Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.47 KB, 13 trang )

SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

MỘT VÀI KINH NGHIỆM
VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG BỘ MÔN LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
I/ Lí do chọn đề tài
Để nâng cao chất lượng dạy học, phù hợp với mục tiêu mới của giáo dục
hiện nay, thực hiện có hiệu quả việc dạy học lịch sử theo chương trình và sách giáo
khoa mới. Một yêu cầu được đặt ra cho đội ngũ giáo viên là phải đổi mới phương
pháp dạy học, chuyển từ phương pháp truyền thống ( giáo viên làm trung tâm )
sang hướng mới ( lấy học sinh làm trung tâm ), cụ thể là phương pháp dạy học tích
cực, phát huy tính tích cực chủ động , sáng tạo của học sinh, theo đúng định hướng
đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong NQTƯ khoá VII và được
cụ thể hoá ở luật giáo dục: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tư tưởng tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh”. Với phương pháp dạy học tích cực hướng tới hoạt động hoá
nhận thức của người học, phát huy tính tích cực của học sinh, chống thói quen học
tập thụ động, nhằm tạo ra những con người năng động sáng tạo, có năng lực giải
quyết vấn đề,
Phương pháp dạy học tích cực, sẽ đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện đại,
người Thầy giữ vai trò hướng dẫn, học sinh hoàn toàn chủ động, tự giác trong học
tập. Với một bài soạn được thiết kế theo các hình thức của phương pháp dạy học
tích cực, giáo viên điều khiển tiết học rất nhẹ nhàng, lôi cuốn học sinh tham gia
tích cực vào việc tự tìm hiểu, trao đổi phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức, đồng thời
cũng tự đánh giá được kết quả thu được của bản thân. Trong việc nâng cao chất
lượng của bộ môn lịch sử, theo tinh thần đổi mới giáo dục, việc dạy học tích cực có
ý nghĩa rất quan trọng.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận về phương pháp dạy học tích cực và bằng


kinh nghiệm của bản thân qua thực tế giảng dạy, xin được nêu một số kinh nghiệm
về vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở.
II/ Phạm vi đề tài
Kinh nghiệm về dạy học tích cực trong bộ môn lịch sử ở trường trung học cơ
sở. Bản thân sẽ đưa ra ba phương pháp dạy học đặc trưng nhất, thể hiện rõ về cách
dạy theo hướng tích cực.
III/ Thực trạng ban đầu

1


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp tối ưu trong việc dạy học đối
với giáo viên, nó đem lại hiệu quả giáo dục cao, đáp ứng được hướng đổi mới thể
hiện trong việc biên soạn sách giáo khoa. Nhưng trong thực tiễn dạy học , giáo
viên chưa tích cực vận dụng phương pháp này vào giảng dạy vì một số lí do:
+Một số giáo viên chưa hiểu rõ lí luận và lợi ích của phương pháp này
+Việc lập kế hoạch bài dạy theo phương pháp này khó, đòi hỏi phải có sự
đầu tư, tốn nhiều thời gian.
+Một số còn nhầm lẫn các biện pháp dạy học theo hướng tích cực và
phương pháp truyền thống( có giáo viên cho rằng cứ đặt câu hỏi, gọi học sinh trả
lời như sách giáo khoa, như thế là đổi mới, là tích cực, đừng đọc chép là được…)
+Phương pháp dạy học cũ được thực hiện trong thời gian dài nên trở thành
thói quen đối với giáo viên, hơn nữa trong đào tạo họ cũng chưa được cung cấp
đầy đủ lí luận về phương pháp dạy học tích cực, nên việc tiếp cận với việc dạy học
mới này còn nhiều ngỡ ngàng, khó khăn.
IV/ NỘI DUNG

