BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
------------***------------
BÙI NGỌC DIỄM
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP PHỦ XANH ĐẤT TRỐNG ĐỒI TRỌC
TẠI XÃ PHIÊNG BAN, HUYỆN BẮC YÊN,
TỈNH SƠNLA
Chuyên ngành : Sinh thái học
Mã số : 60.420.120
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đồng Tấn
Hà Nội, 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện luận văn tôi đã nhận được sự giúp đỡ
chỉ bảo tận tình của người hướng dẫn khoa học TS. Lê Đồng Tấn. Nhân dịp
này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về những giúp đỡ đó. Đặc biệt cảm ơn
ban chủ nhiệm Khoa Sinh - KTNN trường Đại hoc Sư phạm Hà nội 2, phòng
Sau Đại Học Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2, các thầy, cô giáo đã tận tình
giảng dạy, tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 07 năm 2015
Học viên
Bùi Ngọc Diễm
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số
liệu kết quả trong luận văn là trung thựckhông trùng lặp với các đề tài khác.
Công trình chưa được công bố trên bất cứ một tài liệu nào .Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc .
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 07 năm 2015
Học viên
Bùi Ngọc Diễm
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Ký hiệu viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các ảnh
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................. 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 3
4. Những điểm mới của đề tài. ...................................................................... 3
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.......... ........ 4
1.1. Xu hướng nghiên cứu phủ xanh đất trống đồi núi trọc .......................... 4
1.1.1.Khái niệm và phân loại đất trống đồi núi trọc .................................. 4
1.2.1.Giải pháp phủ xanh đất trống đồi núi trọc ........................................ 6
1.2.Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước .................................. 13
1.3. Một số nhận xét chung ......................................................................... 18
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ....................................................... 21
2.1. Đối tượng.... ......................................................................................... 21
2.2. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................. 21
2.3. Nội dung nghiên cứu.................. ......................................................... 21
2.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................. ........ 22
2.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu ........................................... 22
2.4.2. Phương pháp xử lý số liệu .............................................................. 24
CHƢƠNG 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU.................. .................................................. 26
3.1. Điều kiện tự nhiên........................................ ........................................ 26
3.2. Tình hình kinh tế, xã hội ...................................................................... 30
3.3. Nhận xét và đánh giá chung.... ............................................................. 34
CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN.................. .......................................................................................... 36
4.1. Hệ thực vật và thảm thực vật.................. ............................................. 36
4.1.1. Hệ thực vật ...................................................................................... 36
4.2.1. Thảm thực vật.................................................................................. 38
4.2. Hiện trạng, tiềm năng và nguyên nhân hình thành đất trống đồi núi
trọc.................. ................................................................................................. 44
4.2.1. Hiện trạng, tiềm năng đất trống đồi núi trọc .................................. 44
4.2.2. Nguyên nhân hình thành đất trống đồi núi trọc.............................. 50
4.3. Thực trạng công tác phủ xanh đất trống đồi núi……………………...52
4.3.1. Tình hình giao đất, giao rừng ......................................................... 52
4.3.2 Các hoạt động và đầu tư cho phủ xanh ĐTĐNT..............................54
4.3.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế của một số mô hình phủ xanh đất
trống đồi trọc... ................................................................................................ 56
4.4. Phân tích nguyên nhân kém hiệu quả của phủ xanh đất trống đồi núi
trọc tại xã Phiêng Ban ..................................................................................... 67
4.5. Đề xuất giải pháp phủ xanh đất trống đồi núi trọc tại xã Phiêng Ban . 69
4.5.1. Giải pháp về kỹ thuật........................................................................69
4.5.2. Giải pháp về chính sách, tổ chức quản lý và thị trường...... ........... 71
4.5.3. Giải pháp về vốn, đầu tư ................................................................. 72
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ...........................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................76
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DÙNG TRONG LUẬN VĂN THẠC SĨ
BQLDA
: Ban quản lý dự án
BV&PTR : Bảo vệ và phát triển rừng
DTTN
: Diện tích tự nhiên
ĐTĐNT
: Đất trống đồi núi trọc
KNKL
: Khuyến nông khuyến lâm
KHKT
: Khoa học kĩ thuật
LN
: Lâm nông
NLKH
: Nông lâm kết hợp
PAM
: Rừng trồng bằng vốn tài trợ của chương trình lương
thực Thế Giới
QH
: Quy hoạch
RVAC
: Rừng vườn ao chuồng
SXNLN
: Sản xuất nông lâm nghiệp
TL
: Trữ lượng
VAC
: Vườn ao chuồng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1 Diện tích đất rừng xã Phiêng Ban, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La .... 45
Bảng 4.2 Hiện trạng quản lý đất lâm nghiệp xã Phiêng Ban .......................... 53
Bảng 4.3 Mức đầu tư và thu nhập của 1 ha trồng rừng ( Keo tai tượng )
theo mô hình sản xuất hộ gia đình tại bản Rừng Tre xã Phiêng Ban.............. 58
Bảng 4.4 Mức đầu tư và thu nhập trên 1 ha rừng khoanh nuôi không tác
động của gia đình ông Thắng xã Phiêng Ban.................................................. 62
Bảng 4.5 Mức đầu tư và thu nhập trên 1 ha vườn rừng tại Phiêng Ban ......... 65
Bảng 4.6 Hiệu quả kinh tế của các mô hình phủ xanh ĐTĐNT ..................... 66
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ VÀ HÌNH ẢNH
Hình 4.1- 4.4 Một số hình ảnh ĐTĐNT loại I tại bản Mòn ............................ 47
Hình 4.5 - 4.8 Một số hình ảnh ĐTĐNT loại II tại bản Lào Lay, Trừng Tre
… ..................................................................................................... 48
Hình 4.9 - 4.12 Một số hình ảnh ĐTĐNT loại III tại bản Cang ..................... 50
Hình 4.13 Sơ đồ quá trình hình thành ĐTĐNT ở Phiêng Ban, Bắc Yên,
Sơn La ............................................................................................. 51
Hình 4.14 - 4.15 Thoái hóa đất do đốt nương làm rẫy tại bản Mòn ............... 52
Hình 4.16 Thoái hóa đất do xói mòn tại bản Cang ......................................... 52
Hình 4.17 Xử lý đất trồng rừng tại bản Lào Lay xã Phiêng Ban .................... 59
Hình 4.18 – 4.19 Mô hình RVAC tại bản Mòn............................................... 66
Luận Văn Thạc Sĩ
1
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Hệ sinh thái rừng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc bảo vệ môi
trường sống và nền kinh tế quốc dân ở nhiều quốc gia. Giữ đất, giữ nước, điều
hoà khí hậu, phòng chống ô nhiễm và thiên tai là những tác dụng chính của
rừng. Vì vậy, cho đến nay nhiều nước trên thế giới đã coi tác dụng bảo vệ môi
trường của rừng lớn hơn nhiều so với giá trị kinh tế của nó.
