Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.99 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................2
2.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân
tộc, nhân loại :.......................................................................................................................................6
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................23


PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, vị
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cả cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
Người là tấm gương mẫu mực về sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội cho các thế hệ con người Việt Nam nói chung và cho Đảng Cộng
sản Việt Nam nói riêng, kế thừa và phát huy trong mọi điều kiện hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Hệ thống tư tưởng của Người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã
được lịch sử minh chứng một cách sinh động. Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh
là nhà hoạt động thực tiễn, nhà lý luận tiên phong về dân tộc, về giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong hệ thống tư tưởng của Người, không
thể không kể đến tư tưởng về vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại và vai trò quan
trọng của tư tưởng đó đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian qua, đặc biệt là
trong thế kỷ XX, một thế kỷ đầy biến động nhanh chóng và phức tạp của tình
hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn và vận dụng sáng tạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với vấn đề dân tộc, giai cấp và nhân loại. Sự vận dụng đúng
đắn và sáng tạo này đã được kiểm nghiệm bằng thực tế qua quá trình lịch sử lâu
dài kể từ những cuộc chiến tranh ác liệt giành độc lập dân tộc và giải phóng đất
nước cho đến tận thời bình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng, bất kể thời điểm nào và ở bất cứ đâu,
nếu vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp không được kết hợp một cách hài hòa,
đúng đắn mà bị vận dụng một cách giáo điều, cứng nhắc hay chỉ xem trọng một
vấn đề mà coi nhẹ vấn đề kia, thì cách mạng ở đó sẽ rơi vào hoàn cảnh khó


khăn, không có hướng đi, thậm chí là bị tổn thất nặng nề. Vì vậy, việc nghiên
cứu vấn đề dân tộc, giai cấp, nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng
tư tưởng đó vào thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước là vô cùng cần
thiết, đặc biệt là trước những khó khăn và thách thức trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế ngày nay.
Vì vậy, dưới sự hướng dẫn và phân công của TS. Lê Ngọc Thông, học
viên đã nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân tộc,
nhân loại trong cách mạng Việt Nam”.
Bài tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề giai cấp, dân tộc và
nhân loại

2


Chương II: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại trong
cách mạng Việt Nam
Chương III: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân
loại trong thời đại ngày nay
Do còn nhiều hạn chế về mặt nhận thức nên bài tiểu luận chắc chắn sẽ có
nhiều sai sót và không tránh khỏi có những trùng lặp nhất định với các bài
nghiên cứu trước đó. Vì vậy học viên kính mong TS. Lê Ngọc Thông chỉ ra
những điểm thiếu sót và hạn chế đó và gợi ý để học viên có thể hoàn thiện hơn
nhận thức của mình.

3


CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀ

DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp:
Từ việc phân tích kết cấu phương thức sản xuất, C.Mác đã có cách tiếp
cận khoa học trong nghiên cứu về vến đề giai cấp. Đó là lấy lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội làm cơ sở nghiên cứu xã hội. C.Mác đã tìm ra cái gốc
của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó chính là kinh tế. Tuy không đưa ra định
nghĩa hoàn chỉnh về giai cấp, nhưng trong thư gửi Vây-đờ-mây-e ngày
5/3/1852, ông đã thể hiện tư tưởng về giai cấp như sau:
- Sự phát triển của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử
nhất định của sự phát triển sản xuất.
- Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản.
- Bản thân sự chuyển dịch này chỉ là bước quá độ tiến tới xoá bỏ mọi giai
cấp và tiến lên xây dựng xã hội không có giai cấp.
Trên cơ sở lý luận của C.Mác, trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, V.I
Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn
to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thường thì những quan hệ này được pháp luật qui định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và
như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập
đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.”
Theo định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin thì giai cấp gắn liền với một hệ
thống sản xuất nhất định và có địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất đó.
Địa vị này do các quan hệ sản xuất quyết định. Các giai cấp khác nhau thì có
quan hệ khác nhau đối với sở hữu tư liệu sản xuất. Những giai cấp như chủ
nô (trong chế độ nô lệ), địa chủ (trong chế độ phong kiến), tư sản (trong chế
độ tư bản) là những tập đoàn người giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế

