Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

chủ nghĩa mác lê nin “tương tác đơn lẻ và cộng hưởng của cạnh tranh và độc quyền – thực tiễn và giải pháp”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.68 KB, 18 trang )

MỤC LỤC


Tiểu luận NLCBCNM-L II
2/17

I/

PHẦN MỞ ĐẦU:
Suốt thế kỷ XX, sự phát triển của nền sản xuất TBCN đã cho thấy những

giai đoạn phát triển riêng biệt và giữa các ngành khác nhau đều phụ thuộc vào
mối tương tác qua lại của tổng thể các yếu tố trong khuôn khổ thị trường cũng
như chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, một mặt theo xu hướng độc
quyền hóa, mặt khác là xu hướng phá vỡ nó do tác động mạnh mẽ của cạnh
tranh- là biểu hiện cụ thể cho những dự báo của Các Mác và Ăng ghen cũng
như lý thuyết vận dụng sáng tạo từ những nguyên lý của hai vĩ nhân này.
Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý
luận của vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, đặc biệt là nội dung về chủ nghĩa tư bản
độc quyền, em quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Tương tác đơn lẻ và cộng
hưởng của cạnh tranh và độc quyền – thực tiễn và giải pháp”.
Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm hiểu về vấn đề cạnh tranh và độc
quyền, mức độ ảnh hưởng đơn lẻ và cộng hưởng của chúng lên nền kinh tế,
tổng hợp các bài học qua các thời kì độc quyền đầu thế kỉ XIX cho tới những
xu thế biến động ngày nay có thể phần nào đưa ra những giải pháp cho lựa
chọn giữa những xu hướng khác nhau trên thế giới của Nhà nước ta trong thời
đại hội nhập mới, tăng năng lực cạnh tranh giữa các tổ chức doanh nghiệp
trong nước và quốc tế, để đưa ra những kiến nghị hợp lí cho một mơi trường
cạnh tranh lành mạnh và kiểm sốt độc quyền có hiệu quả hơn.
Việc phát triển bài tiểu luận trên sử dụng phương pháp tổng hợp-phân tíchchứng minh và quy chiếu so sánh. Chắc chắn rằng bài viết cịn mắc phải nhiều


thiếu sót, rất mong được nhận ý kiến đóng góp từ cơ giáo và bạn đọc. Em xin
gửi đến cô lời cảm ơn chân thành nhất cho sự hướng dẫn đã giúp em hoàn
thành bài tiểu luận này!
Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
3/17

Hà Nội, tháng 5 năm 2012

II/

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Cạnh tranh là bản chất nội tại của tư bản và độc quyền là cái đối lập của

cạnh tranh. Mâu thuẫn của cạnh tranh là ở chỗ mỗi bên đều muốn giành lấy
độc quyền cho mình trong khi đó, trong xã hội, với tư cách là xã hội, lại phải
mất độc quyền và vì thế phải tiêu diệt độc quyền. Ngay cả khi nhà nước xuất
hiện với tư cách là một nhân tố tích cực thì cạnh tranh và độc quyền vẫn đóng
vai trị quan trọng khơng hề giảm sút.
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1.Cạnh tranh- quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế hàng hóa


Bắt nguồn từ quy luật giá trị, cạnh tranh gắn liền với sự phát triển của sản

xuất hàng hóa và được coi như một nhu cầu của nền sản xuất hàng hóa.
• Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành lấy những lợi
thế tương đối về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa mà bản chất của nó là tìm kiếm

lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình đang có, dẫn
tới kết quả là sự bình qn hóa lợi nhuận trong ngành (nếu là cạnh tranh trong
nội bộ ngành) và san đều giữa các ngành (nếu là cạnh tranh giữa các ngành)
theo chiều hướng cải thiện sâu với hệ quả của nó là giá cả (giá trị thị trường)
có thể giảm đi.
• Vai trò của cạnh tranh:
 Với người sản xuất: Sự cạnh tranh buộc họ phải nâng cao năng lực cạnh tranh,
năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực
nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các
nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ
Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
4/17

chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng
và hiệu quả kinh tế.
 Với người tiêu dùng: Cạnh tranh làm cho họ được hưởng hàng hóa dịch vụ với
hình thức đẹp hơn, giá cả rẻ hơn, chất lượng tốt hơn, xứng đáng hơn
với giá trị họ phải trả cho hàng hóa dịch vụ đó. Hơn nữa, sự đa dạng hóa sản
phẩm do cạnh tranh cũng là lợi ích lớn lao mà người tiêu dùng được hưởng.
 Với nền kinh tế: Cạnh tranh điều tiết cung cầu, tạo đà cho sự phát triển của
khoa học kĩ thuật và của toàn bộ nền kinh tế, giúp phân bổ nguồn lực xã hội
một cách có hiệu quả.
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế hàng hóa, tất yếu
dẫn đến sự tồn tại của người thắng và sự hủy diệt của kẻ thua trong cuộc chiến
gay gắt này, song đó khơng phải sự hủy diệt hồn tồn mà là sự hủy diệt sáng
tạo.
1.2.Độc quyền- Hệ quả tất yếu trong tiến trình phát triển của CNTB

• Độc quyền là một hệ qủa tất yếu của việc tích tụ và tập trung sản xuất phát

triển ở một mức độ nhất định, cái mà được sinh ra từ chính cạnh tranh tự do.
• Độc quyền là việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những điều kiện kinh tế
chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá dịch vụ. Sự thống trị này thường dẫn đến sự trì trệ của sản xuất, sự
lũng đoạn của thị trường, sự khan hiếm những hàng hóa rơi vào nhóm độc
quyền.
• Độc quyền hình thành biểu hiện sự thất bại của thị trường mà ở đó thị trường
bị khống chế, việc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu, nhịp độ tăng trưởng
giảm, khoa học kĩ thuật không được đẩy mạnh do không cần cải tiến sản xuất
doanh nghiệp vẫn thu được mức lợi nhuận cao. Trong một số trường hợp, độc
quyền còn áp đặt lên người tiêu dùng, làm lãng phí các nguồn lực xã hội.

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
5/17
1.3.Mối tương quan giữa cạnh tranh và độc quyền:

 Một sự mâu thuẫn được nhìn nhận ngay trong mối quan hệ biện chứng này:

độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do và độc quyền đối lập với cạnh tranh tự
do. Tuy nhiên, sự đối lập này khơng phủ nhận hồn tồn sự tồn tại của nhau,
sự xuất hiện của độc quyền không hề thủ tiêu sự tồn tại của cạnh tranh mà trái
lại, nó cịn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có tính cơng phá
mạnh mẽ hơn.
Thật vậy, ngồi cạnh tranh giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ, trong chủ
nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện thêm các hình thức cạnh tranh khác: cạnh

tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngồi độc quyền, cạnh
tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau (trong một ngành và giữa các
ngành khác nhau có mối quan hệ về nguồn nguyên liệu, kĩ thuật…), cạnh
tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền để giành tỷ suất lợi nhuận cao hơn
hoặc giành lấy quyền điều hành kiểm soát và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.
 Một mâu thuẫn nữa có thể nhìn thấy là q trình xuất hiện và thống trị trong

đời sống kinh tế của độc quyền dẫn đến hành vi tất yếu là thủ tiêu và loại bỏ
đối thủ để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái sản xuất và hành vi này đã
trở thành xu hướng mạnh mẽ bao trùm đời sống kinh tế bấy giờ. Song, việc
thủ tiêu hoàn toàn sẽ dẫn đến một hệ quả là tỉ suất lợi nhuận của ngành giảm
nên vẫn tồn tại một bộ phận nhỏ các xí nghiệp nhỏ tham gia cạnh tranh.
 Là một động lực thúc đẩy cách mạng khoa học công nghệ phát triển, cạnh
tranh phá vỡ sự ổn định địa vị của tư bản độc quyền, lôi kéo tư bản vào một
cuộc chạy đua cơng nghệ, kích thích cạnh tranh giữa các ngành, phá vỡ thế
độc quyền vốn có.
 Và hơn thế nữa, cạnh tranh có thể tiêu diệt độc quyền bằng việc tung ra các
sản phẩm mới, áp dụng công nghệ mới.

