Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN ANH VĂN CHỦ ĐỀ NÓI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.06 KB, 12 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Với xu thế hội nhập quốc tế,Việt Nam ngày càng phát huy những khả năng sẵn
có trong mọi lĩnh vực vì vậy ngôn ngữ giao tiếp, đặc biệt là Tiếng Anh đã trở thành
công cụ đắc lực có sức mạnh tiên quyết. Cũng vì vậy mà Tiếng Anh được xem như
một môn học chính trong cấp học phổ thông. Việc dạy và học Tiếng Anh có rất nhiều
phương pháp khác nhau nhưng đều tập trung vào việc phát triển tính năng động sáng
tạo, tích cực của học sinh nhằm tạo khả năng nhận biết và cách giải quyết vấn đề cho
các em. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy tiếng anh tại cấp THPT tôi nhận thấy để
dạy cho các em nắm vững các kỹ năng cơ bản “ĐỌC – NÓI – NGHE – VIẾT” một
cách thành thạo đạt hiệu quả còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với kỹ năng
nói( speaking skill).
Trên thực tế người học không thể giao tiếp Tiếng Anh một cách hiệu quả, đa
số học sinh - sinh viên thường gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi học nói nhất là khi
giao tiếp với người nước ngoài, vì giao tiếp là điều kiện thuận lợi để kích thích người
học sử dụng ngoại ngữ đạt hiệu quả nhất. Tuy nhiên, kĩ năng nói này đôi khi bị lãng
quên vì chúng ta chỉ đánh giá ngôn ngữ qua trình độ, kiến thức , không đo lường
bằng khả năng sử dụng ngôn ngữ. Do đó chúng ta phải chú ý rất nhiều đến kĩ năng
này để trang bị cho học sinh khả năng giao tiếp một cách tự tin, lưu loát. Để làm
được điều này người dạy cần phải tổ chức môi trường học tập hấp dẫn để thu hút
nhiều học sinh tham gia. Có được như vậy học sinh mới đủ tự tin, mạnh dạn hơn cho
việc giao tiếp một ngoại ngữ nào đó sau này.
Biết rằng kỹ năng nói là rất khó song giáo viên cần tìm ra những phương pháp
tốt nhất, phù hợp nhất để học sinh có thể cảm thấy hứng thú hơn trong việc học.
Cũng vì lý do đó trong qúa trình dạy kỹ năng nói bản thân tôi suy nghĩ, rút ra những
kinh nghiệm để phát triển và nâng cao kỹ năng nói cho học sinh, cố gắng tìm ra
phương pháp dạy kỹ năng nói tối ưu nhất cho bản thân và giúp học sinh hiểu được
tầm quan trọng của môn học, cảm thấy thích thú với môn học hơn.Do đó tôi đã tập
hợp một số kinh nghiệm để dạy kĩ năng nói đạt hiệu quả.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN.


Trong những năm học gần đây Bộ Giáo Dục & Đào Tạo đã có chủ trương đổi
mới nội dung chương trình SGK cho tất cả các cấp học. Cùng với việc đổi mới về
chương trình nội dung sách giáo khoa là kéo theo sự thay đổi hàng loạt hình thức và
phương pháp dạy học. Để đạt được những mục tiêu đề ra cho cấp học, mỗi gáio viên
không ngừng phấn đấu trau dồi những kinh nghiệm, thường xuyên học hỏi để hoàn
thiện hơn trong quá trình giảng dạy .
Trong quá trình giảng dạy tôi đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm cho mình.
Nhưng kinh nghiệm mà tôi rất tâm đắc muốn được chia sẽ cùng với quí đồng nghiệp
cùng tham khảo và có ý kiến xây dựng giúp tôi hoàn thiện hơn trong công tác giảng
dạy.
II. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGUYÊN CỨU.
Đặc trưng của quá trình giảng dạy môn Tiếng Anh là làm sao trong mỗi tiết
học người học có thể thuần thục sử dụng các kỷ năng Nghe-Nói -Đọc- Viết. Làm sao
giúp các em dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ những kiến thức mà thầy, cô đã truyền đạt và
vận dụng vào thực tế, kích thích được sự hứng thú trong học tập. Có thói quen tự tìm
-1-