Tuy nhiên sức ép về kinh tế và dân số đã và đang dẫn đến việc sử dụng
quá mức tài nguyên rừng ở các nước đang phát triển, đặc biệt là nạn chặt phá
rừng bừa bãi. Tình hình đó làm cho nguồn tài nguyên có thể tái tạo được như
rừng và đất rừng bị cạn kiệt nhanh chóng, môi trường rừng nói riêng và môi
trường sống nói chung bị suy thoái nghiêm trọng. Thảm thực vật rừng thoái
hoá kéo theo quá trình suy thoái của đất do xói mòn, rửa trôi. Đất rừng ở nhều
nơi bị hoang hóa trở thành những vùng đất trống đồi trọc, giảm sức sản xuất
của đất.
Thực tế cho thấy, ở nhiều vùng đất trống trọc rộng lớn ở vùng nhiệt
đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh hiện nay đều có nguồn gốc từ rừng
do các hoạt động khai thác và sử dụng quá mức của con người tạo nên. Trên
những vùng đất đó, tiềm năng sẳn xuất đều giảm, năng suất cây trồng không
cao, chức năng bảo vệ đất, bảo vệ môi trường cũng bị suy giảm. Các nhà khoa
học đã nhận định mất rừng dẫn đến trọc hoá đất đai là nguyên nhân chính gây
ra các thảm họa như thiên tai, bão lụt và hạn hán.
Theo số liệu thống kê đất đai của Bộ NN&PTNT, đến ngày 31/12/2005
diện tích rừng trên toàn quốc là 12,28 triệu ha, độ che phủ 36,7%, tổng diện
tích đất trống đồi núi trọc là 4,31 triệu ha chiếm 13,01% diện tích đất tự nhiên
và chiếm 35,1% diện tích đất có rừng.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
2
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Ở nước ta, theo số liệu thống kê cho đến nay cả nước có khoảng 10
triệu ha đất trống đồi núi trọc (ĐTĐNT) đã quy hoạch cho lâm nghiệp. Ngoài
ra còn có một số diện tích đất trống trọc đang được sử dụng trong nông
nghiệp chưa được thống kê một cách cụ thể. Phần lớn diện tích đất trống trọc
phát sinh từ các hệ sinh thái rừng đã bị thoái hoá ở các mức độ khác nhau
nhưng vẫn còn tiềm năng cho sản xuất và phủ xanh. Vấn đề đặt ra là thực hiện
như thế nào để phát huy hiệu quả và tiềm năng vốn có của chúng. Nghĩa là
cần có những đánh giá chính xác hiện trạng, nhu cầu và điều kiện kinh tế của
từng địa phương để từ đó xác định chiến lược phủ xanh đúng đắn.
Xã Phiêng Ban, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La là một xã miền núi có diện
tích đất rừng và rừng khá lớn, chủ yếu có tác dụng là rừng phòng hộ xung yếu
cho hồ thuỷ điện Hoà Bình. Tuy nhiên hiện nay độ che phủ của rừng đang ở
mức thấp do nạn phá rừng làm nương diễn ra không kiểm soát, diện tích rừng
bị thu hẹp, đất trống, đồi núi trọc tăng nhanh. Điều này đã tác động, ảnh
hưởng đến chức năng phòng hộ, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường và
phòng tránh thiên tai. Để góp phần khắc phục những tồn tại nói trên, chúng
tôi tiến hành đề tài: “ Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp phủ xanh
đất trống đồi trọc tại xã Phiêng Ban, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.” nhằm
mục đích đánh giá hiện trạng, tiềm năng đất trống đồi núi trọc và đề xuất giải
pháp phủ xanh hợp lý.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu hiện trạng và xác định nguyên nhân hình thành đất trống
đồi trọc ở xã Phiêng Ban, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
- Phần lớn diện tích đất trong vùng trước đây đều được che phủ bởi
kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới rất đa dạng và phong phú.
