Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số giải pháp của Đảng ta về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.09 KB, 30 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
Trong đại hội VI (1986) đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước đi
mới trong việc phát triển đất nước. Để đưa nước ta trở thành một nước tiên tiến thì phải
nhanh chóng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa (CNH-HĐH). Đảng ta đã
xác định để thực hiện được những mục tiêu của sự nghệp đổi mới không chỉ bằng sự nhiệt
tình và lòng dũng cảm trước đây mà phải phát huy hoạt động trí tuệ và tài năng sáng tạo
của toàn Đảng, toàn dân. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đối với Việt Nam không thể
không có sự góp phần quan trọng của lao động trí tuệ, sáng tạo của đội ngũ trí thức. Cho
nên Đảng ta coi khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu hiện
nay cũng chính là nhằm phát triển hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức, của lao động sáng
tạo tạo ra đội ngũ trí thức mới. Đội ngũ trí thức là đại biểu tập trung cho trí tuệ dân tộc,
trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa ở nước ta thì đội ngũ trí thức tham gia trực
tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ phận nguồn lực khoa học kỹ thuật, trí thức góp
phần to lớn vào việc phát triển lực lượng sản xuất. Bộ phận trí thức có vai trò hết sức
quan trọng đã được Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao tuy nhiên hiện nay vẫn có một bộ
phận không nhỏ chưa ý thức được vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Một số
giải pháp của Đảng ta về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự
nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay ” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài.
Làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước từ đó nêu ra một số giải pháp của đảng trong các kỳ Đại hội để đội ngũ trí thức
thực hiện tốt vai trò của mình và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
 Đối tượng nghiên cứu:Tập trung tìm hiểu,nghiên cứu về vai trò đội ngũ trí thức.
 Phạm vi nghiên cứu:Với giới hạn hiểu biết của sinh viên tôi không đi sâu tìm hiểu
về Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà chỉ mang tính chất kế thừa
những kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học đi trước và tập trung trình bày những


1


nội dung cơ bản, về đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay và những giải pháp Đảng ta đã
đề ra trong Đại hội X và Đại hội XI.
4. Những đóng góp chính của đề tài.
Giúp cho đội ngũ trí thức hiểu rõ hơn vai trò của mình trong sự nghiệp CNH- HĐH
và góp phần xây dựng được đội ngũ trí thức đảm bảo về số lượng và chất lượng đáp ứng
được yêu cầu phát triển trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu có thể
được sử dụng vào mục đích học tập và giảng dạy sau này, là tài liệu để nghiên cứu các
vấn đề có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực chính trị. Do đó việc nghiên cứu sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau như dựa trên lý luận và thực tiễn, phương pháp tổng hợp, quy
nạp, diễn dịch.
6. Lịch sử nghiên cứu của đề tài.
Tầm quan trọng của đội ngũ trí thức ở Việt Nam đã thu hút được nhiều sự quan tâm
của các nhà khoa học, lý luận, các học giả ở nước ta. Đã có nhiều công trình nghiên cứu
liên quan tới vấn đề này như:
- Đỗ Mười, Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước. Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1995.
- Nguyễn Thanh Tuấn, Đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi
mới, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992.
- Ngô Đình Xây, Những yêu cầu đối với trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tạp chí Cộng sản số 27- 2002.
- Ngô Thị Phượng, Vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Luận án Ths triết học, Hà Nội 1997.
- Nguyễn Quốc Bảo, Đảng Cộng sản cầm quyền và vấn đề trí thức trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Lịch sử, Hà Nội 2005.
- Nguyễn Văn khánh, Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong sự nghiệp giải

phóng và xây dựng đất nước, NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2004.
- Nguyễn Đắc Hưng, Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển của đất nước,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.
7. Cấu trúc của đề tài.

2


Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính gồm 2 chương:
- Chương 1: Thực trạng đội ngũ trí thức ở Việt Nam.
- Chương 2: Một số giải pháp của Đảng ta về xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóá đất nước.

3


PHẦN 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM.
1.1. Thực trạng đội ngũ trí thức ở Việt Nam.
Nguồn đạo tạo trí thức hiện nay ở nước ta rất đa dạng và phong phú: phần lớn trí
thức nước ta được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng với nhiều hình thức khác nhau
như quốc lập, bán công, dân lập, đại học mở, đại học tại chức…Ngoài ra có một bộ phận
nhỏ trí thức được đào tạo từ nước ngoài. Bộ phận này có xu hướng ngày càng tăng do
đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với sự phát triển của khoa học công
nghệ, giáo dục và đào tạo trí thức nước ta ngày càng tăng lên cả về số lượng lẫn chất
lượng đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Nhìn một cách tổng thể, đội ngũ trí thức
Việt Nam đã được phát triển lớn mạnh và có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Với chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước, nhiều con em nhân

dân lao động đã được đào tạo trở thành những cán bộ khoa học - kỹ thuật, các nhà giáo,
các văn nghệ sỹ. Đặc biệt trong hơn 27 năm thực hiện chính sách đổi mới vừa qua, đội
ngũ trí thức trẻ đã phát triển từ các nguồn đào tạo phong phú hơn, tiếp nhận được những
tri thức, kinh nghiệm từ các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển ở
các khu vực trên thế giới. Đây là bộ phận trí thức năng động, có khả năng cập nhật các
vấn đề hiện đại về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, có khả năng lớn trong việc phát triển
các mối quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới, thúc đẩy nhanh tiến trình hội
nhập quốc tế của đất nước.
Lực lượng trí thức người Việt ở nước ngoài là một bộ phận rất quan trọng của đội
ngũ trí thức Việt Nam... Đây thực sự là nguồn tài sản quý báu của đất nước, là một bộ
phận của đội ngũ trí thức Việt Nam đang hướng về tổ quốc. Đây là một tiềm năng chất
xám, tri thức mới của các nước tiên tiến, một kênh chuyển giao tri thức về Việt Nam rất
quan trọng.Nhiều trí thức Việt kiều đã làm cầu nối để giúp đất nước tiếp thu công nghệ
tiên tiến, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu
hoá. Tuy nhiên, sự đóng góp chất xám, công nghệ của Việt kiều cho đất nước vẫn còn ở
mức khiêm tốn.

