hùng Vương: Khoảng thế kỉ VII trước công
nguyên, người Việt cổ đã xây dựng nhà nước đầu tiên trong lịch sử - nước Văn
Lang. Đến cuối thế kỉ III trước công nguyên, quân Tần phát binh xâm chiếm nước
ta. Nhân dân Văn Lang đã đoàn kết với người Tây Âu cùng tiến hành cuộc kháng
chiến chống Tần. Lúc bấy giờ vua Hùng đã già yếu, lại không có con trai nên thủ
lĩnh người Tây Âu là Thục Phán đã trở thành người chỉ huy tối cao. Cuộc kháng
chiến thắng lợi, nước Âu Lạc ra đời trên cơ sở sát nhập Tây Âu với Văn Lang.
Thục Phán lên ngôi vua và xưng là An Dương Vương. Để tưởng nhớ công ơn các
vua Hùng, Thục Phán đã cho dựng cột đá thề đời đời thờ cúng vua Hùng. Tục giỗ
tổ Hùng Vương xuất phát từ đây. Nói về tục giỗ tổ Hùng Vương của dân tộc dân
gian có câu ca:
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ tổ tháng 3 mồng 10.
Hoặc:
6



Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Sau khi lên ngôi, An Dương Vương Thục Phán đã cho xây thành Cổ Loa
(Đông Anh, Hà Nội). Đây là một công trình quân sự rất độc đáo. Để có được một
tòa thành đất kiên cố, xây trên một nền đất có kết cấu địa chất không vững chắc
như Cổ Loa, cha ông ta ắt hẳn phải nổ lực rất lớn. Nếu như trong truyền thuyết đã
dựng lên một bức màn huyền bí khi kể rằng An Dương Vương phải nhờ sự trợ
giúp của thần Kim quy thì mới chiến thắng được âm binh, ma quỷ phá hoại mới
xây xong thành thì trong ca dao, dân gian đã cho rằng chỉ có bậc tiên thánh mới
xây được thành này.
Cổ Loa là đất đế kinh
Trông ra lại thấy tòa thành tiên xây.
Hay
Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa thành ốc khác thường
Trải bao mưa nắng dãi dầu còn đây.
2- Bài 16: Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
Trong hơn ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc ta đã bền bỉ đấu tranh để giành lại
độc lập, chủ quyền từ tay các các thế lực phong kiến phương Bắc. Hình ảnh những
người anh hùng dân tộc đã được ca dao nhắc đến rất nhiều với một tấm lòng yêu
quý, biết ơn sâu sắc. Chẳng hạn nói về người phụ nữ can trường, lẫm liệt Triệu Thị
Trinh đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Ngô đô hộ ở thế kỉ III, dân gian có
thơ rằng:
Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ múc nước rửa bành con voi

Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng.
Hay
Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng.

7


Ai về Hậu Lộc, Phú Điền,
Nơi đây Bà Triệu trận tiền xung phong.
Nói về nỗi thống khổ của nhân dân vì nạn cống vải và cuộc khởi nghĩa của
Mai Thúc Loan, ca dao cũng phản ánh:
Nhớ khi nội thuộc Đường triều
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.
Sâu quả vải vì ai vạch lá
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
…..
Đường đi cống vải từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng lộc chung.
Hay câu ca:
Sa nam trên chợ dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh.
Sông Bạch Đằng là một địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc với những chiến
thắng hiển hách của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán (938), quân
Tống (981) và quân Nguyên (1288). Con sông này chảy giữa thị xã Quảng Yên
(Quảng Ninh) và huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) rồi đổ ra biển. Bình thường
sông hẹp, khi triều dâng lòng sông rất rộng, thường xuất hiện những cơn sóng bạc
đầu lớn nên gọi là Bạch Đằng giang. Xưa kia hai bên bờ sông là rừng rậm ken dày
do đó dân gian còn gọi là sông Rừng. Cha ông ta xưa đã từng dặn dò:

Con ơi nhớ lấy lời cha
Gió to, sóng cả chớ qua sông Rừng
Đánh giặc thì đánh giữa sông
Đừng đánh chỗ cạn mắc chông mà chìm
3-Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỷ XXV
Với chiến thắng năm 938, dân tộc ta đã bước vào thời kì xây dựng quốc gia
phong kiến độc lập, tự chủ. Nước Đại Việt đã ổn định và phát triển mạnh mẽ ở thế
kỉ X - XIV. Bước sang thế kỉ XV, dưới triều đại Lê sơ, chế độ phong kiến Việt
Nam phát triển đến đỉnh cao. Chính trị ổn định, kinh tế văn hóa đều gặt hái được
những thành tựu rực rỡ. Dân gian đã có thơ ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị ấy như
sau:
Đời Lê Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng gà chẳng thèm ăn
8


