Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

TỔNG HỢP TẤT CẢ BÀI BÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỀ NGÀNH KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.33 MB, 75 trang )

Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016

DỊCH VỤ NGÂN HÀNG BÁN LẺ TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM −
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Hoàng Thị Thanh Hằng
Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Dịch vụ ngân hàng bán lẻ đem lại nguồn thu ổn định và ít rủi ro hơn cho ngân hàng so
với việc tập trung toàn bộ vào đối tượng khách hàng doanh nghiệp lớn. Phát triển dịch vụ
ngân hàng bán lẻ đang trở thành định hướng hoạt động của hầu hết các ngân hàng thương
mại tại Việt Nam, do đó tạo ra không khí cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong cuộc đua tiếp
cận đối tượng khách hàng bán lẻ. Đối với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương
Việt Nam (VCB), mảng bán lẻ được xác định là hoạt động trọng tâm trong các năm gần
đây. Tuy nhiên kết quả thu được vẫn còn nhiều hạn chế so với kỳ vọng đặt ra. Từ kết quả
nghiên cứu, tác giả đã đề xuất những giải pháp nhằm góp phần giúp VCB nâng cao sự thỏa
mãn của khách hàng về chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Từ khoá: ngân hàng bán lẻ, chất lượng, dịch vụ
1. Cơ sở lý thuyết
nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế
giới, các ngân hàng có xu hướng cung cấp
Thuật ngữ ngân hàng bán lẻ (NHBL)
đa dạng sản phẩm, dịch vụ nên đối tượng
xuất phát từ từ gốc trong tiếng Anh retail
khách hàng của các dịch vụ NHBL cũng
banking. Theo Tổ chức Thương mại thế
mở rộng ra đối với không chỉ khách hàng
giới, dịch vụ NHBL là loại hình dịch vụ
cá nhân mà còn bao gồm cả các doanh
điển hình của ngân hàng, nơi mà các khách
nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.


hàng cá nhân có thể đến giao dịch tại các
chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân
Từ cách tiếp cận trên, có thể định nghĩa
hàng để thực hiện các dịch vụ như: tiền gửi
về dịch vụ NHBL của ngân hàng thương
tiết kiệm, kiểm tra tài khoản, thế chấp, vay
mại là hoạt động cung ứng các sản phẩm
vốn, dịch vụ thẻ cho vay, thẻ ghi nợ và các
dịch vụ trực tiếp đến các cá nhân, hộ gia
dịch vụ khác đi kèm. Theo các chuyên gia
đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm
kinh tế của Học viện nghiên cứu châu Á:
thỏa mãn các nhu cầu về tài chính thông
“NHBL là cung cấp trực tiếp sản phẩm,
qua mạng lưới chi nhánh hoặc các phương
dịch vụ ngân hàng tới từng cá nhân riêng
tiện điện tử, viễn thông, công nghệ thông
lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua
tin. Các dịch vụ NHBL bao gồm dịch vụ
mạng lưới chi nhánh truyền thống hay
huy động vốn, cho vay, dịch vụ thẻ, thanh
thông qua các phương tiện điện tử viễn
toán, ngân hàng điện tử và các dịch vụ khác
thông và công nghệ thông tin”. Qua nhiều
như tư vấn quản lý tài chính, cho thuê két
cách định nghĩa khác nhau, có thể thấy khái
sắt và giữ hộ tài sản, bảo lãnh ngân hàng,
niệm về dịch vụ NHBL rất đa dạng. Tuy
mua bán bảo hiểm.
33



Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
các năm khá tốt, đạt mức từ 23.0%-30.7%,
tuy vậy kết quả có phần chững lại ở năm
2013 (tăng 6.8% so với 2012). Bên cạnh
đó, Ngân hàng Nhà nước đã ổn định được
thị trường vàng, kiềm chế lạm phát, các
kênh đầu tư chứng khoán, bất động sản dần
được phục hồi thu hút người dân đầu tư
mặc dù xu hướng chưa mạnh mẽ.

2. Thực trạng dịch vụ NHBL tại VCB
2.1. Về huy động vốn bán lẻ
Hoạt động huy động vốn từ bán lẻ
trong giai đoạn 2010 – 2014 đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân ở mức độ khá cao
32%/năm. Tỷ trọng huy động vốn bán lẻ
trong tổng huy động vốn đạt mức 47-54%
phù hợp với chiến lược đẩy mạnh hoạt
động bán lẻ của VCB. Mức tăng tưởng qua

Bảng 1. Vốn huy động bán lẻ của VCB từ năm 2011-2014 (ĐVT: tỷ đồng)
Năm 2011

Chỉ tiêu
Huy động vốn dân cư

Năm 2012


Năm 2013

Năm 2014

121,587

162,080

173,142

226,227

Tăng tuyệt đối

22,707

40,493

11,062

53,085

Tỷ lệ tăng trưởng

23.0%

33.3%

6.8%


30.7%

50%

53%

52%

54%

Tỷ trọng/Tổng HĐV

(Nguồn: Báo cáo thường niên VCB giai đoạn 2010-2014)

So sánh khả năng huy động vốn từ dân
cư trong giai đoạn 2011-2014 giữa VCB
với 2 ngân hàng thương mại lớn có quy mô
tương đương, VCB đứng ở vị trí thứ 2 về
quy mô sau BIDV. Để khẳng định vị thế là
ngân hàng số 1 Việt Nam theo định hướng

chiến lược đã đặt ra, VCB cần tập trung
hơn nữa trong mảng công tác này, gia tăng
dần tỷ trọng cho vay bán lẻ, tiếp tục giữ thị
phần đáng kể trên thị trường cho vay bán lẻ
trong thời gian sắp tới.