4


Mặt khác, theo thống kê Viện Thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996 –
2011) Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có
bình duyệt, mới bằng 1/5 của Thái Lan (69.637), bằng 1/6 của Malaysia (75.530) và bằng
1/10 của Singapore (126.530)... Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, gấp
3 lần Malaysia và gần gấp 1,5 lần Thái Lan...
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin : Theo công bố Sách trắng công nghệ thông tin
–truyền thông năm 2012, Việt Nam đã vươn lên xếp vị trí thứ tư khu vực Đông Nam Á,
và đứng thứ 12/27 nước châu Á – Thái Bình Dương.
Hiện nay, chúng ta có 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong
đó có 24.300 tiến sĩ, 101 nghìn thạc sĩ; độ tuổi bình quân là 38,5. Tuy nhiên, hơn 60%

tiến sĩ đã ở độ tuổi trên 50; trên 21% ở độ tuổi 40 - 49; độ tuổi 30 - 39 là 16% và 2,8% là
độ tuổi 20 – 29. [12, tr181, 182].
Như vậy, nếu trừ đi số tiến sĩ đến tuổi nghỉ hưu thì đến năm 2020 cũng chỉ còn hơn
20.000 người tức là vẫn như hiện nay. Trong khi Xin-ga-po có dân số là 4,5 triệu người
nhưng đã có tới 27.300 người đạt trình độ tiến sĩ làm nghiên cứu khoa học; Thái Lan có
20.500 người có trình độ tiến sĩ làm nghiên cứu khoa học, trong khi Việt Nam chỉ có
9.328/24.300 tiến sĩ tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học.[12, tr 181, 182].
Đầu tư cho nghiên cứu khoa học tính theo đầu người của Việt Nam là 3,1 USD
trong khi của Xin-ga-po là 1.341USD, gấp 430 lần của Việt Nam; Ma-lai-xi-a là 71,1
USD, gấp 25,7 lần; Thái Lan là 18 USD gấp gần 6 lần; riêng Phi-líp-pin chỉ đầu tư 3,4
USD/người nhưng con số đó vẫn cao hơn của Việt Nam.[12, tr 181, 182].
1.2. Đánh giá thực trạng đội ngũ trí thức ở Việt Nam.
1.2.1. Ưu điểm.
Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực
lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh
chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn
lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng,
nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng

5


hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho
việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần làm
sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong
sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân
tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất

lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất
nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.
Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả
năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức trong lĩnh
vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Nhiều trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Ða số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về
Tổ quốc; nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có
những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Đội ngũ trí thức nước ta ngày càng lớn mạnh về số lượng lẫn chất lượng dần dần
đáp ứng được những yêu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới đặc biệt trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Đội ngũ trí thức nước ta hầu hết xuất thân từ nhân dân lao động, có lòng yêu nước
sâu sắc, có tinh thần tự hào, tự tân dân tộc, gắn bó với nhân dân cần lao, với cách mạng.
Đội ngũ trí thức có ý chí vươn lên, nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn, hoàn thiện
nhân cách, năng động sáng tạo, góp phần đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, có phẩm chất
chính trị vững vàng, nhiệt tình, trách nhiệm với đất nước, có năng lực chuyên môn, tiếp
cận nhanh với khoa học công nghệ là lực lượng đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.

6


Công tác trí thức của Đảng và Nhà nước trong những năm qua đã thể hiện coi trọng
vị trí, vai trò của trí thức, đã có nhiều chủ trương, giải pháp bước đầu tạo điều kiện thuận
lợi để đội ngũ trí thức hoạt động và phát triển cũng như nâng cao sự đóng góp của đội ngũ
này cho sự phát triển kinh tế đất nước.

1.2.2. Hạn chế.
- Số lượng, chất lượng của đội ngũ trí thức Việt Nam không đồng đều, phân bố chưa
hợp lý ở các ngành, các lĩnh vực và vùng miền, thiếu cán bộ khoa học nghiên cứu cơ bản.
Số cán bộ khoa học có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành tâm huyết với sự nghiệp phát
triển khoa học và công nghệ còn thiếu hụt so với yêu cầu và tuổi đời đã cao. Việc đào tạo
tiến sĩ những năm qua, do chạy theo số lượng nên làm ồ ạt, chất lượng kém. Hệ quả là
hiện nay ở nước ta rất thiếu cán bộ trẻ kế cận có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, có
năng lực triển khai công nghệ, tìm tòi, sáng tạo ra công nghệ mới.
- Những công trình khoa học của Việt Nam ứng dụng vào thực tế còn hạn chế. Hầu
hết các công trình nghiên cứu chưa mang tầm chiến lược vĩ mô, ngang tầm với thời đại,
chưa thể hiện tính sáng tạo, đột phá. Số công trình khoa học công bố trên các tạp chí quốc
tế chưa nhiều. Nhìn chung, đội ngũ trí thức của Việt Nam còn có khoảng cách với đội ngũ
trí thức của thế giới và ngay với một số nước trong khu vực.
- Trình độ của trí thức ở nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học tụt hậu so với yêu
cầu phát triển đất nước. Sự đóng góp còn hạn chế.
- Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e
ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một
số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có biểu hiện
chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác.
- Một số trí thức được đào tào ở nước ngoài nhưng không về phục vụ cho đất nước
vì ở đó có nhiều điều kiện để cho họ phát triển về mọi mặt hơn nữa làm việc ở nước ngoài
sẽ có nhiều điều kiện vật chất hơn.
1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp
hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công