Nhưng đến nay đã bị phá hủy và thay thế phần lớn bởi các trạng thái thảm
thực vật thứ sinh nghèo kiệt và đất trống đồi núi trọc. Vì vậy, nghiên cứu tìm
ra giải pháp phủ xanh hợp lý để chống xói mòn rửa trôi, bảo vệ đất, bảo vệ
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
3
Trường ĐHSP Hà Nội 2
môi trường, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao góp phần cải thiện và
nâng cao đời sống cho người dân địa phương.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Góp phần bổ sung kiến thức cho chuyên ngành
sinh thái họ và là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu về tài nguyên thực
vật, đa dạng sinh học và trong nông – lâm nghiệp……
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài phục vụ trực tiếp việc bảo tồn
các hệ sinh thái, xây dựng các mô hình phục hồi rừng tại các địa phương.
4. Những điểm mới của đề tài
Đề xuất giải pháp về kỹ thuật, chế độ chính sách và vốn hiệu quả cho
phủ xanh đất trống đồi trọc.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
4
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Xu hƣớng nghiên cứu phủ xanh đất trống đồi núi trọc
1.1.1. Khái niệm và phân loại đất trống đồi núi trọc
Trong nhiều tài liệu của nước ta hiện nay, đề cập đến đất trống đồi núi
trọc (ĐTĐNT) thì vấn đề cải tạo, sử dụng hợp lý chúng để đảm bảo sự phát
triển bền vững đã trở thành vấn đề rất được quan tâm. Mặc dù vậy, cho đến
nay chưa có tài liệu nào trình bày rõ nghĩa và chính xác khái niệm này. Vì
hiểu khái niệm ĐTĐNT khác nhau dựa trên những tiêu chuẩn không giống
nhau nên cách đánh giá về số liệu diện tích ĐTĐNT đưa ra không thống nhất.
Ví dụ, Bộ Lâm nghiệp (cũ) và Tổng cục thống kê đưa ra số liệu diện tích
ĐTĐNT của cả nước năm 1993 là 11 triệu ha, cũng trong thời gian đó các địa
phương cũng đưa ra số liệu về ĐTĐNT của địa phương mình nhưng khi tổng
hợp thì các số liệu đó không khớp nhau ở cả hai phía. Trong năm 2005 một số
tài liệu cho rằng diện tích ĐTĐNT của Việt Nam là 9,5 triệu ha, một số tài
liệu khác nhau lại đưa số liệu khoảng 11 triệu ha. Sở dĩ có sự sai khác đó là vì
không hiểu thống nhất về khái niệm nên việc xác định đối tượng và mức độ tác
động để phủ xanh trên các đối tượng đó cũng khác nhau, mức chi phí và cách
thực hiện cũng khác nhau. [11]
Đất trống đồi núi trọc (Denuded hills and waste lands) là đất còn bị
hoang hoá hiện chưa có rừng hoặc chưa có thảm thực bì có giá trị sử dụng
nhất định che phủ hoặc chưa được sử dụng vào canh tác nông lâm nghiệp hay
các mục đích khác [ Thuật ngữ lâm nghiệp, nhà xuất bản nông nghiệp 1996 ].
Có quan niệm cho rằng ĐTĐNT là những vùng đất trống không có cây
mọc. Với quan niệm này thì diện tích ĐTĐNT rất ít, nhất là ở những vùng
nhiệt đới, nơi có mưa nhiều, độ ẩm cao thì những vùng đất không có cây mọc
chỉ là sa mạc, đồi cát. Các bãi biển, đất trơ sỏi đá do xói mòn rửa trôi quá
mạnh hoặc một số dải đất mới bồi tụ.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
5
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Một số quan niệm thì cho rằng ĐTĐNT là những vùng đất không có
rừng và cũng không có cây trồng nông nghiệp, cây công nghiệp, chỉ có thảm
cỏ cây bụi tự nhiên, thảm cỏ tự nhiên hoặc đất hoang hoá và các núi đá trơ
trọi không có cây mọc. Theo quan niệm này loại bỏ các thảm cây trồng nông
nghiệp, cây trồng công nghiệp và đồng cỏ đã bị suy thoái, năng suất thấp chưa
được cải tạo ra khỏi khái niệm ĐTĐNT.
Trong thống kê lâm nghiệp người ta đã xếp tất cả các trạng thái IA (cỏ,
lau lách), IB (cây bụi, gỗ, tre rải rác), IC (nhiều cây gỗ tái sinh), núi đá không
cây và các bãi cát, lầy, đất bị xâm hại vào nhóm đất trống trọc (Diện tích rừng
và đất rừng chưa sử dụng cho quy hoạch lâm nghiệp năm 2004, Bộ
NN&PTNT, 2005).
Dưới góc độ lâm nghiệp GS.TSKH Trần Đình Lý (2003) lại quan niệm
ĐTĐNT là những vùng đất lâm nghiệp nhưng chưa có rừng hoặc rừng đã bị
mất do tàn phá. Nói cách khác là vùng đất lâm nghiệp mà ở đó chưa có hoặc
không còn thảm thực vật mà cây gỗ là chủ yếu, có độ che phủ của cây gỗ hiện
có dưới 0,3 và cây có chiều cao 3-5 m trở lên chiếm ưu thế. Ở đây cũng cần
nhấn mạnh rằng, rừng không phải chỉ là cây lâm nghiệp mà các kiểu thảm
thực vật khác như cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày (Cao su, Cà phê, Cọ
dầu…) nếu chúng có độ tàn che hơn hoặc bằng 0,3 với chiều cao 3-5m trở lên
đều thuộc khái niệm rừng (rừng xoài, rừng cao su…).
Các đối tượng sau đây được xếp vào loại hình ĐTĐNT:
- Rừng mới bị khai thác kiệt, đất còn tốt.