Bò đen húc lẫn bò vàng
Hai con húc chắc đâm quàng xuống sông.
Hay ca ngợi cảnh phồn hoa, đô hội, sự phát triển thịnh đạt của các nghề thủ
công dẫn đến sự hình thành các phường nghề ở Thăng Long xưa, dân gian có thơ:
Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai.
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
………………….
Phồn hoa thứ nhất Long Thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ

Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền.
4- Bài 21: Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỷ
XVI-XVIII
Từ thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn suy yếu.
Cảnh thái bình thịnh trị đã không còn nữa. Đời sống nhân dân trở nên khó khăn.
Điều đó đã được phản ánh trong câu ca:
Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi
Cơm trắng đầy nồi, trẻ chẳng buồn ăn
Từ ngày Cảnh Trị lên ngôi
Khoai chửa mọc chồi đã nhổ lên ăn.
Nhà Lê suy vi, Mạc Đăng Dung cướp ngôi lập ra nhà Mạc. Nhưng cũng chỉ
được mấy chục năm thì bị lực lượng Lê Trung - Trịnh đánh bật khỏi Thăng Long
(1692). Một số người trong tôn thất nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, xây dựng thành
lũy cát cứ ở đây mãi đến năm 1677 mới bị tiêu diệt hoàn toàn. Kí ức dân gian về
thời kì này được thể hiện trong câu ca:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo, đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.

9


Ở nhà cò nhớ anh chăng?
Để anh kể chuyện Cao Bằng cho nghe.
Sau nội chiến Nam – Bắc triều, bước sang thế kỉ XVII đất nước tiếp tục
vướng nạn binh đao, nồi da xáo thịt bởi cuộc phân tranh giữa hai tập đoàn phong
kiến Trịnh – Nguyễn. Quảng Bình lúc ấy là chiến địa của các cuộc giao tranh. Nỗi
lòng người dân nơi này được thể hiện qua câu ca:
Sông Gianh nước chảy đôi dòng

Đèn chong đôi ngọn biết trông ngọn nào?
Để ngăn chặn các cuộc tiến công của quân Trịnh ở mặt Bắc, chúa Nguyễn
Phúc Khoát đã theo mưu kế của Đào Duy Từ xây dựng Lũy Trường Dục (Định
Bắc trường thành) từ núi Đâu Mâu về đến cửa biển Nhật Lệ. Quân Trịnh nhiều lần
chủ động đánh vào Bố Chính (Quảng Bình) nhưng không thể thắng được quân
chúa Nguyễn. Về điều này, dân gian có câu ca:
Lũy Thầy ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu.
Thứ nhất là sợ Lũy Thầy, thứ nhì sợ đầm lầy Võ Xá.
Có tài thì vượt sông Gianh
Dẫu mọc thêm cánh Trường thành khó qua.
5- Bài 22- Tình hình kinh tế ở các thế kỷ XVI-XVIII
Đến cuối thế kỉ XVII, các cuộc giao tranh kết thúc. Hai bên cắt đất, chia nhau
cai trị hình thành cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài. Nền kinh tế dân tộc có điều
kiện ổn định và phát triển trở lại. Trong những thế kỉ XVII, XVIII ngành kinh tế
thủ công nước ta phát triển rất mạnh mẽ. Xuất hiện nhiều làng nghề thủ công trong
cả nước. Về làng nghề Bát Tràng dân gian có câu ca:
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Về nghề dệt tơ, lụa có làng Vạn Phúc:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Vạn Phúc quê anh thì về.
10