Bảng 2. Thị phần ĐV từ dân cư của VCB giai đoạn 2011-2014
Ngân
hàng


Năm 2011
Quy mô

Năm 2012

T treng/
Tmng HDV

Quy mô

Năm 2013

T treng/
Tmng HDV

Quy mô

Năm 2014

T treng/ Tmng
HDV

Quy mô

T treng/
Tmng HDV

VCB


121,587

50%

162,080

53%

173,142

52%

226,227

54%

Vietinbank

107,120

52%

131,303

51%

124,313

43%


157,877

43%

BIDV

129,205

50%

179,128

50%

211,232

51%

256,453

51%

(Nguồn: Báo cáo thường niên VCB)

này. Dư nợ bán lẻ cuối kỳ năm 2014 là
51,732 tỷ đồng, cao gấp 2.5 lần so với
2011, chiếm tỷ trọng tăng dần trong tổng
dư nợ đạt mức 16% trong năm 2014. Tốc
độ tăng trưởng bình quân của dư nợ cho
vay bán lẻ 4 năm gần đây khá cao khi đạt

trung ình 37%/năm.
Một đặc điểm khác iệt của VCB là dư
nợ cho vay cá nhân tập trung đến 46% ở 10
chi nhánh tại các địa phương như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đồng

2.2. Về cho vay bán lẻ
Dư nợ cho vay bán lẻ của VCB chiếm
tỷ trọng thấp so với tổng dư nợ, trung ình
khoảng 13% trong giai đoạn 2011-2014.
Điều này cho thấy thế mạnh của VCB vẫn
nghiêng về mảng cho vay bán buôn. Tuy
nhiên, cùng với sự tăng trưởng của huy
động vốn bán lẻ, quy mô cho vay bán lẻ
VCB cũng gia tăng không ngừng qua giai
đoạn 2011 – 2014 cho thấy VCB có sự chú
trọng trong việc phát triển mảng dịch vụ
34


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
Nai, Nha Trang. Điều này cho thấy VCB
mới chỉ tập trung cho vay cá nhân ở những
địa phương phát triển có trình độ dân tr
cao. Để phát triển dịch vụ cho vay án lẻ

thì VCB phải tập trung phát triển sản phẩm
trên quy mô rộng cả nước, từ đó mới chiếm
lĩnh được thị phần cho vay án lẻ trong hệ
thống ngân hàng thương mại.


Bảng 3. Quy mô và tốc độ tăng trưởng cho vay bán lẻ giai đoạn 2011-2014
Năm 2011

Chỉ tiêu

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Dư nợ bán lẻ

21,000

28,698

37,856

51,732

Tăng tuyệt đối

1,727

7,698

9,158


13,876

Tỷ lệ tăng trưởng

9.0%

36.7%

31.9%

36.7%

10.0%

11.9%

13.6%

16.0%

209,418

241,163

278,357

323,322

Tỷ trọng/Tổng dư nợ
Tổng dư nợ


(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

13%. Để khẳng định vị thế là ngân hàng số
1 Việt Nam theo định hướng chiến lược đã
đặt ra, VCB cần tập trung hơn nữa trong
mảng công tác này, gia tăng dần tỷ trọng
cho vay bán lẻ, tiếp tục giữ thị phần đáng
kể trên thị trường cho vay bán lẻ trong thời
gian sắp tới.

So với BIDV và Vietinbank, mặc dù
quy mô cho vay bán lẻ của VCB luôn đứng
ở vị trí thấp nhất nhưng lại có tốc độ tăng
trưởng cao nhất trong giai đoạn 2011-2014
với mức tăng trưởng bình quân là 37%
(BIDV là 14%, Vietinbank là 6%). Tỷ
trọng cho vay bán lẻ so với tổng dư nợ của
VCB còn ở mức thấp, chỉ chiếm trung bình

Bảng 4. Thị phần cho vay bán lẻ của VCB 2011-2014
Ngân hàng

Năm 2011
Quy mô

Năm 2012

T treng/
Tmngdn {


Quy mô

Năm 2013

T treng/
Tmngdn {

Quy


Năm 2014

T treng/
Tmngdn {

Quy mô

T treng/
Tmngdn {

VCB

21,000

10.0%

28,698

11.9%


37,856

13.6%

51,732

16.0%

Vietinbank

46,806

20%

56,033

19%

51,882

16%

58,477

16%

BIDV

38,393


29%

47,636

24%

58,620

23%

59,872

24%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

Chất lượng cho vay bán lẻ luôn được
kiểm soát chặt chẽ. VCB luôn chủ trương
lựa chọn cho vay đối với những khách hàng
có tình hình tài ch nh tốt, ngành nghề ổn
định, tài sản đảm ảo đầy đủ. Ngoài cho
vay thấu chi, 100% dư nợ t n dụng án lẻ
đều có tài sản ảo đảm, chủ yếu cho vay
tiêu dùng (mua nhà, đất, sửa chữa nhà, mua
ôtô…), cho vay hộ kinh doanh thương mại,
dịch vụ. Nhìn chung chất lượng cho vay
án lẻ khá tốt, nợ nhóm 1 luôn chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong các phân nhóm. Theo