7


nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã đưa ra những nguyên nhân dẫn đến những

yếu kém của đội ngũ trí thức. Cụ thể:
Những hạn chế, yếu kém của đội ngũ trí thức do nhiều nguyên nhân. Nền kinh tế
nước ta vẫn trong tình trạng lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp; việc áp
dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống chưa cao; thị trường khoa học và
công nghệ, văn hóa và văn nghệ đang trong quá trình hình thành...
Về khách quan, chưa có đầy đủ điều kiện để phát huy hết năng lực sáng tạo của trí
thức. Một bộ phận trí thức, ở mức độ khác nhau còn chịu ảnh hưởng các mặt hạn chế của
tư tưởng phong kiến, của nền kinh tế tiểu nông và cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu bao cấp kéo dài, của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai
đoạn kinh tế đang chuyển đổi.
Công tác trí thức của Đảng và Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Đến
nay vẫn chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chưa thể hiện quan điểm lấy khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo làm "quốc sách hàng đầu", chưa gắn với các giải pháp phát huy
vai trò đội ngũ trí thức trên nhiều lĩnh vực.
Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí thức chậm đi
vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc. Một số chủ trương, chính sách
không sát với thực tế; có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu những chế tài đủ
mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả.
Nhìn chung, các chính sách đối với trí thức còn thiếu đồng bộ, còn nặng tính hành
chính và dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chậm đổi mới.
Một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận thức đúng về vai trò, vị trí của trí
thức; đánh giá, sử dụng trí thức không đúng năng lực và trình độ, ngay cả với những trí
thức đầu ngành, dẫn đến tâm tư nặng nề trong đội ngũ trí thức.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ chú trọng đến vốn tiền, vật chất mà chưa coi
trọng nguồn nhân lực có trình độ cao. Vẫn còn hiện tượng ngại tiếp xúc, đối thoại, không
thực sự lắng nghe, thậm chí quy chụp, nhất là khi trí thức phản biện những chủ trương,
chính sách, những đề án, dự án do các cơ quan lãnh đạo và quản lý đưa ra.

8



Hệ thống chính sách về trí thức còn thiếu và chưa phù hợp; tổ chức các hội của trí
thức ở Trung ương và địa phương chưa đủ mạnh để tập hợp trí thức. Công tác tổ chức cán
bộ, công tác quản lý, nhất là khâu đánh giá, sử dụng trí thức còn nhiều điểm không hợp
lý, thiếu chính sách và cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến,
phát triển và được xã hội tôn vinh bằng chính kết quả hoạt động chuyên môn, nghề
nghiệp; thiếu những cơ chế thích hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng
nhân tài.
Các chủ trương, chính sách đào tạo đội ngũ trí thức chưa đồng bộ. Hệ thống giáo
dục còn lạc hậu, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực
trình độ cao. Thiếu chính sách đủ mạnh thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia giải quyết những vấn đề của đất nước và tạo điều kiện để trí thức trong nước
được giao lưu, hợp tác, làm việc ở các trung tâm khoa học và văn hóa lớn trên thế giới.
Cơ chế và chính sách tài chính hiện hành trong các hoạt động khoa học và công
nghệ, văn hóa và văn nghệ còn nhiều bất cập, gây khó khăn, dẫn đến một số trường hợp
trí thức phải tìm cách đối phó, làm giảm chất lượng của các công trình sáng tạo, lãng phí
thời gian, công sức, tiền của, ảnh hưởng tới uy tín và danh dự của trí thức.

9


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG
VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY.
2.1 Vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong việc thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
2.1.1 Đội ngũ trí thức Việt Nam cung cấp luận cứ khoa học cho đường lối chính
sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xác định mô hình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là cách phù hợp là một

công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi có sự tham gia, tập trung của nhiều nhà khoa học ở
các lĩnh vực khoa học khác như khoa học tự nhiên, xã hội, kỹ thuật, công nghệ. Để có
đường lối hiện đại hóa đúng đắn chúng ta hải khai thác những ưu thế của mình, hội nhập
được với nền kinh tế thế giới. Sau hơn 27 năm đổi mới chúng ta thấy rằng nếu không có
mô hình, mục tiêu công nghiệp hóa thích hợp thì đất nước không thể hát triển. Nguyên
nhân có thể là việc nhận thức về công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta còn khá đơn giản
máy móc chỉ quen việc áp đặt rập khuôn mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu. Nội
dung công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta lại quá rộng chỉ chú trọng vào phát triển
công nghiệp nặng, phát triển khép kín trong khi đó điểm xuất phát của nước ta là một
nước nông nghiệp lạc hậu. Do đó đường lối công nghiệp hóa đúng đắn thì phải biết khai
thác lợi thế của mình vừa hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Đó chính là nhu cầu xuất
phát từ thực tế trong con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta. Thực hiện nhiệm
vụ này không ai khác là đội ngũ trí thức với những thế mạnh và đặc điểm riêng của mình.
Thực tế trong quá trình thực hiện sự nghiệp công gnhieep hóa hiện đại hóa vừa qua, đội
ngũ trí thức Việt Nam đã thực hiện nhiều chương trình, đề tài khoa học công nghệ cấp
nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở. Tiêu biểu là hệ chương trình khoa học công nghệ cấp nhà
nước giai đoạn 1991-1995, 1996-2000, 2001-2005. Kết quả nghiên cứu những chương
trình, đề tài trên là cơ sở để Đảng ta từng bước xác định mô hình bước đi của công nghiệp
hóa hiện đại hóa ở nước ta. Đúng như khẳng định của Đảng tại Hội nghị ban chấp hành
Trung ương hai Khóa VIII: “ Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn
thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp
phần vào thành công của công cuộc đổi mới”