tòi, khám phá và sáng tạo những cái mới. Thực hành thành thạo các kỹ năng trong
lớp, ở nhà, cũng như đối phó với những tình huống tình cờ mà các học sinh gặp phải.
Tuy nhiên có rất nhiều những tình huống khó xử dẫn đến các em trở thành mất tự tin
trong học tập cũng như giao tiếp sau này. Do đó trách nhiệm của mỗi giáo viên
chúng ta là gúp học sinh vượt qua mọi khó khăn thử thách, tự tin, mạnh dạn và cởi
mở hơn trong giao tiếp.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI.
- Đề tài này áp dụng được cho tất cả học sinh ở bậc trung học.
- Chỉ dùng cho việc dạy kĩ năng nói trong Tiếng Anh.
- Không cần phân loại trình độ học sinh.
IV. CÁC GIẢ THIẾT NGUYÊN CỨU.
Kĩ năng nói là một trong những kỷ năng quan trọng trong việc học bất kỳ một

ngoại ngữ nào. Nếu người học sử dụng thành thạo, lưu loát kỷ năng này sẽ làm cho
họ rất hứng thú và tự tin trong học tập trước mắt và sau này. Giúp họ vượt qua những
rào cản về ức chế tâm lý khi giáo tiếp với bạn bè, thầy cô, người lạ hoặc người nước
ngoài và đặc biệt hơn là tự tin khi nói chuyện trước công chúng dù đó là nói một
ngoại ngữ hay tiếng mẹ đẻ.
Vậy làm thế nào để học sinh thành thạo kĩ năng đó? Đó có phải là năng khiếu
của từng học sinh có được hay không? Hay học sinh rèn luyện kỷ năng đó hàng ngày
để có được?
Đây là những câu hỏi đã được đặt ra từ lâu cho các nhà ngôn ngữ học, các nhà
chuyên môn nhằm tìm ra những biện pháp hữu hiệu giúp người học, người dạy tích
luỹ kinh nghiệm qua các tiết học và thực tế tiết dạy. Từ những thực tế đó, các nhà
chuyên môn, các nhà giáo ưu tú, các người thầy đi trước đã tích luỹ được khá nhiều
kinh nghiệm quý báu trong việc dạy ngoại ngữ và đã truyền lại, viết lại cho những
người đi sau. Đến nay chúng ta đã biết được khá nhiều kỹ thuật dạy một tiết nói
nhưng những kỹ thuật đó chưa theo kịp với sự thay đổi của đặc thù môn học, tâm lý
và nguyện vọng của học sinh.
V. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN: Mọi kế hoạch chúng ta đưa ra đều phải có mục
đích và kế hoạch càng rõ ràng, chi tiết thì chúng ta càng thành công. Nên:
- Chúng ta cần chuẩn bị và sắp xếp chủ đề nói cho phù hợp với năng lực và
trình độ của học sinh.
- Phải tổ chức lớp học khoa học theo đội, nhóm.
- Phải chuẩn bị nguồn kiến thức để học sinh có thể thực hiện nói và phản xạ xử
lý trong các tình huống.
- Phải làm thế nào để kích thích học sinh thực hiện việc thực hiện kĩ năng nói
từ đầu tiết học cho đến cuối tiết.
B. PHẦN NỘI DUNG:
I. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẨN: Ở vùng nông thôn học sinh chỉ
mới tiếp cận học ngoại ngữ từ lớp 6 nên hầu như các em rất bỡ ngỡ so với tiếng mẹ
đẻ của mình. Các em chưa thấy được tầm quan trong của ngoại ngữ nên học tập một
cách qua loa nhằm đối phó. Do đó, khi các em được lên bậc trung hoc phổ thông thì

đa phần học sinh học rất yếu ngoại ngữ với các kỹ năng nghe, nói nên giáo viên rất
vất vả trong việc dạy các kĩ năng này cho các em.
II. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
-2-