ảng 5, tỷ lệ nợ xấu năm 2011 là 0.02%,
năm 2012 là 0.4%, năm 2013 là 0.5% và
năm 2014 là 0,6%. Từ năm 2012, nợ nhóm
4 và 5 đã không còn xuất hiện, tuy vậy, do
khó khăn của nền kinh tế cùng với xu
hướng giảm sút chất lượng cho vay của
ngành ngân hàng nói chung, dư nợ nhóm 2
tăng nhanh trong năm 2012 khi tăng mạnh
168 tỷ đồng so với năm 2011, đồng thời nợ
xấu lại ắt đầu gia tăng trở lại và tập trung
ở nhóm 3 – là nhóm nợ dưới chuẩn, do đó
vẫn tiềm ẩn rủi ro cho VCB. Nhìn chung
35


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
qua các năm, tỷ lệ nợ xấu VCB ổn định ở
mức dưới 2,5%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ

nợ xấu chung và đạt kế hoạch về chất
lượng cho vay đã đề ra.

Bảng 5. Chất lượng cho vay bán lẻ của VCB giai đoạn 2011 – 2014 (đơn vị tính: tỷ đồng)
Chỉ tiêu

Năm 2011

Năm 2012

Tỷ trọng

(%)

Dư nợ

Năm 2013

Tỷ trọng
(%)

Dư nợ

Năm 2014

Tỷ trọng
(%)

Dư nợ

Tỷ trọng
(%)

Dư nợ

Nợ nhóm 1

20,962

99.8%

28,483


99.2%

37,279

98.5%

51,045

98.7%

Nợ nhóm 2

34

0.2%

81

0.3%

249

0.7%

362

0.7%

Nợ nhóm 3


3

0.002%

109

0.4%

204

0.5%

324

0.01

Nợ nhóm 4

-

-

-

-

-

-


-

-

Nợ nhóm 5

1

-

-

-

-

-

-

-

21,000

100%

28,698

100%


100%

51,732

100%

Tổng

37,856

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

nợ nội địa đạt 15,375 nghìn thẻ, tăng tuyệt
đối 20,182 thẻ so với năm 2011. Đồng thời,
số lượng máy ATM cũng tăng lên khá
nhanh khi năm 2011 mới chỉ có 875 máy
nhưng đến năm 2014 số lượng máy đã là
2,128 máy, tăng gấp 2.43 lần. Thẻ cho vay
của VCB tuy số lượng phát hành chưa
nhiều nhưng dịch vụ thẻ cho vay của VCB
cũng có sự tăng trưởng vượt ậc từ năm
2011 đến năm 2014. Số lượng thẻ cho vay
đến năm 2014 đạt 612 nghìn thẻ tăng 408
nghìn thẻ so với năm 2011.

2.3. Về dịch vụ thẻ
Trong giai đoạn 2011-2014, dịch vụ thẻ
của VCB tăng trưởng khá nhanh. Số lượng
thẻ ghi nợ nội địa phát hành liên tục tăng

qua các năm: Năm 2011 số lượng thẻ ATM
phát hành đạt 4,807 nghìn thẻ (chiếm 16%
thị phần thẻ ATM cả nước); Năm 2012 con
số này là 7,176 nghìn thẻ (chiếm 19% thị
phần thẻ ATM của cả nước). Năm 2013 số
lượng thẻ ATM phát hành đạt 10,754 nghìn
thẻ (chiếm 20% thị phần thẻ ATM cả nước)
và t nh đến hết năm 2014, số lượng thẻ ghi

Bảng 6. Tình hình về dịch vụ thẻ VCB giai đoạn 2011-2014
Chỉ tiêu

ĐVT

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Chỉ tiêu quy mô
Tổng số thẻ phát
hành

Nghìn thẻ

4,807


7,176

10,754

15,375

Thẻ ghi nợ

Nghìn thẻ

4,675

6,864

10,211

14,763

Thẻ cho vay

Nghìn thẻ

132

312

543

612


49%

50%

43%

174

303

431

Chỉ tiêu tăng trưởng
Tốc độ tăng thêm
thẻ phát hành

%

50%
Chỉ tiêu hiệu quả

Thu thuần
dịch vụ thẻ

Tỷ đồng

89

Thẻ ghi nợ


Tỷ đồng

Thẻ cho vay

Tỷ đồng

ATM

Máy

875

1,399

1,917

2,128

POS

Máy

12,874

25,828

42,234

53,610


61
29

122
52

184
118

256
175

Chỉ tiêu mạng lưới

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

36



Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
tiền có sự tăng trưởng mạnh mẽ đóng góp
lớn vào thu nhập từ hoạt động kinh doanh
NHBL. Năm 2011, doanh thu này chỉ đạt
230 tỷ đồng, đến năm 2014, doanh thu ph
dịch vụ đạt 492 tỷ đồng. Tỷ trọng dịch vụ
bán lẻ/Tổng dịch vụ thanh toán tăng dần qua
các năm cho thấy dấu hiệu của sự chuyển
dịch cơ cấu dần sang thị trường bán lẻ như
định hướng chiến lược đề ra. Sự tăng trưởng

về số lượng, doanh số, doanh thu phí dịch
vụ các giao dịch thanh toán, chuyển tiền cho
thấy mức độ phát triển của dịch vụ này tại
VCB. Việc áp dụng công nghệ vào hoạt
động thanh toán đã có tác động mạnh mẽ,
nâng cao chất lượng và rút ngắn được thời
gian thanh toán.