1/ Dạy học theo kiểu nêu vấn đề:
Trước hết giáo viên phải hiểu được thế nào là dạy học nêu vấn đề. Theo V.
Okon: “ Dạy học nêu vấn đề là toàn bộ các hoạt động như tổ chức các tình huống
có vấn đề, biểu đạt ( nêu ra ) các vấn đề ( tập cho học sinh quen dần để tự làm lấy
công việc này ), chú ý giúp đỡ cho học sinh những điều cần thiết để giải quyết vấn
đề, kiểm tra cách giải quyết đó và cuối cùng lãnh đạo quá trình hệ thống hoá và
củng cố các kiến thức đã tiếp thu được.(1) ”Hoặc theo T.V.Cudriapsev thì ông cho
rằng : “Dạy học nêu vấn đề là tạo ra trước cho học sinh những tình huống có vấn
đề, làm cho các em ý thức được, thừa nhận và giải quyết những tình huống này
trong quá trình hoạt động chung của học sinh và giáo viên, với tính tự lực của học
sinh và sự chỉ đạo của giáo viên.”(2) Ở đây các tác giả đã nhấn mạnh đến việc tạo
ra tình huống có vấn đề, vai trò vị trí của người giáo viên trong hướng dẫn chỉ đạo
học sinh giải quyết tình huống có vấn đề.
Như vậy dạy học nêu vấn đề là cách tổ chức dạy học gồm ba yếu tố cơ bản:
Tình huống có vấn đề, nêu ra vấn đề đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, tổ
chức hướng dẫn học sinh tích cực tự giác sáng tạo giải quyết vấn đề.
a/ Giáo viên tạo tình huống có vấn đề
Tình huống có vấn đề là cốt lõi của việc dạy học nêu vấn đề. Theo V.O Kon
“Nét bản chất của dạy học nêu vấn đề không phải là việc đặt ra những câu hỏi mà
là tạo những tình huống có vấn đề” cho nên trong tiết dạy lịch sử, giáo viên phải
tạo ra những tình huống có vấn đề đó là:
+Tạo ra các tình huống mâu thuẫn, xung đột trong các vấn đề để HS giải
quyết, hoặc đưa ra hai vấn đề có chứa đựng mâu thuẫn với nhau
VD: Khi dạy bài 14 ( LS lớp 7) Tình huống được đặt ra cho HS là:
Vì sao quân Mông Cổ mạnh nhưng lại bị thất bại?
2


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008


+Tạo tình huống có vấn đề bằng cách kết hợp những phương tiện, đồ dùng
trực quan & kinh nghiệm sống của HS
VD: Dạy bài 10 ( LS lớp 8) khi cho HS khai thác H 42 Vấn đề được đặt ra cho
các em là: Vì sao lại ví Trung Quốc như một cái bánh ngọt khổng lồ mà không
phải là khúc xương?
-Vì sao không phải một, mà nhiều nước đế quốc cùng xâu xé Trung Quốc?
+Tổ chức HS so sánh, đối chiếu những sự kiện, hiện tượng, quy tắc, hành
động
VD: Dạy bài 10 (LS lớp 6) “những chuyển biến trong đời sống kinh tế”. Cho
HS quan sát H28,29,30 GV nêu ra tình huống để HS suy nghĩ giải quyết: Nhận xét
những công cụ này so với công cụ thời đại trước đó?
(Loại hình phong phú, đa dạng, kĩ thuật đá mài ở trình độ cao. Hình dạng phù hợp
với công việc. Đồ gốm xuất hiện với nhiều loại hoa văn phong phú)
Dạy bài 14,15 “Nước Âu Lạc” ( LS lớp 6) Vấn đề được đăth ra:
Tổ chức bộ máy nhà nước thời Âu Lạc có gì giống & khác so với tổ chức bộ
máy nhà nước Văn Lang?
+Tạo ra giả thuyết, tổ chức nghiên cứu
VD: Bài 10 “Những chuyển biến trong đơpì sống kinh tế”
Ở mục 2: Thuật luyện kim được phát minh như thế nào?
Sau khi GV dẫn dắt để HS đi đến nhận thức: Người ta lọc từ quặng ra kim
loại đồng, dùng đất làm khuôn đúc ( theo phương thức làm bình, vại gốm) nung
chảy đồng ra & đúc vào khuôn nhờ kinh nghiệm làm đồ gốm. GV nêu vấn đề; Tại
sao nói: sự phát triển của nghề làm đồ gốm đã tạo ra điều kiện cho việc phát minh
ra thuật luyện kim?
+Kích thích HS khái quát sơ bộ những sự kiện mới để tạo tình huống có vấn
đề
VD: Dạy bài 4 “Các nước Châu Á” ở phần II . Trung Quốc
Phần 4: Công cuộc cải cách mở cửa (từ 1978 đến nay). Có thể tạo tình huống
có vấn đề bằng cách nêu câu hỏi: “Hãy cho biết những thành tựu mà Trung Quốc