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
6/17

Đến đây, ta nhìn vào thực tế lịch sử đã diễn ra trong nền kinh tế các nước
tư bản
Ba thập kỉ sau chiến tranh thế giới, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa
đã chứng kiến sự mở rộng tương đối nhanh chóng của thị trường và tư bản
lớn, trước hết là tư bản độc quyền, làm tê liệt và suy yếu tác động của các lực

lượng cạnh tranh. Sức mạnh khống chế của độc quyền thường xuất hiện trên
thị trường từ phía người sản xuất có đủ tiềm lực hay các liên minh của họ và
có thể là của nhà nước. Tác động của nó dẫn đến hai mặt: một mặt sự khống
chế có tính chất phá hoại của các thế lực cạnh tranh, mặt khác là sự khống
chế bị chi phối bởi những mục đích ích kỉ của cá thế lực tiến hành nên nó
mang lại trì trệ (kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ và giảm hiệu quả sản
xuất). Song, cuộc cách mạng KHCN trên quy mơ tồn thế giới gắn liền với
q trình quốc tế hóa sâu sắc đã nêu cao một cách rõ rệt vai trị kích thích của
cạnh tranh chứ khơng phải của độc quyền đối với q trình phát triển toàn bộ
nền kinh tế. Tuy nhiên, đặc trưng của cạnh tranh hiện đại đã trở nên phức tạp
và gay gắt hơn do các lực lượng độc quyền tham gia và mở rộng mối quan hệ
quốc tế. Một ví dụ điển hình là cạnh tranh giữa cơng ty ơ tô Mỹ và Nhật Bản:
những năm 80 cho thấy sự cạnh tranh mạnh mẽ của ô tô Honda và Nissan với
giá rẻ, đẹp chiếm 1/3 thị phần ô tô tại Mỹ. Sau nhiều năm suy thối, ơ tơ Mỹ
đã cải tiến công nghệ, cơ cấu lại để hạ thấp giá thành trong định mức lợi
nhuận không đổi và đẩy lùi cạnh tranh của ô tô NB. Song giá mà 2 bên Mĩ và
NB đưa ra không phải giá tự do cạnh tranh mà là giá độc quyền, ở đó, biến
thiên giá là trong mức độc quyền trên cơ sở cạnh tranh. Đến đây ta thấy được
rằng cạnh tranh hiện đại là cạnh tranh mang tính độc quyền.
Đứng ở vị trí người sản xuất, quá tình tìm kiếm lợi nhuận tối đa đã dẫn
tới hai xu hướng:

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
7/17
 Thứ nhất là xu hướng luôn ln hồn thiện mình (giảm chi phí sản xuất, nâng

cao chất lượng sản phẩm…) để tăng cường ưu thế cạnh tranh.

 Thứ hai là xu hướng sử dụng mọi lợi thế để độc quyền hóa.
Hai xu hướng này đại diện cho hai xu hướng hiện nay trên trường quốc
tế:


Một bên là tự do hóa Thương mại Quốc tế để khơi dậy các lực lượng cạnh

tranh quốc tế.
 Mặt khác là độc quyền hóa khu vực, xuất hiện những hình thức co cụm thành
các khối kinh tế liên kết với nhau để ngăn chặn cạnh tranh tự do bằng các biện
pháp bảo hộ.
Đứng trước cánh cửa hội nhập, giữa sự phức tạp của môi trường cạnh
tranh hiện đại cũng như những câu hỏi còn để ngỏ về xu thế biến động và sự
phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, Việt Nam cần làm gì để
trung hịa hai xu hướng trên?

2. THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM:

Từ 1986 nước ta bước sang nền kinh tế thị trường theo hướng XHCN
chịu sự quản lý của Nhà nước. Song, với những doanh nghiệp cịn bỡ ngỡ sau
một thời kì ngủ qn và do cái thế độc quyền mà lịch sử để lại, các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh dường như chỉ biết đến khái niệm cạnh tranh trên
lí thuyết chứ chưa được thấy thực tế cạnh tranh là như thế nào. Điều đó gây ra
lãng phí nguồn lực xã hội, cạnh tranh khơng được coi trọng. Hơn nữa, việc
nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước ta chưa nhất quán,
chưa nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế, vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước nên chưa có quan điểm dứt khốt về ủng hộ cạnh
tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Có thể nhìn thấy điều
Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH



Tiểu luận NLCBCNM-L II
8/17

này trong việc thành lập các tổng công ty 90-91-tập hợp các doanh nghiệp
Nhà nước sản xuất cùng loại sản phẩm lại với nhau, nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên thực tế cho thấy việc hình thành các công ty này đã gây trở
ngại đến môi trường cạnh tranh qua các hoạt động kiến nghị với chính phủ
thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp, lãi suất
ưu đãi để duy trì vị thế độc quyền của mình; thể chế hố những ưu đãi đặc
quyền của mình và đưa ra những quy định bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh
nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh; định ra những sản phẩm mà họ sản xuất
tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người kinh doanh với nhau trên thị trường
(ví dụ: cùng một loại hàng hố dịch vụ tổng cơng ty áp đặt nhiều giá khác
nhau đối với từng loại khách hàng); cạnh tranh trong nội bộ tổng công ty bị
hạn chế, hoạt động trì trệ, ỷ lại gây tốn kém, lãng phí cho xã hội (trường hợp
của Vinashin năm 2009-2010 với con số nợ cao và vụ khởi kiện tại Anh vào
ngày 01/11/2011 bởi khoản nợ 540 triệu đôla khơng có khả năng thanh tốn
trên tổng số 600 triệu đola vay từ công ty Eliiot của Anh). Như vậy với mục
đích chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổng công ty 90 91 đã
không thực hiện được, mà việc thành lập các tổng công ty này đã ảnh hưởng
khơng tốt, thậm chí cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Việt Nam đang từng bước thực hiện lộ trình giá thị trường đối với nhiều
hàng hóa đầu vào quan trọng của nền kinh tế. Tuy nhiên, khi lộ trình thị
trường đang được thực hiện một cách mạnh mẽ thì cơ chế kiểm sốt chưa đủ
mạnh, yếu tố độc quyền chưa được xóa bỏ, cạnh tranh chưa được tạo lập thì
việc kiểm sốt và bình ổn giá cả càng trở nên khó khăn.
Mới đây, Chính phủ đã quyết định việc điều chỉnh giá điện theo cơ chế
thị trường. Theo quy định, 3 thông số đầu vào cơ bản của ngành điện (tỷ giá,


Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
9/17

giá nhiên liệu, cơ cấu nguồn phát) phải biến động lớn, từ 5% trở lên, thì chúng
ta mới được điều chỉnh giá điện. Việc thực hiện cơ chế này nhằm xóa bỏ dần
bao cấp, hình thành giá điện trên cơ sở thị trường, từ đó thúc đẩy phát triển
ngành, cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên, nhiên việc điều
chỉnh giá điện theo cơ chế thị trường cũng được yêu cầu thực hiện minh bạch,
cơng khai các yếu tố hình thành giá điện. Thực tế, việc thực hiện giá thị
trường đã được thực hiện với một mặt hàng quan trọng khác là xăng dầu, và
lần này là điện, với một cơ chế về cơ bản giống nhau. Đó là khi các yếu tố đầu
vào tăng nhất định thì doanh nghiệp được quyền chủ động điều chỉnh giá và
báo cáo cơ quan quản lý để được chấp thuận và thực hiện giám sát.
Tuy nhiên, một điều đáng chú ý là việc thực hiện giá thị trường đối với
các mặt hàng này đều dựa trên một thực tế: các yếu tố thị trường chưa được
hình thành đầy đủ. Cụ thể, độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước vẫn chi
phối, các quy định về công khai và minh bạch chưa đảm bảo, nhất là yếu tố
cạnh tranh chưa thực sự hình thành. Vì thế, việc đảm bảo giá hợp lý và kiểm
sốt giá trơng chờ hoàn toàn vào sự chủ động của doanh nghiệp và kiểm sốt
hành chính của cơ quan nhà nước.
Khẳng định thị trường hóa giá cả là hướng đi tất yếu, tuy nhiên với thực
tế như trên thì điều lo ngại nhất không chỉ với giá điện mà cả với xăng dầu,
than và nhiều mặt hàng khác. Chẳng hạn, trong ngành thuốc tân dược, thị
trường dược phẩm Việt Nam có tới 60% thuốc nhập khẩu và giá cả khá tùy
tiện. Cơ chế độc quyền trong phân phối thuốc đã tạo cho các hãng dược phẩm
có quyền chi phối giá cả đối với sản phẩm, một sản phẩm thuốc đến được với

người tiêu dùng phải qua hàng loạt khâu trung gian, qua mỗi khâu giá lại
nhích lên để mang lợi nhuận cho người cung cấp. Chưa kể, nhiều loại thuốc do
liên kết phân phối độc quyền nên hãng phân phối đưa ra mức giá quá cao,