- Rừng bị chặt phá làm nương rẫy sau một thời gian ngắn bỏ hoang.
- Thảm cây bụi xen cây gỗ thưa thớt, độ tàn che của cây gỗ dưới 0,3.
- Thảm cỏ tự nhiên
- Đất hoang hoá
- Các bãi bồi ở các cửa sông, các dải cát ven biển và nội đồng hiện
không có cây gỗ hoặc có nhưng không đáng kể.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
6
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Các vùng trồng cây ăn quả, cây công nghiệp hay đồng cỏ chăn nuôi
đã bị thoái hoá, năng suất thấp, độ che phủ kém (< 0,3), đất bị bào mòn, rửa
trôi mạnh.[13]
Từ góc độ tổng quát về nông–lâm nghiệp và môi trường, GS.TSKH
Trần Đình Lý đưa ra định nghĩa “ Đất trống đồi núi trọc là những vùng đất
chưa có thảm thực vật cây gỗ là chủ yếu hoặc đã có nhưng bị tàn phá mà trên
đó chỉ còn là những trảng cỏ, trảng cây bụi hoặc các loại cây ăn quả, cây công
nghiệp hay đồng cỏ chăn nuôi bị thoái hoá, năng suất thấp, không ổn định ”
[16]. Đây là định nghĩa đầu tiên về đất trống trọc ở nước ta. Tác giả cũng đã
căn cứ vào thành phần thực vật, cấu trúc phẫu diện và độ phì của đất, phân
chia đất trống trọc ở nước ta thành 3 nhóm như sau:
- Nhóm I: gồm những diện tích do rừng bị khai thác kiệt hoặc do bị đốt,
chặt phá rừng để trồng cây nông nghiệp sau 2–3 vụ (đôi khi hơn) rồi bỏ hoá.
- Nhóm II: là các loại đất trống đồi trọc được hình thành do rừng bị
chặt, đốt để lấy đất trồng cây nông nghiệp ngắn ngày lặp đi lặp lại nhưng
không có biện pháp bảo vệ để giữ gìn độ phì của đất, làm cho đất bị xói mòn
rửa trôi thoái hoá mạnh.
- Nhóm III: gồm các bãi cát ven biển và nội đồng, các loại núi trọc trơ
sỏi đá mà lớp đất mặt còn rất mỏng hoặc đất phát sinh chưa hoàn chỉnh.
1.1.2. Giải pháp phủ xanh đất trống đồi núi trọc
Trước đây quan niệm phủ xanh là trồng rừng trên đất trống đã bị mất
hoặc chưa có rừng. Nhưng đến đầu những năm 1980, cùng với trồng rừng, các
biện pháp khác như nông lâm kết hợp, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp đều
được coi là phủ xanh đất trống đồi trọc.
Trong quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về mục tiêu, chính sách và tổ chức thực hiện chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng đã nêu rõ nhiệm vụ đến năm 2010 phải đạt được các chỉ
tiêu trồng mới 5 triệu ha rừng. Trong đó rừng phòng hộ và rừng đặc dụng
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
7
Trường ĐHSP Hà Nội 2
1 triệu ha, khoanh nuôi có trồng bổ sung 1 triệu ha, trồng mới rừng sản xuất 2
triệu ha, trồng cây công nghiệp và cây ăn quả 1 triệu ha.
Như vậy, phủ xanh đất trống đồi trọc không chỉ có trồng rừng, mà nó
còn có giải pháp khác. Đó là thực hiện canh tác theo mô hình nông lâm kết
hợp, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, xây dựng vườn rừng, đồng cỏ chăn
nuôi…
Phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng trồng rừng
Từ những năm 1976, Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu thực hiện những
chương trình trồng rừng rộng lớn. Hàng năm trồng được 150.000 ha, chi phí
cho trồng rừng là 3 triệu VN/ha (Nguyễn Văn Đẳng, 1998), từ năm 1998
chúng ta thực hiện chương trình 661 trồng rừng trên quy mô toàn quốc. Trải
qua thực hiện giai đoạn 1998 - 2005, Dự án đã thu được kết quả nhất định;
một số mục tiêu dự án đạt kết quả chưa cao, tiến độ của dự án chỉ mới thực
hiện tốt đối với trồng rừng phòng hộ, đặc dụng (đạt 63 % nhiệm vụ dự án),
trong khi đó trồng rừng sản xuất còn chậm (đạt 34 % nhiệm vụ dự án). Diện
tích rừng tự nhiên có chiều hướng tăng lên nhưng chất lượng rừng còn tăng
chậm, diện tích rừng trồng tăng lên về số lượng nhưng năng suất còn tăng
chưa đồng đều (Báo cáo tổng kết Dự án 661 giai đoạn 1998–2005).
Đối với việc trồng rừng (rừng sản xuất, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ)
bằng các loài cây nhập nội, các nghiên cứu thường tập trung vào việc tuyển
chọn và khảo nghiệm giống, nghiên cứu điều kiện lập địa, phương thức trồng,
sinh trưởng phát triển của các loài, cấu trúc rừng phục vụ cho công tác chăm
sóc tu bổ.
Đối với việc trồng rừng nhằm mục đích phòng hộ và bảo vệ môi
trường, các tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu phục hồi các hệ sinh thái rừng
nhiệt đới theo hướng đa loài nhiều tầng bằng các loài cây bản địa.
