Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH,GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA HỌC THUYẾT NÀY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.22 KB, 13 trang )

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH,GIÁ TRỊ VÀ
HẠN CHẾ CỦA HỌC THUYẾT NÀY.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết học phương
Tây và phương Đông. Nhưng do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế-xã hội, văn hóa mà sự
phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Phương Tây phát triển Triết học “hướng
ngoại” bởi những yêu cầu phát triển khoa học nghiên cứu; còn phương Đông chịu sự tác
động của chính trị, chiến tranh diễn ra liên tục,…nên Triết học “hướng nội”, nghiên cứu
về tôn giáo như Ấn Độ, chính trị -đạo đức- xã hội như Trung Quốc. Nhưng dù phát triển
ở phương Đông hay phương Tây thì Triết học cũng là hoạt động tinh thần biểu hiện khả
năng nhận thức, đánh giá của con người.
Trong thời Trung Hoa cổ-trung đại, sự tranh giành địa vị trong xã hội của các thế lực
đã làm cho xã hội rối ren, những kẻ sĩ lúc bấy giờ luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và
đề ra những hình mẫu của một xã hội trong tương lai. Chính trong quá trình ấy đã sản
sinh ra các nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
Trong đó có một học thuyết được xem là cội nguồn của quan điểm duy vật và biện chứng
trong tư tưởng triết học của người Trung Hoa, đó là thuyết Âm-Dương, Ngũ hành. Thuyết
Âm-Dương, Ngũ hành ra đời đánh dấu bước tiến bộ tư duy khoa học đầu tiên nhằm thoát
khỏi sự khống chế về tư tưởng do các khái niệm Thượng đế, Quỷ thần truyền thống mang
lại. Và học thuyết này đã có ảnh hưởng đến thế giới quan của triết học sau này không
những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung
Hoa, trong đó có Việt Nam. Vì những lý lẽ đó, tiểu luận này tập trung phân tích học
thuyết âm – dương ngũ hành, giá trị và hạn chế của nó.

1


PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH
Lý luận về Âm-Dương được viết thành văn lần đầu tiên xuất hiện trong sách "Quốc
ngữ". Tài liệu này mô tả Âm-Dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong


vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có âm tính, tiêu
cực, lạnh nhạt, nhu nhược... Hai thế lực âm và dương tác động lẫn nhau tạo nên tất cả vũ
trụ. Sách "Quốc ngữ" nói rằng "khí của trời đất thì không sai thứ tự, nếu mà sai thứ tự thì
dân sẽ loạn, dương mà bị đè bên dưới không lên được, âm mà bị bức bách không bốc lên
được thì có động đất".
Lão Tử (khoảng thế kỷ V - VI trước CN) cũng đề cập đến khái niệm Âm-Dương. Ông
nói: “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng âm và bồng dương”, ông không
những chỉ tìm hiểu quy luật biến hoá âm dương của trời đất mà còn muốn khẳng định
trong mỗi sự vật đều chứa đựng thuộc tính mâu thuẫn, đó là Âm-Dương.
Học thuyết Âm-Dương được thể hiện sâu sắc nhất trong "Kinh Dịch". Tương truyền,
Phục Hy (2852 trước CN) nhìn thấy bức đồ bình trên lưng con long mã(có nhiều sách nói
là con rùa sống lâu năm) trên sông Hoàng Hà mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới
đem lẽ đó vạch thành nét. Đầu tiên vạch một nét liền (-) tức "vạch lề" để làm phù hiệu
cho khí dương và một nét đứt (--) là vạch chẵn để làm phù hiệu cho khí âm. Hai vạch (-),
(--) là hai phù hiệu cổ xưa nhất của người Trung Quốc, nó bao trùm mọi nguyên lý của vũ
trụ, không vật gì không được tạo thành bởi âm dương, không vật gì không được chuyển
hóa bởi âm dương biến đổi cho nhau. Các học giả từ thời thượng cổ đã nhận thấy những
quy luật vận động của tự nhiên bằng trực quan, cảm tính của mình và ký thác những nhận
thức vào hai vạch (--) (-) và tạo nên sức sống cho hai vạch đó. Dịch quan niệm vũ trụ,
vạn vật luôn vận động và biến hóa không ngừng, do sự giao cảm của âm dương mà ra,
đồng thời coi âm dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng cùng tồn tại trong một thể
thống nhất trong mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô, từ một sự vật cụ thể đến toàn thể vũ trụ.
Nếu như sự vận động không ngừng của vũ trụ đã hướng con người tới những nhận
thức sơ khai trong việc cắt nghĩa quá trình phát sinh của vũ trụ và hình thành thuyết ÂmDương, thì ý tưởng tìm hiểu bản thể thế giới, bản thể các hiện tượng trong vũ trụ đã giúp
cho họ hình thành thuyết ngũ hành. Thuyết ngũ hành có thể hiểu đó là thuyết biểu thị quy
luật vận động của thế giới của vũ trụ, nó cụ thể hóa và bổ sung cho thuyết âm dương
thêm hoàn chỉnh.
Sự đề cập đầu tiên về ngũ hành được thấy trong tác phẩm "Kinh thư" ở chương "Hồng
phạm" qua lời "Cổ Tử cáo với Vua Vũ nhà Chu". Trong Cửu trù "Hồng Phạm" thì ngũ
hành về mặt tự nhiên được hình thành bằng những tên của năm loại vật chất cụ thể (kim,