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
10/17

cùng hàng loạt chi phí nhưng người bệnh khơng cịn lựa chọn nào khác bởi
đặc thù "cứu người là tất cả". Trong khi đó, do cơng nghệ sản xuất dược phẩm
nước ta còn chưa phát triển nên các doanh nghiệp vẫn sản xuất các loại thuốc
thông thường, chưa sản xuất các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị. Lượng thuốc
sản xuất trong nước hiện chỉ đáp ứng được gần nửa nhu cầu sử dụng (48,3%).
Đó là, một khi, chưa có và chưa thể có cạnh tranh trong từng ngành thì sao có
thể có “cơ chế thị trường” - một lo ngại có cơ sở khi đứng đầu và chi phối các
thị trường này vẫn là những tập đoàn nhà nước. Các thành phần khác có tham
gia nhưng chưa thể là lực lượng đáng kể để làm trở thành nhân tố cạnh tranh.
Bên cạnh đó, với lợi thế hạ tầng và các quy định từ nhà nước, trong quan
hệ mua bán, người dân là khách hàng chưa bao giờ có quyền được lựa chọn.
Dù muốn hay khơng, doanh nghiệp vẫn là người duy nhất bán và khách hàng
buộc phải mua (thực tế là dù có 11 doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu nhưng
khơng có tính cạnh tranh, tất cả chỉ là "phụ họa" cho Petrolimex). Vì thế, dù
xăng dầu đã thực hiện cơ chế thị trường hay tới đây là điện ln được u cầu
minh bạch và tìm mọi cách để giảm giá bán, nhưng với thực tế hiện nay thì cơ
chế giá thị trường với việc trao quyền quyết định giá về cho doanh nghiệp đã
làm nảy sinh lo ngại có sự “bng lỏng” quản lý để cho doanh nghiệp có thể
tự tăng giá theo ý mình.
Khi vẫn cịn sự kiểm sốt của nhà nước, các doanh nghiệp đã biến độc

quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp để thu lợi và tạo vị thế riêng
cho mình. Điều đó được nhận thấy từ những lợi ích lớn đến những hành vi và
thái độ của nhỏ của những doanh nghiệp này. Đến nay, vẫn độc quyền đó,
nhưng các doanh nghiệp lại được giao quyền lớn hơn và vì thế lo ngại cũng
lớn hơn( ví dụ như những hiện tượng nâng giá đầu vào, tăng giá đầu ra không
hợp lý của một số hàng hóa, dịch vụ làm giảm khả năng cạnh tranh; hiện

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
11/17

tượng lợi dụng sự biến động của giá thị trường, chủ trương điều chỉnh giá của
Nhà nước để tăng giá khơng hợp lý chưa được kiểm sốt tốt). Vì quyền thị
trường cho doanh nghiệp đã mở, nhưng những cơ chế kiểm soát thị trường,
mà quan trọng nhất là yếu tố cạnh tranh và sức ép từ quyền lựa chọn, quyền
từ chối của khách hàng vẫn không thay đổi thì điều dễ tưởng tượng là khách
hàng vẫn thua thiệt.
Một thực tế khác là trong một số lĩnh vực dù thị trường phát triển rầm rộ,
doanh nghiệp lớn nhỏ đa dạng nhưng thỉnh thoảng vẫn lặp lại hiện tượng độc
quyền thao túng giá như sắt thép, xi măng (khi giá thế giới có xu hướng tăng
cao). Ngay lĩnh vực lúa gạo dồi dào như vậy nhưng không phải không xảy ra
thao túng, điển hình là sự kiện giá gạo tăng đột biến vào tháng 4-2008. Hay
hiện nay là giá thịt lợn chỉ sau thời gian ngắn đã tăng gấp đôi. Cơ quan chức
năng lý giải hiện tượng này do tình hình chăn ni lợn manh mún, nhỏ lẻ nên
giá tăng cao. Tuy nhiên lý giải này khó thuyết phục bởi tính chất manh mún,
nhỏ lẻ đã tồn tại bao đời nay, là đặc điểm ngành chăn nuôi Việt Nam, nhưng
tại sao chỉ thời điểm này giá mới đột biến (trong khi trước đây qua nhiều đợt
dịch, giá vẫn không nhiều biến động)?