Trần Ngũ Phương (2000) đã mô tả quy luật cấu trúc và quá trình phục
hồi của các kiểu rừng nhiệt đới ở Việt Nam và đưa ra giải pháp tái sinh nhân
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
8
Trường ĐHSP Hà Nội 2
tạo bằng trồng rừng hỗn loài nhiều tầng kết hợp cây lấy gỗ, cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây đặc sản và các sản phẩm phi gỗ khác. Theo mô hình này, tầng
trên (tầng cây gỗ) là các loài cây gỗ bản địa có giá trị thương mại cao. Tầng
dưới (tầng ưu thế sinh thái) là các loài cho quả, cây đặc sản. Tầng dưới tán là
các loài cây thuốc, cây làm thức ăn gia súc và cây lương thực.
Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Bá Chất, Vũ Đức Năng (2005) đã có thông
báo về kết quả xây dựng mô hình trồng rừng hỗn loài tại Cầu Hai–Phú Thọ.
Mô hình được xây dựng theo phương thức kết hợp cây phụ trợ để bảo vệ cây
non mới trồng. có 2 mô hình đã thực hiện sau đây:
- Cây phụ trợ là Keo, cây trồng là Vạng trứng + Trám trắng + Re gừng.
- Cây phụ trợ là Cốt khí, cây trồng là Vạng trứng + Trám trắng + Re gừng.
Kết quả cho thấy sau 2–3 năm cây sống 80 – 93%, mô hình có thể hình
thành rừng hỗn loài.
Đặng Văn Thuyết, Triệu Thái Hưng (2005) đề xuất kết cấu mô hình rừng
nhiều tầng hỗn loài cho đai rừng phòng hộ trên đất cát ven biển, sử dụng cây
Phi lao và các loài Keo chịu hạn làm cây trồng chính cho các mô hình này.
Phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng khoanh nuôi phục hồi rừng
Phục hồi rừng trước hết là phục hồi lại thành phần thành phần chủ yếu
của rừng là thảm thực vật cây gỗ. Sự hình thành nên thảm cây gỗ này sẽ tạo
điều kiện cho sự xuất hiện các thành phần khác của rừng như tầng cây bụi,
tầng cỏ quyết, khu hệ động vật, vi sinh vật… và các yếu tố khác của rừng như
chế độ nhiệt, chế độ ẩm,…. Vì vậy khái niệm phục hồi rừng sẽ có ý nghĩa
rộng lớn hơn là phục hồi lại cả một quần lạc sinh vật hay một hệ sinh thái
rừng hoàn chỉnh. Trong thực tế quá trình phục hồi rừng được đánh giá bằng
sự xuất hiện và chất lượng của thế hệ mới các cây gỗ.
Phục hồi rừng là một quá trình sinh học gồm nhiều giai đoạn và kết
thúc bằng sự xuất hiện một thế hệ mới thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép tán.
Quá trình phục hồi sẽ tạo điều kiện cho sự cân bằng sinh học xuất hiện, đảm
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
9
Trường ĐHSP Hà Nội 2
bảo cho sự cân bằng này tồn tại liên tục và cũng vì thế mà chúng ta có thể sử
dụng liên tục được.
Phục hồi rừng sau nương rẫy là quá trình phục hồi lại hệ sinh thái rừng
trên đất nương rẫy bỏ hoá.
Khoanh nuôi phục hồi rừng là một giải pháp quan trọng để tái tạo lại
rừng. Đó là việc lợi dụng triệt để quy luật tái sinh và diễn thế đi lên của thảm
thực vật với sự can thiệp hợp quy luật của con người nhằm thúc đẩy quá trình
phục hồi lại rừng trong một thời gian xác định theo mục đich đề ra. Mục đích
của khoanh nuôi phục hồi rừng là biến những vùng đất lâm nghiệp hiện chưa
có rừng hoặc không còn rừng mà điều kiện thổ nhưỡng và khả năng tái sinh tự
nhiên cho phép thành các loại rừng phòng hộ, sản xuất hoặc rừng đặc dụng
trong khoảng thời gian không quá 10 năm.[4]
Cho đến nay, khoanh nuôi phục hồi rừng đang là một giải pháp tích cực
để tăng nhanh độ che phủ của rừng nước ta. Vấn đề này đã được nhà nước đặc
biệt quan tâm, thể hiện qua việc ban hành 2 quy phạm nhằm lợi dụng năng
lực tái sinh tự nhiên cho phục hồi rừng:
Quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất và rừng
đặc dụng (QPN 14–92) và Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc
tiến tái sinh (QPN 21–98).
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về khả năng phục hồi tự nhiên của
thảm thực vật đã bị thoái hoá cần phải phủ xanh (Nguyễn Bá Chất và cộng sự,
1993; Lâm Phúc Cố, 1996; Nguyễn Ngọc Công, 2002…). Kết quả nghiên cứu
của các tác giả cho thấy thảm thực vật đã bị suy thoái đến thảm cỏ, thảm cây
bụi đều có khả năng phục hồi thành rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên.
vấn đề là thời gian và chất lượng rừng được phục hồi.
