Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Đề án giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng các ngân hàng thuơng mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.49 KB, 88 trang )

Đề án giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng các ngân hàng thuơng mại ở việt
nam

Phần mở đầu1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Trong cơ chế thị trường hệ
thống Ngân hàng được chia làm 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đảm bảo
chức năng quản lý vĩ mô và các Ngân hàng Thương mại (NHTM) thực hiện kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ, Tín dụng.NHTM hoạt động kinh doanh độc lập trên cơ
sở hạch toán lỗ lãi.
“Lời ăn lỗ chịu”, nguồn vốn kinh doanh của NHTM không phải do Nhà nước cấp
mà phải tự huy động vốn từ các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, tiến
hành các hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận bù đắp chi phí đầu vào, với
nguyên tắc phù hợp với các chế độ chính sách kinh tế - xã hội hiện hành của Nhà
nước.Hoạt động Tín dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất,mang lại lợi
nhuận cao nhất cho NHTM.Nó được thực hiện trên cơ sở tính toán các khối lượng
nguồn vốn mà các Ngân hàng huy động có thể sử dụng cho vay và nhu cầu về vốn
tín dụng trong xã hội.Các khoản tín dụng NHTM cấp ra phải đảm bảo được hiệu
quả kinh tế là thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn.
Cũng như các doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh
của các NHTM chịu sự chi phối của các quy luật khách quan và chủ quan, trong đó
có quy luật cạnh tranh. Chúng ta biết rằng không một loại hình kinh doanh nào mà
lại gắn nhiều rủi ro như hoạt động Ngân hàng: Như rủi ro Tín dụng, Thanh toán, lãi
suất, hối đoái…Trong đó rủi ro Tín dụng là rủi ro mà hậu quả do nó gây ra có thể
tác động nặng nề đến hoạt động kinh doanh khác,thậm chí đe dọa sự tồn tại của
NHTM.
Rủi ro trong hoạt động Tín dụng NHTM xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho
khách hàng, không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với Ngân hàng
vào thời điểm đáo hạn. Các khoản nợ đến hạn nhưng khách hàng không có khả
năng trả ngay cho Ngân hàng sẽ thuộc về một trong hai trường hợp: khách hàng sẽ
trả nợ cho Ngân hàng sau thời gian kể từ thời điểm đáo hạn như vậy Ngân hàng sẽ
gắn rủi ro đọng vốn, hoặc khách hàng hoàn toàn không có khả năng trả nợ cho
Ngân hàng trường hợp này Ngân hàng gặp rủi ro mất vốn.




Từ những phân tích trên ta nhận thấy rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng là điều
không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro Tín dụng. Vì muốn giảm rủi ro trong
hoạt động Tín dụng trước hết ta cần có các phòng ngừa, hạn chế khả năng xuất
hiện nợ quá hạn.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với sự cần thiết phải tìm hiểu của sinh viên
nghành TCNH em đã chọn đề tài “ Các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng ở các ngân hàng”. Em hi vọng sẽ học hỏi được thêm nhiều kinh nghiệm quý
báu từ thầy cô và bạn bè,đồng thời làm sáng tỏ phần lý luận được bổ xung ở Nhà
trường.

2. Kết cấu

Ngoài Phần mở đầu và Phần kết luận, đề tài được bố cục thành 3 phần sau đây :
Phần I : Những vấn đề lý luận về rủi ro Tín Dụng
Phần II : Các loại Rủi Ro Tín Dụng
Phần III : Nhận xét, đánh giá và đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện đề tài.

Đây là 1 bài viết của sinh viên nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót.Em mong muốn sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn bè và quý thầy
cô.Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong khoa kinh
tế chuyên ngành Tài chính ngân hàng, và nhất là cô Đặng Thị Hải Lý đã tận tình
hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.

Phần I : Những vấn đề lý luận về rủi ro Tín Dụng1.1 : Ngân hàng thương mại và
hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại1.1.1 Khái niệm,chức năng, vai trò
của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát
triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển



hệ thống ngân hàng thương mại ( NHTM ) đã có tác động rất lớn và quan trọng
đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát
triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng
ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu
được.Trên thế giới, khái niệm về NHTM ở các quốc gia không hoàn toàn như
nhau. Tuy nhiên nhìn chung các định nghĩa về NHTM đều được phát biểu dựa trên
tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động của nó. Chẳng hạn:
Ở Mỹ : Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch
vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại
là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức ký thác,
hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các
nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại : Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính
mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ
của xã hội.Về cơ bản NHTM có tính chất hoạt động tương tự nhưng nhiều loại
hình tài chính khác với tư cách là những trung gian tài chính( những tổ chức thực
hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu) . Điểm phân
biệt quan trọng giữa NHTM với các loại hình trung gian tài chính phi ngân hàng
hoặc các ngân hàng đầu tư là ở chỗ NHTM là trung gian tài chính được Nhà Nước
cho phép chuyên cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế như: nhận tiền
gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và một số

hoạt động ngân hàng khác có liên quan.
* Chức năng của Ngân hàng thương mại


Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM đảm nhận một số chức năng sau :
- chức năng trung gian tín dụng :là chức năng chủ yếu và quan trọng của ngân
hàng. Ngân hàng đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, nó tạo
cho người gửi có được khoản thu nhập thông qua lãi suất với mức độ an toàn và
mức độ thanh khoản cao. Với số vốn huy động được ngân hàng đáp ứng nhu cầu
vay vốn của khách hàng đáng tin cậy. Các ngân hàng luôn tìm kiếm cơ hội để cho
vay, coi đó là nhu cầu chủ yếu trong việc duy trì và mở rộng chức năng hoạt động
của mình. Qua chức năng này các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội
của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng tài trợ cho
các ngành, các thành phần kinh tế của đất nước làm ăn có hiệu quả, từ đó góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển
+ Đối với doanh nghiệp: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn
vay tạo cho họ có khả năng để đầu tư công nghệ, mua sắm vật tư, máy móc, thuê
nhân công… từ đó nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu và lợi
nhuận.
+ Đối với hộ sản xuất : Nhờ được vay vốn mà họ có thể có đủ máy móc công cụ,
nguyên nghiên vật liệu, hạt giống, phân bón, chuồng trại, thức ăn chăn nuôi, các
nhu cầu cần thiết khác cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, khai thác tiềm năng
kinh tế, kiếm được nhiều lợi nhuận.
+ Các cửa hàng bán buôn, bán lẻ : Nhờ có vốn vay từ ngân hàng sẽ góp phần thúc
đẩy nhanh việc lưu thông hàng hóa từ người sản xuất tới người tiêu dùng.
+ Thông qua việc cấp tín dụng, các NHTM góp phần thực hiện chính sách kinh tế
vĩ mô là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện điều chỉnh nền kinh tế, điều hòa lưu
thông tiền tệ như cho vay tiêu dùng để kích cầu cho nền kinh tế đó là việc cho vay
mua sắm nhà cửa, xe cộ,………
- Chức năng trung gian thanh toán: Là một chức năng quan trọng để ngân hàng