10


2.1.2 Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia trực tiếp và tích cực vào việc truyền
bá trí thức khoa học, đường lối chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa trí thức không chỉ là người đưa ra, phổ biến
đường lối mà còn là người trực tiếp tham gia thực hiện đường lối ấy. trong công cuộc này

trí thức là lực lượng chủ động vì họ gắn liền với khoa học công nghệ hiện đại. Họ là
người sáng tạo ra trí thức khoa học và công nghệ mới, tạo động lực cho sự phát triển của
công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng trong
quản lý xã hội. Quản lý xã hội không phải là hình thức lao động đơn giản, mà là lao động
phức tạp, đòi hỏi người quản lý phải có trình độ cao, có trình độ chuyên môn cao trong
nhiều ngành nghề, lĩnh vực đồng thời hải có tri thứ về quản lý.
Trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đội ngũ trí thức không chỉ là người đưa ra và
phổ biến đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn là người thực hiện đường lối ấy
thông qua việc đưa công nghệ vào sản xuất.
Trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang tính chất của đông hơn
các tầng lớp khác vì họ là tầng lớp gắn liền với khoa học công nghệ hiện đại. Họ chính là
người sáng tạo ra những trí thức khoa học tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội.
Truyền bá trí thức khoa học là một trong những chức năng xã hội của trí thức để
nâng cao trình độ hiểu biết của mọi tầng lớp nhân dân. Đây là một yêu cầu của xã hội đối
với đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Để
quán triệt đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới nhân dân, đội ngũ trí thức
phải là người đi đầu trong việc tuyên truyền làm mẫu rồi phổ biến rộng rãi. Đội ngũ trí
thức phải làm rõ cơ sở cơ học, cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối
với từng lĩnh vực, từng địa phương, từng ngành, đến từng đon vị sản xuất.
Đội ngũ trí thức ngoài việc giải thích rõ ràng đường lối công nghiệ hóa, hiện đại hóa
tới mọ tầng lớp nhân dân trong xã hội, họ còn phải hướng dẫn đến tất cả mọi thành phần
lực lượng kinh tế có thể có thể hiểu và thực hiện nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Qua đó có thể giúp cho mọi cấp mọi ngành cũng như toàn thể các tầng lớp nhân dân
hiểu rõ được tính tất yếu, bản chất của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.Từ đó nâng cao tính tích cực, chủ động của mọi tầng lớp nhân dân trong việc tham
gia vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

11



2.1.3 Đội ngũ trí thức Việt Nam tham gia lãnh đạo, quản lý điều hành nhà
nước, điều hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Điều này không có nghĩa là coi trí thức như một tâng lớp xã hội đứng ngoài hoặc
đứng cao hơn người lãnh đạo và quản lý đất nước. Trên thực tế để lãnh đạo đất nước,
Đảng ta phải coi trọng việc chuẩn bị về nhân sự thật tốt cho những người được Đảng giao
phó trọng trách quản lý Nhà nước, về cả đạo đức và tài, Đảng ta có thật sự là đạo đức, là
văn minh hay không chủ yếu phụ thuộc vào đức và tài của những người nắm quyền hành
quản lý đất nước. Đây là công tác cán bộ nhưng lại liên quan đến vai trò trí thức trong
quản lý đất nước.
Xung quanh vấn đề này có thể hiểu hai cách khác nhau.
Một là, vấn đề quan hệ giữa trí thức và đội ngũ trí thức với người quản lý đất nước
tức những người nắm quyền lực của Đảng và Nhà nước.
Bất cứ một Nhà nước nào muốn quản lý đất nước có hiệu quả nhất thiết phải sử
dụng trí thức, trọng dụng nhân tài bằng nhìu hình thức, hoặc giao trọng trách cho trí thức
thành người có quyền lực hoặc chit tham khảo ý kiến. Ở đây, người lãnh đạo quản lý đất
nước, dù là nhà trí thức giỏi về một lĩnh vực nào đó cũng không thể nhân danh nhà trí
thức để nắm quyền lực, bỡi lẽ quyền lực mà họ có là do đảng hoặc nhân dân giao phó
hoặc thông qua bầu cử trực tiếp như đối với Quốc Hội, hoặc gián tiếp như đối với các
thành viên của Chính phủ và chính quyền các cấp. Do đó, có người cho rằng, đã trở thành
người lãnh đạo thì người trí thức không thể nhân danh nhà trí thức để biểu hiện quan điểm
riêng về lĩnh vực chuyên môn mà họ am hiểu. Điều đó không ai quy định nhưng trong
thực tế lại cho ta thấy rõ ranh giới về quyền hạn và trách nhiệm giữa người trí thức với
người lãnh đạo, quản lý đất nước.
Hai là, vấn đề nâng cao trí lực và sự hiểu biết cho người quản lý đất nước để đủ tầm
trí tuệ đảm đương tốt nhiệm vụ được giao.
Người lãnh đạo, quản lý đất nước trân trọng nhà trí thức và tham khảo ý kiến họ.
Nhưng theo ý kiến ấy mà quyết định sai thì trách nhiệm bao giờ trước hết đặt trên vai
người lãnh đạo, quản lý. Cho nên,Đảng đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý đất nước phải có
đủ phẩm chất, đức độ, đồng thời phải đủ sáng suốt khi tham khảo ý kiến và nhất là khi
đưa ra quyết định. Để có được sự sáng suốt đó, người lãnh đạo, quản lý cần nâng cao