1. Chuẩn bị và sắp xếp chủ đề nói: Không nên bám sát các hoạt động nói
giống như các chủ điểm trong sách giáo khoa vì e rằng sẽ làm cho học sinh cứng
nhắc và khô khan, không phát huy hết khả năng tìm tòi và tính sáng tạo trong hoạt
động giao tiếp của học sinh. Bởi tình huống dễ các em không nói được thì là sao nói
các tình huống khó được. Do đó chúng ta nên hướng dẫn học sinh bám sát các chủ đề
trong sách giáo khoa sau đó tự thực hiện hoặc cùng nhóm thực hiện các chủ đề trên
thành đoạn hội thoại, tự luận … phù hợp vớ khả năng của mình, sau đó thực hiện lại
tại lớp(có thể mỗi em, mỗi nhóm thực hiện nhiều bài khác nhau).
Qua cách làm này tôi nhận thấy các em đã suy nghĩ, tìm tòi và nói ra được mọi
điều mà các em cần nói. Các em cũng rất thích thú phấn khởi trong học tiết nói đó,
mong muốn sớm có chủ đề mới và tiết nói tiếp theo bởi lúc đó các em có cơ hội để
thể hiện bài học và đặc biệt để thể hiện chính mình.
Làm như thế không những tạo điều kiện để học sinh giỏi thể hiện chính mình
mà còn giúp tất cả các học sinh trong lớp đặc biệt là các học sinh yếu, rụt rè, ít giao
tiếp có thể nói được Tiếng Anh. Bởi vì các em đã được các học sinh giỏi hơn cố vấn,
được chuẩn bị ở nhà và thực hành nhuần nhuyễn nên các em đó đã không bỡ ngỡ, tự
tin trong việc nói và giao tiếp trước công chúng mà trước đây các em chưa có điều
kiện để thể hiện.
2. Hình thức và cách thức tổ chức nói. Đây cũng chính là kỹ năng chính
quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động giao tiếp. Nếu lớp học không
sôi động, ít học sinh thực hiện kỹ năng nói thì tiết học đó xem như chưa thành công.
Nếu lớp học sôi động, không bị ức chế và được nhiều học sinh thực hiện kỹ năng nói
thì tiết học đó xem như đã thành công.
Do đó, tôi nghĩ chúng ta nên tổ chức “Lớp học mở”- có thể cho học sinh ra

khỏi vị trí ngồi quen thuộc của các em để tìm bạn nói ưng ý hoặc có thể đứng tại chổ
để thực hiện việc nói theo cặp hoặc nhóm là rất hay (không nên ngồi). Vì lúc đó học
sinh sẽ rất thoải mái để thực hiện hoạt động nói cũng như dễ “múa tay” diễn đạt ý
nghĩa của từng câu nói cho người nghe.
Trong khi đó, nếu sợ lớp ồn ào mà để học sinh ngồi tại chổ quen thuộc của
mình thì học sinh sẽ rất thụ động và ức chế về tâm lý. Do đó học sinh không thể phát
huy hết “vốn từ” mà các em có, bởi cử chỉ, ánh mắt, hành động cũng là “vốn từ”
trong giao tiếp của mỗi ngôn ngữ mà làm cho người nghe có thể hiểu được. Hơn nữa
nếu ngày nào các em cũng chỉ được nói với người ngồi bên cạnh mình thì việc giao
tiếp đó sẽ rất nhàm chán và lại không biết hết tính cách của từng người bạn trong lớp.
Nếu vậy thì lớp học sẽ rất ồn ào khó quản lý và kiểm soát?
Đây là câu hỏi rất nhiều giáo viên băn khoăn đặt ra mà đặc biệt là các giáo
viên trẻ. Tuy nhiên tôi cũng mạnh dạn nói rằng học tiết học nói thì đừng sợ ồn ào
trong lớp bởi có sự “ồn ào trong sự điều khiển” sẽ làm cho lớp học trở nên sôi động
thêm. Bởi sau khi thực hiện xong chúng ta yêu cầu học sinh về lại chổ hay ngồi
xuống chổ của mình thì các em theo “quán tính” trở nên trật tự. Sau đó chúng ta có
thể đánh giá nhận xét góp ý cho các hoạt động nói mà chúng ta đã đề ra.
Trong suất quá trình nói chúng ta nên khuyên học sinh như sau:
- Nói thật chậm (Always speak slowly)
Bởi vì hầu hết học sinh đều cho rằng nói tiếng Anh càng nhanh sẽ càng giống
với người bản xứ bởi đa số người học tiếng Anh đều thấy khó nắm bắt thông tin khi
nghe người bản xứ nói vì họ nói khá nhanh. Tuy nhiên, quan điểm “nói càng nhanh
-3-


càng tốt” này là hoàn toàn sai lầm. Nên khuyên học sinh cố gắng nói thật chậm và
chính xác. Nếu như học sinh nói chậm lại thì âm điệu và trọng âm của bạn sẽ trở nên
nhẹ nhàng hơn, trái lại giọng điệu phát âm của bạn sẽ nặng và khó hiểu hơn, điều này
cũng dễ hiểu bởi vì bạn sẽ không có đủ thời gian để hình thành âm vị và ngữ điệu
chính xác. Hãy “điều khiển” tốc độ nói phù hợp như nguyên tắc nói căn bản để có thể