2.4. Về dịch vụ thanh toán
Dịch vụ thanh toán của VCB giai đoạn
2011-2014 có sự tăng trưởng cả về doanh
thu (từ phí dịch vụ) lẫn số lượng tài khoản,
số lượng giao dịch. Số lượng tài khoản cá
nhân mà khách hàng mở tại VCB tăng qua
các năm với mức tăng trưởng bình quân là
10%, đây là điều kiện thuận lợi cho VCB
phát triển các dịch vụ tài khoản cá nhân như
thẻ, thanh toán, chuyển tiền… Số lượng giao
dịch thanh toán, chuyển tiền đến năm 2014
đạt 45 triệu giao dịch, tương đương với
doanh số giao dịch đạt 26.9 triệu tỷ đồng,
tăng so với năm 2011 là 29 triệu giao dịch
tương ứng 20.3 triệu tỷ đồng. Doanh thu phí
dịch vụ từ các hoạt động thanh toán, chuyển

Bảng 7. Dịch vụ thanh toán của VCB giai đoạn 2011-2014
ĐVT

Chỉ tiêu
Số lượng tài khoản cá nhân (lũy kế)


Tài khoản

Số giao dịch, thanh toán, chuyển tiền

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

618,291

644,787

702,234

861,666

Triệu giao dịch

11

25

32

45


Doanh số giao dịch

Triệu tỷ đồng

5.2

12.6

13.9

26.9

Thu phí dịch vụ thanh toán

Tỷ đồng

230

354

342

492

Tỷ trọng dịch vụ bán lẻ/Tổng dịch vụ thanh toán

%

47%


50%

43%

60%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

Đối với dịch vụ kiều hối, sự gia tăng về số lượng giao dịch, lượng kiều hối chuyển về
và mức ph thu được từ hoạt động này góp phần khẳng định vị thế và tiềm năng phát triển
của VCB trong mảng NHBL.
Bảng 8. Dịch vụ kiều hối của VCB giai đoạn 2011-2014 (đơn vị: giao dịch, tỷ đồng)
ĐVT

Chỉ tiêu
Số lượng giao dịch

Giao dịch

Kiều hối chuyển về qua các năm
Thu phí dịch vụ kiều hối

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014


389,860

402,569

466,216

482,193

Tỷ đồng

22,718

22,901

27,720

29,3224

Tỷ đồng

41.3

52.3

67.4

71.3

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)


Số lượng giao dịch kiều hối năm 2011 là
389,860 lượt thì đến năm 2014 tăng lên
482,193 lượt, tăng tuyệt đối 92,333 giao dịch.
Khối lượng kiều hối chuyển về cũng như thu
phí từ dịch vụ kiều hối cũng tương ứng tăng
lên đạt tương ứng là 29,324 tỷ đồng và 71.3

tỷ đồng vào cuối năm 2014. Dịch vụ kiều hối
phát triển VCB có thể có nguồn thu ngoại tệ
và huy động vốn từ nguồn ngoại tệ này.
Song song với dịch vụ chuyển tiền
trong nước và quốc tế, trong năm 2014,
VCB đã xây dựng được hệ thống thanh toán
36


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
hoá đơn đa dạng, mang lại nhiều tiện ích
cho khách hàng như: thanh toán hóa đơn
tiền điện, nước, vé máy bay, nạp tiền điện
thoại, mua hàng hóa dịch vụ… bằng các
kênh thanh toán hiện đại như Internet
banking, Mobile banking, ATM. Doanh số
thanh toán hoá đơn năm 2014 đạt 2,021 tỷ
đồng, tăng 30% so với năm 2011. Thu ph
dịch vụ thanh toán hoá đơn năm 2014 đạt
912 triệu đồng, tăng 152% so với năm 2013.
Tổng số lượng khách hàng đăng ký dịch vụ
thanh toán hóa đơn trong toàn hệ thống cuối

2014 đạt trên 32,430 khách hàng.
2.5. Về dịch vụ ngân hàng điện tử
Với định hướng phát triển dịch vụ ngân
hàng hiện đại, trong thời gian qua VCB đã
hết sức chú trọng đầu tư phát triển công nghệ,
đưa ra nhiều sản phẩm ngân hàng hiện đại,
tăng cường tiện ích sản phẩm, mang lại cho

người tiêu dùng nhiều sản phẩm công nghệ
cao. Dịch vụ ngân hàng điện tử có ưu điểm
nhanh chóng thuận tiện, đơn giản giúp khách
hàng thực hiện được một số nghiệp vụ ngân
hàng tại bất kỳ thời điểm nào (24 giờ một
ngày, 7 ngày một tuần) và ở bất cứ nơi đâu.
Một số sản phẩm ngân hàng điện tử của VCB
đó là: Internet anking, Mo ile anking,
SMS banking, Phone banking, VCB- Money,
VCB -eTour, VCB –eToup.
Dịch vụ VCB-i nking ch nh thức
được giới thiệu từ tháng 3/2010. Trong giai
đoạn 2011-2014, số lượng khách hàng VCBib@nking tăng gấp 2.2 lần, thu ph tăng 2.7
lần. Đến hết năm 2014, số lượng khách hàng
đã tăng lên trên 123 nghìn khách hàng, thu
ph đạt 232 tỷ đồng. Doanh số VCBib@nking năm 2014 tăng mạnh đạt 232 tỷ
đồng, tăng 76% lần so với năm 2013.