Tuy nhiên, cũng nên nhận thấy rằng từ việc nói và làm để tăng cường
cạnh tranh xóa bỏ độc quyền là cả một chặng đường dài, có thể thấy qua sự
việc của công ty cung cấp nhiên liệu hàng không Vinapco năm 2008,2009.
Công ty này đã bị xử kiện với mức phạt 3378 tỷ đồng do có hành vi được cáo
lên Hội đồng cạnh tranh quốc gia là áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng
(JPA); lạm dụng vị trí độc quyền, đơn phương ngừng cung cấp nhiên liệu
trong khi khách hàng khơng có sự lựa chọn nào khác. Phán quyết là có cơ sở
song chưa xét đến nguyên nhân vụ việc. Đây là một sự kiện hy hữu trong
ngành hàng không mà do nguyên nhân từ trước đó bởi Vinapco khẳng định đã

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
12/17

nhiều lần có cơng văn thơng báo địi hàng tỷ đồng tiền nợ, tăng giá phí cung
ứng nhiên liệu xăng dầu... nhưng Jetstar Pacific vẫn chưa chịu trả và cũng
không đồng ý thực hiện giá do Vinapco đề xuất, mặc dầu vẫn cho rằng
Vinapco tăng phí là hợp lí. Hơn nữa,xét về mặt hàng kinh doanh, dù là độc
quyền song nhờ sự độc quyền này mà sự cung ứng xăng dầu cho các sân bay
địa phương xa xơi trên tồn quốc khơng bị trở ngại. Được biết mặt hàng JetA1 lại rất khó khăn trong cơng tác bảo quản, nó có quy định về thời gian bảo
quản, rồi cơng tác kiểm tra đảm bảo an tồn các tiêu chuẩn hóa lý của xăng
dầu HK...Trước đây, hãng Shell cũng đã từng có dự định kinh doanh Jet-A1
nhưng do thị trường này quá nhỏ, hiện tiêu thụ khoảng nửa triệu tấn JetA1/năm và các sân bay lại xa cảng biển, chi phí vận chuyển lớn nên họ đã thơi
khơng tham gia thị trường. Đây là vụ đầu tiên xử theo Luật cạnh tranh nhưng
ý nghĩa thắng hay thua của Vinapco không hẳn quan trọng bằng cách đưa Luật
cạnh tranh vào thực tiễn cuộc sống đã có sức thuyết phục các doanh nghiệp
hay chưa?
Việc xóa độc quyền kinh doanh là cần thiết nhưng xóa như thế nào cho

phù hợp với thực tế hiện nay để doanh nghiệp không thường trực nguy cơ bị
vi phạm Luật cạnh tranh là điều cần bàn khơng những cho Vinapco mà cịn
nhiều doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực điện lực, hàng không, viễn
thông...Điều cần trước hết là phải có đầy đủ một hành lang pháp lý và có nên
chăng giải pháp nào phù hợp để chống độc quyền kinh doanh nhằm tạo sức
sống lành mạnh cho nền kinh tế thị trường non trẻ Việt Nam?
3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CẠNH TRANH VÀ KIỂM SỐT GÍA

THỊ TRƯỜNG KIỂU ĐỘC QUYỀN NHƯ HIỆN NAY

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
13/17

"Độc quyền là do chúng ta xây dựng nên khi chúng ta vận hành một
nền kinh tế đóng. Cịn bây giờ đã đến lúc hội nhập, cạnh tranh, bắt buộc
phải phá bỏ độc quyền".
Bộ trưởng
Hoàng Trung Hải
Đi cùng với giá cả theo cơ chế thị trường thì điều kiện cần và đủ là thiết
kế thị trường đã hồn chỉnh, xóa bỏ độc quyền chi phối và tăng cường cạnh
tranh - đây là những yêu cầu tiên quyết. Mà để làm điều đó phải cải cách và
đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới nhận thức, thực tế hóa Luật kinh
doanh, cơ cấu lại tổ chức kinh tế để phù hợp hơn với thời đại canh tranh và
mở cửa.
Chính phủ cần quan tâm hơn đến những lĩnh vực độc quyền tự nhiên.
Tuy nhiên một số lưu ý rằng