- xã hội mà họ là đại biểu vì họ nắm được phương tiện, điều kiện vật chất

4


quan trọng nhất (chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội) để chi phối lao động của
tập đoàn người không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn
người bị mất tư liệu sản xuất như nô lệ (trong chế độ nô lệ), nông nô (trong
chế độ phong kiến), vô sản (trong chế độ tư bản) buộc phải phụ thuộc về kinh
tế vào các tập đoàn thống trị. Các giai cấp khác nhau cũng có vai trò khác
nhau trong tổ chức, quản lý lao động xã hội: Tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu
sản xuất sẽ giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt động sản xuất và lưu thông trên
qui mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế. Cuối cùng, các giai cấp
khác nhau có phương thức và quy mô thu nhập của cải xã hội khác nhau. Là
người chiếm hữu tư liệu sản xuất và tổ chức lãnh đạo sản xuất, tập đoàn
thống trị đủ điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất là chiếm
đoạt sản phẩm thặng dư do các giai cấp lao động tạo ra. Địa vị khác nhau của
giai cấp là cơ sở của quan hệ bóc lột giai cấp. Thực chất quan hệ giai cấp
trong xã hội đối kháng là quan hệ bóc lột.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nguồn gốc cơ bản hình thành
giai cấp là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất
phát triển dẫn đến có sự phân công lao động, mang lại năng suất lao động cao
hơn, từ đó dẫn đến sản phẩm thặng dư tương đối. Trong xã hội sẽ xuất hiện
chế độ tư hữu. Từ đó hình thành nên giai cấp.
Trong kết cấu giai cấp của xã hội bao gồm các giai cấp cơ bản đối lập
nhau, các giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Các giai cấp cơ bản
đối lập nhau là các giai cấp do phương thức sản xuất của xã hội sinh ra. Đó là
giai cấp chủ nô và nô lệ (phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ), giai cấp địa
chủ và nông nô (phương thức sản xuất phong kiến), giai cấp tư sản và vô sản
(phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa). Quan hệ giữa các giai cấp này là

quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị. Cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp cơ bản quyết định xu hướng tính chất của sự vận động xã hội. Các giai
cấp không cơ bản là các giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ để lại.
Các tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang
thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra như
tầng lớp bình dân (phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ), tiểu tư sản
(phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa) hay tầng lớp trí thức tồn tại trong
bất kỳ xã hội có giai cấp nào.
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I. Lênin đã
định nghĩa đấu tranh giai cấp: “Là cuộc đấu tranh của một bộ phận nhân
dân này chống lại một bộ phận nhân dân khác, cuộc đấu tranh của quần
chúng bị tước hết quyền bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền,
đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công

5


nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai
cấp tư sản.”
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
về mặt địa vị và lợi ích giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đỉnh cao của
đấu tranh giai cấp là những cuộc cách mạng xã hội. Nguyên nhân dẫn tới đấu
tranh giai cấp là do sự đối lập về lợi ích cơ bản ( lợi ích về kinh tế) giữa các
giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định.
Đấu tranh giai cấp có vai trò vô cùng quan trọng. Trong tuyên ngôn Đảng
Cộng Sản của Mac – Ăngen: “Lịch sử xã hội loài người từ khi có giai cấp
đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Đấu tranh giai cấp là một trong những
động lực quan trọng của các xã hội có giai cấp đối kháng. Thông qua đấu
tranh giai cấp, mâu thuẫn cơ bản giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
được giải quyết, từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Đấu tranh giai