Bảng 9. Kết quả thu dịch vụ VCB- ib@nking giai đoạn 2011-2014 (đơn vị: giao dịch, tỷ đồng)
Năm

Chỉ tiêu

Khách hàng
Thu phí (tỷ đồng)

Tốc độ tăng/giảm (%)

2011

2012

2013

2014

2012/ 2011

2013/ 2012

2014/ 2013

56,341

69,743

75,343

123,342

24%

8%


64%

84

95

132

232

13%

39%

76%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

Dịch vụ vấn tin số dư qua điện thoại –
SMS Banking hoạt động tháng 11/2006.
Trong giai đoạn 2011-2014, số lượng khách
hàng SMS Banking tăng gấp 2.9 lần, thu phí
tăng 3.5 lần. Đến hết năm 2014, số lượng

khách hàng đã tăng lên trên 1254 nghìn
khách hàng, thu ph đạt 62 tỷ đồng. Tỷ lệ
khách hàng sử dụng dịch vụ SMS Banking
/Tổng khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh
toán tại thời điểm 31/12/2013 đạt 30%.


Bảng 10. Kết quả thu dịch vụ SMS Banking giai đoạn 2011-2014
Chỉ tiêu

Năm

Tốc độ tăng/giảm (%)

2011

2012

2013

2014

2012/ 2011

2013/ 2012

2014/ 2013

Khách hàng (nghìn)

353

536

845


1,254

52%

58%

48%

Thu phí (tỷ đồng)

21

31

45

62

48%

45%

38%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

nguồn thu nhập của VCB. Hoạt động huy
động vốn có mức tăng trưởng tốt với tốc độ
ình quân 32%/năm trong giai đoạn 20112014 và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong


3. Thực trạng dịch vụ NHBL tại VCB
3.1. Thành tựu của dịch vụ NHBL
Dịch vụ NHBL đạt kết quả tăng trưởng
khá tốt qua các năm góp phần gia tăng
37


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
tổng huy động vốn (tăng từ 50% vào năm
2011 lên đến 54% đến cuối năm 2014). Hoạt
động cho vay bán lẻ cũng có ước tăng
trưởng khá (31%) trong giai đoạn 2009 –
2013 chiếm tỷ trọng 10.4 % - 15.8% tổng dư
nợ cho vay của VCB. Các dịch vụ NHBL
khác như dịch vụ thẻ, thanh toán hóa đơn,
thanh toán lương, ngân hàng điện tử… đã
cung cấp những tiện ch, t nh năng đa dạng,
phong phú đã đáp ứng cho nhu cầu đông
đảo khách hàng của VCB và đạt mức tăng
trưởng khá cả về doanh số và số phí thu
được. Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ NHBL
trên tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh
có chuyển biến tích cực trong những năm
gần đây. Con số này năm 2011 đạt 24% và
năm 2013 tăng lên đạt 37%. Nhìn chung, cơ
cấu thu nhập đã chuyển biến theo hướng gia
tăng thu nhập từ dịch vụ bán lẻ, hỗ trợ vào
sự phát triển ổn định của VCB đúng theo
mục tiêu chiến lược đề ra.
Số lượng khách hàng cá nhân được

củng cố và mở rộng. Hoạt động NHBL đã
góp phần duy trì và phát triển số lượng
khách hàng hiện tại VCB không ngừng gia
tăng. Giai đoạn năm 2010 - 2014, quy mô
khách hàng cá nhân tại VCB tăng dần đều
qua các năm, tăng tuyệt đối khoảng 4.31
triệu khách hàng giai đoạn 2010 – 2014.
Cuối năm 2014 đạt khoảng 7.8 triệu khách
hàng, tốc độ tăng trưởng số lượng khách
hàng ình quân 32%/năm.
Đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch
vụ nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Với danh mục khoảng trên 60 sản phẩm
thuộc các dòng sản phẩm khác nhau chia
thành các nhóm sản phẩm cơ ản: tiền gửi,
cho vay, thanh toán, thẻ, dịch vụ ATM,
POS, ngân hàng điện tử. Các sản phẩm này
thường xuyên được nghiên cứu bổ sung
tiện ích nhằm đáp ứng một tốt hơn nhu cầu
khách hàng.

Hệ thống kênh phân phối được chú
trọng và phát triển. Trong giai đoạn 2011 –
2014, VCB đã thành lập mới thêm 11 chi
nhánh, 32 phòng giao dịch đưa tổng số chi
nhánh của VCB lên 89 chi nhánh với trên
350 phòng giao dịch, tiếp tục duy trì vị thế
dẫn đầu thị trường. Mạng lưới ATM hiện
nay với trên 2000 máy, trải khắp các địa
àn và được kết nối với nhiều ngân hàng

thuộc
Banknet,
Smartlink,
Visa,
Mastercard… Mạng lưới POS tăng trưởng
mạnh, mở rộng với 49,500 điểm trên cả
nước cho thấy VCB vẫn đang tiếp tục mở
rộng hơn nữa để khai thác tiềm năng phát
triển các dịch vụ NHBL. Kênh phân phối
hiện đại qua Internet anking được triển
khai cũng giúp kênh phân phối của VCB
gia tăng và tiếp cận được với nhiều đối
tượng khách hàng chuyên nghiệp hơn.
3.2. Những hạn chế về dịch vụ ngân
hàng bán lẻ
Thu nhập từ hoạt động bán lẻ còn
thấp. Thị phần vốn huy động từ dân cư của
VCB năm 2014 chỉ chiếm có 12% thị phần
huy động tiền đồng và 38% thị phần huy
động ngoại tệ trong toàn ngành ngân hàng.
Doanh số thanh toán qua tài khoản cá nhân
rất thấp, chỉ chiếm 10% tổng thanh toán
bằng tiền mặt. Tỷ trọng thu nhập hoạt
động kinh doanh NHBL đóng góp vào kết
quả chung của toàn hệ thống VCB còn hạn
chế khi chỉ chiếm khoảng một phần tư
trong tổng thu nhập. Kết quả kinh doanh
NHBL còn phụ thuộc nhiều vào huy động
vốn và cho vay bán lẻ. Ngoài huy động
vốn và cho vay bán lẻ, VCB còn triển khai