Lê Đồng Tấn và các cộng sự đã nghiên cứu xây dựng mô hình khoanh
nuôi tái sinh tại một số địa phương: Kon Hà Nừng (giai đoạn 1990–1995),
Con Cuông -Nghệ An (giai đoạn 1992–1996), Lai Châu (giai đoạn 2000–
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
10
Trường ĐHSP Hà Nội 2
2002) và gần đây là tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh (giai đoạn 2001–
2005) cho thấy khả năng phục hồi tự nhiên của thảm thực vật không cao. Trên
đất tốt sau 8–9 năm nếu không bị lửa rừng, chặt phá hay chăn thả thì từ thảm
cỏ có thể phục hồi thành rừng non đáp ứng được yêu cầu phòng hộ. Còn về
phương diện kinh doanh thì không đáp ứng được yêu cầu phòng hộ. Về
phương diện kinh doanh không đáp ứng được do tỷ lệ các loài cây có giá trị
kinh tế không nhiều. trên đất xấu quá trình lâu hơn, có thể mất 14–16 năm
(Mê Linh–Vĩnh Phúc) mới có thể hình thành rừng. Tuy nhiên, nếu có biện
pháp lâm sinh thích hợp (phát luỗng, vệ sinh, trồng dặm) thì quá trình sẽ
nhanh hơn.
Đinh Hữu Khánh (2005) đã nghiên cứu khoanh nuôi thảm cỏ (trạng thái
Ic) cho thấy sau 2–5 năm áp dụng giải pháp khoanh nuôi đã tăng độ che phủ
của thảm thực vật cây bụi. Tổ thành thực vật cũng thay đổi theo chiều hướng cây
gỗ chiếm ưu thế, sinh trưởng của cây tái sinh cũng tăng lên đáng kể.
Tái sinh tự nhiên: Một vài nhà khoa học ủng hộ việc sử dụng tái sinh tự
nhiên, hỗ trợ hoặc không trái với quan điểm chung của các nhà hoạch định
chính sách, đó là rừng phải được trồng và phát triển một cách triệt để trong
điều kiện có thể. Sự thực là có một khả năng to lớn về tái sinh tự nhiên ở một
số vùng, điều này đảm bảo cung cấp gỗ có chất lượng tốt hơn (mặc dù các loài
cây khác nhau). Trong so sánh phạm vi giới hạn những cây mọc nhanh sử dụng
trong trồng rừng cho thấy các loài cây bản địa đòi hỏi giá trị đầu tư cao hơn so
với những cây ngoại lai, do vậy biện pháp tái sinh tự nhiên là phương án được
lựa chọn đầu tiên cho công tác phục hồi phát triển rừng.
Phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng các giải pháp nông lâm kết hợp
Ở Việt Nam, tập quán canh tác nông lâm kết hợp đã có từ lâu đời, như
các hệ thống canh tác nương rẫy truyền thống của đồng bào các dân tộc ít
người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên cả nước. Xét ở
khía cạnh mô hình và kỹ thuật thì nông lâm kết hợp ở Việt Nam đã phát triển
không ngừng. [1]
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
11
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Từ những năm 1960, hệ sinh thái Vườn-Ao-Chuồng (VAC) được nông
dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả nước với nhiều
cải tiến khác nhau để thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể. Sau đó là hệ
thống Rừng-Vườn -Ao-Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát triển mạnh
mẽ ở các khu vực dân cư miền núi Các hệ thống rừng ngập mặn-nuôi trồng
thuỷ sản cũng được phát triển mạnh mẽ ở vùng duyên hải các tỉnh miền Trung
và miền Nam. Các dự án ODA cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất
dốc theo đường đồng mức (SALT) ở một số khu vực miền núi Theo đó, cho
đến nay các mô hình nông lâm kết hợp bao gồm: các mô hình NLKH vùng
đồi núi, các mô hình NLKH vùng ven biển.
Trước đây, sự kết hợp NLN đã đóng góp cho nền kinh tế tự cung tự
cấp. Thực tế hiện nay ở nhiều vùng núi hẻo lánh ở nước ta, NLKH đang tạo ra
những sản phẩm lương thực tại chỗ nhằm duy trì cuộc sống của đồng bào địa
phương; Một số nơi, sản phẩm NLKH đã trở thành hàng hoá. Đây là tiềm
năng và cơ hội cho sự thoát nghèo của người dân. Do vậy, các cấp ban ngành
liên quan cần tạo điều kiện thuận lợi để nông nghiệp, nông thôn miền núi có
cơ hội phát triển và hội nhập.
Trong những năm gần đây, tình hình phát triển Lâm nghiệp ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nhìn tổng
thể thì quá trình phát triển vẫn còn tương đối chậm, diện tích đất trống đồi núi
trọc, đất không được sử dụng có hiệu quả và hợp lý vẫn không ngừng đã gia
tăng. Trong những năm qua, các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý có
những công trình nghiên cứu và đưa ra các chính sách để phục hồi phát triển và
đưa những diện tích đất trống đồi núi trọc vào sản xuất nhằm phát triển kinh tế
cũng như giải quyết vấn đề nông thôn miền núi. [19]
Từ những năm 1980 đã có nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng mô
hình nông lâm kết hợp để phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
12
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Theo Nguyễn Xuân Đợt (1994), sử dụng đất trống đồi núi trọc theo
phương thức nông lâm kết hợp nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng lao động và
tài nguyên rừng phục vụ các nhiệm vụ kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường.
Lâm Công Định (1982, 1984) đã có một số công bố trong đó trình bày
cơ sở khoa học và cơ cấu sản xuất nông lâm kết hợp, những phương pháp
trong nông lâm kết hợp và giới thiệu một số mô hình nông lâm kết hợp có thể
thực hiện được ở nông thôn miền núi để phủ xanh đất trống đồi trọc.