thực hiện một số hoạt động. Ở các nước đang phát triển, công tác thanh toán của
ngân hàng được thực hiện thông qua séc, phần lớn séc thanh toán trong nước được
thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua NHTM. Việc phát hành séc để rút tiền
từ tài khoản tiền gửi và ký thác trong cùng một ngân hàng đơn thuần chỉ là sự
chuyển đổi vốn từ tài khoản này sang một tài khoản khác tại ngân hàng đó. Đương


nhiên quá trình này sẽ trở lên phức tạp tốn thời gian, tăng chi phí giao dịch khi việc
thanh toán bù trừ lại diễn ra giữa các ngân hàng thuộc các địa bàn khác nhau, khác
hệ thống lại trở lên dễ dàng và phổ biến.
Hiện nay, các NHTM thế giới và cả ở Việt Nam đã hiện đại hóa các công nghệ
ngân hàng như các chương trình phần mềm máy vi tính và các phương tiện kỹ
thuật hiện đại khác như thanh toán chuyển tiền qua máy tính, chuyển tiền điện tử,
thẻ tín dụng, máy giao dịch tự động có khả năng rút và gửi tiền ATM, thẻ thanh
toán…Thẻ tín dụng ATM giúp người ta có thể rút tiền từ một tài khoản nhất định
thực hiện ký thác, thanh toán công nợ. Việc sử dụng những công nghệ ngân hàng
như thế sẽ khiến các giao dịch nhanh hơn, chính xác hơn và an toàn hơn.
- Chức năng tạo tiền : Người ta cho rằng: “ Một trong những chức năng chủ yếu
của các NHTM là tạo và hủy tiền “. Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, các NHTM
không thể không quan tâm nó như một yêu cầu cho chính ngay sự tồn tại và phát
triển của mình là tạo tiền. Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động
tín dụng, đầu tư trong mối liên hệ chặt chẽ với Ngân hàng trung ương của mỗi
nước. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM
là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian
tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra
lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để
mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm
tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,

chi trả của xã hội.
Ngoài ra các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện những mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Việc cung ứng tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế thông qua hoạt động tín dụng của NHTM. Ngân hàng trung ương có
thể sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền tăng hoặc giảm trong lưu thông cho
phu hợp với chính sách tiền tệ quốc gia.
* Vai trò của các Ngân hàng thương mại


Trong nền kinh tế thị trường vai trò của các NHTM là vô cùng to lớn, nó tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả hơn.
Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế thị
trường: tại sao lại nói như vậy? chúng ta hãy hình dung một thế giới giản đơn trong
đó không tồn tại hoạt động của hệ thống ngân hàng thì những khoản tiền tiết kiệm
của dân chúng chỉ có thể được sử dụng hoặc là dưới dạng tiền mặt hoặc là dưới
dạng đầu tư chứng khoán công ty, vàng hay bất động sản…tuy nhiên do giám sát
các hoạt động của các công ty là rất cao và rủi ro do biến động giá cả chứng khoán
trên thị trường chứng khoán luôn làm nản lòng những người muốn đầu tư, quy mô
số lượng và chất lượng các dòng tiền từ những người tiết kiệm chuyển đến các
công ty nhìn chung là thấp hoặc đó là những giao dịch mang tính nhỏ lẻ. Do những
nguyên nhân trên khiến cho dân chúng: một là giảm tiết kiệm tăng tiêu dùng, hai là
tiết kiệm đưa vào dự trữ dạng tiền mặt “ nằm chăn trong gối “. Hiện nay trong nền
kinh tế thị trường NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi, tạm thời nhàn
rỗi trong dân cư, thông qua hoạt động tín dụng NHTM đã cung cấp vốn cho mọi
hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất và
tái sản xuất.
Nhờ có hoạt động tín dụng của NHTM mà các doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân
có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động,
lợi nhuận thu được ngày càng cao từ đó tăng nhanh quá trình tích lũy, tiết kiệm,sự
phát triển của nền kinh tế.

Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật
cạnh tranh, quy luật cung cầu… hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở đáp ứng,
thỏa mãn nhu cầu thị trường trên các phương tiện như giá cả, khối lượng, chất
lượng, chủng loại hàng hóa, thời gian, địa điểm. Hoạt động của các doanh nghiệp
phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo quy định chung của thị trường thì mới đảm
bảo đứng vững trong cạnh tranh. Để đáp ứng tốt các nhu cầu thị trường thì doanh
nghiệp cần nâng cao chất lượng lao động, không ngừng cải tiến máy móc, công
nghệ, hoàn thiện cơ chế quản lý… Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng
vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết


khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn thỏa mãn nhu
cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa
doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cấp cho doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá
trình sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, đứng
vững trong cạnh tranh.
Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế :
Các NHTM là đối tượng và đồng thời là trung gian thực hiện chính sách tiền tệ,
chính sách kinh tế quốc gia. Thông qua hệ thống của mình, bằng hoạt động tín
dụng và thanh toán dưới sự tác động của ngân hàng trung ương, các NHTM đã góp
phần mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền tệ cung ứng trong lưu thông, để ổn
định giá trị đồng tiền. Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại thực
hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, thu hút
vốn nước ngoài để tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời trên cơ sở mở
rộng sản xuất phát triển ngành nghề, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động,
góp phần thực hiện các mục tiêu và chính sách xã hội của nhà nước.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính

quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa là tất
yếu, nó ngày càng trở lên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu
thành nên sự phát triển đó. NHTM cùng với hoạt động kinh doanh của mình, đóng
vai trò quan trọng trong sự hòa nhập kinh tế khu vực và thế giới. Với các nghiệp vụ
kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tài trợ ngoại
thương, bảo lãnh…NHTM tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương phát triển, đưa các
tập quán, luật pháp, trình độ kinh doanh…xích lại gần nhau từ đó điều tiết nền tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
Tóm lại, NHTM có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển kinh tế, đặc biệt là
trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh, xu thế toàn cầu hóa hội nhập ngày
càng mạnh mẽ. Những rủi ro sẽ dẫn đến đổ vỡ NHTM mang tính hệ thống, lây lan
dây chuyền có ảnh hưởng sâu rộng và nghiêm trọng tới niềm tin, đời sống kinh tế chính trị - xã hội không những của một quốc gia mà còn cả khu vực và trên thế


giới. Do đó một trong những mục tiêu quản trị cơ bản, có tính chất thường xuyên
và lâu dài của bất kì một NHTM nào cũng phải hạn chế đến mức tối đa rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của mình nhất là hoạt động tín dụng, nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
1.1.2 Tín dụng và vai trò của Tín dụng ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM1.1.2.1 khái niệm, phân loại tín dụng : Thuật ngữ “ tín dụng ” xuất phát từ
gốc la tinh “creditum” có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau hay nói cách
khác là lòng tin.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn
hơn lượng giá trị ban đầu.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau dựa
trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhìn chung, mối quan hệ tín dụng luôn bao
gồm hai mặt cơ bản đó là quan hệ cho vay và quan hệ hoàn trả, sự hoàn trả là đặc

trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là điểm khác biệt để phân biệt sự
khác nhau với các phạm trù kinh tế khác, ngoài ra tín dụng còn có đặc trưng cơ bản
đó là lòng tín và tính thời gian.
Tùy theo góc độ quan sát, tùy theo tiêu thức và mục đích, người ta có thể nhìn
nhận, phân chia tín dụng thành các loại khác nhau, chẳng hạn :
* Căn cứ vào tính chất chung nhất của quan hệ tín dụng giữa các nhóm chủ thể
trong nền kinh tế thì tín dụng được chia làm 2 loại :
- Tín dụng thương mại : là loại tín dụng hình thành trực tiếp giữa những người
mua, bán hàng hóa.
- Tín dụng ngân hàng : là loại tín dụng hình thành trong quan hệ vay mượn giữa
các ngân hàng và các chủ thể khác.
Theo nghĩa này thì tín dụng ngân hàng bao hàm cả việc vay mượn của ngân hàng
và việc các ngân hàng cho vay đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khi đề cập đến hoạt
động tín dụng với nghĩa là một trong những chức năng cơ bản của các ngân hàng
thì tín dụng thường được hiểu là hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng cho nền


kinh tế từ các nguồn vốn khác nhau mà nghiệp vụ tín dụng huy động được, là việc
tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc
có hoàn trả. Hoạt động này được thực hiện dưới các hình thức cụ thể như : Cho vay
bằng tiền, chiết khấu các giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng…
Rủi ro tín dụng mà đề tài nghiên cứu chính là rủi ro trong mảng tín dụng với nghĩa
này.
*Căn cứ theo thời gian tín dụng thì tín dụng được chia ra làm 3 loại :
- Tín dụng ngắn hạn : Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm thường được sử
dụng để cho vay bổ xung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp
và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của các cá nhân.
- Tín dụng trung hạn : Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng
này dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi

mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn
nhanh
- Tín dụng trung dài hạn : Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng
này được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản
xuất có quy mô lớn, có thời gian thu hồi vốn dài.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng thì tín dụng được chia làm 2 loại :
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa : Là loại tín dụng cáp cho các chủ thể
kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng : Là hình thức tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng : mua sắm nhà cửa, xe, các hàng hóa tiêu dùng khác. Ngày nay, tín
dụng tiêu dùng là một trong những xu hướng phát triển và trở thành một thị trường
tín dụng rộng lớn.
* Căn cứ vào sự đảm bảo tín dụng, tín dụng được chia làm 2 loại :
- Tín dụng không có đảm bảo ( tín chấp ) : Là loại tín dụng không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ 3, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng.


- Tín dụng có đảm bảo : Là loại tín dụng mà khi cho vay đòi hỏi người vay vốn
phải có tài sản, cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ 3.
* Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng, tín dụng gồm 2 loại :
- Tín dụng bằng tiền : Là loại tín dụng mà hình thánh giá trị tín dụng được cấp
bằng tiền.
- Tín dụng bằng tài sản : Là loại tín dụng mà hình thái giá trị tín dụng được cấp
bằng tài sản
* Căn cứ vào phương pháp cho vay : gồm 2 loại
- Tín dụng trực tiếp : Là loại tín dụng mà người vay trực tiếp nhận tiền vay và trực
tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp : Là loại tín dụng mà quan hệ tín dụng có thông qua ( liên quan
) đến người thứ 3.

* Căn cứ vào phương pháp hoàn trả có 2 loại :
- Tín dụng trả góp : Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
- Tín dụng hoàn trả 1 lần : Là loại tín dụng được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã
thỏa thuận giữa khác hàng và ngân hàng.
1.1.2.2 Vai trò của Tín dụng Ngân Hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện trên những
điểm cơ bản sau :
- Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả :
+ Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời góp
phần đầu tư phát triển kinh tế. Do đặc điểm của tuần hoàn vốn, nên trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sự biến động về vốn, thời
gian… do đó luân chuyển tiền tệ của các doanh nghiệp có lúc thừa lúc thiếu.
Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư,
nguồn kết dư từ ngân sách… được ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để
đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm


thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho yêu cầu chi của ngân sách nhà
nước trong lúc cần thiết…. Như vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hòa vốn
một cách có hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
+ Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất: thông
qua việc tập trung và ưu tiên vốn cho các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng
điểm, là những nơi có nhu cầu vốn cực lớn, từ đó tín dụng ngân hàng góp phần
nâng cao sức mạnh, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện để phát triển các
quan hệ kinh tế trong và ngoài nước…
+ Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hóa và luân chuyển tiền
tệ thông qua việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện được các cơ hội
đầu tư sản xuất kinh doanh của mình. Thông thường các doanh nghiệp chỉ sử dụng
đến vốn ngân hàng sau khi đã huy động mọi nguồn lực của bản thân, điều đó cũng