12


không ngừng trí lực của mình, có những hiểu biết ngang tầm với chức trách mà mình phụ
trách.
Khi phê phán quan điểm xem trí thức như một giai cấp thì đồng thời cũng phê phán
quan điểm coi trí thức như một giới thượng đẳng đứng ngoài hoặc đứng trên các giai cấp
xã hội. Trí thức cũng chỉ là những con người bình thường trong nhân dân, họ có thẻ tham
gia sản xuất như một công nhân thực thụ, họ cũng có thể trở thành nhà bác học nhờ những
sáng tạo có giá trị văn hóa của mình. Đương nhiên, họ cũng có thể trể thành nhà lãnh đạo
cao nhất nắm nhìu quyền lực trong tay.
Tóm lại, người trí thứ vốn có mặt ở mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong lĩnh vực
của cuộc sống và trong thực tế có những cá nhân trong họ đã từng là những người lãnh
đạo, quản lý đất nước ở những thời đại khác nhau. Có điều là ngày nay, do thời đại phát
triển khoa học và công nghệ, trí lực, trí tuệ, trí thức đã trở thành đã trở thành nguồn gốc
của phát triển thì vai trò của trí thức được chú ý hơn, được xem là lực lượng hạt nhân trên
mọi lĩnh vực cuộc sống, trong đó có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, quản lý đất
nước và điều hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Không phải mọi người trong đội ngũ trí thức đều là những người có tài, có đức,
nhưng có thể khẳng định, người có tài đức thật sự nếu được phát hiện, đượ đào tạo, được
giao việc thì sẽ trở thành những trí thức có nhiều khả năng kiến thiết nước nhà. Ở đây, nói
đến vai trò của trí thức trong lãnh đạo và điều hành đất nước muốn nhấn mạnh đén những
người có tài có đức không chỉ tham gia vào công việc kiến thiết đất nướcnhư một trí thức
bình thường, mà thực sự là người có tài đức đủ sức gánh vác những công việc trọng đại
của đất nước.
Như vậy vai trò của đội ngũ trí thức trong thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là hết sức quan trọng. Đội ngũ trí thức vừa là người trực tiếp tham gia vừa là
người tham mưu, tuyên truyền chủ trương đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
nhiên để sớm đạt được những thắng lợi trên đội ngũ trí thức Việt Nam cần chủ động tích

cực hơn nữa, phát huy hết những ưu điểm thế mạnh của mình đồng thời từng bước khắc
phục những nhược điểm sai sót trong bước phát triển của mình.
2.1.4 Đội ngũ trí thức Việt Nam trực tiếp đào tạo nguồn lực con người cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

13


Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chúng ta phải càn có nhiều
nguồn lực khác nhau tham gia. Một trong những nguồn lực đó chính là nguồn lực con
người, mà yêu cầu đặt ra là phải không chỉ đông đảo về số lượng mà phải có chất lượng
cao, giỏi chuyên môn, yêu đất nước, gắn bó sự nghiệp của mình với sự nghiệp của đất
nước. Quyết tâm đưa nước ta khỏi hoàn cảnh của một nước nông nghiệp lạc hậu. Có được
nguồn nhân lực như vậy phần lớn phụ thuộc vào sự đóng góp của đội ngũ trí thức nói
chung và đội ngũ trí thức giáo dục – đào tạo nói riêng.
Thế kỷ XXI là một thế kỷ mà khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão. Đặc
điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Do vậy muốn phát triển đất nước
chúng ta phải dựa vào nguồn lực con người. Nguồn lực con người chính là nguồn lực quý
báu nhất, có ý nghĩa quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Đội ngũ trí thức nước ta đã tích cực trong việc nâng cao trình độ dân trí, nâng cao
trình độ cho đội ngũ công nhân. Hàng năm nước ta hàng triệu người đến độ tuổi lao động
nhưng số người học tập đào tạo nghề rất thấp. Hiện nay nguồn đào tạo trí thức nước ta
khá phong phú như đại học, cao đẳng, trung cấp… một số trí thứ còn được đào tạo ở nước
ngoài. Với sự đầu tư của nhà nước như vậy cùng với sự tham gia tích cực của đội ngũ trí
thức thì chắc chắn nguồn lực con người ở nước ta sẽ phát triển nhanh chóng về số lượng
cũng như chất lượng. Đội ngũ trí thức nướ ta có nhiệm vụ phổ cập kiến thức khoa học công nghệ làm cho nhiều tầng lớp trong xã hội có sự hiểu biết nhất định có khả năng tiếp
thu ứng dụng khoa học công nghệ. Hình thành nguồn nhân lực của nước ta có tác phong
công nghiệp, có kỷ luật sáng tạo biết ứng dụng khoa học công nghệ đạt năng suất cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là sự nghiệp mang tính chất lâu dài bao trùm

lên các ngành, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Để nâng cao dân trí, đòa tạo
cán bộ khoa học quản lý. Không chỉ là sự nghiệp của đội ngũ trí thức- ở đây là đội ngũ trí
thức giáo dục- đào tạo mà còn là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
2.2 Một số giải pháp của Đảng ta nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

14


Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành Trung Ương X ngày 30/1/2008 về xây
dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra
các giải pháp về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức.
Một là: Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí
thức.
- Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để
trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh. Tăng đầu tư từ nhiều
nguồn khác nhau cho các lĩnh vực nói trên, đặc biệt khuyến khích doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi
ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí thức gia
tăng sự cống hiến.
- Ban hành quy định về quyền hạn, điều kiện làm việc để phát huy năng lực và trách
nhiệm của trí thức đầu ngành, các nhà khoa học và công nghệ có trình độ cao, các tổng
công trình sư trong điều hành chuyên môn, nghiệp vụ.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi
và xây dựng cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền
lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định
các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Phê phán và xóa bỏ sự

coi nhẹ, thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng.
- Nhà nước đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp
khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc
đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước.
- Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo, văn hóa và văn nghệ.
Hai là: Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức.
- Ðổi mới công tác cán bộ của Ðảng và Nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của các
cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ là trí thức, khắc phục tình trạng