cấp dẫn đến chuyên chính vô sản - công cụ xóa bỏ chế độ tư hữu và giai cấp,
xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
2.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và mối quan hệ
giữa vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại :
Khái niệm dân tộc được dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm
thành nhân dân một nước có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc
ngữ chung, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi những
quyền lợi về chính trị, kinh tế, truyền thống, văn hóa, truyền thống đấu tranh
chung trong suốt quá trình dựng nước và bảo vệ đất nước.
Dân tộc có tính thống nhất cao thể hiện ở sự cộng đồng về lãnh thổ, về
kinh tế, về ngôn ngữ và về văn hóa. Dân tộc có tính ổn định, bền vững, đảm
bảo bởi nguyên tắc pháp lý cao, tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc.
Từ thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản chưa trở thành chủ nghĩa đế quốc,
vấn đề quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại được C.Mác và
Ph.Ăngghen xem xét và giải quyết xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách
mạng vô sản, cách mạng vô sản là điều kiện cơ bản nhất để thực hiện sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng Sản” tháng 2 năm 1848 như sau: “ Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô sản là phong trào
độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu
tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc.” Như vậy, C.Mác
6


và Ph.Ăngghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên hai ông không
đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì: (1) Tại các nước này, mâu thuẩn cơ bản
của xã hôi là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng: tư sản và vô sản; (2) Về

cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư
sản; (3) Vào thời của C.Mác, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu
tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, hai ông nhấn mạnh đến giải
phóng giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Hãy xóa bỏ tình
trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ
được xóa bỏ” và “ Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân
tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất
theo.” ( “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản “ – Tháng 2/1848). Như vậy, theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải
giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm,
là điều kiện để giải phóng dân tộc. V.I.Lênin từng nhận xét, đối với C.Mác so
với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Đến thời V.I. Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới,
cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa
thành một hệ thống lý luận. V.I.Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh
với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa
Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, từ thực tiễn tình hình nước Nga,
V.I.Lênin đã nêu lên Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Đây
được xem như là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin. Dân tộc là địa
bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Mỗi dân tộc
có nhiều giai cấp, cùng tồn tại và phát triển. Do đó “giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc”.( “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản “ – Tháng 2/1848).
Nếu như áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc thì áp
bức dân tộc tác động mạnh mẽ trở lại áp bức giai cấp. Áp bức dân tộc nuôi
dưỡng áp bức giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Đấu tranh giai
cấp tác động vào đấu tranh dân tộc. Đấu tranh dân tộc tác động vào đấu tranh

giai cấp. Nếu dân tộc chưa có độc lập thống nhất, thì giai cấp đại biểu cho
phương thức sản xuất mới muốn trở thành “giai cấp dân tộc” phải đi đầu
trong cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện nhiệm vụ đầu tiên là khôi
phục độc lập dân tộc. Chừng nào trong xã hội còn đối kháng giai cấp, đấu

7


tranh giai cấp, thì vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được giải quyết trên lập
trường giai cấp nhất định. Từ đó V.I.Lênin cùng với Quốc tế cộng sản bổ
sung khẩu hiệu nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”: "Vô sản tất cả
các nước đoàn kết lại!" thành khẩu hiệu mới: “Vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó là lời kêu gọi tập hợp lực lượng xung
quanh giai cấp công nhân, tất cả các lực lượng có khả năng cách mạng,
chống đế quốc của thời đại đấu tranh vì các mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ
và CNXH.
Tuy nhiên, sau khi V.I.Lênin mất Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời
gian dài đã nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không
mấy quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc
địa, thậm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với
chủ nghĩa quốc tế vô sản.

8


CHƯƠNG II:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN TỘC,
NHÂN LOẠI TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh


Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã đưa ra khái niệm: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về vấn đề cơ bản của
Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện
chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của
phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng cùng thực
tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh –
một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách,
phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên.
2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân
tộc, nhân loại
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người
ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trước khi học thuyết Mác
– Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người
Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại.
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do
bế tắc về đường lối. Mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy
đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức
được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại
lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất
mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào
ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể
đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu
nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm
đường cứu nước. Công lao to lớn đầu tiên của Người đối với sự nghiệp cách

mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải

9


phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Trong quá trình ra đi tìm
đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ
và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao
động ở cả chính quốccũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản Mỹ (1776), Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách
mạng này tuy nêu khẩu hiệu “tự do”, “bình đẳng”, nhưng không đưa lại tự do,
bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: “Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,
tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa.”( Tác phẩm “Đường Kách mênh” – Năm 1927). Tuy khâm
phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyễn Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng
chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh
trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng
giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách
mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng
lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ
nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người
khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”, và:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng
định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn

toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước
đó ở Việt Nam. Người đã có công đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ
đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc
phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng
dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn”.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại trong
cách mạng Việt Nam:
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có nhiều quan điểm sâu sắc về mối quan hệ