mộc, thủy, hỏa, thổ) và kèm theo tính chất của các loại vật chất đó, năm loại vật chất này
không thể thiếu được đối với đời sống con người. Đứng về mặt thiên thời, "Hồng phạm"
cho rằng có cái gọi là ngữ "kỷ" (một là năm, hai là tháng, ba là ngày, bốn là các vì sao,
2


năm là lịch số). Về hiện tượng xã hội và hiện tượng tinh thần của con người, "Hồng
phạm" đề xuất "ngũ sự" và "ngũ phúc". Ngũ sự như: một là tướng mạo, hai là lời nói, ba
là trông, bốn là nghe, năm là suy nghĩ. Ngũ phúc như: một là thọ, hai là phúc, ba là thông
minh, bốn là hiếu đức, năm là khảo trung mệnh. Qua đó nhận thấy "Hồng phạm" dùng
ngũ hành để liên hệ hiện tượng tự nhiên với hiện tượng xã hội, nhằm thuyết minh thế giới
là một chỉnh thể thống nhất, có trật tự. Trong tư tưởng đó có chứa đựng nhân tố duy vật,
khẳng định ngũ hành là cơ sở của thế giới, tính chất của sự vật đều thể hiện tính năng của
năm loại vật chất: thủy, hỏa, kim, mộc, thổ. "Hồng phạm" đã ảnh hưởng rất lớn đến triết
học của thời đại phong bến sau này. Các nhà duy vật và duy tâm từ những lập trường và
giác độ khác nhau mà rút ra từ "Hồng phạm" những tư tưởng phù hợp với mình. Chính
"Hồng phạm" và "Kinh dịch" đã tạo nên cái nền của vũ trụ luận.
* Thế nào là "Âm dương" ?
Âm và Dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể
mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế
bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có
mầm mống của âm và ngược lại.
* Thuyết Âm-Dương.
Căn cứ nhận xét lâu đời về giới tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hoá
không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và
thiếu dương. Bát quái là càn, đoài, ly, chấn, tốn khảm, cấn, khôn.
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng ức chế lẫn
nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Ðể biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt

ra "thuyết Âm-Dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thế nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm
trong tất cả mọi sự vật. nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và
phát triển của sự vật.
Nói chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng
lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.
.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí. Âm là mé
trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vị.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa
nguônf gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại.Trong âm có mầm mống của
dương, trong dương lại có mầm mống của âm.

3


Theo lý thuyết trong "Kinh Dịch" thì bản nguyên của vũ trụ là thái cực, thái cực là
nguyên nhân đầu tiên, là lý của muôn vật: "Dịch có thái cực sinh ra hai nghi, hai nghi
sinh ra bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ". Như vậy, tác giả của “Kinh Dịch" đã quan
niệm vũ trụ, vạn vật đều có bản thể động. Trong thái cực, thiếu dương vận động đến thái
dương thì trong lòng thái dương lại nảy sinh thiếu âm, thiếu âm vận động đến thái âm thì
trong lòng thái âm lại nảy sinh thiếu dương. Cứ như thế, âm dương biến hoá liên tục, tạo
thành vòng biến hóa không bao giờ ngừng nghỉ. Vì thế, các nhà làm Dịch mới gọi tác
phẩm của mình là "Kinh Dịch”. Ở "Kinh Dịch", âm dương được quan nệm là những mặt,
những hiện tượng đối lập. Như trong tự nhiên: sáng - tối, trời - đất, đông - tây, trong xã
hội: quân tử - tiểu nhân, chồng - vợ, vua - tôi... Qua các hiện tượng tự nhiên, xã hội, các
tác giả trong "Kinh Dịch" đã bước đầu phát hiện được những mặt đối lập tồn tại trong các
hiện tượng đó và khẳng định vật nào cũng ôm chứa âm dương trong nó: "vật vật hữu nhất
thái cực" (vạn vật, vật nào cũng có một thái cực, thái cực là ầm dương). Nhìn chung, toàn
bộ “Kinh dịch” đều lấy âm dương làm nền tảng cho học thuyết của mình.