Có ít lĩnh vực độc quyền tự nhiên hơn nhiều so với người ta từng nghĩ. Ví dụ
ngành đường sắt vẫn được nhiều người coi là lĩnh vực độc quyền tự nhiên,
một ngành mà ở nhiều nước cần phải có sự kiểm sốt chặt của chính phủ,
nhưng quyền lợi của những người gửi hàng lại được bảo vệ tốt hơn nhờ sự
cạnh tranh của các hãng vận tải đường bộ và đường thuỷ hơn là nhờ sự kiểm

sốt của chính phủ.
 Ðối với những lĩnh vực tiếp tục cần phải có sự kiểm sốt, chúng ta thấy rằng
sự kiểm sốt này giờ đã đỡ mang tính can thiệp thơ bạo và đỡ đắt đỏ hơn
nhiều so với trước mà vẫn vảo vệ được cơng chúng khỏi bị lạm dụng độc
quyền.
Nhìn ra các nước có cơ cấu kinh tế độc quyền cạnh tranh gần giống
nước ta. Có lẽ Costa Rica sẽ khơng bao giờ có ba nhà sản xuất thép độc lập,
hay Croatia khơng bao giờ có ba hãng truyền hình độc lập. Tuy nhiên đối với
Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
14/17

nhiều sản phẩm, hàng nhập khẩu có thể tạo cho người mua nhiều lựa chọn và
ngăn không cho các "nhà độc quyền" địa phương được tận dụng vị thế của
mình. Ðặc biệt đối với nhiều nước nhỏ, đơi khi thương mại tự do là chính sách
cạnh tranh tốt nhất. (Tuy nhiên cũng cần nhớ rằng đối với một số sản phẩm,
hàng nhập khẩu có thể là một hình thức cạnh tranh hiệu quả, trong khi đối với
những sản phẩm khác, các cơ quan điều tiết của chính phủ có thể phải đề
phịng hành động của các doanh nghiệp địa phương đặt các nhà nhập khẩu
cạnh tranh vào thế bất lợi).
Một ví dụ tương tự của một nước nhưng về vấn đề cơ sở pháp lý là luật

cạnh tranh của Rumani, trong đó điều 5 nghiêm cấm các thoả thuận mà ảnh
hưởng của nó là "hạn chế, ngăn chặn hoặc bóp méo cạnh tranh". Ðiều 13
nghiêm cấm các vụ sát nhập "gây hại hoặc có thể gây hại cho cạnh tranh thông
qua việc tạo dựng hoặc củng cố vị trí thống trị" . Ðiều 6 nghiêm cấm mọi hành
động sử dụng vị trí thống trị sai mục đích... bằng cách phải dùng đến những
hành động chống cạnh tranh, bóp méo thương mại hoặc tạo nên sự thành kiến
cho người tiêu dùng, dù đấy là mục tiêu hay ảnh hưởng của hành động đó.
Nhìn lại vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chúng ta đã có Luật cạnh
tranh, song qua ví dụ của Vinapco, ta cần phải rút kinh nghiệm về việc học tập
những Luật cạnh tranh của các nước mà khơng có sự phù hợp với thực tiễn
nước ta hiện nay. Có thể nói kiểm sốt độc quyền là biện pháp các nước trên
thế giới đều áp dụng, với các biện pháp như quy định giá cụ thể, giá tối đa, giá
tối thiểu, khung giá. Những khắt khe trong cơ chế luật pháp sẽ tạo chuyển biến
nhất định, tuy nhiên không nên quá kỳ vọng vào sự đột biến khi các yếu tố
khác chưa được tháo bỏ nhất là trong nền kinh tế còn chưa vững vàng như
hiện nay thì việc xây dựng các cơ chế điều tiết quản lý đúng đắn, một hành
lang pháp lý đầy đủ thiết thực và phù hợp là vô cùng cần thiết. Một số giải