nhiều sản phẩm bán lẻ khác như dịch vụ
thẻ, dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ,
dịch vụ Ngân hàng điện tử. Tuy nhiên, so
với huy động vốn và cho vay bán lẻ, thu
nhập từ dịch vụ bán lẻ khác còn chiếm tỷ
trọng khá thấp.
38


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
Bảng 11. Cơ cấu thu nhập ròng theo dòng sản phẩm bán lẻ (đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2011

Chỉ tiêu thu

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

nhập

Si d

T treng

Si d

T treng


Si d

T treng

Si d

T treng

Huy động vốn

648

64%

795

62%

728

52%

921

54%

Tín dụng

291


29%

395

31%

531

38%

612

36%

Dịch vụ khác

73

7%

92

7%

142

10%

173


10%

Tổng

1,012

1,282

1,401

1,706

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHBL VCB giai đoạn 2011-2014)

Chất lượng các sản phẩm dịch vụ bán lẻ
vẫn còn nhiều hạn chế. Các sản phẩm huy
động vốn còn khá đơn điệu, chưa theo kịp
với thị trường, chưa đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách hàng. Các sản phẩm như tiết
kiệm hưu tr , tiết kiệm du học, tiết kiệm đầu
tư (fast-saving) chưa có tại VCB (trong khi
các ngân hàng thương mại khác đã triển
khai). Các sản phẩm huy động vốn của VCB
tập trung chủ yếu ở loại tiền VND, sản
phẩm tiền gửi ngoại tệ chưa đa dạng. Sản
phẩm cho vay chưa phong phú, chưa có các
gói sản phẩm cho vay riêng đối với các
nhóm khách hàng đặc thù, đặc biệt là nhóm
đối tượng khách hàng cá nhân ngành nghề

tự do, các hộ kinh doanh hoặc các cá thể làm
nông nghiệp ở nông thôn. Các dịch vụ ngân
hàng khác như: tư vấn tài ch nh, tư vấn đầu
tư, dịch vụ bảo quản tài sản tuy ước đầu đã
được triển khai nhưng chưa thu hút được
nhiều khách hàng sử dụng một cách thường

xuyên. Các công cụ thanh toán không dùng
tiền mặt phát triển còn hạn chế: Séc cá nhân
gần như không được sử dụng trong thanh
toán. Thẻ ATM chủ yếu được sử dụng với
mục đ ch rút tiền. Các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng điện tử mới chỉ tập trung phát
triển ở các đô thị lớn, chưa phổ biến rộng rãi
trong đại bộ phận quần chúng.
Hạn chế về hệ thống chi nhánh và kênh
phân phối cũng khá rõ. Đến năm 2014,
mạng lưới chi nhánh đạt con số 89 chi
nhánh, 350 điểm giao dịch nhưng so với
Vietinbank, BIDV, Agribank thì còn khiêm
tốn. Kênh phân phối điện tử của VCB mới
chỉ cung cấp được một số dịch vụ cơ ản
như vấn tin tài khoản, chuyển khoản, thanh
toán, tra cứu lịch sử các giao dịch và thực
hiện với một vài giao dịch đơn giản với giá
trị nhỏ, các giao dịch phức tạp hoặc với giá
trị lớn các khách hàng vẫn phải trực tiếp
đến văn phòng giao dịch của ngân hàng.

ảng 12. Số lượng chi nhánh của các ngân hàng thương mại Nhà nước năm 2014

Ng n h ng

VCB

Vietinbank

BIDV

Agribank

ố chi nhánh

89

151

127

435

ố điểm giao dịch

350

849

600

(Nguồn: Số liệu trên


Hệ thống công nghệ mới chưa ổn định,
tính an toàn bảo mật của các giao dịch bán
lẻ chưa được đảm bảo. Phần mềm công
nghệ án lẻ VCB-SVL đang được áp dụng
hình thức quản lý tập trung, xử lý dữ liệu
trực tuyến trên toàn hệ thống nên tất cả các
giao dịch đều được cập nhật vào máy chủ

1,865

ebsite của các ngân hàng

đòi hỏi hệ thống mạng và đường truyền
luôn thông suốt. Trong thực tế nhiều lần
tình trạng treo mạng xảy ra ở các chi nhánh
và các phòng giao dịch do lỗi đường truyền
dẫn đến tình trạng khách hàng phải chờ đợi
quá lâu hoặc ỏ sang ngân hàng khác, đồng
thời gây ra nhiều sự cố kỹ thuật không
39