10


giai cấp, dân tộc, nhân loại, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng Việt
Nam trong thời đại ngày nay.
3.1.Vấn đề dân tộc thuộc địa
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá
bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà
nước dân tộc độc lập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng
bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến,
trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm
lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà
bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là
khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Mất nước là mất tự do. Khi mất

nước, con người không chỉ mất quyền bình đẳng, tự do dân chủ mà ngay cả
quyền sống của họ cũng bị đe dọa. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng
Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có
lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó
được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể
hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Phát biểu trong buổi họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến
quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta đã hi sinh phấn đấu giành
độc lập. Chúng ta đã giành được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết
rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Tư tưởng này
thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá.
Với việc tiếp xúc với các tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ 1776 và
“Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp 1791, Người đã khái quát
chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến,
làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công,
Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.

11


Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.

Người khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang
đấu tranh giành độc lập. Do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để,
vì thế cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước thuộc địa không diễn ra giống như ở
phương Tây. Đối với với các dân tộc thuộc địa có sự tương đồng lớn, dù là ai,
cũng đều là nô lệ mất nước. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa dân tộc chân chính, là động lực to lớn để phát triển đất nước.
3.2.Chủ trương kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề
dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với
CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường
của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chỉ trên
lập trường của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn
đề dân tộc.
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc
dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được
yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người
không tán thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con
đường cứu nước mới.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có
xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với học thuyết cách mạng của chủ
nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc
và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản. Người nêu, các nước thuộc địa phương Đông
không phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có

độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh
cách mạng, Người đã phê phán quan điểm của các đảng cộng sản Tây Âu không
đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc địa và từ đó đi đến
luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời
biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế

12


giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân
tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm: giải phóng giai cấp kết hợp chặt
chẽ với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng vô sản ở các nước tư bản va cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
và cùng là động lực cơ bản cho cách mạng thế giới. Cách mạng vô sản ở các
nước tư bản tạo điều kiện cho cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa giành thắng lợi. Ngược lại, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa cũng thúc đẩy cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển, và đóng góp
vào thắng lợi của các cuộc cách mạng vô sản đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
triển hơn nữa quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của cách mạng
giải phóng dân tộc. Quan điểm của C.Mác đã khái quát thực tiễn của thế kỷ XIX
và cho rằng: xóa bỏ nạn bóc lột giai cấp là điều kiện cơ bản để xóa bỏ áp bức
dân tộc. Nhưng C.Mác lại chưa đề cập đến chiều ngược lại, đó là tác động của
cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng vô sản ở các nước tư bản. Đến
V.I.Lênin, ông đã phát triển lý luận của C.Mác vào điều kiện xã hội những năm
đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản đẽ phát triển thành chủ nghĩa đế quốc.
V.I.Lênin đã đánh giá cao vai trò của phong trào giải phóng dân tộc. Ông cho
rằng: cách mạng vô sản ở các nước tư bản phải kết hợp chặt chẽ với cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Phát triển hơn nữa tư tưởng của Lênin

về vai trò cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu
tiên chỉ ra rằng cách mạng giải phóng dân tộc không những cần phối hợp chặt
chẽ với cách mạng vô sản ở các nước tư bản, mà còn phải có tính chủ động tích
cực, không thụ động chờ cách mạng vô sản thành công để có tiền đề và điều
kiện thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trái lại, trong những điều
kiện nhất định, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có thể giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản, từ đó giúp đỡ giai cấp vô
sản ở các nước tư bản trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng con
người của mình. Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm
xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng
vô sản ở chính quốc. Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-91928) cho rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các
thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Quan điểm này, vô hình chung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa cách mạng