đạt được trong công cuộc đổi mới từ năm 1978 đến nay? Những thành tựu này có ý
nghĩa như thế nào đối với Trung Quốc trong thế kỉ XXI?
Qua nắm được những thành tựu mà Trung Quốc đạt được về kinh tế, đối
ngoại thì HS sẽ nêu được ý nghĩa: Đời sống nhân dân được nâng cao, đất nước ổn
định, tạo đà cho Trung Quốc tiếp tục phát triển.
Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với quốc tế được mở rộng, vai trò, địa vị quốc tế
của Trung Quốc ngày càng được nâng cao.
+Cho HS những bài tập có tính chất nghiên cứu
Việc này có thể thực hiện ở lớp, hoặc ở nhà
VD: Cho HS thảo luận ra câu hỏi trắc nghiệm về nôi dung bài vừa học

3


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

Lập bảng niên biểu, bảng thống kê, sưu tầm tài liệu, vẽ sơ đồ, lược đồ… để
học sinh tự tìm tòi, nghiên cứu thực hiện.
Khi xây dựng tình huống có vấn đề Giáo viên phải chú ý đến khả năng hiểu
biết, trình độ tư duy của học sinh. Tình huống đưa ra phải dựa trên nền tảng một
phần kiến thức các em đã biết. Tình huống phải vừa sức học sinh không quá dễ,
không quá khó, không quá phức tạp
b/ Nêu ra vấn đề, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề:
Trong bài học lịch sử, giáo viên phải khéo léo đặt ra vấn đề, xây dựng cho
được hệ thống câu hỏi tình huống có vấn đề như: Câu hỏi tái hiện, so sánh, phân
tích, khái quát hoá, tìm tòi phát hiện, để gợi sự hứng thú, tò mò, lắng nghe và tìm
cách giải quyết của học sinh. Giáo viên phải nêu được
“ Vấn đề” trong tình huống có vấn đề, tức là những kiến thức có tính trừu tượng,
khái quát nhất định.Những vấn đề này học sinh chưa biết, nhưng do yêu cầu nhận

thức bắt buộc học sinh phải biết.Giáo viên có thể đặt ra tình huống có vấn đề cơ
bản và những tình huống phụ trợ để giải quyết tình huống có vấn đề cơ bản
c/ Tổ chức, hướng dẫn học sinh tích cực, chủ động giải quyết vấn đề trong
tình huống có vấn đề:
Giáo viên có thể nêu những kiến thức ( vấn đề ) ít phức tạp, theo hướng tạo
ra những mối quan hệ giữa cái đã biết với cái chưa biết, để nâng dần năng lực tự
giải quyết vấn đề cho học sinh, tức là giáo viên giúp học sinh tìm ra con đường đi
đến nhận thức điều chưa biết, dựa trên những kiến thức các em đẫ biết. Giáo viên
sẽ đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh con đường học
sinh tìm tới tri thức mới
VD: Để giải quyết vấn đề: Tại sao nói cuộc tiến công sang đất Tống của Lý
Thường Kiệt là để tự vệ chứ không phải xâm lược ? Giáo viên phải cung cấp kiến
thức bằng những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt để trên cơ sở cái đã biết học sinh tự lập
luận, lí giải, tháo gỡ vấn đề mình chưa biết mà phải biết
Như: +Lý Thường Kiệt thực hiện chủ trương đánh giặc như thế nào?
+Mục tiêu tấn công của quân nhà Lý khi sang đất Tống là gì ?
+Kết quả của cuộc tấn công đó ?
Trên cơ sở những kiến thức được cung cấp đó, học sinh mới nêu lên được:
Ta chỉ tán công vào những nơi Tống tập trung quân lương để chuẩn bị xâm lược
Đại Việt, khi hoàn thành mục đích lập tức rút quân về ngay.
Khi vấn đề lớn, khó, giáo viên phải chia nhỏ vấn đề, tổ chức học sinh thảo luận,
tranh luận với nhau, để bổ sung khẳng định kết quả nhận thức.
VD: Để giải quyết vấn đề: Tại sao nói cuộc khởi nghĩa ngày 18- 3- 1871 là
cuộc cách mạng vô sản?
Đây là vấn đề khó đối với học sinh, để học sinh có thể giải quyết được vấn
đề này, giáo viên phải chia nhỏ vấn đề thành nhiều vấn đề nhỏ, để học sinh dễ nhận
thức, trao đổi, sau đó tổng hợp, khái quát để đi đến kết luận vấn đề.
4



SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

+Ai là kẻ châm ngòi cho khởi nghĩa ?
+Kết quả của cuộc khởi nghĩa ?
+Thành phần lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là ai ?
+Lực lượng tham gia cách mạng chính ?
Với những vấn đề nhỏ này giúp học sinh có cơ sở để đi đến kết luận giải
quyết vấn đề lớn: Cuộc khởi nghĩa này có thành phần lãnh đạo là giai cấp vô sản,
lực lượng tham gia cách mạng chính là giai cấp vô sản, kết quả: Lật đổ tư sản, đưa
vô sản lên cầm quyền, nên gọi là cách mạng vô sản.
Giáo viên phải tôn trọng ý kiến của học sinh, có khi kiến thức của các em
còn thiếu, bị sai, nhưng giáo viên không được phủ nhận ngay, mà phải giúp các em
tìm thấy chỗ sai, chỗ đúng để nâng cao lòng tự tin của học sinh về khả năng của
mình.
2/ Tích cực sử dụng đồ dùng dạy học để khai thác kiến thức:
Thiết bị dạy học là một thành tố không thể thiếu trong quá trình hình thành
kiến thức cho học sinh. Tích cực sử dụng đồ dùng dạy học là một trong những
phương pháp quan trọng để thực hiện dạy học theo hướng tích cực. Nhưng không
phải cứ đem thiết bị đồ dùng vào tiết học là coi như đã dạy theo hướng tích cực,
mà vấn đề ở đây là phải sử dụng nó như thế nào cho có hiệu quả.
Thiết bị đồ dùng ở môn lịch sử rất đa dạng, phong phú: Tranh ảnh, lược đồ,
mẫu vật, băng hình, bản đồ…Thiết bị dạy học ngoài chức năng minh hoạ, nó là
một cơ sơ quan trọng của việc nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để thiết bị dạy học
sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc cải tiến phương pháp soạn giảng,
học sinh có điều kiện chủ động, tích cực tham gia vào quá trình tự nhận thức lịch
sử một cách tốt nhất. Sử dụng đồ dùng trực quan được tiến hành khai thác như sau:
Đối với tranh ảnh lịch sử giáo viên tiến hành khai thác theo các bước như sau:
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một cách khái quát nội
dung tranh ảnh cần khai thác

Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi, nêu vấn đề và tổ chức hướng dẫn học sinh
tìm hiểu nội dung tranh ảnh
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh
Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn thiện nội dung khai thác tranh
ảnh cho học sinh
Cuối cùng học sinh nắm được cách khai thác tranh ảnh, kiến thức từ khai
thác tranh ảnh đem lại
VD: Khi dạy bài 29 ( LS 8 ) khai thác H99
-Học sinh quan sát tranh, xác định nội dung tranh: Ảnh chụp người nông dân
Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc
-Giáo viên đặt vấn đề: H99 thể hiện hoạt động gì của người nông dân?
Học sinh: Cuộc sống bị bần cùng hoá của người nông dân.

5


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

Với cách khai thác tranh như vậy, giáo viên đã giúp học sinh nắm được nội dung
lịch sử thể hiện qua tranh ảnh, vừa phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư
duy của học sinh vừa có tác dụng giáo dục tư tưởng rất lớn, học sinh thấy được nỗi
cơ cực của người dân mất nước, lòng căm thù thực dân pháp xâm lược
*Đối với lược đồ, bản đồ:
Trên bản đồ lược đồ đã có kí hiệu thích hợp, chú giải cụ thể, giáo viên sẽ
hướng dẫn tổ chức học sinh dựa vào đây để tự khai thác kiến thức, điều này phù
hợp với mục tiêu của chương trình giáo dục mới. Giáo viên tổ chức học sinh khai
thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ theo các bước sau:
-Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc phần chú giải ở lược đồ, bản đồ. Nêu nội
dung cần tìm hiểu qua lược đồ, bản đồ.