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
cảm” cũng ch nh là thành phần tác động
mạnh nhất vào sự hài lòng về chất lượng
dịch vụ NHBL của VCB.
Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin. Có thể nói chìa khoá của Chiến
lược NHBL là phát triển công nghệ thông
tin làm nền tảng cho phát triển kinh doanh

dịch vụ, xây dựng được nhiều sản phẩm
hiện đại có nhiều t nh năng ưu việt. Chính
vì vậy, muốn đẩy mạnh hoạt động ngân
hàng bán lẻ trong thời gian tới thì VCB cần
phải có một nền tảng công nghệ hiện đại,
tốc độ nhanh, đảm bảo an toàn cho hệ
thống khi vận hành để mở rộng khả năng
tiếp cận dịch vụ tới khách hàng, từ đó tăng
khả năng chiếm lĩnh thị phần của ngân
hàng. Đầu tư vào công nghệ bảo mật hệ
thống thông tin giao dịch của ngân hàng.
Đề cao tính bảo mật, đảm bảo an ninh
mạng, an toàn cho hoạt động kinh doanh và
cho khách hàng, giảm thiểu tối đa các sự
cố, đặc biệt là các sự cố liên quan đến tính
bảo mật thông tin giao dịch khách hàng
hoặc tính an toàn của các chương trình
phần mềm Internet banking, Mobile
banking, củng cố sự tin tưởng cho khách
hàng, từ đó nâng cao “Sự tin cậy của khách
hàng” nhằm gia tăng chất lượng sản phẩm.
Thứ tư, hoàn thiện công tác chăm sóc
khách hàng. Ch nh sách chăm sóc khách
hàng là một phần của nhân tố Đồng cảm và
tin cậy – nhân tố tác động mạnh nhất đến
sự hài lòng của khách hàng. Điều này trước
mắt sẽ giúp VCB giữ chân khách hàng trong
bối cảnh lãi suất tiền gửi thấp và tình hình
cạnh tranh lãi suất tiền vay, phí dịch vụ vô
cùng gay gắt giữa các ngân hàng thương mại

trên địa àn. Để phát triển hiệu quả hoạt
động chăm sóc khách hàng, VCB cần quan
tâm đến những hoạt động cụ thể như: Hoàn
thiện hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin khách
hàng tại ngân hàng; Xây dựng các chương

được khắc phục kịp thời làm cho giao dịch
ị gián đoạn k o dài, ảnh hưởng đến chất
lượng phục vụ khách hàng. Ngoài ra, ở giai
đoạn triển khai công nghệ mới do chưa
được quán triệt hết tầm quan trọng của tính
an toàn nên việc tuân thủ một số quy trình
tác nghiệp bị vi phạm, gây ra mất mát tài
sản cho ngân hàng.
4. Một số đề xuất phát triển dịch vụ
NHBL tại VCB
Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, năng lực quản lý. Chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò sống còn và là
yếu tố quan trọng nhất quyết định thành
công và sự khác biệt đối với bất cứ tổ chức
nào. Do đó, thực hiện giải pháp này vừa
giúp nâng cao chất lượng dịch vụ NHBL,
vừa giúp phát triển quy mô dịch vụ tại
VCB. Sau đây là một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như có
chính sách tuyển dụng thu hút nguồn nhân lực
trẻ, có trình độ cao; đào tạo và đào tạo lại cho
nguồn nhân lực hiện có; tạo ra môi trường làm
việc tốt; đánh giá khách quan hơn kết quả

hoàn thành nhiệm vụ cho cán bộ.
Thứ hai, nâng cao chất lượng sản phẩm
dịch vụ NHBL. Sản phẩm dịch vụ là một
trong các vấn đề cốt lõi trong hoạt động
kinh doanh NHBL của mỗi ngân hàng, nếu
sản phẩm không tốt thì mọi nỗ lực của các
phương thức tiếp thị khác cũng sẽ không
thành công. Do đó, để mở rộng quy mô và
chất lượng dịch vụ NHBL, cần phải chú ý
đến các giải pháp liên quan chặt chẽ đến
các khía cạnh sản phẩm như giá, ph , tiện
ích sản phẩm, tính ổn định của sản phẩm,
quá trình cung cấp sản phẩm, đặc biệt tính
ổn định của sản phẩm và quá trình cung cấp
sản phẩm, bao gồm khâu bán hàng và khâu
sau án hàng được thực hiện tốt sẽ góp
phần hình thành nên sự tin cậy của khách
hàng đối với ngân hàng. “Tin cậy và đồng
40


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
trình chăm sóc khách hàng phù hợp. Thường
xuyên khảo sát thị trường về mức độ hài
lòng của khách hàng, tiếp thu ý kiến góp ý
của khách hàng để có những cải tiến và hoàn
thiện chính sách khách hàng nói riêng và
hoạt động của ngân hàng nói chung.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống phân
phối. Mở rộng mạng lưới các đại lý trong

nước và quốc tế để cung cấp dịch vụ ngân
hàng qua biên giới, phát triển mạnh các
chương trình hợp tác kinh doanh đối ngoại
đến các nhóm khách hàng và thị trường
mục tiêu ngoài phạm vi địa giới hoạt động
của VCB. Đây là thế mạnh VCB cần phát
huy để tạo sự khác biệt và khẳng định vị
thế ngân hàng dẫn đầu. Ngoài ra, cần đầu
tư mạnh mẽ vào các kênh phân phối mới,
chủ yếu dựa trên nền tảng phát triển hệ
thống công nghệ thông tin (ngân hàng điện
tử, ATM, POS, Internet, Mobile, SMS
Banking, Contact center) để tối ưu hóa chi
phí trụ sở và nhân viên. Nhiều hoạt động
quản lý như hải quan điện tử, thuế điện tử,
đấu thầu điện tử đang được triển khai
rộng, tạo điều kiện cho các ngân hàng
thương mại phát triển kênh phân phối này.
Song song đó, VCB cần chú trọng đến vấn
đề bảo mật và an toàn, vì đây là rủi ro của
dịch vụ ngân hàng và vấn đề chuyên viên
kỹ thuật để bảo hành công nghệ.