đạt được những gì bạn muốn.
- Nói đủ lớn (Speak loudly enough)
Đây là yếu tố quan trọng trong giao tiếp. Bởi dù bạn nói với 1 người, 10 người
hay cả trăm người thì bạn cũng cần phải nói đủ lớn để tất cả những người có mặt đều
có thể lắng nghe bạn nói một cách dễ dàng. Nếu như bạn nói quá nhỏ, điều gì sẽ xảy
ra?
Thực hành nói với một âm lượng phù hợp sẽ giúp bạn tự tin hơn và có thể điều
chỉnh được âm lượng của mình phù hợp với từng không gian và hoàn cảnh khác
nhau. Nên tốt nhất mỗi ngày dành ra khoảng 15 đến 20 phút để thực hành phát âm
tiếng Anh bằng cách đọc to thành tiếng các từ, các câu, các đoạn văn bằng tiếng Anh.
Nếu học sinh thực hành thường xuyên hàng ngày trong vòng 3 tháng thì cơ miệng
của bạn sẽ phát triển phù hợp cho việc nói một ngôn ngữ mới. Có thể ghi âm lại
giọng nói của bạn và nghe lại những từ mình phát âm sai. Mọi người thường ghét
phải nghe giọng của chính mình và thường có xu hướng tránh nghe giọng mình nói.
Tuy nhiên, đây là một cách thực hành khá quan trọng vì bằng cách này bạn có thể
nhận ra những lỗi mà mình thường mắc phải.
- Phát âm tất cả các âm trong từ (Pronounce all the sounds in words)
Như đã được đề cập ở trên, luyện nói Tiếng Anh với tốc độ chậm sẽ giúp bạn
có thời gian tập trung đến các âm có trong từ. Có thể ngay bây giờ, bạn có thể bỏ sót
âm cuối hay âm giữa của từ, hoặc những âm tiết không phải là trọng âm trong từ.
Điều này không ảnh hưởng đến người nói nhưng lại gây khó khăn cho người nghe.
Chính vì vậy, khuyên học sinh nên tập trung tới từng âm trong từ và không bỏ sót âm
nào đặc biệt là âm những âm cuối của từ như “s”, “ed”, “t”, “p”, v.v..
- Nên sử dụng cấu trúc ngữ pháp đơn giản:
Bởi khi nói, sẽ không ai để ý đến việc bạn dùng cấu trúc đơn giản hay phức tạp
để đánh giá khả năng của bạn và thậm chí là cũng không ai nhận ra mức độ của các
cấu trúc mà bạn đang sử dụng. Nên hãy sử dụng cấu trúc và mẫu câu đơn giản triệt
để để thuận tiện cho việc giao tiếp.
- Suy nghĩ bằng tiếng Anh, không nên dịch từ tiếng Việt.
Một trong những sai lầm nghiêm trọng là chúng ta có khuynh hướng “dịch” (từ

tiếng mẹ đẻ sang tiếng Anh) trước khi nói. Việc này ngay lập tức sẽ tạo ra một rào
cản ngôn ngữ. Ví dụ, khi chúng ta muốn bỏ một cuộc hẹn, chúng ta sẽ nghĩ trong
đầu: “tôi muốn huỷ bỏ cuộc hẹn đó”. Sau đó chúng ta dịch câu đó sang tiếng Anh.
Chúng ta sẽ gặp vấn đề vì chúng ta có thể không nhớ hoặc không biết các từ “cancel”
và “appointment” để hình thành câu “I would like to cancel the appointment”. Nếu
chúng ta nghĩ bằng tiếng Anh, chúng ta sẽ không gặp phải vấn đề này và có nhiều
cách diễn đạt tình huống này bằng tiếng Anh, ví dụ: “I'm sorry. I'm not free
tomorrow” hay “I am afraid I can’t come tomorrow”, v.v.
- Không nên tự ti về khả năng Tiếng Anh của mình.
Ví dụ: Khi bạn được hỏi “How is your English?”, bạn không nên trả lời: “Oh,
my English is very poor, I have no chance to practice”, bạn nên trả lời: “ I love to
-4-