Vấn đề âm dương trong trời đất, trong vạn vật liên quan tới sự sống con người
được bàn nhiều nhất trong nội dung trao đổi y học, y thuật giữa Hoàng đế và Kỳ Bá qua
tác phẩm "Hoàng đế Nội kinh". Tác phẩm này lấy âm dương để xem xét nguồn gốc của
các tật bệnh. "Âm dương, đó là cái đạo của trời đất, kỷ cương của vạn vật, cha mẹ của sự
biến hóa, gốc ngọn của sự sinh sát, phủ tạng của thần minh, trị bệnh phải cần ở gốc, cho
nên tích luỹ dương làm trời, tích lũy ầm làm đất, âm tĩnh đương động, dương sinh âm
trưởng, dương sát âm tàng, dương hóa khí, âm tàng hình".
Tác phẩm này còn bàn đến tính phổ biến của khái niệm âm dương. Theo tác phẩm
thì trời thuộc dương, đất thuộc âm, mặt trời thuộc dương, mặt trăng thuộc âm. Âm dương
là khái niệm phổ biến của trời đất. Mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều có thể lấy âm
dương làm đại biểu. Thông qua quy luật biến đổi âm dương trong tự nhiên mà cố thể suy
diễn, phân tích luật âm dương trong cơ thể con người.
Từ những quan niệm trên về âm dương, người xưa đã khái quát thành quy luật để
khẳng định tính phổ biến của học thuyết này: Trước hết, âm dương là hai mặt đối lập với
nhau nhưng lại thống nhất với nhau, cùng tồn tại phổ biến trong các sự vật, hiện tượng
của giới tự nhiên. Âm dương đối lập, mâu thuẫn nhau trên nhiều phương diện. Về tính
chất: dương thì cứng, nóng, âm thì mềm, lạnh. Về đường đi lối về: dương là thăng (đi
lên), âm là giáng (đi xuống), "cái này đi ra thì cái kia đi vào, cái này dịch sang bên trái,
thì cái kia dịch sang bên phải".
Âm dương còn đối lập nhau cả ở phương vị nữa. Theo "Nội kinh", khí dương lấy
phía Nam làm phương vị, lấy phía Bắc làm nơi tàng thế. Khí âm lấy phía Bắc làm
phương vị, lấy phía Nam làm nơi tiềm phục. Nếu suy rộng hơn nữa thì phàm những thuộc
4


tính tương đổi như hoạt động với trầm tĩnh, sáng sủa với đen tối, đông - tây, trong xã hội :
quân tử - tiểu nhân, hưng phấn với ức chế, vô hình với hữu hình... chồng - vợ, vua - tôi...
Qua các hiện tượng tự không một cái gì không phải là quan hệ đối nhiên, xã hội, các tác
giả trong "Kinh Dịch" đã lập của âm dương. Do đó, âm dương tuy là bước đầu phát hiện
được những mặt đối lập khái niệm trừu tượng nhưng nó có sẵn cơ sở tồn tại trong các