có nghĩa là nếu không có tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp khó có khả năng
thực hiện cơ hội đầu tư kinh doanh của mình. Nhất là trong cơ chế thị trường, mất
cơ hội là hết sức nguy hiểm. Ngoài ra tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp tăng
thêm sức mạnh trong cạnh tranh, vươn lên tồn tại và phát triển trên thương trường.
+ Tín dụng ngân hàng là công cụ thúc đẩy chế độ hạch toán kinh doanh, tăng
cường quản lý tài chính, tăng tích lũy đối với doanh nghiệp. Về phía người vay vốn
luôn cân nhắc giữa hiệu quả vốn vay mang lại với thời hạn, lãi suất của vốn vay và
họ chỉ vay khi tính toán có lãi, đó chính là bản chất của hạch toán kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ của nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu
thông trong nền kinh tế:
Như chúng ta đã biết, khi ngân hàng thương mại thực hiện hành vi cấp tín dụng
cho nền kinh tế, cùng với khả năng “ tạo tiền ” các “ bút tệ ” sẽ được nhân rộng,
tức là đã tạo ra một khả năng cung ứng tiền tệ. Và hiệu ứng ngược lại sẽ sảy ra, khi
các ngân hàng thương mại thu hẹp. Chính từ khả năng này tín dụng ngân hàng đã
được nhà Nước sử dụng như là một công cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu
thông qua các chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà Nước như : Dự trữ bắt buộc,
Hạn mức tín dụng, Lãi suất chiết khấu, Nghiệp vụ thị trường mở….
- Tín dụng ngân hàng thỏa mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh
tế:


Tín dụng NHTM là công cụ giúp nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ, đồng
thời cũng giúp chính NHTM có một môi trường kinh doanh tốt. Với sức mua đồng
tiền ổn định sẽ tạo tâm lý an tâm trong dân chúng, từ đó huy động được tối đa các
nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội, thỏa mãn cao nhất nhu cầu vốn mở rộng đầu tư
của nền kinh tế. Mặt khác, với hoạt động tín dụng NHTM trở thành trung gian tài
chính đặc biệt có khả năng giảm thiểu các chi phí và rủi ro do đó đã thỏa mãn nhu
cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho NHTM: trong
kinh doanh tiền tệ của NHTM, tín dụng luôn là khoản mục lớn nhất, thường chiếm

trên 70% tài sản có sinh lời của một ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng ngày càng
được đa dạng hóa càng làm tăng vai trò của tín dụng trong tổng thể kinh doanh của
NHTM và do đó, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm phần lớn lợi nhuận, quyết
định hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tóm lại : Hoạt động tín dụng với chức năng và vai trò của mình không những trở
thành hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của một
NHTM, mà còn có vai trò to lớn và ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của cả
lĩnh vực kinh tế - xã hội.

1.2 Rủi ro tín dụng và sự cần thiết hạn chế rủi ro tin dụng ở các ngân hàng thương
mại
1.2.1 Tổng quan về rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm rủi ro
Rủi ro có thể được hiểu là mối đe dọa bị tổn thất một phần nguồn vốn của ngân
hàng hoặc không đạt được thu nhập hay đòi hỏi các khoản chi phí bổ xung để thực
hiện các nghiệp vụ nhất định.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
riêng không thể tránh khỏi rủi ro, quá trình mở rộng kinh doanh ngân hàng nói
riêng thường đi liền với việc mở rộng phạm vi rủi ro. Hoạt động ngân hàng có rất
nhiều nghiệp vụ, mỗi nghiệp vụ gắn với những rủi ro khác nhau qua đó đòi hỏi


phải sử dụng các biện pháp tự bảo vệ và các biện pháp khác để giảm thiểu các rủi
ro thiệt hại, mất mát có thể sảy ra.

1.2.2 Hậu quả, nguyên nhân rủi ro tín dụng và sự cần thiết ngăn ngừa và hạn chế
rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Hậu quả của rủi ro tín dụng
Như đã nêu ở trên, chúng ta quan niệm : Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh
trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, là nguy cơ mức độ mất mát, thiệt hại

tài chính mà ngân hàng phải gánh chịu do vô số những nguyên nhân khác nhau về
cả phía ngân hàng, khách hàng và các yếu tố khác thuộc về môi trường hoạt động
kinh doanh.
Khái niệm rủi ro tín dụng nêu trên trước hết đề cập tới khía cạnh hậu quả của rủi
ro, trong đó nhấn mạnh sự thiệt hại mất mát về tài chính của bản thân mỗi ngân
hàng khi cấp tín dụng cho khách hàng của họ. Tuy vậy thực tế thì những hậu quả
của nó còn có tác động rộng hơn, có thể xem xét dưới các góc độ chủ yếu sau:
* Đối với ngân hàng thương mại :
Chúng ta đều biết các NHTM có vốn tự có thường chỉ chiếm từ 9%( theo luật tổ
chức tín dụng ) trên tổng nguồn vốn hoạt động, nguồn vốn kinh doanh chủ yếu là
vốn huy động nên khi rủi ro sảy ra sẽ dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán
chi trả dẫn tới khách hàng bị giảm lòng tin vào ngân hàng. Họ hạn chế quan hệ với
ngân hàng, làm cho ngân hàng mất đi cơ hội khả năng tích lũy vốn, giảm sức cạnh
tranh của ngân hàng. Khi họ gây ra phản ứng dây truyền một loạt khách hàng tới
rút tiền hàng loạt làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, suy yếu nhanh và có
thể dẫn tới phá sản hàng loạt các ngân hàng.
* Đối với khách hàng
Khi ngân hàng gặp rủi ro thì người gửi tiền sẽ bị mất vốn dẫn tới gặp khó khăn
trong kinh doanh. Nguồn đi vay, nguồn tài trợ từ các ngân hàng hoàn toàn bị mất,
cơ hội kinh doanh bị tuột mất, tài sản bị tịch thu hoặc phát mại, khi người vay đứng
trước nguy cơ phá sản.


* Đối với nền kinh tế :
Hoạt động kinh doanh ngân hàng có liên quan chặt chẽ trực tiếp tới toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp, tổ chức dân cư. Khi NHTM bị sụp đổ, tác hại
của nó ảnh hưởng xấu tới hầu hết các ngành kinh tế khác, phản ứng dây truyền của
nó có thể làm tê liệt một số ngành và doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, lưu thông
hàng hóa sẽ bị đình trệ, chức năng là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế bị suy yếu,
quyền lợi của khách hàng ( người gửi ) không được bảo vệ, ảnh hưởng xấu tới tiết

kiệm đầu tư của nền kinh tế. Dẫn tới kinh tế rối loạn người lao động mất việc làm,
khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, khó khắc phục được trong 1 thời gian ngắn.