15


hành chính hóa, thiếu công khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và
bổ nhiệm cán bộ quản lý.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế tạo điều kiện để trí thức phát triển bằng chính phẩm
chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho đất nước.
- Thực hiện đúng và đầy đủ chủ trương phân cấp và quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ, các trường đại học trong việc bổ nhiệm
cán bộ lãnh đạo và các chức danh khoa học trên cơ sở các tiêu chuẩn của Nhà nước; trong
việc sử dụng kinh phí, sử dụng trí thức đầu ngành theo nhu cầu của đơn vị, nghiên cứu
ban hành quy định tuổi lao động cho phù hợp.
- Rà soát các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để
trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao
động sáng tạo của mình.
- Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách để động viên và tiếp tục
sử dụng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với những trí thức có trình độ cao, năng lực và sức
khỏe đã hết tuổi lao động.
- Có chính sách ưu đãi cụ thể về lương, điều kiện làm việc, sinh hoạt... đối với trí
thức làm việc ở vùng kinh tế, xã hội khó khăn, trí thức là người dân tộc thiểu số, người

khuyết tật...; đổi mới, nâng cao chất lượng xét chọn và nâng mức thưởng đối với các danh
hiệu cao quý và các giải thưởng Nhà nước dành cho trí thức.
- Xây dựng chính sách thu hút, tập hợp trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước tích
cực tham gia hiến kế, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới...
Trọng dụng, tôn vinh những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Ba là: Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức
- Tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống đến chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các
biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Thực hiện tốt
kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn đầu tư để phát triển giáo dục và đào
tạo. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước.

16


- Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào
tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng
một số trường đại học ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tạo điều
kiện để các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở
cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
- Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào
tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết.
- Trên cơ sở bảo đảm chất lượng đào tạo đại trà, xây dựng cơ chế, chính sách thực
hiện có hiệu quả đào tạo tài năng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức và phát triển
nhân tài cho đất nước.
- Có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí
thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc
thiểu số và trí thức nữ.

- Áp dụng chính sách định kỳ và cơ chế bảo đảm chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lại
chuyên môn cho đội ngũ trí thức; khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn.
Bốn là: Ðề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt
động các hội của trí thức.
- Xây dựng quy chế, cơ chế thông tin giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ
trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước và tình hình thực tiễn của đất nước và địa
phương.
- Tăng cường sinh hoạt tư tưởng, phát huy trách nhiệm đội ngũ trí thức trong rèn
luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp, như lòng yêu nước, tính tích
cực xã hội, tính nhân văn, đạo đức, lối sống...
- Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ
trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp
phần thiết thực nâng cao dân trí.
- Có cơ chế, chính sách huy động trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trực tiếp
chăm lo và thực hiện việc đào tạo đội ngũ kế cận.

17


- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc về vị
trí, vai trò của các hội trí thức, đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật, Liên
hiệp các Hội Văn học và nghệ thuật, trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở
trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
- Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức
thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học,
nghệ thuật Việt Nam từ Trung ương đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát
huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức.
- Tạo điều kiện để các hội trí thức thực hiện các dịch vụ công, tham gia cấp chứng
chỉ hành nghề, giám sát hoạt động nghề nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính.

Năm là: Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí
thức.
- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan
trọng của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế; xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp.
- Làm tốt công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức;
để đội ngũ trí thức nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc,
đoàn kết phấn đấu, lao động sáng tạo, hoàn thành tốt trọng trách trong thời kỳ mới. Hình
thành ý thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức, coi “hiền tài là nguyên khí của
quốc gia”, phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”.
- Phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản
lý là đảng viên và không phải là đảng viên trong các cơ quan nhà nước và tổ chức sự
nghiệp.
- Trong quản lý và sử dụng trí thức, các cấp ủy đảng và chính quyền nghiên cứu,
thực hiện các phương thức phù hợp, không áp dụng máy móc cách quản lý hành chính để
phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức.
- Những người đứng đầu cấp ủy đảng và chính quyền các cấp có trách nhiệm định
kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan
trọng.

18


- Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ
đạo và kiểm tra việc thể chế hóa các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết thành các
chính sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết.
Trước hết, Đảng và Nhà nước ta xác định quan điểm nhất quán thể hiện trong nghị
quyết là trong mọi thời kỳ và nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước thì đội
ngũ trí thức có vai trò, vị thế quan trọng, là lực lượng có khả năng đóng góp tích cực trên

các lĩnh vực kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng. Sự đóng góp của đội ngũ trí thức trong
các chiến lược, chính sách phát triển đất nước là quan trọng cần được quan tâm đúng
mức. Cần được đối xử công bằng trong thực hiện cơ chế chính trị của đất nước công nông liên minh và các tầng lớp trí thức. Hội của trí thức cần được coi như một đoàn thể
chính trị của công nhân và nông dân. Cần có chính sách đã ngộ về lương bổng hợp lý,
không cào bằng, tuỳ theo trình độ năng lực và hiệu quả đóng góp. Nên xây dựng một mức
đãi ngộ cho cán bộ khoa học tài năng có thể hơn những người làm quản lý, để tạo ra một
hướng phát triển lành mạnh, không cần thiết phải tìm mọi cách để leo lên con đường quan
chức, mà có thể sống đầy đủ bằng tài năng khoa học thực sự của mình. Điều này không
dừng lại ở mức đãi ngộ mà tạo ra một tư duy lành mạnh của sự phát triển tri thức.
Cần tổ chức khảo sát, điều tra một cách rộng rãi để nắm chắc số lượng, chất lượng,
cơ cấu, biết được ngành nghề nào thiếu hụt, bao nhiêu phần trăm đáp ứng được sự phát
triển kinh tế xã hội, bao nhiêu phần trăm cần đào tạo lại, ở đâu, phương thức nào? Trong
công tác đề bạt bổ nhiệm cán bộ phải tuân theo quy trình chặt chẽ, xây dựng tiêu chí cụ
thể phù hợp theo yêu cầu của từng chức danh, chú trọng đến tiêu chuẩn chất lượng chứ
không chỉ dành một tỷ lệ cơ cấu như trước đây để chọn cử được những người thực sự có
tài, có tâm, có đức, loại bỏ các thành phần cơ hội, bè phái, ô dù...
Cần có chính sách thu hút chất xám thông qua việc kêu gọi các nhà khoa học Việt
Nam ở nước ngoài về xây dựng đất nước hoặc có những đóng góp về khoa học cho đất
nước, đây là nguồn nhân lực rất đáng kể phục vụ đắc lực cho công cuộc hội nhập trong
lĩnh vực KHCN, và là cầu nối để khoa học Việt Nam tranh thủ được trí tuệ của nhân loại,
hoà nhập, bắt kịp các tiến bộ nhanh chóng. Dĩ nhiên trí thức Việt kiều cũng nhìn vào sự
đối xử của Đảng, Nhà nước đối với trí thức trong nước.Ngoài ra, cần có chính sách khai
thác, sử dụng tiếp tục nguồn trí tuệ của các cán bộ khoa học đã nghỉ hưu theo chế độ,