hiện tượng đó và khẳng định vật chất, nó có thể bao quát và phổ cập tất cả vật nào cũng
ôm chứa âm dương trong nó: các thuộc tính đối lập của mọi sự vật, âm "vật vật hữu nhất
thái cực" (vạn vật, vật nào dương tuỳ đối lập, mâu thuẫn nhau, song cũng có một thái
cực, thái cực là âm dương), không tách biệt nhau mà xâm nhập vào nhau, không phải là
tuyệt đối mà là tương đối, không phải là đại biểu cố định cho một số sự vật nào đó mà là
đại biểu cho sự chuyển biến, đối lập của tất cả các sự vật. Song âm dương không phải là
hai mặt tách rời nhau và chỉ có đấu tranh với nhau mà còn thống nhất với nhau, nương
tựa vào nhau để tồn tại, "âm là cái dương vẫn tìm, mềm là cái dương vẫn lấn".
Trong vũ trụ, cái gì cũng thế, "cô dương thì bất sinh, cô âm thì bất trường". Nếu chỉ
một mình dương hay một mình âm thì không thể sinh thành, biến hóa được. Nếu một mặt
mất đi thì mặt kia cũng mất theo, "dương cô thì âm tuyệt", âm dương phải lấy nhau để
làm tiền đề tồn tại cho mình. Ngay cả cái gọi là âm dương cũng chỉ có ý nghĩa tương đối,
vì trong dương bao giờ cũng có âm, trong âm bao giờ cũng có dương. Khi dương phát
triển đến thái dương thì trong lòng nó đã xuất hiện thiếu dương rồi, khi âm phát triển đến
thái âm thì trong lòng nó đã xuất hiện thiếu âm rồi. Sở dĩ gọi là âm vì trong nó phần âm
lấn phần dương, sở dĩ gọi là dương vì trong nó phần dương lấn phần âm. Âm dương bao
giờ cũng nương tựa vào nhau. Sách Lão Tử viết: "phúc là chỗ núp của họa, họa là chỗ
dựa của phúc”.
Bên cạnh quy luật âm dương đối lập, thống nhất còn có quy luật tiêu trưởng và
thăng bằng của âm dương nhằm nói lên sự vận động không ngừng, sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa hai mặt âm dương để duy trì tình trạng thăng bằng tương đối của sự vật. Nếu
mặt này phát triển thái quá sẽ làm cho mặt khác suy kém và ngược lại. Từ đó làm cho hai
mặt âm dương của sự vật biến động không ngừng. Sự thắng phục, tiêu trưởng của âm
dương theo quy luật "vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản". Sự vận động của hai mặt âm
dương đến mức độ nào đó sẽ chuyển hóa sang nhau gọi là "dương cực sinh âm, âm cực
sinh dương". Sự tác động lẫn nhau giữa âm đương luôn nảy sinh hiện tượng bên này kém,
bên kia hơn, bên này tiến, bên kia lùi. Đó chính là quá trình vãn động, biến hóa và phát
triển của sự vật, đồng thời cũng là quá trình đấu tranh tiêu trưởng của âm dương.
Những quy luật cơ bản của âm dương nói lên sự mâu thuẫn, thống nhất, vận động và
phát triển của một dạng vật chất, âm dương tương tác với nhau gây nên mọi sự biến hóa


5


của vũ trụ. Cốt lõi của sự tương tác đó là sự giao cảm âm dương. Điều kiện của sự giao
cảm đó là sự vật phải trung và "hòa" với nhau. Âm dương giao hòa cảm ứng là vĩnh viễn,
âm dương là hai mặt đối lập trong mọi sự vật, hiện tượng. Vì vậy, quy luật âm dương
cũng là quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển không ngừng của mọi sự vật
khách quan.
* Thế nào là Ngũ hành?
Theo thuyết duy vật cổ đại, tấ cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế giới này
đều do năm yếu tố ban đầu là nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại. Tức năm hành thuỷ, hoả,
thổ, mộc, kim.
Ngũ hành tương sinh:
Ngũ hành sinh: thuộc lẽ thiên nhiên.
Nhờ nước cây xanh mọc lớn lên
(thuỷ sinh mộc).
Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ
(mộc sinh hoả).
Tro tàn tích lại đất vàng thêm
(hoả sinh thổ),
Lòng đất tạo nên kim loại trắng
(thổ sinh kim).
Kim loại vào lò chảy nước đen
(kim sinh thuỷ).
Ngũ hành tương khắc:
Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay.
Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày
(mộc khắc thổ).
Ðất đắp đê cao ngăn nước lũ

(thổ khắc thuỷ).
Nước dội nhiều nhanh dập lửa ngay (thuỷ khắc hoả).
Lửa lò nung chảy đồng sắt thép
(hoả khắc kim).
Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây
(kim khắc mộc).
* Thuyết Ngũ hành.
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu
trong thuyết âmdương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm dương hoàn bị hơn.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ
cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên.Theo tính chất thì :
Thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống.
Hoả là lửa thì bùng cháy, bốc lên.
Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.
6


Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau gọi là
tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện
tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa,
tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Ðem ngũ
hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau.
Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim
sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không
bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng
có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví
dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ.

Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng, giữ
gìn lẫn nhau.
Luật tương khắc:Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong qui luật
tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim
khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái. Trong tình trạng bình thường,
sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm
cho sự biến hoá trở lại khác thường.
Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai quan hệ: Giữa cái thắng nó và cái nó
thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó. Hiện tượng tương khắc
không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và
phát triển.
Luật chế hoa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế hoá
bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau.
Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc. Không có sinh thì
không có đâu mà nảy nở không có khắc thì phát triển quá độ sẽ cóhại. Cần phải có sinh
trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành liên tục, tương phản, tương thành với nhau.
Quy luật chế hoá ngũ hành là: mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc khắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.
7


Luật chế hoá là một khâu trọng yế trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự cân bằngtất
nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ
xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối
liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc.
Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu mộc khắc
thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là kim tất nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như con

báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho
nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh
đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng trong thiên nhiên.
Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả nếu chỉ nhìn nhành mộc
không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả, nhưng nhờ có hoả
mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc mộc. Như vậy mộc sinh con là
hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ
vững cương vị.

8


Ngũ hành

Mộc

Hỏa

4 Mùa

xuân

hạ

4 Phương

đông

nam


Thời tiết

ấm

Màu sắc

Thổ

Kim

Thủy

thu

đông

chính giữa

tây

bắc

nóng

ẩm

mát

lạnh


xanh

đỏ

vàng

trắng

đen

Mùi vị

chua

đắng

ngọt

cay

mặn

Bát quái

ly-cấn

càn-tốn

khảm-đoài


khôn-chấn

Thập Can

giáp-ất

bính-đinh

mậu-kỷ

canh-tân

nhâm-quí

Thập nhị Chi

dần-mão

tỵ-ngọ

thìn-tuất sửumùi

thân-dậu

hợi-tý

Ngũ tạng

gan(can)


tim(tâm)

tỳ

phổi(phế)

thận

Lục phủ

mật(đảm)

ruột non (tiểu
trường)

dạ dày(vị)

ruột già (đại
trường)

bàng quang
(bong bóng)

Ngũ khiếu

mắt

lưỡi

miệng


mũi

tai

Cơ thể

gân

mạch

thịt

da lông

xương

Học thuyết ngũ hành của Đổng Trọng Thư một nho si uyên bác đời Hán có nhiều
điểm khác với tư tưởng của Cơ Tử vả Trâu Diễn. Đi sáu vào hình thái của quy luật ngũ
hành, Đổng Trọng Thư cho rằng: trật tự của ngũ hành bất đầu từ mộc qua hỏa, thổ, kim

9


thủy. Khi phân tích quy luật sinh khắc của ngũ hành, ông đã dựa hẳn vào sự diễn biến của
khí hậu bốn mùa. Theo ông, sở dĩ có sự vận chuyển bốn mùa là do khí âm, dương biến
đổi.
Trong "Kinh Dịch", khi nói về ngũ hành, các nhà toán học và dịch học đã lý giải
nó trên hai hình Hà đồ và Lạc thư. Theo "Kinh Dịch” thì trời lấy số 1 mà sinh thành thủ,
đất lấy số 6 mà làm cho thành, đất lấy số 2 mà sinh hành hỏa, trời lấy số 7 mà làm cho