Những nghiên cứu về cơ cấu cây trồng trong hệ canh tác nông lâm kết
hợp đã được nhiều tác giả nghiên cứu và thử nghiệm như: Đàm Tạ Quang
(1984) –nghiên cứu về cơ cấu cây trồng theo phương thức nông lâm kết hợp ở
Thanh Hoá, Phan Thanh Hội (1986) –Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp ở
bản Tẩu, Cao Bằng, Nguyễn Ngọc Bình (1990) –Xây dựng mô hình nông lâm
kết hợp trên một số địa bàn đất trống đồi núi trọc, Nghiên cứu xây dựng mô
hình kinh tế sinh thái trên vùng đồi tại các tỉnh Nghệ An, Quảng Trị, Quảng
Bình.
Theo hướng xây dựng mô hình kinh tế môi trường, Nguyễn Hải Tuất và
cộng sự (1993) đã nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế môi trường bền vững
ở vùng thượng nguồn sông Trà Khúc. Lê Trần Chấn (1994) xây dựng mô hình
nông lâm kết hợp 3 tầng: tầng vượt tán là cây công nghiệp, tầng ưu thế sinh
thái là Cam Bù và tầng dưới tán cây chịu bóng đa tác dụng.
Phan Anh (2004) đã xây dựng mô hình Vườn-Ao - Chuồng (VAC), mô
hình Vườn-Ao-Chuồng-Rừng (VACR) nhằm nhanh chóng phủ xanh đất trống
đồi trọc ở Bản dân tộc Vân Kiều–Phú Lộc, xã Xuân Lộc, huyện Phú Phú Lộc
tỉnh Thừa Thiên Huế. Trên cơ sở kết quả đạt được tác giả đề xuất giải pháp
phát triển vườn cây lâu năm theo hướng vườn đồi, vườn rừng, phát triển lâm
nghiệp theo hướng nông nghiệp để làm vườn đồi, vườn rừng.
Các mô hình tương tự như hệ thống canh tác Vườn-Ao-Chuồng (VAC) hoặc
luân canh rừng, rẫy và bãi chăn thả là những mô hình kỹ thuật nông-lâm-súc
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
13
Trường ĐHSP Hà Nội 2
kết hợp đơn giản nhưng rất hiệu quả cũng đã được thực hiện ở nhiều địa
phương.
VAC là mô hình lập vườn để trồng cây, đào ao để thả cá và làm chuồng để
chăn nuôi. Đây là hệ thống theo chu trình khép kín, các bộ phận bổ sung và hỗ trợ
nhau. Quy mô không lớn, nhưng lợi ích thì nhiều, phù hợp với mọi nhà, mọi nơi.
Luân canh rừng-rẫy-bãi chăn thả cũng là một mô hình kết hợp đơn
giản. Song ngoài việc lựa chọn kỹ các loài cây trồng và vật nuôi phù hợp còn
bố trí thời gian quay vòng sao cho đất dốc có điều kiện phục hồi và phải áp
dụng biện pháp chăn dắt, có hàng rào cây xanh bảo vệ, ...
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc và ngoài nƣớc
Trong những năm gần đây, diện tích rừng của Việt Nam và các nước
đang phát triển đang bị suy giảm nhanh chóng. Theo tài liệu của Đại hội Lâm
nghiệp diễn ra vào tháng 10 năm 1997 tại Thổ Nhĩ Kỳ, tổ chức Nông lương
thế giới FAO đã thống kê được sự suy giảm diện tích rừng trong những năm
vừa qua là hết sức nghiêm trọng. Theo thống kê, trong giai đoạn 1990 - 1995,
khi Châu Âu và khu vực Bắc Mỹ trồng được 8,50 triệu ha rừng, thì các châu lục
khác bị mất đến 64,90 triệu ha rừng. Nguyên nhân của tình trạng suy giảm diện
tích rừng có nhiều nhưng nguyên nhân trực tiếp vẫn là tình trạng phá rừng để
phát triển sản xuất nông nghiệp theo phương thức quảng canh của các cộng
đồng dân cư tại các nước đang phát triển mà điển hình là hình thức canh tác
nương rẫy, trong đó có Việt Nam. Các nhà khoa học ước tính có khoảng từ
250 đến 300 triệu người trên thế giới đang sống bằng hình thức canh tác nương
rẫy và tác động đến gần một nửa diện tích đất của vùng nhiệt đới. Trong đó, riêng
vùng Châu Á Thái Bình Dương đã có hơn 30 triệu người sống phụ thuộc vào hệ
canh tác nương rẫy trên diện tích khoảng 75 triệu ha (Srivastava, 1986). Như vậy,
đói nghèo và tình trạng phá rừng diễn ra song hành với nhau như “ hai chân đi
về một hướng ”.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
14
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Canh tác nương rẫy là một dạng sử dụng đất, có lịch sử lâu đời và tỏ ra
phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng nhiệt đới. Trong hệ thống canh tác
nương rẫy truyền thống chỉ có từ 5% đến 10% diện tích đất được sử dụng
theo đúng nghĩa, còn lại bị bỏ hoang hoá để tự phục hồi gọi là thời kỳ hưu
canh ( Fallow ). Canh tác nương rẫy xét ở góc độ nào đó thì có thể coi là một
phương thức sử dụng đất bền vững trong điều kiện mật độ dân cư thưa. Người
ta ước tính có khoảng 2,8 triệu ha đất đang hoặc đã qua canh tác nương rẫy,
hàng năm có khoảng 30 nghìn ha rừng nguyên sinh bị chặt hạ để làm nương
rẫy, vì vậy vô hình đã biến những diện tích rừng nguyên sinh thành những
vùng đất trống đồi núi trọc chỉ sau một vài chu kỳ canh tác. [16]
Canh tác nương rẫy đã gây ra tình trạng xói mòn, thoái hoá đất do vậy
để phục hồi lại những vùng đất bị xói mòn, thoái hoá, đã có nhiều nhà khoa
học quan tâm và nghiên cứu.