19


nhưng vẫn có thể đóng góp về nhiều mặt theo hướng vừa được cống hiến vừa được nghỉ
ngơi tích cực, không rơi vào cảm giác hụt hẫng...
Trong Đại hội XI Đảng ta đã nhấn mạnh:

Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước. Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trách
nhiệm xã hội cao. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng,
đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho
thế hệ trẻ.
Trọng Đại hội Đảng ta cũng đã có những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của trí thức Việt Nam như:
Trí thức là người lao động trí óc, sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất tinh thần là chủ
yếu. Do vậy, hoạt động của trí thức phụ thuộc lớn vào tồn tại xã hội, những yếu tố kinh tế,
vật chất... của đời sống con người, mà có thể gọi khái quát và phổ thông là: môi trường
phát triển của trí thức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua các
văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng... Đại hội đã tạo ra những môi trường
thuận lợi cho sự phát triển mới của dân tộc, trong đó có trí thức Việt Nam.
Trước hết, Đại hội XI với đường lối đối ngoại ngày càng đổi mới sẽ mở ra môi
trường quốc tế rộng lớn cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Bước vào công cuộc đổi
mới đất nước, Đảng ta đã chú ý đến mở rộng quan hệ đối ngoại nhưng trước hết là hội
nhập kinh tế quốc tế. Đến Đại hội X, tinh thần này được nâng lên tầm "chủ động và tích
cực", nhưng cũng chủ yếu về mặt kinh tế, đồng thời quan tâm hơn đến mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác. Cho nên, để đáp ứng thực tế khách quan của xu thế toàn
cầu hóa ngày càng sâu rộng ở mọi phương diện của đời sống xã hội, Đại hội XI nêu rõ:
"Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” [1, tr.235-236].

20



Đường lối đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện đa dạng
hóa các nguồn lực và địa chỉ đào tạo trí thức nước ta từ các quốc gia khác nhau. Hợp tác
quốc tế về khoa học được mở rộng tạo khả năng để trí thức nước ta giao lưu, trao đổi
thông tin, tiếp cận những tri thức mới. Trí thức người Việt Nam định cư ở nước ngoài có
cơ hội nhiều hơn hướng về Tổ quốc, đóng góp trí lực và vật lực nhiều hơn vào xây dựng
quê hương, đất nước...
Toàn cầu hóa không chỉ đem lại những thuận lợi mà còn có những thách thức. Trong
hội nhập quốc tế, người trí thức phải tự giác vươn lên về ngoại ngữ, học vấn... để khỏi
đứng ngoài sự phát triển chung của nhân loại. Người trí thức còn phải vững vàng về chính
trị, có lòng yêu nước, tự trọng và kiêu hãnh dân tộc để lao động sáng tạo đứng vững trong
môi trường quốc tế rộng lớn, xứng đáng với danh hiệu: Trí thức Việt Nam.
Hai là, Đại hội XI xác định một trong những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát
triển đất nước là phát triển kinh tế tri thức, tiếp tục đổi mới phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ. Đây thực chất là tạo môi trường trí tuệ cho xây dựng trí thức Việt
Nam. Đại hội XI nêu rõ: "Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là
công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh các ngành và
sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, dựa
nhiều vào tri thức. Phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người
Việt Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình
phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020” [sđd, tr.220-221].
Với môi trường này, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng
trở thành trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển, được tôn
trọng và phát huy vai trò của mình. Hơn nữa, Đại hội XI khẳng định lại một lần nữa là ở
nước ta, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đại
hội XI còn nhấn mạnh đến "thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo
dục đại học..." và phấn đấu đến năm 2020: "số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân" [sđd,
tr.131 và 105]... thì những năm tới, khả năng số lượng trí thức Việt Nam sẽ tăng nhanh và
nâng cao được chất lượng đội ngũ của mình.


21


Sống trong môi trường trí tuệ thuận lợi, con người Việt Nam, nhất là người trí thức
phải học tập suốt đời, được đào tạo và đào tạo lại thường xuyên, bằng trường lớp và tự
học hỏi để có năng lực chuyên môn tương xứng, lao động giỏi, đáp ứng được đòi hỏi cao
về năng suất, chất lượng của kinh tế tri thức.
Ba là, Đại hội XI tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước và xác định 3 khâu "đột phá
chiến lược”, trong đó khâu đầu tiên là: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa... [ đd, tr.106.]
Hoàn thiện này tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho lao động sáng tạo khoa học và
lưu thông hàng hóa “chất xám" của người trí thức Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo khả năng nhiều và linh hoạt
việc làm cho trí thức. Người trí thức có mặt ở mọi thành phần kinh tế, có cơ hội lựa chọn
những nơi làm việc phù hợp để được cống hiến nhiều nhất và hưởng thụ xứng đáng, hơn
nữa có khả năng vươn lên làm giàu chính đáng.
Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn là phát
triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó có thị trường khoa học
và công nghệ, thị trường lao động…. tác động trực tiếp đến người trí thức. Bởi vì, như
Đại hội XI nêu rõ: "Phát triển mạnh kinh tế thị trường, khoa học và công nghệ gắn với
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có hình thức thông tin giới thiệu các hoạt động và sản
phẩm khoa học, công nghệ; hoàn thiện các định chế và mua bán các sản phẩm khoa học,
công nghệ trên thị trường” và "Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền
công phải được gọi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường” [đd,
tr.213].
Như vậy, hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đem lại môi trường thuận lợi, bình đẳng, và tạo nên động lực kinh tế mạnh mẽ cho trí thức
nước ta trong lao động sáng tạo khoa học. Thế nhưng trong nền kinh tế thị trường, người
trí thức cũng phải chịu sức ép cạnh tranh, phải không ngừng học tập, bồi dưỡng để giữ
vững "thương hiệu” cho sản phẩm khoa học và giá trị “chất xám” của mình. Nhất là,

người trí thức phải biết giữ mình để khỏi tha hóa trước những "cám dỗ" và tiêm nhiễm
những tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường…