thành, trời lấy số 3 mà sinh hành mộc, đất lấy số 8 mà làm cho thành, đất lấy số 4 mà
sinh hành kim, trời lấy số 9 mà làm cho thành.
Quan điểm ngũ hành và sự ứng dụng của nó đối với đời sống con người được bàn
nhiều nhất trong tác phẩm "Hoàng đế Nội kinh". Những lời bản trong bộ sách này đã
khẳng định học thuyết ngũ hành có vai trò hết sức quan trọng đối với y học cổ truyền
Trung Quốc.
Mối quan hệ giữa các hành trong ngũ hành được thực hiện qua các quy luật của ngũ
hành.
Ngũ hành tương sinh: sinh có nghĩa là tương tác, nuôi dưỡng, giúp đỡ. Giữa các
hành trong ngũ hành đều có quan hệ nuôi dưỡng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát
sinh và phát triển. Đó gọi là ngũ hành tương sinh. Quan hệ tương sinh của ngũ hành là
mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc.
Ngoài quy luật tương sinh còn có quy luật tương khắc. "Khắc" có nghĩa là chế
ước, ngăn trở, loại trừ. Thứ tự của ngũ hành tương khắc là: mộc khắc thổ, thổ khắc thủy,
thủy khắc hỏa, hoả khắc kim, kim khắc mộc.
Trong ngũ hành tương sinh đồng thời cũng cổ ngũ hành tương khắc, trong tương
khắc cũng ngụ có tương sinh. Đó là quy luật chung về sự vận động, biến hóa của giới tự
nhiên. Nếu chỉ có tương sinh mà không có tương khắc thì không thể giữ gìn được thăng
bằng, có tương khắc mà không có tương sinh thì vạn vạt không thể có sự sinh hóa. Vi
vậy, tương sinh, tương khắc là hai điều kiện không thể thiểu được để duy trì thăng bằng
tương đối của hết thảy mọi sự vật.
Quy luật tương sinh tương khắc là chỉ vào quan hệ của ngũ hành dưới trạng thái
bình thường. Còn nếu giữa ngữ hành với nhau mà sinh ra thiên thịnh hoặc thiên suy,
không thể giữ gìn được thăng bằng, cân đối mà xảy ra trạng thái trái thường thì gọi là
"tương thừa", "tương vũ".
* Mối quan hệ giữa Âm-Dương và Ngũ hành.
Hai học thuyết âm dương ngũ hành được hết hợp làm một từ rất sớm. Nhân vật nổi

10



tiếng nhất trong việc kết hợp hai học thuyết trên là Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ thống lý
luận âm dương ngũ hành "tương khắc, tương sinh" để giải thích mọi vật trong trời đất và
giữa nhân gian. Trâu Diễn là người đầu tiên vận dụng thuyết âm dương ngũ hành vào giải
thích các hiện tượng xã hội nói chung.
Cuối thời Chiến Quốc, đầu thời Tần Hán có hai xu hướng khác nhau bàn về sự kết hợp
giữa thuyết âm dương và thuyết ngũ hành.
Hướng thứ nhất: Đổng Trọng Thư kết hợp âm dương ngũ hành để giải thích các
hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người. Theo ông, giữa con người và tự nhiên có một mối
quan hệ thần bí. Khi giải đáp về khởi nguồn, kết cấu của vũ trụ, ông đã sáng tạo ra một vị
thần có nhân cách đứng trên cả vũ trụ, có ý thức và đạo đức đó là trời. Theo ông, trong vũ
trụ con người là sự sáng tạo đặc biệt của trò vượt lên vạn vật, tương hợp với trời, trời có
bốn mùa, con người có tứ chi. Từ thuyết "thiên nhân hợp nhất", ông đã dẫn dắt ra mệnh
đề "thiên nhân cảm ứng", cho rằng thiên tai là do trời cảnh cáo loài người. Ông còn lợi
dụng quan điểm định mệnh trong học thuyết âm dương ngũ hành để nói rằng "dương
thiên, âm ác". Tuy Đổng Trọng Thư đưa ra phạm trù "khí", "âm dương", "ngũ hành" để
giải thích quy luật biến hóa của thế giới, song ông lại cho rằng những thử khí ấy bi ý chí
của thượng đế chi phối. Triết học của ông có màu sắc mục đích luận rõ nét. Bên cạnh đó
ông còn nói trời không đổi, đạo cũng không đổi để phủ nhận sự phát triển và biến hóa của
thế giới khách quan.
Hướng thứ hai: Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học âm dương
ngũ hành làm hệ thống lý luận của y học. Tác phẩm này đã dùng học thuyết trên để giải
thích mối quan hệ giữa con người với trời đất: coi con người và hoàn cảnh là một khối
thống nhất, con người chẳng qua là cơ năng của trời và đất thu nhỏ lại, con người không
thể tách rời giới tụ nhiên mà sinh sống được, con người với giới tự nhiên là tương ứng.
Tự nhiên có âm dương ngũ hành thì con người có "thủy hỏa" ngũ tạng. Nội kinh viết:
"âm dương là quy luật của trời đất tuy không thấy được nhưng chúng ta có thể hiểu được
nó thông qua sự biểu hiện của thủy hỏa khí huyết, trong đó hỏa khí thuộc dương, thủy
huyết thuộc âm". Tác phẩm này còn dùng các quy luật âm dương ngũ hành để giải thích
mối quan hệ giữa các phú tạng trong cơ thể. Tác phẩm đã vãn dụng sự kết hợp giữa học

thuyết âm dương với học thuyết ngũ hãnh để giải thích các hiện tượng tự nhiên cũng như
các biểu hiện trong cơ thể con người và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đây là
một quan điểm hoàn chỉnh và là một điển hình của phép biện chứng thô sơ.