13


giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan
hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là
quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết:
"CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và
một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn
giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một
vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn
tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra". Nhân dân các dân tộc thuộc địa
có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh, khối liên minh các dân tộc
thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. Phát biểu tại Đại

hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định vai trò, vị trí chiến
lược của cách mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc
biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt
với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa... nọc độc và sức sống của
con rắn độc TBCN đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc, nếu xem
thường cách mạng ở thuộc địa tức là "muốn đánh chết rắn đằng đuôi". Do nhận
thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá đúng sức
mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người có sự phân biệt về nhiệm vụ của cách
mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng
đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An
Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì
công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm
cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do". Đây là sự kết hợp rất
biện chứng, sáng tạo giữa giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc trong điều
kiện cụ thể của thời đại; một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to
lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn
đúng đắn.
Giải phóng giai cấp kết hợp với giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh còn có nghĩa là độc lập dân tộc là điều kiện cho giải phóng giai cấp. Muốn
xóa bỏ áp bức giai cấp cả đối với các nước tư bản, cả đối với các nước phụ
thuộc, thuộc địa phải giải phóng dân tộc. Không có độc lập dân tộc thì không thể
giải phóng con người được. Vì vậy, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đấu tranh

14



giành độc lập dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Tư tưởng đó được thể hiện
trong luận điểm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Nhưng dân tộc độc lập thực sự lại phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ triệt để áp bức giai cấp. Đây là sự giải
quyết rất tài tình và độc đáo mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong điều
kiện cụ thể của thời đại và của Việt Nam. Ngay từ đầu, cách mạng Việt Nam đã
xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, và trên thực tế cách mạng Việt Nam
giành được thắng lợi không thể thiếu sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước không thể thiếu vai trò của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Độc lập dân tộc của Việt Nam được đảm bảo đến nay
không thể tách rời với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật tất yếu xuyên suốt quá trình
cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay và từ nay về sau. Đây là sự sáng
tạo rất đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
dân tộc, giai cấp và nhân loại.
3.3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo và lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn
dân tộc
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của tổ
chức cách mạng nhưng các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa cách mạng
giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng
đắn và một phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng rãi trong
quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu: "Kách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ,
phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế
giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức kách mệnh phải tập trung, muốn
tập trung phải có đảng kách mệnh". (“Đường Kách mệnh” – Năm 1927)
Trong chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định:
để đưa cách mạng đến thắng lợi triệt để trước hết phải có Đảng Cộng sản lãnh

đạo. Đảng Cộng sản vừa là đội tiền phong của giai cấp công nhân người đại diện
chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân, vừa là đại diện cho lợi ích dân tộc
và lợi ích của toàn thể nhân dân Việt Nam. Đảng phải có lý luận cách mạng soi
đường, đó là Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và
liên hệ mật thiết với quần chúng.

15


Cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo nhưng sự nghiệp cách mạng lại là
của “đa số dân chúng” chứ không phải của số ít người. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc một hai người". Do vậy phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân.
Muốn xây dựng được khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải dựa vào công nhân và
nông dân, xem liên minh công nông là cái gốc của cách mạng. Và trên cái gốc
công nông liên minh bền vững đó để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ có
như vậy mới có đủ sức mạnh để đánh đổ các thế lực phản cách mạng. Người
đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức
mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm
thắng lợi.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Người luôn chăm lo xây
dựng và phát triển sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và nêu cao khẩu hiệu
“đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”.
Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của
Người.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đề cao vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Người coi đại đoàn kết dân tộc là vấn đề

chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết được thành
một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công
phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành
công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn
kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết
trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần
thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp
với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được
Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ
thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết
dân tộc là mục tiêu của cách mạng. Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng
nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức
mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí Minh còn cho rằng đại đoàn kết
dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự
16


nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức
tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
3.4. Về kết hợp sức mạnh Dân tộc với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển
thời đại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách
mạng vô sản thế giới. Thời đại mà Người sống và hoạt động là thời đại đã chấm
dứt sự tồn tại biệt lập của các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng

rộng lớn giữa các dân tộc. Nhận thức được sự biến chuyển của thời đại, Người
đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng
vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc nói chung và cách mạng Việt Nam nói
riêng là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trên thế giới, do vậy cần
có liên minh chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa và giai cấp vô sản các nước để
chiến đấu chống lại kẻ thù chung. Người đã bảo vệ và phát triển quan điểm của
V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa đối với thắng lợi của cách mạng vô sản. Cũng từ đó, Người
đã xác định chính xác đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách
mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản.
Là nhà yêu nước chân chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Người đã suốt đời đấu tranh
không mệt mỏi để củng cố và tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt
Nam và các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Đề cao sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại
đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc đại đoàn kết
quốc tế trong sáng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố bảo đảm
thắng lợi cho cách mạng cho cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế cũng là
một trong những nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi
đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
đưa cả nước quá độ lên CNXH. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc
tế đòi hỏi phải đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ,
chủ nghĩa xô vanh và mọi chủ nghĩa cơ hội khác.
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ
Chí Minh bao giờ cũng coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn


17


lực ngoại sinh chỉ phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy,
Người luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”.
Người cho rằng muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại, ngoài sức mạnh cần
thiết bên trong, còn phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn mới tranh thủ
được sức mạnh thời đại. Để tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân
thế giới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục
tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời
đại là hoà bình, độc lập dân tộc và CNXH.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn chăm lo xây dựng, vun đắp
cho tình hữu nghị, hợp tác và đoàn kết giữa nhân dân các nước theo tinh thần
“bốn phương vô sản đều là anh em” nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho sự
nghiệp cách mạng của các dân tộc. Người chủ trương giương cao ngọn cờ hoà
bình, đoàn kết quốc tế, đồng thời luôn phân biệt giữa bạn và thù của cách mạng,
tỉnh táo với mọi âm mưu xấu xa của các thế lực phản động quốc tế, chân trọng
mọi sự giúp đỡ, hợp tác chân thành, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống sự
chia rẽ xâm lược.

18


CHƯƠNG III:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN
TỘC, NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN
hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
giai cấp, dân tộc và nhân loại càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp
thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ

xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch
định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai
cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc
không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay
sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức
lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện,
mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp
trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “Mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ
quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”. Điều này đã thể hiện rõ quan điểm biện chứng về sự thống nhất giữa
vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc , giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Mục
tiêu này vừa thể hiện vừa đáp ứng nguyện vọng của toàn thể dân tộc, của các
giai cấp và của mỗi người dân yêu nước.
Mặc dù tình hình đã có nhiều thay đổi so với trước đây nhưng cả hiện nay
và trong giai đoạn sắp tới của thời kỳ quá độ không thể chỉ chú ý đến lợi ích của
một giai cấp riêng biệt nào đó, kể cả lợi ích của giai cấp công nhân ra khỏi lợi
ích của toàn thể dân tộc. Tuy nhiên không thể không nhận thấy rằng trong bối
cảnh hiện nay của đất nước và thế giới, nội dung, tính chất và mức độ của cuộc
đấu tranh này trên đất nước ta không hoàn toàn giống như trước đây. Không thể
để lặp lại một quan niệm sai lầm cho rằng khi đã có độc lập dân tộc hoàn toàn
rồi thì chỉ cần tập trung vào việc giải quyết mâu thuẫn giai cấp. Nhận thức được
19