-Hướng dẫn học sinh kết hợp kênh chữ SGK với lược đồ, bản đồ, trình bày
kiến thức được thể hiện trên bản đồ, lược đồ
-Học sinh bổ sung, giáo viên nhận xét, kết luận vấn đề, hoàn thiện kiến thức
VD: H27 Nguồn lợi của tư pháp ở Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ hai
( T56, bài 14, LS 9 )
Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc tên lược đồ, đọc phần chữ nói về
nguồn lợi của Pháp ở Việt nam
Bước 2: Nêu yêu cầu đối với học sinh: Dựa vào lược đồ, hãy cho biết
chương trình khai thác Việt Nam lần thứ hai của thực dân Pháp tập trung vào
những nguồn lợi nào ? Các nguồn lợi tập trung ở những vùng nào trên đất nước
ta ?
Bước 3: Dựa vào lược đồ, phần chú giải, học sinh nêu được các nguồn lợi
Pháp tập trung khai thác ở Việt Nam là: Nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, xuất khẩu,
khai thác mỏ. Các nguồn lợi tập trung ở Bắc kì & Nam kì
Bước 4: Giáo viên bổ sung, kết luận các vấn đề nêu trên
VD: H34 : Lược đồ khởi nghĩa Bắc Sơn
-Bước 1: GV yêu cầu học sinh quan sát lược đồ, đọc phần chú giải trên lược
đồ
-Bước 2: GV nêu yêu cầu: Dựa vào lược đồ & kênh chữ SGK hãy trình bày
tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn
-Bước 3: HS dựa vào phần chú giải, nội dung SGK trình bày ngắn gọn diễn
biến theo các kí hiệu đã được chú giải trên lược đồ
-Bước 4: GV mở rộng thêm & củng cố kết luận về diễn biến khởi nghĩa Bắc
Sơn.
Với cách sử dụng trên, GV đã đáp úng được yêu cầu đổi mới trong dạy học
lịch sử. Thông qua việc quan sát lược đồ, bản đồ, đọc kí hiệu, nội dung được thể
hiện trên bản đồ, HS đã tự phát hiện được đơn vị kiến thức mới, kích thích tính tích
cực chủ động trong học tập của học sinh trong việc khám phá những kiến thức lịch
sử mới
6



SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

3/ Tăng cường tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học lịch sử:
Đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp, thực hiện tốt việc dạy học phát huy
tính tích cực của học sinh, Giáo viên phải tăng cường tổ chức hoạt động nhóm cho
học sinh trong tiết học. Với hình thức này học sinh được lôi cuốn vào các hoạt
động học tập, tiếp thu kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự tổ chức,
hướng dẫn của Giáo viên
Việc tổ chức học sinh thảo luận theo nhóm đã được hầu hết các Giáo viên
thực hiện, những vẫn còn nhiều lúng túng, hiệu quả áp dụng chưa cao, trong tiết
học Giáo viên chưa biết tổ chức thảo luận vào lúc nào, thảo luận ở đơn vị kiến thức
nào? việc quản lí các em còn khó, sự tham gia của các em em chưa đồng bộ. Bản
thân xin đưa ra vài kinh nghiệm về tổ chức thảo luận nhóm trong tiết dạy:
-Việc phân nhóm: GVBM nên thống nhất với GVCN để phân nhóm cho
đồng nhất ở tất cả các bộ môn, chú ý trong nhóm phải có đủ các đối tượng học sinh
(Yếu, TB, Khá, Giỏi) để các em có thể hỗ trợ lẫn nhau, nhóm thường dùng nên tổ
chức thảo luận theo từng bàn của các em là dễ quản lí nhất, khi có vấn đề lớn cần
có sự trao đổi rộng ta tổ chức thảo luận theo nhóm lớn ( hai bàn quay lại thành một
nhóm)
-Chọn kiến thức để thảo luận nhóm: Điều này có nhiều GV rất lúng túng,
nghe nói dạy theo phương pháp đổi mới phải có thảo luận nhóm, thôi cứ tổ chức
đại trà một hoạt động nhóm ở một đơn vị kiến thức nào đó cho có là được, nhiều
khi vấn đề đặt ra cho nhóm nhưng lại không có việc cho nhóm làm, tức chẳng cần
thảo luận, bàn bạc gì, cứ y SGK đọc, ghi lại là được, chính điều đó tạo nên sự
nhàm chán trong hoạt động nhóm, đối với học sinh, không thu hút được các em
tích cực tham gia học tập
Đơn vị kiến thức đưa ra cho các em thảo luận theo nhóm cần phải tạo tình