speak English” or “My English is improving”. Những câu trả lời như thế này sẽ tạo
cho bạn cảm giác tự tin. Khi bạn tự tin, bạn sẽ không còn sợ nói tiếng Anh nữa.
3. Chuẩn bị nguồn kiến thức để học sinh có thể thực hiện nói và phản xạ xử lý
trong các tình huống: Có rất nhiều nguồn kiến thức mà học sinh có thể sưu tầm
nhưng vấn đề là các em có vận dụng và tích luỹ được chừng nào? Nếu chúng ta
không hướng dẫn các em thì có thể các em sẽ nói mà không có mục đích. Do đó,
trước hết chúng ta nên đưa ra những câu giao tiếp, những đoạn hội thoại, những tình
huống đơn giản, ngắn gọn để học sinh dễ dàng vận dụng và hứng thú trong việc nói.
Sau đó dựa vào các mẫu câu, đoạn hội thoại đó để áp đặt vào các chủ đề trong sách
giáo khoa để học sinh đỡ bỡ ngỡ.
Nên chúng ta phải biết cách chế biến các kiến thức cho phù hợp với khẩu vị
của học sinh. Chúng ta phải dày công sưu tầm những hình ảnh, tư liệu liên quan đến
chủ đề hoặc từ mới trong bài học: Những bức hình đó chúng ta có thể phóng to thành
một hình lớn hoặc thu nhỏ nhiều hình khác nhau để chèn vào một tờ giấy nhỏ để phát
cho học sinh thực hành. Theo cách này chúng ta không cần mất nhiều thời gian cho
việc giải thích từ mới mà lại gây được sự hứng thú cho học sinh, vì khi học sinh nhìn

vào các bức hình đó, học sinh sẽ không quan tâm đến các từ mới nữa. Trong đầu học
sinh luôn nghỉ cách nào để diễn đạt được các bức hình đó cho đúng. Từ đó tâm lý
học sinh sẽ không còn nặng nề về vốn từ nên sẽ kích thích được kỹ năng nói hơn.
4. Làm thế nào để kích thích học sinh thực hiện việc thực hiện kỷ năng nói
từ đầu tiết học cho đến cuối tiết? Nếu không chuẩn bị tốt các tiết học nói thì các
tiết học thường rất rời rạc và gây cảm giác mệt mõi cho người học cũng như người
dạy. Nên giáo viên phải chuẩn bị một cách lôgic từ đầu tiết đến cuối tiết và không
nên để quá nhiều “thời gian chết”. Bởi như thế sẽ làm cho học sinh phân tâm, cảm
thấy chán nản và không hào hứng gì cho việc nói.
5. Các bước cụ thể cho phần dạy nói:
+. Trước khi nói ( Before speaking ). Chúng ta có thể sử dụng:
- Matching
- Pre-teach vocabulary
- Open prediction: (Hoạt động tiên đoán tự do)
- Ordering : (Sắp xếp thứ trật tự ý câu, hoặc tranh ảnh…)
- Answer the guiding questions (pre- question )
- Games
+. Trong khi nói (while speaking). Chúng ta có thể sử dụng:
- Giving opinions
- Discussing
- Ask and answer
- Matching
+. Sau khi nói( After speaking): Chúng ta có thể sử dụng:
- Interviewing
- Recall/ retell the story or dialoguge.
- Role play/ taking a survey
- Discuss the main idea.
- Summerising the main points
- Card Deck
-5-



Example 1: Unit 13- Textbook 10- FILM AND CINEMA
WARMER: * Match the picture with A type of film:

A

C

B

D
D

1. Science fiction
2. Comedy
3. Cartoon
4. Love story
5. Detective

E

………………………………………….
………………………………………….
………………………………………….
………………………………………….
………………………………………….

BEFORE SPEAKING: Rely on the pictures and practice like below:
A. What kind of film do you like much?