điều đó chúng ta sẽ thấy được sự cần thiết phải tập trung toàn bộ sức mạnh của
các thành phần kinh tế, của các giai cấp và của toàn dân tộc vào nhiêm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện
được nhiệm vụ phát triển kinh tế không chỉ là hiện thực hóa nội dung của con
đường xã hội chủ nghĩa mang tính giai cấp công nhân sâu sắc mà còn là hiện
thực hóa nội dung mang tính dân tộc, là nhiệm vụ cơ bản của toàn dân tộc, của
mọi thành phần kinh tế. Lúc này đây, cả giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc
Việt Nam không có nhiệm vụ nào quan trọng hơn nhiệm vụ từng bước thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiêpk hóa, hiện đại hóa giống như trước đây cả
dân tộc đã tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Chính vì lẽ đó mà trong
nhiệm vụ phát triển đất nước, tính giai cấp và tính dân tộc hòa quyện vào nhau.
Đảng ta cũng đã chỉ rõ trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc cần nhận
thức và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái
thống nhất và cái đa dạng, giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc cũng
như tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn, khoa học và công nghệ
ngày càng phát triển. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình
phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan của
nhân loại. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, biểu hiện dưới những hình thức
và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Các nước với chế độ xã hội
và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn
cầu mà không một quốc gia riêng rẽ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự
hợp tác đa phương. Thế giới ngày càng phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định, nhất là các hoạt động khủng bố, xung đột tôn giáo,
tranh chấp tài nguyên, lãnh thổ, biển, đảo cùng những vấn đề toàn cầu khác,

như: đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và các thảm họa thiên nhiên..., đòi
hỏi phải có sự hợp tác giải quyết giữa các quốc gia. Các quốc gia độc lập ngày
càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát
triển của mình. Đối với nước ta, trong xu thế hoà bình, hợp tác và hội nhập kinh
tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, các mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước
trong khu vực, trên thế giới và các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ cũng
mở rộng hơn về quy mô, phát triển cao hơn về cấp độ, phong phú, đa dạng hơn
về hình thức; quyền hạn và nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam cũng tăng lên, nặng
nề hơn. Cùng với đó, những thách thức về an ninh đối với nước ta cũng đa dạng,
phức tạp, nguy hiểm hơn, nhất là việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo
và chống lại mưu đồ lợi dụng “mở cửa” để đẩy mạnh “diễn biến hoà bình”, bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Tình hình đó đòi hỏi việc kết hợp sức mạnh
20


dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời
kỳ mới phải có chiến lược, sách lược, hình thức và phương pháp xử lý đúng đắn,
sáng tạo. Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng Việt
Nam tiến lên, vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở nước ta cần phải đảm
bảo những nội dung sau:
Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết dân tộc.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay vẫn còn giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Vấn đề này có quan hệ mật thiết với đại đoàn kết dân tộc. Đoàn
kết toàn dân tộc không có nghĩa là loại trừ đấu tranh giai cấp mà là thực hiện
đấu tranh giai cấp đúng quy luật, phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vì
hạnh phúc của nhân dân…
Mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH đáp ứng lợi ích chung của mọi tầng lớp,
mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc, nên đấu tranh giai cấp ở nước ta sẽ
không mâu thuẫn với đại đoàn kết dân tộc, không những thế còn củng cố vững
chắc hơn khối đại đoàn kết toàn dân.

Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường với đoàn kết dân tộc.
Kinh tế thị trường đang và sẽ dẫn đến sự khác biệt ngày càng lớn giữa các
giai cấp và tầng lớp xã hội. Tầng lớp tư sản rất có thể phát triển thành giai cấp tư
sản, khi đó xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp về quan hệ giai cấp, dân tộc và
nhân loại. Vì vậy, việc kết hợp phát triển kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc
phải bảo đảm sự công bằng và bình đẳng xã hội.
Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc
với tranh thủ sức mạnh của thời đại.
Kiên định ý chí độc lập, tự chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, phát huy cao độ nội lực; đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, kế
thừa và phát triển những kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong quá khứ, Đảng ta đã rút ra bài học và khẳng định: phải “phát huy
dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển đất nước”. Đồng thời, Đảng ta cũng xác định rõ mối quan hệ giữa sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa yếu tố nội lực và ngoại lực trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; trong đó, coi “phát huy nội lực và
sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức
mạnh thời đại là yếu tố quan trọng”. Đây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo
xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN thời kỳ mới.
Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi
của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó chính là bài học
21