1.2.2.2 Sự cần thiết phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng:
Như đã nêu ở trên, rủi ro tín dụng là những tổn thất tiềm tàng phát sinh trong quá
trình cấp tín dụng của ngân hàng. Tính khách quan của việc phòng ngừa và hạn chế
rủi ro tín dụng xuất phát chính từ tầm quan trọng của hoạt động cấp tín dụng, tầm
quan trọng của danh mục tín dụng, bản chất rủi ro tín dụng và ảnh hưởng của rủi ro
tín dụng tới hiệu quả kinh doanh, tới sự lành mạnh và an toàn của các ngân hàng.
Một khi rủi ro tín dụng xảy ra nó không chỉ ảnh hưởng tới mọi hoạt động của ngân
hàng, đến kết quả kinh doanh của ngân hàng mà còn ảnh hưởng quan trọng tới tình
hình hoạt động kinh doanh của khách hàng ở mọi thanh phần kinh tế, cũng như ảnh
hưởng tới hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, NHTM cần phải có sự
phòng ngừa và có những giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.3 Kết luận
Rủi ro tín dụng không những tác hại đối với ngân hàng mà còn nguy hại đối với
nền kinh tế, trật tự xã hội. Phạm vi tác động của nó không chỉ giới hạn trong một
quốc gia mà còn có thể lan rộng ảnh hưởng cả khu vực hay toàn cầu. Do đó quan
tâm hạn chế tới rủi ro tín dụng không còn là việc riêng của ngân hàng thương mại
mà còn là sự quan tâm chung của cả ngân hàng trung ương, chính phủ và toàn xã
hội.


Phần II : Các loại Rủi Ro Tín Dụng

2.1 Các loại rủi ro chủ yếu mà NHTM thường gặp
2.1.1 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là những thiệt hại về tài chính do sự biến động về lãi suất mà
NHTM phải gánh chịu. Khi lãi suất biến động theo hướng bất lợi cho ngân hàng,
tiền lãi thu được từ người vay không đủ bù đắp lãi huy động vốn. Rủi ro lãi suất có

nguyên nhân từ sự không cân xứng về kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Chẳng
hạn, khi ngân hàng huy động các tài sản nợ có thời hạn ngắn mà đầu tư vào tài sản
có có thời hạn dài thì khi lãi suất thị trường biến động tăng lên NHTM bị thiệt hại
và chịu rủi ro lãi suất.

Rủi ro lãi suất trong huy động vốn
Đây là loại rủi ro khi NHTM huy động quá nhiều tiền gửi có kì hạn, có lãi suất cao,
nhưng sau đó lãi suất thị trường giảm ( do thay điều hành lãi suất cơ quan chủ
quản, do quan hệ cung – cầu thị trường….)
Rủi ro lãi suất cho vay
Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng rất lớn và khá thường xuyên vì hoạt động kinh
doanh của các NHTM hiện nay chủ yếu dựa vào hoạt động cho vay với tỷ lệ thu lãi
vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của các NHTM. Rủi ro lãi suất cho vay sảy
ra khi lãi suất cho vay thị trường giảm, ngân hàng phải cho vay với lãi suất thị
trường trong khi đã huy động với lãi suất cao hơn . Hơn nữa lãi suất cho vay lại
thường xuyên biến động do áp lực cạnh tranh giữa các NHTM, thậm chí ngay cả
chi nhánh trong cùng một hệ thống để thu hút khách hàng. Các NHTM muốn giữ
khách hàng truyền thống , đồng thời mở rộng quy mô kinh doanh, thu hút khách
hàng mới vẫn thường sử dụng công cụ lãi suất.
Rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay còn xảy ra khi Ngân hàng Nhà Nước thay
đổi lãi suất cơ bản, lãi suất dự trữ bắt buộc để thực thi chính sách tiền tệ, gây ra


hiệu ứng dẫn đến rủi ro lãi suất cho vay của các NHTM. Khi lãi suất cơ bản tăng
thì lãi suất cho vay và huy động cũng sẽ tăng nhưng chỉ áp dụng cho những khoản
vay mới phát sinh, còn những dư nợ hiện hành của NHTM, nhất là các khoản vay
trung dài hạn có lãi suất danh nghĩa ghi trên hợp đồng tín dụng đang ở mức thấp.
Nhất là các khoản cho vay trung và dài hạn thì rủi ro lãi suất là điều khó tránh khỏi
Rủi ro lãi suất thay đổi do cung – cầu thị trường tiền tệ liên ngân hàng, các khoản
vay trên thị trường này có thời hạn ngắn và rất ngắn ( qua đêm….) lãi suất trên thị

trường này thường xuyên biến động. Việc vay vốn chủ yếu đảm bảo khả năng
thanh khoản, tìm kiếm chênh lệch lãi suất xong đòi hỏi phải có một sự nhận định
phân tích chủ động khá cao nếu không cũng rất dễ gặp rủi ro.

2.1.2 Rủi ro ngoại hối
Là thiệt hại gây ra cho NHTM do sự biến động tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ.
Ngân hàng lâm vào tình trạng rủi ro ngoại hối trong khi thực hiện các nghiệp vụ
ngoại tệ khác nhau như : Mua bán ngoại tệ hoặc cho vay bằng ngoại tệ.
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đầy rủi ro và rủi ro hối đoái là một trong những
rủi ro đó. Thực chất của rủi ro hối đóai là rủi ro tỷ giá. Vậy vì sao Ngân hàng lại
luôn đối mặt với rủi ro về tỷ giá? Và câu hỏi đặt ra là Rủi ro tỷ giá xảy ra khi nào?
Như chúng ta đã biết bất cứ một Ngân hàng nào họ cũng có kinh doanh trên đồng
nội tệ và ngọai tệ ví dụ như: mua, bán ngọai tệ, huy động bằng ngọai tệ, cấp tín
dụng bằng ngọai tệ, đầu tư, mua các Giấy Tờ Có Giá bằng ngọai tệ, Dịch vụ thanh
tóan bằng ngọai tệ, giao dịch hợp đồng tài chính ... Và một điều hiển nhiên với
từng ấy , Ngân hàng luôn đối mặt với rủi ro tỷ giá.
vậy rủi ro tỷ giá sảy ra khi nào? Việc xảy ra Rủi ro tỷ giá trong kinh doanh ngân
hàng phụ thuộc vào: Tỷ giá ngọai tệ(có thể lên, có thể xuống) và Trạng thái ngọai
hối (Yếu tố kinh doanh) : chúng ta đã biết
Trạng thái ngọai hối = (Tài sản có ngọai tệ - Tài sản nợ ngọai tệ) + (Doanh số
mua ?" Doanh số bán )
Có 2 trạng thái ngoại hối là hối trường và trạng thái ngoại hối đoản.