B. I Like……very much.
A. What kind of film don’t you like very much?
B. I don’t like…………very much.
A. What kind of film don’t you like at all?
B. I don’t like……….at all.
WHILE SPEAKING: Work in groups and practice about each kind of
film. Look at the information below:
FILMS
ADJECTIVES
Detective
Science fiction
Love story
Cartoon
Comedy
Action

Interesting
Moving
Fascinating
Boring
Exciting
Violent

A. What do you think of horror films?
B. I find them really terrifying
C. I don’t agree with you. I find them very interesting
* Suggestions
A: What do you think of .........................?
B: Oh, I find them ......................
-6-



C: I don’t agree with you .I find them ........
D: I agree with you. I find them ........
AFTER SPEAKING: Work in pairs to talk about the film you have seen:
Using the suggestions below:
A. Where did you see it?
B. I saw…..
A. What kind of film is it?
B. It is Detective/ action/ cartoon/ love story…..
A. How much do you like it?
B. Very much/ not very much/ not at all
A. Who is/ are the main character(s)?
B. He/ She is…
A. How do you feel about it?
B. I find it interesting/ moving/ violent….
A. Why do you prefer it to other films?
B. Because…..
Example 2: Unit 14- Textbook 12- INTERNATIONAL ORGANIZATION
WARMER: Look at the pictures then guess which international organizations
they are.

C.
->

->

-7-





What do you know about these organizations?
Their main office, aims, activities….? -> LEADING THE NEW LESSON.
I. BEFORE SPEAKING:
1. Vocabulary:
- stand for [stænd fər] (v):
- advocate ['ædvəkeit] (v)
- establish [is'tæbli∫] (v)
- attainment [ə'teinmənt] (n):
- objective [əb'dektiv] (n)
2. Read the passage about WHO and answer the questions
1. What does WHO stand for?
- WHO stands for World Health Organization.
2. When was WHO established?
- When was WHO established?
3. What is its major objective?
- What is its major objective?
4. What are its main activities?
- What are its main activities?
II. WHILE SPEAKING:
1. Work in pairs- ask and answer about WHO organization like below:
1. What does _______stand for?
-______ stands for________________________ .
2. Where is its headquarters?
- It is in _______.
3. When was _______founded?
- It was founded ______________ .
4. What is its aim?
- Its aim is_____________

5. What are its main activities?
- Its main activities are _____________________________
_____________________________________________ .
2. Going on practicing the conversation like modal above about UNICEF and
WWF organization:
UNICEF
WWF
- Founded: 1948
- Founded: 1961
-8-


- Headquarters: New York
- Aims: to advocate for the protection
of children’s rights, to help meet their
babic needs and help them reach their
full potential.
- Activities:
+ provide supports and funds for the
most disadvantaged children – victims
of war, disasters and extreme poverty.
+ carry out education development
programmes for children.

- Headquarters: New York
- Aims: to protect endangered wild
animals and their habitat.
- Activities:
+ carry out reseachrch on endangered
species

+ collect data on rare and endangered
animals and plants.

AFTER SPEAKING: Which international organization would you like to work
for: UN, WWF, WHO, RED CROSS or UNICEF? Why?
Reasons
- have high salary
- use English at work
- do volunteer work
- live and work in New York
- protect endangered species
- travel all over the world
- meet different people
- help protect children’s right
Suggested:
I would like to work for………….
because I will/ can/ want to ………and ……
Có rất nhiều thủ thuật để vận dụng, tuy nhiên chọn thủ thuật nào phù hợp với
chủ đề mới là quan trong để thu hút sự chú ý của học sinh và không gây sự nản chí
hay khó khăn cho học sinh thì đó mới thành công. Khi thiết kế một bài nói phải thiết
kế từ dễ đến khó và phải có sự kết dính giữa các phần với nhau.
Do đó chúng ta phải biết kết hợp các thủ thuật từ phần “warmer
before speaking
while speaking
after speaking theo một mắt xích để
học sinh thực hiện liên tục trong một tiết học để học sinh hứng thú thực hiện từ đầu
đến cuối.
III. HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG VÀ KẾT QUẢ
- Trong quá trình giảng dạy mỗi tiết học, mỗi nội dung khác nhau tôi thực hiện
nhiều cách thức tổ chức bài học khác nhau để không nhàm chán và phù hợp với khả

năng của học sinh lớp học, khối lớp. Kết quả học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh hơn,
có hiệu quả hơn. Các em được trao đổi thảo luận một cách thoải mái và thực hành
nhiều hơn vì tôi đi theo quy trình từ dễ đến khó. Từ đó gây được hứng thú học tập
cho học sinh và các em ngày càng yêu thích môn học hơn.
- Học sinh có thể nói được những câu đơn giản, thực hành những bài hội thoại
đơn giản mà xã hội yêu cầu.
-9-