xây dựng, sử dụng sức mạnh tổng hợp, làm cho các yếu tố thời đại, quốc tế

chuyển hoá và kết hợp với nội lực tạo ra thế và lực mới, giúp chúng ta vượt qua
khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ để đổi mới và phát triển bền vững.
Trên cơ sở nâng cao nhận thức, nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng, cần vận dụng và xử lý một cách linh hoạt, sáng tạo việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an
ninh, bảo vệ tổ quốc XHCN. Trong hoạt động hợp tác quốc phòng, tuy có đặc
thù và nhiệm vụ riêng, nhưng đều phải quán triệt và phục vụ mục tiêu chung của
cách mạng; đó là, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng XHCN. Hợp tác quốc phòng muốn đạt hiệu quả cao phải phối
hợp chặt chẽ với các lĩnh vực hợp tác và đấu tranh khác, nhất là về kinh tế, chính
trị, khoa học - công nghệ, văn hoá, nhằm đạt được yêu cầu là hợp tác trên các
lĩnh vực đều phải tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc phòng và xây dựng
sức mạnh quốc phòng; ngược lại, kết quả hợp tác quốc phòng phải góp phần
thúc đẩy các quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học - công nghệ, đầu tư, thương
mại phát triển.

22


KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc,giai cấp và nhân loại luôn tồn tại đan xen xuyên suốt trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi nói đến vấn đề dân tộc luôn phải lấy cơ sở
giai cấp làm điểm tựa để giải thích và phát triển. Còn khi bàn về vấn đề giai cấp
thì chắc chắn phải đi liền với việc giải quyết cho tốt vấn đề dân tộc. Muốn giải
quyết tốt vấn đề dân tộc và giai cấp cần phải có sự đoàn kết thống nhất của toàn
nhân loại. Và ngược lại, khi giải quyết được hai vấn đề đó sẽ khiến cho nhân
loại phát triển. Đó không những là minh chứng đắt giá cho sự trung thành của
Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn thể hiện sự tài tình của người
trong việc vận dụng hợp lý, phát triển sáng tạo lý luận ấy trong thực tiễn cách
mạng nước nhà. Có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp,

dân tộc, nhân loại là một trong những mái chèo đắc lực đưa con thuyền cách
mạng Việt Nam đến bến bờ thành công rực rỡ.
Bởi thế dù đang sống trong thời bình, mỗi công dân Việt Nam cần có ý thức
trau dồi và rèn luyện để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ và sâu mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những
cán bộ, Đảng viên và những nhà lãnh đạo đất nước trong việc dùng đó làm cơ sở
để hoạch định chiến lược, chính sách xây dựng và phát triển đất nước, đưa dân
tộc vượt qua mọi khó khăn thử thách, vững bước trong tiến trình xây dựng một
đất nước vì mục tiêu dân giài, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đặc biệt là vào thời điểm hiện tại khi mà thế giới đang có nhiều biến động, đòi
hỏi đất nước phải hội nhập cùng với cuộc đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc
tế. Nhưng dù thời cuộc biến đổi thế nào, thì giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh
vẫn luôn phù hợp với xu thế thời đại. Từ đó chứng tỏ cho cả dân tộc Việt Nam
và bạn bè thế giới rằng: Tư tưởng cao đẹp của Hô Chí Minh đã, đang và sẽ mãi
mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của dân tộc và
cả nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối
cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các
thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm
lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Do vậy, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững
chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước
trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.

23



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình “Triết học xã hội và ứng dụng triết học xã hội trong điều kiện
Việt Nam” (TS. Lê Ngọc Thông, NXB Lao Động – Xã hội)
2, Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh” (NXB Chính trị quốc gia)
3, Bài viết “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – tư tưởng chính
trị đặc sắc của Hồ Chí Minh” ( Ths. Phan Văn Điền - Trưởng Khoa Chủ
nghĩa Xã hội Khoa học Trường Cán bộ Thành phố HCM)
4, Bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc - mấy vấn đề bàn
luận” (PGS.TS. Vũ Quang Hiển)
5, Website />...

24



×