Trạng thái ngoại hối trường sảy ra khi tài sản Có ngoại hối lớn hơn tài sản Nợ
ngoại hối. Ngược lại, trạng thái ngoại hối đoản sảy ra khi tài sản Nợ ngoại hối > tài
sản Có ngoại hối.
Khi ngân hàng kinh doanh ngoại tệ có trạng thái ngoại hối trường về một ngoại tệ
nào đó, nếu ngoại tệ đó lên giá, họ sẽ có lãi khi đánh giá lại và bị lỗ khi ngoại tệ đó
xuống giá. Như vậy, ngân hàng luôn phải đối phó với rủi ro hối đoái khi tỷ giá hối

đoái thay đổi.
Lãi hay lỗ trong kinh doanh ngoại hối chủ yếu phụ thuộc vào mức độ duy trì trạng
thái ngoại hối mở, khi các ngân hàng và nhà kinh doanh ngoại hối nói chung giao
dịch trên thị trường ngoại hói về mỗi loại ngoại tệ và cả danh mục ngoại tệ. Rủi ro
trong kinh doanh ngoại hối thường là :
- Rủi ro về tỷ giá hối đoái :
Đây là rủi ro đặc trưng của kinh doanh ngoại hối và có ý nghĩa rộng lớn đối với
nghiệp vụ này .
Lãi / lỗ đối với ngoại tệ i = ( trạng thái ngoại hối ròng của ngoại tệ i ) x ( mức biến
động của tỷ giá ngoại tệ i )
Trạng thái ngoại hối ròng gồm 2 loại :
+ trạng thái ngoại hối trường ròng = tài sản Có – tài sản Nợ bằng ngoại tệ
+ trạng thái ngoại hối đoản ròng = tài sản Nợ - tài sản Có
Như vậy, để phòng ngừa rủi ro ngoại hối, ngân hàng phải cân bằng tài sản Có và tài
sản Nợ với mỗi loại ngoại tệ và theo dõi sát biến động của tỷ giá hối đoái.
- Rủi ro về tỷ lệ swap ( tỷ lệ chuyển đổi )
Loại rủi ro này thực chất là rủi ro về lãi suất, nếu khối lượng giao dịch lớn thì mức
độ rủi ro này cũng là điều đáng quan tâm.
- Rủi ro thực hiện ( rủi ro thanh toán ) :
Đây là loại rủi ro do đối tác không thực hiện trách nhiệm của họ gây ra hậu quả là
hoạt động ngoại hối bị lỗ. Rủi ro thực hiện phụ thuộc vào uy tín thanh toán của
khách hàng nên người ta thường gọi loại rủi ro này là rủi ro uy tín thanh toán. Rủi


ro thực hiện trong nghiệp vụ mua bán kỳ hạn lớn hơn trong nghiệp vụ trao ngay do
được tất toán sau một thời kỳ nhất định.

2.1.3 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là những thiệt hại xảy ra khi NHTM không có đủ hoặc mất khả
năng chi trả cho người gửi tiền. Rủi ro thanh khoản xuất phát từ sự không khớp

nhau về thời hạn giữa tài sản nợ với tài sản có. Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng lập
kế hoạch dự trữ không chính xác, hoặc do ngân hàng nắm giữ nhiều tài sản có khó
chuyển đổi, các khoản cho vay bị sai hẹn không thu hồi được dẫn đến kế hoạch dự
trữ bị phá vỡ. Do biến động của nền kinh tế, chính trị, xã hội tác động tới tâm lý
người gửi làm khách hàng ồ ạt rút tiền gây mất khả năng chi trả của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút
tiền ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, thì ngân hàng
phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để
đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi của người gửi tiền. Trong cơ cấu tài sản có thì tiền
mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dựng tiền mặt để
đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng. Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang
lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình thường ngân hàng chỉ
duy trì một lượng tiền mặt ở mức tối ưu để đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên
của người gửi tiền mà không ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân
hàng có thể làm được điều này, bởi vì qua kinh nghiệm công tác ngân quỹ hàng
ngày ngân hàng có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền gửi hàng ngày và trong
trường hợp thiếu hụt tiền mặt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một
cách thông thường trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể đối mặt với rủi ro
thanh khoản, ví dụ như trong tình huống dân chúng mất lòng tin vào ngân hàng,
hoặc nhu cầu rút tiền có tính thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được đòi
hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Trong
bối cảnh đó thì hầu hết các ngân hàng đều đang phải đối phó với tình huống tương
tự, thì chi phí huy động vốn bổ xung tăng lên đáng kể do lượng vốn cung ứng trên
thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản
thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp


phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và buộc phải bán thốc bán tháo tức thời ngay
cả tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ mạt vì ngân hàng không có đủ thời gian để

tìm người mua cũng như điều kiện thương lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp bán
tài sản với giá thấp khiến cho khả năng thanh khoản cuối cùng của ngân hàng bị đe
dọa.

2.1.4 Rủi ro công nghệ và hoạt động
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ
không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy
mô hoạt động. Tính không hiệu quả trong đầu tư công nghệ của ngân hàng phát
sinh trong trường hợp : ví dụ dung lượng đầu tư quá lớn dẫn tới công nghệ không
sử dụng đến và hậu quả là tổ chức bộ máy trở lên quan liêu kém hiệu quả, hoặc là
quy mô hoạt động không được mở rộng, mặc dù đã được đầu tư công nghệ mới.
Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng
giảm xuống đáng kể và nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương
lai. Ngược lại, lợi ích của việc đầu tư công nghệ là tạo cho ngân hàng một sức bật
quan trọng trong cuộc cạnh tranh dữ dội trên thương trường và đồng thời cho phép
ngân hàng phát triển các sản phẩm mới, tiến tiến, hiện đại giúp cho ngân hàng tồn
tại và phát triển bền vững.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh
bất cứ lúc nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là hệ thống hỗ trợ bên
trong ngừng hoạt động. Ví dụ hệ thống máy tính xử lý sai khoản đi vay của ngân
hàng thành khoản cho vay, dẫn tới trạng thái cho vay của ngân hàng có thể ở mức
quá cao, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng và một tình thế khẩn
cấp đã đến, ngân hàng phải lập tức vay tiền từ ngân hàng TW để đảm bảo khả năng
thanh toán.