huống có vấn đề, hoặc lập bảng thống kê, hoặc có nhiều sự kiện buộc các em phải
đọc, bàn bạc để chọn những sự kiện quan trọng đúng yêu cầu của Giáo viên, hoặc
vẽ sơ đồ, có như vậy mới tạo nên sự hứng thú tìm tòi, tích cực làm việc của học
sinh, lôi cuốn các em tích cực thảo luận để tìm ra đáp án
VD: Bài: Cuộc kháng chiến chống tống Tống ( 1075-1077) ( Giai đoạn thứ
hai). Ở tiết học này Giáo viên nên chọn hai vấn đề để tổ chức cho các nhóm thảo
luận:
-Vì sao ở tư thế là người chiến thắng mà Lý Thường Kiệt lại cử người đến
thương lượng, giảng hoà để kết thúc chiến tranh?
-Nêu nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt?
-Hoặc ở bài: Ba lần kháng chiến chống xâm lượpc Mông Nguyên (TK XIII)
( Tiết 24). Tiết này GV chọn tình huống để các em thảo luận là: Vì sao quân Mông
Cổ mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bại?...
-Việc tổ chức thảo luận: Giáo viên giữ vai trò là người tổ chức hướng dẫn
các hoạt động: Quan sát, gợi mở, khuyết khích… để các em thảo luận, đưa ra kết
7


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

quả đúng. Giáo viên phải bao quát, nhắc nhở để tất cả thành viên của nhóm đều
tham gia trao đổi, tránh để học sinh giỏi làm việc, HS yếu kém ngồi chơi. Khi gọi
đại diện các nhóm trả lời, thì gọi bất cứ đối tượng nào, cho các nhóm bổ sung, khi
tổ chức hoạt động nhóm GV nên nhẹ nhàng, khuyến khích để tạo không khí phấn
khởi, tự tin ở tất cả các em, lúc đó các em mới mạnh dạn trao đổi ý kiến của mình,
các nhóm xuất sắc có thể cho điểm thưởng để động viên
Thảo luận nhóm là một trong những hình thức của phương pháp dạy học
phát huy tính tích cực của học sinh. Để thực hiện tốt việc tổ chức thảo luận nhóm
trong tất cả các tiết dạy GV nên có sự đầu tư tốt vào soạn giảng, tuỳ từng tiết học,