- Vì là người hướng dẫn điều khiển nên giáo viên cũng đỡ vất vả hơn.
Kết quả :
Việc áp dụng đề tài giúp học sinh tự tin hơn từ đó học tập đạt kết quả cao hơn, thể
hiện:
Kết quả học tập của HS những lớp tôi dạy khi chưa áp dụng đề tài:
Năm học 2008-2009
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
2%
10%
49%
39%
Năm học 2009-2010
Giỏi
Khá
3%
12%

Trung bình

47%

Yếu, kém
38%

Kết quả học tập của HS những lớp tôi dạy khi áp dụng đề tài:
Năm học 2010-2011
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
4%
19%
50%
27%
Năm học 2011-2012
Giỏi
Khá
5%
21%

Trung bình
54%

-10-

Yếu, kém
20%



C. KẾT LUẬN:
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC:
- Đề tài này giúp giáo viên chúng ta có thêm nhiều tầm nhìn về việc dạy tiết học
nói trong Tiếng Anh hiệu quả hơn. Giáo viên có thể chọn lọc để vận dụng cho phù
hợp với khả năng của học sinh. Từ đó học sinh hứng thú hơn và chất lượng của tiết
học cũng nhờ đó mà được cải thiện hơn.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Vì là một tiết học khó nên trước khi lên một tiết dạy nói, giáo viên cần phải
nguyên cứu kĩ bài, chính xác mục tiêu. Thông thường mỗi tiết dạy nghe gồm có 3
phần, trong từng phần lại có các thủ thuật khác nhau. Vậy tùy từng nội dung từng bài,
tùy từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể kết hợp các phần sao cho phù hợp và
cũng nên linh hoạt thay đổi các thủ thuật nhằm tạo cho học sinh sự hứng thú, mới lạ.
- Các họat động của học sinh như cá nhân, cặp, nhóm cần được dẫn giải cụ thể, rõ
ràng và chính xác. Giáo viên nên sử dụng tranh ảnh, phiếu học tập, đồ dùng thật và
những mẫu tình huống giao tiếp dễ hiểu để giúp thực hành một cách tự tin.
- Muốn có thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực của thầy và trò trong điều kiện
phương tiện trang thiết bị dạy học còn thiếu. Bên cạnh đó còn phụ thuộc vào trình độ,
nghệ thuật sư phạm và lòng nhiệt tình của người thầy sẽ vượt qua khó khăn.
- Chúng ta phải yêu thích môn học và nghiên cứu thật nhiều tài liệu có liên quan
đến các kỷ năng. Qua công tác giảng dạy chúng ta phải biết rút ra những kinh nghiệm
tích luỹ cho bản thân.
- Qua việc nghiên cứu đề tài giúp cho bản thân tự nâng cao trình độ, tự học và tìm
những tư liệu tối ưu trong việc dạy học.
-Tuy nhiên, các phương pháp nêu trên cần được phối hợp với các kĩ năng khác để
việc giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh đạt kết quả cao hơn.
III. ĐỀ XUẤT
* Đối với nhà trường
- Tạo điều kiện để giáo viên được tham gia học tập và nâng cao trình độ.
- Tạo điều kiện để học sinh có điều kiện tham gia vào các họat động ngoại khóa,
các hội thi do sở, ngành tổ chức.

- Nhà trường nên tổ chức các cuộc thi về nói tiếng Anh theo chủ đề đã học, ít
nhất mỗi năm tổ chức một lần. Hoạt động này sẽ kích thích việc học tiếng Anh của
học sinh hơn.
* Đối Sở giáo dục và đào tạo:
- Cung cấp nhiều hơn tài liệu tham khảo, đồ dùng giáo cụ trực quan cho bộ môn.
- Nên tổ chức các cuộc thi hùng biện về tiếng Anh, tổ chức hội thi Olympic Tiếng
anh để học sinh có cơ hội sử dụng vốn từ của mình cọ xát với các trường trong khu
vực.

-11-


MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
II. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGUYÊN CỨU.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI.
IV. CÁC GIẢ THIẾT NGUYÊN CỨU.
V. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
B. PHẦN NỘI DUNG:
I. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẨN:
II. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
III. HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG VÀ KẾT QUẢ
C. KẾT LUẬN:
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC:
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
III. ĐỀ XUẤT

-12-


1
1
1
1
2
2
2
2
3
10
11
11
11
12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×