22


Bốn là, trong môi trường phân công lao động xã hội – nghề nghiệp, như đã nói, trí
thức là những người lao động trí óc, trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tinh thần.
Sự ra đời của trí thức mang tính lịch sử và biểu hiện bước phát triển mới của xã hội. Từ
đó, lao động trí óc nằm trong chỉnh thể, không thể thiếu của hệ thống lao động xã hội và
vai trò ngày càng tăng. Ở Đại hội XI của Đảng, vai trò quan trọng của trí thức càng được
khẳng định và nhấn mạnh khi đặt trí thức trong khái niệm khác của phân công lao động xã
hội nghề nghiệp là: nguồn nhân lực chất lượng cao. Trí thức là bộ phận đặc trưng nhất của
nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao cũng được coi là một trong ba "đột phá chiến lược". Đại hội XI còn giải
thích cụ thể rằng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ
chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học công nghệ
đầu đàn" [1, tr 130].
Như vậy Đảng ta quyết tâm cao trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mà trí
thức là một bộ phận. Nhà nước, các ngành, các cấp, các địa phương, tổ chức, doanh
nghiệp... tập trung nguồn lực và có những đề án, chương trình hành động... cho nhiệm vụ
này. Riêng đối với trí thức, Đảng ta cũng chỉ ra mục tiêu là xây dựng đội ngũ này lớn
mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước,
từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và
thế giới. Do đó, xác định trí thức với tính cách là bộ phận của nguồn nhân lực chất lượng
cao, một khâu của "đột phá chiến lược", Đại hội XI đã mở ra cơ hội, môi trường thuận lợi

cho sự phát triển mới của trí thức, đồng thời cũng đòi hỏi cao đối với việc phát huy vai trò
của trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam.
Năm là, tinh thần lớn xuyên suốt của Đại hội XI là phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tạo thành môi trường dân chủ và đồng thuận
xã hội cho phát triển của trí thức Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: "Dân chủ xã hội chủ

23


nghĩa" là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước” [Sđd, tr.85]. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015 nêu rõ: "Nâng cao
năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực
tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội,
tạo động lực phát triển đất nước" [Sđd, tr.100]; còn Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương chỉ ra rằng: "Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc
lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp
nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân
tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận
chung, tăng cường đồng thuận xã hội” [ Sđd, tr.239-240]
Như vậy, môi trường dân chủ và đồng thuận xã hội là động lực cho phát triển đất
nước. Người trí thức với đặc thù lao động trí óc lại càng cần đến tự do tư tưởng để sáng
tạo, cần đến bầu không khí đồng tình, đồng chí để nâng cao cảm xúc sáng tạo đưa lại
những tác phẩm, công trình có chất lượng cao. Đại hội XI yêu cầu: "Thực hành dân chủ,
tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì
sự phát triển đất nước” [sđd, tr. 134].
Tất nhiên, dân chủ luôn gắn liền với kỷ luật, kỷ cương. Trí thức được tự do tư tưởng,
nhưng trên cơ sở tuân thủ pháp luật, tôn trọng những quy định chung của đơn vị, cộng
đồng xã hội. Trí thức đoàn kết với các tầng lớp nhân dân, đồng nghiệp, đối tác... trên tinh

thần hợp tác lành mạnh, liên kết chính đáng, thẳng thắn phê và tự phê bình, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
Sau nữa, môi trường pháp lý thông thoáng tạo thuận lợi cho hoạt động của trí thức
nước ta. Đó là hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước về trí thức. Hệ thống này
cụ thể hóa những quan điểm chủ trương cơ bản của Đảng đối với trí thức. Đại hội XI đã
nêu một cách khái quát những quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng đối với trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: "Xây dựng đội ngũ trí
thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát
huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở
đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi

24


ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của
đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên
cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước và các dự
án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí
thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước" [Sđd, tr.241-242].
Những quan điểm, chủ trương trên đang cần có chính sách và luật hóa của Nhà nước
để đi vào cuộc sống, trong đó trước hết là: Ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các
cơ chế, chính sách tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định phát triển, cống hiến và được xã
hội tôn vinh. Tăng đầu tư từ nhiều nguồn cho hoạt động khoa học, nhất là khuyến khích
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển khoa học. Hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo bộ quyền sở hữu trí
tuệ, quyền tác giá đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức khi
chuyển giao phát minh, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí thức gia tăng sự cống hiến.
Ban hành quy định về quyền hạn, điều kiện làm việc để phát huy năng lực và trách nhiệm
của trí thức đầu ngành, các nhà khoa học và công nghệ có trình độ cao, các tổng công

trình sư trong điều hành chuyên môn, nghiệp vụ. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp quy để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia
các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách các dự án phát
triển kinh tế - xã hội. Chính sách đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công
nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm văn hóa
hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước. Chính sách mở
rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa
và văn nghệ ...
Tóm lại, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thành công đã mở ra những
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của trí thức Việt Nam. Tiếp nữa là cần đến trách
nhiệm chung của toàn xã hội, của hệ thống chính trị, nhất là trách nhiệm của Nhà nước,
đồng thời cần đến sát nỗ lực vươn lên của người trí thức để đội ngũ trí thức Việt Nam
thực sự có bước phát triển mới trong môi trường thuận lợi của công cuộc đổi mới hiện
nay.

25


×