1.2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
Trong thời gian gần đây với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, những
nghiên cứu nhằm phục hồi, phát triển đất trống đồi núi trọc đã và đang được
thực hiện tại nhiều nước trên thế giới. Các chương trình đã thực hiện chủ yếu
dựa vào nguồn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.
Trung tâm nghiên cứu Quốc tế về nông lâm nghiệp (ICRAF) trong báo
cáo hàng năm cho biết, trong giai đoạn 1996 – 1998 đã nghiên cứu phủ xanh
đất trống đồi trọc bằng nhiều giải pháp khác nhau. Có thể nêu một sô mô hình
đã thực hiện như sau:
Tại châu Phi: gồm các nước Zambia, Tanzania, Zimbabwe. Các mô
hình đã thực hiện:
- Mô hình thảm cỏ luân phiên (Rotation wooslost) nhằm phủ xanh đất
trong thời kỳ bỏ hoá. Trong mô hình này, người ta đã dùng cây Điển
(Sesbaina sesban) một loài cây thuộc họ Đậu trồng để phủ xanh đất trong thời
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
15
Trường ĐHSP Hà Nội 2
kỳ bỏ hoang. Sau 2 - 3 năm có thể khai thác làm củi. phần còn lại đốt hoặc để
mục để tăng thêm chất mùn và chất dinh dưỡng cho đất.
- Mô hình trồng cây gỗ + cây ăn quả đa tầng (Multitistrata). Trong mô
hình này, các loài cây trồng chủ yếu là cây bản địa sẽ tạo ra một hệ thống
trồng trọt bền vững có nhiều sản phẩm và tăng thu nhập.
- Mô hình chăn nuôi lâm sinh bằng việc tạo ra thảm cỏ chăn nuôi dưới
tán rừng thứ sinh.
Tại châu Mỹ Latinh gồm các nước: Brazil, Peru, Mexico. Các mô hình
đã được xây dựng đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn lương thực và phủ
xanh đất trống trọc. Những mô hình đã thực hiện gồm:
- Mô hình trồng trọt cải tạo vườn nhà (Homgarden).
- Mô hình nông lâm kết hợp đa tầng, nhiều sản phẩm (Multitistrata),
trồng cây ăn quả với cây lấy gỗ theo mô hình đa loài nhiều tầng.
Kỹ thuật sử dụng đất bền vững gồm có:
- Kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT) là hệ thống canh tác
nhằm sử dụng đất dốc bền vững đã được trung tâm đời sống nông thôn
Bapstit Mindanao Philipin tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ những năm
1970 đến nay. Cho đến năm 1992 đã có 4 loại mô hình tổng hợp về kỹ thuật
canh tác nông nghiệp đất dốc bền vững đã được ghi nhận ứng dụng [22].
- Mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT1)-với cơ cấu
cây trồng được sử dụng để bảo đảm được sự ổn định và có hiệu quả nhất là
75% cây nông nghiệp và 25% cây lâm nghiệp. Trong cây nông nghiệp thì
50% là cây hàng năm và 25% cây lâu năm.
- Mô hình kỹ thuật canh tác nông súc kết hợp đơn giản ( SALT2)-cơ
cấu sử dụng đất thích hợp ở đây là 40% dành cho nông nghiệp, 20% cho lâm
nghiệp, 20% cho chăn nuôi.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học
Luận Văn Thạc Sĩ
16
Trường ĐHSP Hà Nội 2
- Mô hình kỹ thuật canh tác NLKH bền vững (SALT3) , với cơ cấu sử
dụng đất thích hợp ở đây là 40% nông nghiệp, 60% lâm nghiệp (mô hình đòi
hỏi đầu tư cao).
- Mô hình kỹ thuật SXNLN với cây ăn quả kết hợp quy mô nhỏ
(SALT4) cơ cấu sử dụng đất thích hợp là 60% lâm nghiệp, 15% nông nghiệp,
25% cây ăn quả (mô hình này đòi hỏi đầu tư cao).
Các mô hình trên đã được nông dân chấp nhận và cũng đã và đang
được kiểm nghiệm ở nhiều nước Đông Nam Á.
Tại châu Á gồm các nước: Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. Các mô
hình đã thực hiện là:
- Nghiên cứu sử dụng tri thức bản địa trong canh tác phủ xanh kết hợp
bảo vệ đất và tăng thu nhập cho hệ nương rẫy.
- Mô hình nông lâm kết hợp để cải tạo thảm cỏ tranh (Imperata
cylindrinca).
- Mô hình trồng cây họ đậu trên đỉnh đồi để chóng xói mòn.
- Mô hình sử dụng độ tàn che của cây họ đậu để kiểm soát cỏ dại.
1.2.2. Nghiên cứu ở trong nước
Trong những năm gần đây, tình hình phát triển Lâm nghiệp ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nhìn tổng
thể thì quá trình phát triển vẫn còn tương đối chậm, diện tích đất trống đồi núi
trọc, đất không được sử dụng có hiệu quả và hợp lý vẫn không ngừng đã gia
tăng. Trong những năm qua, các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý có
những công trình nghiên cứu và đưa ra các chính sách để phục hồi phát triển và
đưa những diện tích đất trống đồi núi trọc vào sản xuất nhằm phát triển kinh tế
cũng như giải quyết vấn đề nông thôn miền núi.
Bùi Ngọc Diễm
K17- Sinh Thái Học