Vạn Phúc có một cây đề

Có ao tắm mát có nghề quay tơ.
Hay:
Lụa là nhất ở Phương La
Kinh kì xưa vẫn thường qua nơi này.
Quảng Nam có lụa Phú Bông
Có khoai Trà Đảo, có sông Thu Bồn.
Phú Bông dệt lụa, dệt sa
Kim Bồng thợ mộc, Ô Gia thợ rừng.
Về nghề làm giấy, in tranh:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái quê anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát, có nghề in tranh.
Làng Mái là tên Nôm chỉ làng Đông Hồ (Bắc Ninh) - nơi có nghề in tranh nổi
tiếng. Về các làng nghề ở Thăng Long có câu:
Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng
Thợ vàng Định công, thợ đồng Ngũ Xã.
Các làng nghề ở Hải Dương, Hưng Yên có câu:
Ai về Đông Tĩnh, Huê Cầu
Đông Tĩnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Cho anh gửi một áo thâm hạt dầu
Nghề làm đường ở Quảng Ngãi cũng đã đi vào cao dao với câu:
Mặn mà muối biển Sa Huỳnh
Ngọt đường Quảng Ngãi thắm tình quê ta
Đường phổi, chim mía, mạch nha
Ai về Quảng Ngãi thử qua một lần.
Cũng trong các thế kỉ XVII – XVIII, văn hóa dân tộc tiếp tục phát triển mạnh
mẽ. Đạo Phật không bị sự hạn chế của chính quyền nữa nên tiếp tục phát triển, ăn
sâu, bám rễ vào đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Chùa – Phật trở thành

chỗ dựa tinh thần cho con người, nơi con người gửi gắm những ước nguyện khi
cuộc sống gặp những điều éo le, ngang trái:
11


Dẫu mà không lấy được em
Anh về đóng cửa, cài rèm đi tu.
Tu đâu cho em theo cùng
May ra thành Phật, thờ chung một chùa.
Hay là:
Nghiêng vai ngửa vái Phật – Trời
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.
Chùa – Phật cũng là nơi để con người bày tỏ nỗi niềm cay đắng vì áp bức, bất
công; niệm Phật là một cứu cánh giúp con người vượt qua những hiện thực tàn
nhẫn :
Trời cao anh kêu không thấu,
Đất rộng anh kêu nỏ thông.
Những người bòn của bòn công,
Nam mô A di đà Phật anh phủi tay không anh về.
Trong dân gian, các quan niệm về chữ đức, chữ hiếu cũng thấm đẫm tinh thần
từ bi, hỉ xả, thuyết luân hồi, duyên nghiệp của Phật giáo:
Ai ơi ăn ở cho lành,
Tu nhân tích đức để dành kiếp sau.
Đời cha tích đức làm giàu,
Đời mẹ tích đức mai sau con nhờ.
Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.
Tu đâu cho chí tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
Thứ nhất là tu tại gia,

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Dù xây chín bậc phù đồ,
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.
6- Bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ
tổ quốc cuối thế kỷ XVIII
12


Cuối thế kỉ XVIII, sự suy đồi của chế độ phong kiến ngày càng nghiêm trọng.
Cuộc khởi nghĩa của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ bùng nổ
và nhanh chóng lan rộng. Kí ức về sự kiện lịch sử này còn được dân gian ghi lại
qua câu ca dao:
An Khê nổi tiếng Hòn Bình,
Khi xưa Nguyễn Huệ ẩn danh nơi này.
An Khê, Hòn Bình là những địa danh gắn với ngày đầu dựng cờ khởi nghĩa
của ba anh em Tây Sơn ở vùng Tây Sơn thượng đạo (Gia Lai ngày nay).
Bần Gie đốm đậu sáng ngời
Rạch Gầm soi dấu muôn đời oai danh
Về việc Nguyễn Huệ ra Bắc Hà lần thứ nhất, lật đổ chúa Trịnh, trao quyền lại
cho nhà Lê được ghi nhớ trong kí ức dân gian qua câu:
Nguyễn ra thì Nguyễn lại về
Chúa Trịnh mất đất, vua Lê hãy còn
Về cuộc kháng chiến chống Thanh xuân Kỉ Dậu:
Xuân xưa vang tiếng Hà Hồi
Oai danh Nguyễn Huệ muôn đời còn ghi
Một trời khí phách uy nghi
Đón xuân không thẹn tu mi Lạc Hồng.
7-Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh
của nhân dân
Thắng lợi của phong trào nông dân Tây Sơn đã lập nên vương triều Tây Sơn

trong lịch sử. Tuy nhiên, vương triều này không tồn tại lâu dài. Năm 1802, Nguyễn
Ánh đã tiêu diệt hoàn toàn vương triều Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn. Mặc dù nhà
Nguyễn đã rất cố gắng phục hồi nền quân chủ và trật tự xã hội phong kiến nhưng
không thể cứu vãn được sự suy yếu ngày càng trầm trọng của chế độ phong kiến
Việt Nam. Phép nước không khắc phục được sự suy thoái của chất lượng đội ngũ
quan lại. Nạn quan liêu, hà hiếp, nhũng nhiễu nhân dân của các bậc phụ mẫu đã bị
nhân dân lên án:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình
Ba bộ đồng tình cướp gạo con tôi.
Nhất là vào thời vua Tự Đức, đời sống nhân dân khốn khó nhưng vua vẫn cho
xây lăng Vạn Niên rất tốn kém nên dân gian có câu :
13


Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Thậm chí cái đạo trung quân cũng bị lật tẩy khi nhà vua không còn là một bậc
minh quân:
Từ ngày Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng đầy nồi trẻ khóc như ri.
Bao giờ Tự Đức chết đi,
Thiên hạ thái bình mới dễ làm ăn.
II-KHAI THÁC MỘT SỐ KIẾN THỨC THƠ VĂN VẬN DỤNG VÀO
VIỆC GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI LỊCH SỬ LỚP 12, CỤ THỂ
1/ Bài 12 - Chương I: “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 19191925”
a) Làm sáng tỏ tội ác của thực dân Pháp xâm lược cũng như nỗi thống khổ
của nhân dân ta do chính sách bóc lột bằng cách mở đồn điền hết sức tàn bạo.
Cao su đi dễ khó về

Khi đi trai tráng, khi về bủng beo...
Cây cao su quý hơn người,
Mỗi khi cây bệnh, cây thời nghỉ ngay.
Lang ta cho chí lang Tây,
Đêm dêm lo lắng, ngày ngày chăm nom.
Còn ta đau yếu gầy còm,
Đau không được nghỉ, chết hòm cũng không.
(Ca dao chống Pháp)
hoặc:
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng!”
(Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)
b) Làm sáng tỏ: “Thuế khoá trong bất cứ thời gian nào cũng là nguồn bóc lột
chủ yếu của thực dân đế quốc nói chung và thực dân Pháp đối với nhân dân Đông
Dương nói riêng”
“… Thuế đến cả phấn son phường phố
Thuế môn bài, thuế đuốc, thuế đèn
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
Thuế rừng tre gỗ, thuế tiền bán buôn

Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt
Thắt chặt dần như thắt chỉ xe”
14


(Á tế á ca)
2. Bài 13 – “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam 1925-1930”
Làm sáng tỏ gương hy sinh anh dũng quên mình của liệt sĩ Phạm Hồng Thái

trong vụ ám sát toàn quyền Méc-lanh:
Sau khi kể tóm tắt về tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của Phạm
Hồng Thái và tường thuật cụ thể chi tiết vụ ám sát tên toàn quyền Méc-lanh tại Sa
Diện – Trung Quốc, giáo viên có thể sự dụng đoạn thơ sau để khắc họa nhân vật
lịch sử nói trên
“Một tấm lôi đình kinh vũ trụ
Tấm gan trung nghĩa động thần minh
Chiếc thân đã gửi cho dòng nước
Trang sử còn ghi mãi tính danh”
(Trần Huy Liệu-Từ điển nhân vật lịch sử)
hoặc:
“Sống làm quả bom nổ
Chết làm dòng nước xanh”
(Phạm Hồng Thái - Tố Hữu)
Đó cũng là lòng căm thù giặc, tinh thần yêu nước của người công nhân
Nguyễn Văn Trỗi làm nên lịch sử ở 9 phút cuối cùng:
“Hãy sống chết quang vinh
Trước kẻ thù không sợ
Vì Tổ quốc hy sinh
Như đời anh người thợ”
(Hãy nhớ lấy lời tôi).
Giáo viên nên lưu ý, sau khi đọc thơ phải cắt nghĩa cho các em hiểu một số
từ, khái niệm mang tính tượng trưng như: “Một tiếng lôi đình kinh vũ trụ”, “Chiếc
thân đã gửi cho dòng nước”
3/ Bài 14 – “Phong trào cách mạng 1930-1935”
Sau khi trình bày cho học sinh diễn biến của phong trào Cách mạng 19301931 và Xô Viết Nghệ – Tĩnh, giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ sau để minh hoạ
thêm:
“Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên
Nam Đàn, Nghi Lộc , Hưng Nguyên