11


2.2. GIÁ TRỊ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH:
Học thuyết âm dương đã nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách
quan với hai mặt đối lập thống nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ
trụ, là kỉ cương của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng nó sẽ gặp
khó khăn khi lý giải sự biến hóa, phức tạp của vật chất. Khi đó nó phải dùng thuyết ngũ
hành để giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết âm dương với học thuyết ngũ hành mới
có thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lý.
Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách
rời. Muốn nhìn nhận con người một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai
học thuyết âm dương và ngũ hành. Vì học thuyết âm dương mang tính tổng hợp có thể
nói lên được tính đối lập thống nhất, tính thiên lệch và cân bằng của các bộ phận trong cơ
thể con người, còn học thuyết ngũ hành nói lên mối quan hệ phức tạp, nhiều vẻ giữa các
yếu tố, các bộ phận của cơ thể con người và giữa con người với tự nhiên. Có thể khẳng
định, trên cơ bản, âm dương ngũ hành là một khâu hoàn chỉnh, giữa âm dương và ngũ
hành có mối quan hệ không thể tách rời.
2.3. HẠN CHẾ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH

Như vậy, xét trên ba tiêu chí cho một lý thuyết khoa học là: Tính lịch sử, tính nhất
quán và hợp lý trong nội dung, tính phản ánh thực tại khách quan đều không thể thỏa mãn
cho việc Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch có cội nguồn từ văn minh Hán. Cho
đến ngày nay, toàn bộ những di sản của thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc từ cổ
thư chữ Hán vẫn dậm chân tại chỗ và không hề phát triển. Ngay tại Trung Quốc, nơi được
coi là cội nguồn Lý học Đông phương thì chính các học giả Trung Quốc cũng lên tiếng

đòi dep bỏ Đông y, coi Phong thủy chỉ là sự bịp bợm. Sự bế tắc cả hàng ngàn năm trong
bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là một minh
chứng xác đáng tính mơ hồ và không có đủ khả năng phản ánh
……………… một thực tại khách quan trong các bản văn chữ Hán. Nên nó đã bị
phủ nhận bởi chính người Trung Quốc và ngay cả những học giả uyên bác, cũng cho
rằng: Lý học Đông phương chỉ truyền lại bởi trực giác và kinh nghiệm.
Cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch không thuộc về nền văn minh Hoa
Hạ thì nó từ đâu tới?

12


PHẦN III: KẾT LUẬN.
Âm dương ngũ hành là những phạm trù cơ bản trong tư tưởng của người Trung
Quốc cổ đại. Đó cũng là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa để giải thích
sụ sinh thành, biến hóa của vũ trụ. Đến thời Chiến quốc, học thuyết âm dương ngũ hành
đã phát triển đến một trình độ khá cao và trở thành phổ biến trong các lĩnh vực khoa học
tự nhiên. Song học thuyết âm dương ngũ hành cũng như các học thuyết triết học Trung
Quốc cổ đại là thế giới quan của người Trung Hoa ở vào một thời kỳ lịch sử đã lùi vào dĩ
vãng, lúc đó lực lượng sản xuất và khoa học còn ở trình độ thấp, cho nên không khỏi có
những hạn chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định Đặc biệt, sự phát triển của
nó chưa gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện đại, nó còn mang dấu ấn
của tính trực giác và tính kinh nghiệm. Song học thuyết đó đã trang bị cho con người tư
tưởng duy vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở thành lý luận cho một số ngành khoa học
cụ thể.Thuyết âm dương là cốt lõi của nền triết học cổ Đông phương. Nó là động lực của
mọi hiện tượng, mọi vận động trong vũ trụ. Theo cách nói của triết học Tây phương thì
thái cực chính là mâu thuẫn, nó là sự hợp nhất của hai mặt đối lập: dương và âm. Sự đấu
tranh của hai mặt dương âm này làm cho vũ trụ phát triển không ngừng.

13




×