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
15/17

pháp khác không kém phần quan trọng là với tư cách quản lý cao cấp nhất của
nền kinh tế, nhà nước cần phân bổ lại nguồn lực kinh tế, cơ cấu lại các tổ chức
nhàn nước sẵn có, cải thiện phân phối thu nhập, thành lập các hiệp hội bảo vệ
người tiêu dùng song song với Hội đồng cạnh tranh quốc gia và các hiệp hội
chống độc quyền, khuyến khích doanh nghiệp tham gia phối hợp các chương
trình kinh tế vĩ mơ với các đối tác nước ngồi để tăng tính cạnh tranh với các

tập đồn kinh tế trong nước, áp dụng các chính sách thuế và tiền tệ, giảm lợi
thế hỗ trợ cho các doanh nghiệp độc quyền, xác định mức độ độc quyền kèm
theo mục tiêu hỗ trợ phúc lợi xã hội cho các ngành độc quyền tự nhiên.
Cụ thể hơn, trong ngành thuốc tân dược, theo khẳng định của nhiều
chuyên gia, muốn quản lý minh bạch giá thuốc, chống thao túng, độc quyền
thì nên mời các chuyên gia độc lập tham gia xây dựng giá trần, chuyển quản lý
giá thuốc sang Bộ Tài chính, nghiên cứu việc đấu thầu thuốc tập trung, triển
khai thí điểm trước tại một số tỉnh. Xét trong ngành điện trong khi EVN vẫn
nắm giữ hệ thống phân phối và áp đặt mức giá chung thì vẫn chưa thể phát
huy tác dụng cuả cạnh tranh. Do đó, các nhà máy điện bán điện cần lên 1 hệ
thống chung theo giá cạnh tranh, giá do thị trường quyết định,sau đó tạo ra thị
trường điện lực cạnh tranh ở khâu phân phối, lúc này các nhà bán buôn điện sẽ
phải cạnh tranh với nhau, cuối cùng là tạo ra thị trường điện lực cạnh tranh ở
khâu bán lẻ. Đến đây, người tiêu dùng được lựa chọn.
Xét cho cùng thì phải xố bỏ mọi ưu đãi đối với những tập đoàn kinh tế
nhà nước như vốn và quyền lợi. Phải đảm bảo công bằng giữa mọi thành
phần kinh tế. Nhà nước cần phải nhận ra tác động tích cực của kinh tế thị
trường. Một ví dụ trong lĩnh vực viễn thơng, khoảng 8 năm về trước cước phí
một phút gọi điện thoại di động lên đến gần 10 ngàn VND. Từ khi xoá bỏ độc
quyền cung cấp mạng viễn thông, nhiều hãng nhảy vào kinh doanh làm cho

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
16/17

giá cước giảm đi rõ rệt. Khi đó nó đã đem lại những tác động rất tốt đến
nhiều mặt của xã hội. Biết là thế nhưng không làm. Do đâu? Liệu có phải do
chỉ một chữ duy nhất là .....''kiên định''? Nếu khơng ''kiên định'' thì liệu Việt

Nam có giống xã hội Mỹ, châu Âu khơng?

III/ LỜI KẾT:
Khả năng cạnh tranh là một cuộc chạy đua trường kỳ, chứ không phải là
một cuộc chạy nước rút. Ở các nước tồn tại nền kinh tế thị trường hàng thập
kỷ nay, sở dĩ thị trường lành mạnh, năng động, phát triển mạnh là nhờ cạnh
tranh. Độc quyền là giết chết cạnh tranh. Đã đến lúc nên “giải phẫu” tính cạnh
tranh trong mơi trường kinh doanh của nước ta, tìm ra những trở lực đang kìm
hãm việc tạo ra mơi trường cạnh tranh bình đẳng. Hiểu được mối quan hệ biện
chứng giữa cạnh tranh và độc quyền, việc đặt các doanh nghiệp Nhà nước vào
môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng theo pháp luật, khơng chỉ làm cho
khu vực kinh tế Nhà nước mạnh lên mà còn khiến cho toàn bộ nền kinh tế
phát triển vững mạnh trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, một câu hỏi sẽ phải đặt ra dù nó
khơng hề mới: Bao giờ mới hết độc quyền

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH


Tiểu luận NLCBCNM-L II
17/17

Tài liệu tham khảo:
 Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
 Sách Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập II : Những thay đổi trong tổ

chức quản lý kinh tế NXB CTQG
 Thông tin xã hội khoa học tháng 4/2010
 PGS. TS. Nguyễn Đình Kháng. Những nhận thức kinh tế chính trị


trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam. Nxb CTQG 2000.
 CD Lênin tồn tập
 Tạp chí kinh tế đối ngoại
 /> /> CHÍNH SÁCH CẠNH

TRANH VÀ CHỐNG ÐỘC QUYỀN QUỐC TẾ

Sv: Khúc Thị Nga_A12TCNH



×