tuỳ từng nội dung bài học để định ra hướng tổ chức hoạt động nhóm, không nhất
thiết tiết nào, nội dung nào cũng phải hoạt động hóm, lựa chọn những nội dung phù
hợp với hoạt động nhóm & thiết kế các bước để hướng các em khám phá kiến thức
bằng con đường ngắn nhất hay nhất
V/ Kết quả:
Dạy học lịch sử phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh là đáp ứng
đúng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học của ngành. Phương pháp dạy học này
đã phát huy cao độ tính tích cực, tự giác tham gia vào các hoạt động học tập do Gv
tổ chức chỉ đạo, tạo nên sự sôi nổi, hấp dẫn của tiết học, kích thích sự hứng thú học
tập của học sinh, với phương pháp dạy học này luôn đặt các em ở tư thế tư duy,
được quan sát, được bàn cải tranh luận…để khám phá, tìm ra kiến thức mới. Còn
GV giảm bớt phần làm việc, tiết dạy có hiệu quả hơn, học sinh tiếp thu nhanh, nắm
chắc kiến thức & các em cảm thấy yêu bộ môn hơn
Qua thực nghiệm Tôi thấy tiết dạy rất thành công, việc tiếp thu bài của các
em đạt khoảng 95% trở lên
*Bài học kinh nghiệm:
Để có được tiết dạy theo phương pháp: Phát huy tính tích cực của học sinh, GV có
sự đầu tư cao trong khâu soạn giảng, thiết kết tiết dạy: Như tạo tình huống có vấn
đề, chuẩn bị lược đồ, tranh ảnh, lên kế hoạch khai thác những đồ dùng dạy học
này, chọn kiến thức & hình thức để tổ chức hoạt động nhóm….dự kiến những tình
huống sảy ra trong tiết dạy để có kế hoạch giải quyết. Bên cạnh việc đầu tư soạn
giảng để dạy thành công tiết dạy theo phương pháp này GV phải vững về kiến
thức, có nghệ thuật sư phạm & làm chủ được quỹ thời gian
VI/ Kết luận
Qua phân tích về lí luận, đối chiếu với thực tiễn ở phần trên, chúng ta thấy
được đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực: việc tạo tình huống có vấn đề,
khai thác đồ dùng dạy học, tổ chức hoạt động nhóm…là một trong những yếu tố
quan trọng để tạo nên thành công của tiết dạy theo phương pháp dạy học tích cực.
Dạy học tích cực đáp ứng yêu cầu đổi mới của SGK & phương pháp dạy học hiện
nay. Với phương pháp này chất lượng bộ môn được nâng cao, phát huy được tính

tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Để thành
8


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

công trong kiểu dạy học theo phương pháp này Giáo viên phải nắm chắc phần lí
luận, phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy truyền thống.
Trường THCS Quang Trung
Người viết SKKN: Trương Thị Minh Yến
(Giáo viên bộ môn sử)
Tổ: Văn-Sử-Địa-GDCD
Năm học: 2007-2008

NHẬN XÉT CỦA TỔ HỖ TRỢ SKKN
CỦA TRƯỜNG THCS QUANG TRUNG

XẾP LOẠI CẤP TRƯỜNG:

9


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

Đại Hưng, Ngày

tháng


năm 2008

NHẬN XÉT XẾP LOẠI CỦA HĐKH NGÀNH GD - ĐT
HUYỆN ĐẠI LỘC
Người đề nghị số 1:
Nhận xét:

Xếp loại:

Người đề nghị số 2:
Nhận xét:

Đề nghị xếp loại:
10


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

KẾT LUẬN CỦA HĐKH GD - ĐT ĐẠI LỘC

11


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH CỦNG CỐ VÀ KHẮC
SÂU KIẾN THỨC LỊCH SỬ
I/ Lí do chọn đề tài