2.1.5 Rủi ro nguồn vốn
Là loại rủi ro phát sinh do ngân hàng không duy trì đủ số vốn cần thiết theo yêu
cầu pháp lý và yêu cầu mở rộng, phát triển kinh doanh



Rủi ro nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức :
- Rủi ro thừa vốn : NHTM thông qua hình thức “ Đi vay để cho vay ” nhằm tìm
kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có “ chỉ là cái đệm chống đỡ sự sụt giá của các
tài sản có ”. Khi nguồn vốn của ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là ngân hàng không
cho vay ra được hoặc không sử dụng hết, trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi
cho người gửi tiền, chi các khoản chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý. Nếu không
khắc phục được tình trạng này, đến một chừng mực nào đó, mức độ thua lỗ lớn sẽ
dẫn tới việc đóng cửa ngân hàng.
- Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn
không nhịp nhàng dẫn tới việc ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay và
đầu tư hoặc nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực tế, ngân hàng thường chỉ có
các nguồn vốn ngắn hạn trong khi sử dụng vốn lại là các kỳ hạn dài hơn. Nguồn
vốn tự có ít nhưng lại cho vay với tổng số dư nợ quá số lần cho phép làm thiếu hụt
khả năng thanh toán cuối cùng hoặc là do những nguyên nhân khác dẫn tới việc
lượng tiền gửi tại ngân hàng rút ồ ạt trong khi đó số tiền đầu tư có kỳ hạn chưa đến
thời điểm để thu hồi, gây tình trạng mất cân bằng.
Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động do đó khả năng thanh toán của
ngân hàng kém. Vì vậy ngân hàng lại càng khó lòng huy động được vốn do sự cạnh
tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn, từ đó phạm vi hoạt động của
ngân hàng bị thu hẹp có nguy cơ bị vỡ nợ.

2.2 Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM
2.2.1 Hoạt động tín dụng
Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa
thống nhất khi định nghĩa đầy đủ về tín dụng. Khái niệm “ Tín Dụng ” có nguồn
gốc từ thuật ngữ La tinh “ CREDITTUM” có nghĩa là sự tin tưởng tín nhiệm. Hiểu
theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, Tín Dụng ở đây biểu hiện mối quan hệ vay
mượn và hoàn trả.
Phạm trù tín dụng là một phạm trù kinh tế, nó ra đời, tồn tại và phát triển trong
những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Có thể nói tín dụng ra đời và phát triển



song song với nền sản xuất và trao đổi hàng hóa tiền tệ. Tín dụng được phát sinh
khi một bên ( chủ nợ ) giao cho bên kia ( con nợ ) sử dụng một số tiền nhất định
đến hạn trả nợ người vay phải trả cho người cho vay số tiền đã vay kèm theo một
khoản tiền lãi mà hai bên đã thỏa thuận trước. Với đặc điểm cơ bản của hoạt động
tín dụng là :
- Người sở hữu có một số vốn ( biểu hiện bằng hàng hóa hay tiền ) chuyển giao
cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định.
- Hết thời gian sử dụng, người sử dụng vốn phải hoàn trả vốn cho người chủ sở
hữu với một giá trị lớn hơn, phần chênh lệch đó gọi là lãi
- Tín dụng ra đời và phát triển là một yếu tố khách quan của nền sản xuất hàng hóa.
Tín dụng có vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
mà còn đối với cả nền kinh tế với hai chức năng cơ bản là phân phối lại tài nguyên
và thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển.

2.2.2 Khái niệm về rủi ro Tín dụng
Để có thể đưa ra một định nghĩa chuẩn về rủi ro tín dụng thì thật là rất khó. Nhưng
hầu hết đều cho rằng : “ Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng
không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc
và lãi không đúng kì hạn ”. Điều này bao gồm cả nguy cơ khó khăn tiềm ẩn và các
hậu quả thực tế của các nguy cơ ấy một khi đã xảy ra có tác dụng đến hoạt động
ngân hàng.
Có quan điểm cho rằng : “ Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra
khi cấp tín dụng cho khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả nợ
được theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc
nói cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của ngân
hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời gian” .
Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì rủi ro Tín dụng cũng có điểm chung đó là
việc ( hiện tượng ) khách hàng không thực hiện đầy đủ những cam kết đã ký với

ngân hàng về cả mặt số lượng và thời gian.


2.2.3 Những dấu hiệu rủi ro tín dụng
* Các dấu hiệu :
Các khoản cho vay không bao giờ bị giảm giá trị bất thình lình mà không có những
tín hiệu báo trước. Đối với hầu hết các trường hợp, một khoản cho vay đang xấu
dần đi đều có những dấu hiệu báo trước là rắc rối đang sắp xảy ra. Nếu cán bộ tín
dụng muốn phát hiện ra các khoản cho vay có vấn đề thì họ phải tiếp tục nghiên
cứu cẩn thận các khoản vay thông qua việc sử dụng vốn đầu tư để xác định nhũng
yếu tố báo hiệu sự giảm giá trị của các khoản cho vay.
Dưới đây liệt kê ra một vài dấu hiệu rủi ro có thể xảy ra đối với khoản cho vay :
1- Khách hàng trì hoãn nộp các báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng dùng để thẩm định cho vay và là cơ sở trực
tiếp đánh giá việc vay vốn, sử dụng vốn của ngân hàng. Vì vậy các báo cáo tài
chính như : Bảng cân đối kế toán, báo cáo lỗ lãi, báo cáo chu chuyển tiền tệ…Có
mối quan hệ mật thiết với khoản vay. Việc trì hoãn mọi báo cáo tài chính có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau, ngân hàng cần phải tiến hành kiểm tra phân tích và
kết luận cụ thể.
2- Khách hàng chậm trễ trong việc bố trí cho cán bộ ngân hàng kiểm tra cơ sở
SXKD.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là quan hệ
bạn hàng bình đẳng trước pháp luật. Song mối quan hệ này phải được thực hiện
trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Một khi có sự chậm trễ trong việc giàn xếp trong
cuộc viếng thăm doanh nghiệp, sẽ là dấu hiệu cho biết tình hình SXKD của khách
hàng có vấn đề.
3- Chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút, hàng tồn kho
tăng lên quá mức, doanh số bán hàng giảm sút cùng với các khoản công nợ gia
tăng, điều đó làm cho khả năng thanh toán giảm sút
4- Khó khăn khi giải thích mục đích vay.

5- Hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn.


Các trường hợp hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm quá thời hạn thỏa thuận đều coi
như các dấu hiệu cơ bản của rủi ro.
6- Sự thay đổi nhà quản lý, hoặc sự thay đổi tổ chức hoạt động
Đều coi như dấu hiệu cần xem xét.
7- Các thảm họa thiên tai như bão lụt, hỏa hoạn.
Đều có thể là những nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến hoạt động SXKD của doanh
nghiệp. Các biến động về chính trị, xã hội sẽ dẫn đến môi trường xã hội, môi
trường kinh tế bất ổn định, sẽ tạo điều kiện nảy sinh rủi ro
8- Khách hàng không kể ra được chính xác và đầy đủ thông tin tài chính, đặc biệt
là những thông tin về những món nợ ghi trong danh mục.
9- Không cung cấp những thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
10- Doanh nghiệp giao dịch buôn bán với nhiều chủ nợ.
11- Hủy bỏ bảo hiểm
12- Những khoản chi trội thường xuyên trong tài khoản kinh doanh ( phát hành séc
quá số dư )

2.2.4 Các loại rủi ro tín dụng
* Rủi ro tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ xung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình
kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế. Như vậy, tín dụng ngắn hạn
chỉ cung cấp một phần chứ không phải toàn bộ số vốn lưu động trong một thời gian
ngắn. Rủi ro tín dụng ngắn hạn thường xảy ra khi cán bộ tín dụng phạm phải sai
lầm trong quá trình tính toán hiệu quả đầu tư và thiếu thận trọng trong công tác
thẩm định. Để khắc phục được loại rủi ro này, chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng để
đưa ra những kết luận đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, nâng cao
chất lượng công tác thẩm định.
* Rủi ro tín dụng trung, dài hạn.



- Tín dụng trung và dài hạn là khoản vay với mục đích là đầu tư xây dựng cơ bản,
mua sắm tài sản cố định. Rủi ro tín dụng trung và dài hạn thường xảy ra khi có
những diễn biến bất thường trong quá trình xây dựng và tiến hành sản xuất kinh
doanh do thời gian thu hồi vốn quá dài. Ngoài các thông số kinh tế, kỹ thuật các
nhà đầu tư cần phải tính đến các biến động về chính trị, chính sách của Nhà nước
( các yếu tố phi kinh tế ) , nếu không rất dễ dẫn tới rủi ro gây thiệt hại lớn cho hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
Để tránh được rủi ro này, các nhà đầu tư cần phải tính toán, cân nhắc một cách
chính xác và tỉ mỉ hiệu quả của dự án đầu tư trong quá trình thực hiện dự án, trong
đó có có các yếu tố về kinh tế kĩ thuật như: Nguyên nhiên liệu đầu vào, khả năng
tiêu thụ đầu ra, các sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế hiện đang có trên thị
trường…
* Rủi ro tín dụng chiết khấu
Tín dụng chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, qua đó khách hàng
chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng nhận
về một khoản tiền bằng mệnh giá thương phiếu – lãi suất chiết khấu và phí hoa
hồng. Hình thức chiết khấu các thương phiếu được lập trên cơ sở hợp đồng kinh tế
được pháp luật thừa nhận.
Thương phiếu giả là loại hình gây nhiều rủi ro nhất trong nghiệp vụ chứng khoán.
Thương phiếu được lập khi không có một quan hệ thương mại tương ứng nhằm
mục đích đánh lừa ngân hàng. Thương phiếu giả tạo có các loại sau:
- Thương phiếu trống : người bị ký phát hành không có hoặc không biết.
- Thương phiếu được lập có sự đồng lõa giữa người ký phát và người bị ký phát.
- Thương phiếu trống hỗ tương : là thương phiếu được lập trên cơ sở thỏa thuận
giữa hai bên mà thực chất là sự giúp đỡ ngân quỹ cho người phát lệnh.
Để hạn chế rủi ro trong hoạt động chiết khấu cần
- Xem xét kỹ tính chất pháp lý của thương phiếu.
- Xem xét tính thương mại của thương phiếu.

- Đánh giá khả năng trả nợ của người ký phát


* Rủi ro tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản chuyên dùng kèm theo lời hứa sẽ
bán lại về sau, chậm nhất là sau khi kết thúc hợp đồng cho người thuê với giá thỏa
thuận. Các thành viên tham gia tín dụng thuê mua gồm :
+ Người đi thuê ( Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế )
+ Người cho thuê ( là ngân hàng )
Người đi thuê sẽ tìm và lựa chọn tài sản cần thuê ở người cho thuê, người cho thuê
sẽ gửi đơn đặt hàng tới nhà cung cấp thiết bị và chịu trách nhiệm thanh toán sau đó
giao tài sản cho người đi thuê.
Tín dụng thuê mua có độ an toàn cao vì trong quá trình thực hiện hợp đồng thuê
mua, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Tài sản cho thuê tồn tại dưới
hình thái vật chất tương đối ổn định và dễ quản lý. Tuy nhiên, rủi ro vẫn có thể xảy
ra khi người đi thuê bị thiên tai, hỏa hoạn gây ra thiệt hại cho tài sản thuê mua hay
sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật khiến nó trở lên lỗi thời không phù hợp với thời
đại dẫn tới khả năng sử dụng thiết bị giảm đi làm ảnh hưởng tới việc thu nợ.
Trên đây là các loại rủi ro tín dụng cơ bản nhất trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Tuy nhiên khả năng, mức độ xảy ra rủi ro ở mỗi loại là khác nhau tùy
theo mức độ hoạt động của mỗi ngân hàng mà chúng ta phải đưa ra những biện
pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro hợp lý nhất.

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng,chỉ tiêu
2.3.1 Nguyên nhân khách quan

A Nguyên nhân bất khả kháng
Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai bão lụt, hạn hán, hỏa hoạn
và động đất.



×