Anh Sơn, Hà Tĩnh bốn bên dậy rồi
Không có lẽ ta ngồi chịu chết
Phải cùng nhau kiên quyết một phen
Tổng này, xã nọ kết liên
Ta hò, ta hét, thét lên thử nào”
(Tố Hữu)
4/ Bài 16 – “…..Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1939-1945…”
15


a) Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tình cảm của Người khi
trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, có thể khai thác sử
dụng:
“…Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Sáng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương hòn đất, ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!”
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
b) Khi nói về kết quả của cuộc khởi nghĩa Nam Kì: bị thất bại, thực dân
Pháp đã đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa nhiều cán bộ lãnh đạo Nam Kì bị bắt, bị
kết án tử hình, nhưng dù trong hy sinh vẫn giữ nguyên tư thế của người chiến
thắng:
“Các anh chị bước lên đài gươm máy
Đầu sắp rơi mà môi vẫn cười tươi”
(Quyết hy sinh - Tố Hữu)
c) Nói về diễn biến của tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945:

“Tổng khởi nghĩa! Lệnh truyền đêm trước
Sáng quân ra giải phóng Thái nguyên
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cả nước
Đứng lên ta giành hết chính quyền!”
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Cách mạng tháng Tám thành công Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập
thành lập nước Việt nam dân chủ cộng hoà:
“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ…chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!”
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
5/ Bài 20 – “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc
1953-1954”
Với quyết tâm đánh bại kẻ thù trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 quân dân
ta không ngại hy sinh gian khổ:
“Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, mắt nhắm, còn ôm.
16


Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta tiến lên chiến trường tiếp viện.”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Chiến dịch kết thúc thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn:

“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng.
Hoặc: Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu.”
(Ta đi tới - Tố Hữu)
6/ Bài 21– “Xây dựng CNXH ở miền Bắc…1954-1965”
Sau 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng bắt tay xây dựng CNXH, nông thôn
miền Bắc phấn khởi trên con đường làm ăn tập thể:
“Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê
Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn”
(Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)
7/ Bài 22– “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu…miền Bắc vừa chiến
đấu vừa sản xuất 1965-1973”
a) Giữa lúc sự nghiệp chống Mĩ, cứu nước đang giành được những thắng lợi
ngày càng lớn thì xảy đến một cái tang chung, ngày 2/9/1969, Bác Hồ mất. Để lại
nỗi tiếc thương khôn nguôi:
“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười.”
(Bác ơi - Tố Hữu)
b) Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết cho thấy sự phấn khởi của nhân dân ta
“Khao khát trăm năm, mãi đợi chờ
Hôm nay vui đến ngỡ trong mơ”
(Việt nam, máu và hoa - Tố Hữu)
8/ Bài 23– “Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội miền Bắc giải phóng
hoàn toàn miền Nam 1973-1975”
Với chiến dịch Hồ Chí Minh, toàn thắng đã về ta, trong giờ phút thiêng liêng
ấy lòng mỗi người dân đều rạo rực muốn dâng chiến công lên Bác:

“Ôi, buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp
Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta
Chúng con đến, xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa”
(Toàn thắng về ta - Tố Hữu)

17


III. MỘT SỐ LƯU Ý KHI KHAI THÁC VÀ VẬN DỤNG KIẾN THỨC
THƠ VĂN, CA DAO
1/ Trước hết, giáo viên phải hiểu cặn kẽ và thật tâm đắc với những tư liệu
mình đã lựa chọn.
2/ Không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ văn.
3/ Luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh (đối tượng vận dụng là học
sinh lớp 10, 12).
4/ Các kiến thức thơ văn ca dao vận dụng cần phải có nguồn gốc xuất xứ
chính xác, rõ ràng.
5/ khi đọc thơ văn giáo viên phải đọc có cảm xúc, truyền cảm, có khả năng đi
vào lòng người, nếu không có năng khiếu phải tập từ từ hoặc sử dụng các phương
tiện hỗ trợ như công nghệ thông tin….
IV- ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Thông qua đề tài này, thiết nghĩ chúng ta nên quan tâm hơn nữa đối với việc
giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT. Với thời lượng một tiết học 45 phút hiện
nay, giáo viên không đủ truyền tải hết được nội dung và mở rộng kiến thức cho các
em.
Vận dụng kiến thức thơ văn trong giảng dạy lịch sử, chỉ góp phần giúp các em
khắc sâu thêm kiến thức, còn mở rộng thêm kiến thức cho các em giáo viên cần có
thêm thời gian
Trong một bài học, người giáo viên cần phải vận dụng tổng hợp kết hợp nhiều

phương pháp, điều này sẽ có hiệu quả hơn nếu chúng ta biết cách vận dụng cho
phù hợp ở từng bài học cụ thể.