Lịch sử là một môn xã hội, đặc trưng của bộ môn là xâu chuỗi rất nhiều sự kiện từ
quá khứ đến hiện tại và dự đoán tương lai của loài người.Rất ít học sinh thích học
bộ môn này, đa số các em học sinh THCS khi đến giờ lịch sử là rất sợ, bởi vì theo
các em bài dài, nhiều sự kiện ,hiện tượng lịch sử quá, không thể nhớ và nắm hết
được các sự kiện, khó thuộc bài…Giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử cũng hay
than phiền, đến giờ lịch sử các em không chịu học bài, kiểm tra mãi mà các em
cũng không thuộc, rất ít em giỏi về bộ môn này. Qua các phương tiện thông tin,
chúng ta cũng thật xót xa khi nghe nói về điểm bộ môn lịch sử qua các kì thi. Tại
sao lại như vậy? đó là câu hỏi mà tôi và đồng nghiệp vẫn thường trăn trở. Trong
những năm qua, thực hiện chủ trương chung của bộ và nghành, giáo viên THCS đã
nỗ lực thực hiện đổi mới phương pháp trong dạy học và từng bước tiếp cận công
nghệ thông tin để nâng cao chất lượng dạy học. Là một giáo viên lịch sử, bản thân
luôn tự học tập nghiên cứu, học hỏi…nâng cao tay nghề, xây dựng những tiết dạy,
chọn lọc phương pháp để các em dễ hiểu, dễ nhớ các kiến thức lịch sử nhất.
Qua thực tế giảng dạy tôi đã tổng kết và rút ra một số biện pháp nhỏ mà bản thân
và đồng nghiệp thường sử dụng trong các tiết dạy, giúp học sinh hứng thú học lịch
sử, khắc sâu, dễ ghi nhớ các sự kiện lịch sử: “ Một vài biện pháp giúp học sinh
củng cố và khắc sâu kiến thức lịch sử”
II/ Thực trạng ban đầu
1/ Thực trạng về việc học bộ môn lịch sử của học sinh THCS
Tâm lí học sinh rất sợ học bộ môn lịch sử vì bài dài, nhiều sự kiện, khô, khó nhớ…
nên tâm thế của các em bước vào tiết học không chút hứng thú mà rất miễn cưỡng,
ít tham gia vào xây dựng bài. Về nhà không học bài cũ, khi cô kiểm tra kiến thức
đã học thường không thuộc, khi làm bài kiểm tra định kì (15 phút, 1 tiết ) những
câu hỏi giáo viên thấy rất trọng tâm, quen thuộc, dễ nhưng học sinh lại không làm
được, viết lung tung…khi hỏi thì các em nói là mình có học bài nhưng kiến thức
nhiều quá không nhớ nổi, không thuộc được…nhất là học sinh lớp 6 chất lượng rất
thấp, các em chưa quen với cách học ở bậc THCS, nên đối với các em việc ghi nhớ
các kiến thức lịch sử là cả một vấn đề không hề dễ chút nào, các em còn rất ngỡ
ngàng với các bài tập trắc nghiệm, mơ hồ với bản chất các sự kiện lịch sử.

2/ Thực trạng về việc dạy bộ môn lịch sử của một số giáo viên ở trường THCS
Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, tiếp cận công nghệ hiện đại trong dạy
học, giáo viên dạy sử đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư soạn giảng, đổi mới
phương pháp dạy học.Nhưng không ít giáo viên do việc lập kế hoạch tiết dạy
không chu đáo đã không làm chủ được quỹ thời gian nên chủ yếu lo “ chạy kiến
thức” trong tiết học, tức là cố gắng chuyển tải cho hết kiến thức trong một tiết học,

12


SKKN: Trương Thị Minh Yến
Năm học: 2007-2008

họ nghĩ rằng mình dạy hết kiến thức trong một tiết, không bị “ cháy giáo án” là đã
thành công. Một số giáo viên ít để ý đến việc, kiến thức trọng tâm trong tiết học
hôm nay học sinh có nắm được hay không? Nhiều giáo viên coi nhẹ việc củng cố
kiến thức cơ bản của bài học và dặn dò các em về nhà làm gì để các em khắc sâu
kiến thức hơn, tất nhiên việc giúp học sinh củng cố và khắc sâu kiến thức là rất
phong phú, đa dạng, mỗi giáo viên có một cách khác nhau. Với kinh nghiệm của
bản thân, tôi xin đưa ra một số biện pháp hết sức “truyền thống” nhưng lại hiệu
quả, giúp học sinh dễ nhớ, khắc sâu được các sự kiện lịch sử và hứng thú học bộ
môn này hơn.
III/ Nội dung
1/ Làm bài tập củng cố vào cuối tiết học
Nhiều giáo viên ít để ý đến động tác này, họ cho rằng chỉ cần chuyển tải kiến thức
của bài học xong là tốt, còn động tác này có thời gian thì làm còn không có cũng
được. Theo bản thân tôi, qua thực tế giảng dạy thấy rằng việc làm này tuy chỉ thực
hiện trong ít phút nhưng hiệu quả lại rất cao, mỗi giáo viên khi thực hiện tiến trình
dạy học nên cố gắng dàn xếp thời gian để làm việc này, bởi vì làm bài tập củng cố
sẽ giúp các em định hình, hệ thống lại kiến thức của mình đã học trong bài, giúp

các em khắc sâu được kiến thức vừa tiếp thu.
Làm bài tập củng cố vào cuối tiết học, có nhiều hình thức, tuỳ đặc trưng của từng
kiểu bài mà giáo viên chọn cách củng cố bài học cho phù hợp như:
+Củng cố kiến thức theo từng mục của bài
+Làm bài tập củng cố dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm
+

13



×