KẾT LUẬN
Ngoài việc xây đắp tâm hồn và tri thức cho học sinh, dạy sử bằng thơ ca giúp
các em sưu tầm, thu thập thêm thông tin tư liệu để có thêm nhiều góc nhìn khác
nhau về lịch sử. Qua sự tìm tòi, các em sẽ được rèn luyện thêm kỹ năng thực hành,
biết vận dụng lý thuyết vào thực tế cuộc sống.
Thơ văn nói chung với ưu thế của nó: dễ thuộc, dễ đi vào lòng người… sẽ là
một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông
qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng
18


như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm
rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà.
Cũng như các môn học khác, khi học sinh đã tường tận từ lý thuyết và được
“trang bị” thêm lời nhạc tiếng thơ thì rõ ràng các tri thức khô cứng sẽ được “mềm
hóa” hơn. Từ đó bài học trở nên mềm mại, bớt sự khô khan, đơn điệu mà còn giúp
học sinh rất dễ nhớ, dễ hình dung về các sự kiện hiện tượng lịch sử được cung cấp
trong bài học. Bài học luôn được khắc sâu và đi vào lòng người một cách tự nhiên.
Không những thế, khi thơ ca được sử dụng đúng chỗ thì tiết học thực sự sinh động
hơn, tạo thêm “chất xúc tác” trong hứng thú của người học và đưa đến hiệu quả bất
ngờ là học sinh tham gia tiết học sáng tạo và hăng say hơn. Đây cũng là cách giáo
viên thực hiện được yêu cầu tổ chức hoạt động học tập theo hướng tích hợp mà cụ
thể là môn lịch sử đã tích hợp được với văn học, âm nhạc và mỹ thuật.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm, cách sử dụng nên ở mức độ vừa phải, cho
phép. Tránh lạm dụng, tham lam quá nhiều dễ biến giờ học sang giờ giảng văn.
GV phải biết chọn lọc tư liệu, đưa ra đúng lúc đúng chỗ mới gây hiệu ứng mạnh.
Cách liên hệ cũng nhẹ nhàng, phù hợp và tự nhiên. Không nên khiên cưỡng, máy

móc và gượng ép.
Đây là những kinh nghiệm mà tôi rút ra được trong quá trình giảng dạy của
mình. Vẫn biết rằng còn có nhiều khiếm khuyết nhưng đây là phương pháp dạy
hấp dẫn, hứng thú để học sinh yêu thích bộ môn lịch sử, mong nhận được sự góp ý
chân thành của đồng nghiệp, bạn bè để đề tài này được hoàn thiện

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn, Trần Đình Sử (tổng chủ biên), lớp 10, lớp 11, lớp 12,
Nxb Giáo dục. H. 2006, 2007, 2008
2. Sách giáo khoa Lịch sử, Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên), lớp 10, lớp 11, lớp 12,
Nxb Giáo dục. H. 2006, 2007, 2008
3. Ca dao lịch sử, Phạm Hồng Việt, Nxb Giáo dục, H. 2007
4.Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở phổ thôngNguyễn Thị Côi. NXB Đại học sư phạm

19


5.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12 môn
lịch sử- NXB Giáo dục của Bộ giáo dục đào tạo- vụ giáo dục phổ thông.
6.Sách giáo viên lịch sử lớp 12 (chương trình nâng cao).
7.Website: htt://www.edu.net.vn
8.Website: htt://www.dayvahoc.vn
9.Website: htt://www.Google.com.vn
10.Website: htt://www.Violet.vn
11. Website: htt://www.moet.gov.vn

NGƯỜI THỰC HIỆN

Hà Thụy Ngọc Diễm


BM04-NXĐGSKKN

SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Đơn vị :
Trường THPT Xuân Thọ
Xuân Lộc-Đồng Nai

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Xuân Thọ, ngày 15 tháng 05 năm 2013

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012-2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm: VẬN DỤNG THƠ VĂN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG THPT
Họ và tên tác giả: Hà Thụy Ngọc Diễm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THPT Xuân Thọ-Xuân Lộc-Đồng Nai
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục



20


- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 
- Phương pháp giáo dục




- Lĩnh vực khác: ........................................................ 
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng:
Tại đơn vị 

Trong Ngành 

1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây)
-

Có giải pháp hoàn toàn mới

-

Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có




2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây)
-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 


- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và
dễ đi vào cuộc sống:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng:
Tốt 
Khá 
Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)

21



×