5. Kết luận
Áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng
thương mại ngày càng trở nên gay gắt và
quyết liệt. Để có thể tồn tại và phát triển,
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam nói
chung, VCB nói riêng luôn nỗ lực tìm cách
mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dịch

vụ để đáp ứng tốt các nhu cầu ngày càng
cao của khách hàng, đặc biệt là khách hàng
bán lẻ. Phát triển dịch vụ NHBL là xu
hướng của hầu hết các ngân hàng thương
mại trên thế giới. Xu thế này lại rất phù hợp
với thị trường Việt Nam, bởi Việt Nam là
một quốc gia có nền kinh tế đang tăng
trưởng, dân số đông, trình độ dân trí không
ngừng nâng cao, nhu cầu về dịch vụ ngân
hàng ngày càng tăng, hơn nữa với chính
sách của nhà nước Việt Nam luôn cố gắng
hướng tới xây dựng một nền kinh tế không
dùng tiền mặt cũng là một ưu thế, vì vậy
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có
tiềm năng lớn cho việc phát triển dịch vụ
NHBL. Thị trường kinh doanh giàu tiềm
năng cùng với áp lực cạnh tranh ngày càng
gay gắt đã đặt các ngân hàng thương mại
Việt Nam vào thế phải liên tục thay đổi
chiến lược kinh doanh, tìm kiếm những cơ
hội đầu tư mới, mở rộng và đa dạng hóa
nhóm khách hàng mục tiêu của mình, VCB
cũng không thể nằm ngoài xu hướng đó.

RETAIL BANKING SERVICES IN JOINT STOCK COMMERCIAL BANK FOR
FOREIGN TRADE OF VIETNAM - REALITY AND SOLUTIONS
Hoang Thi Thanh Hang
Banking University Ho Chi Minh City
ABSTRACT
Retail banking services provide a more stable and less risky income source for the

banks compared to focusing completely on big enterprise customers. The retail banking
service development is becoming the operation orientation of most of the commercial banks
in Vietnam, thus creating the extremely fierce competition atmosphere in the race to access
the retail customers. For Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam
41


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
(Vietcombank), the retail segment has been identified as the key activity in recent years.
However, the obtained results were still limited a lot compared to the proposed
expectation. From the research results, the authors have proposed solutions that contribute
to VCB to improve customer’s satisfaction about the retail banking services’ quality.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đào Lê Kiều Oanh (2011), Phát triển dịch vụ ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ tại ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng
TP.HCM
[2] Phùng Thị Thủy (2012), Nền tảng phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 122.
[3] Lê Văn Huy – Phạm Thị Thanh Thảo (2008), “Phương pháp đo lường chất lượng dịch vụ trong
lĩnh vực ngân hàng”, Tạp chí Ngân hàng, số 6.
[4] Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh
ngân hàng bán lẻ giai đoạn 2011-2014.
[5] Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2011), Báo cáo thường niên 2010, truy cập tại
<> , [ngày truy cập: 15/08/2015].
[6] Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2012), Báo cáo thường niên 2011, truy cập tại
<http://www. vietcombank.com.vn> , [ngày truy cập: 15/08/2015].
[7] Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2013), Báo cáo thường niên 2012, truy cập tại
<http://www. vietcombank.com.vn> , [ngày truy cập: 15/08/2015].
[8] Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (2014), Báo cáo thường niên 2013, truy cập tại
<http://www. vietcombank.com.vn> , [ngày truy cập: 15/08/2015].

[9] Nguyễn Hữu Hưng, Chiến lược khác biệt hóa cho hoạt động ngân hàng bán lẻ
< [truy cập ngày
15/07/2015].



Ngày nhận bài: 20/11/2015



Chấp nhận đăng: 18/1/2016

42


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016

TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG
CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN LÊN CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN VÀ GỢI Ý CHO VIỆT NAM
Huỳnh Công Danh
Trường Đại học Thủ Dầu Một
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, các nước phát triển thường xuyên áp dụng chính sách tiền
tệ phi truyền thống với sự thay đổi lớn về mục tiêu, công cụ và biện pháp thực hiện. Chính
sách tiền tệ phi truyền thống không chỉ tác động đến các nước phát triển hoặc các quốc gia
mới nổi mà yếu tố rủi ro còn liên quan đến tất cả các quốc gia. Đối với Việt Nam, tiếp cận
thận trọng, quản lý chặt chẽ với các dòng vốn từ bên ngoài, thực hiện chính sách tỷ giá hối
đoái linh hoạt, đưa lãi suất cho vay về tiệm cận với mức chung của thế giới, hỗ trợ và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế thay vì quá tập trung vào kiểm soát lạm phát là những giải pháp

cần thiết trong việc hạn chế rủi ro từ những thay đổi của chính sách tiền tệ phi truyền
thống từ các nước phát triển.
Từ khóa: chính sách tiền tệ, tác động, quản lý, linh hoạt
quốc gia đặc biệt là các quốc gia phát triển
1. Thay đổi trong chính sách tiền tệ
đã thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) phi
của các định chế tài chính lớn
truyền thống (UMP – Unconventional
Chính sách tiền tệ truyền thống (CMP Monetary Policy) với sự thay đổi lớn về
Conventional Monetary Policy) nhấn mạnh
mục tiêu, công cụ và biện pháp thực hiện.
vai trò ngân hàng trung ương (NHTW) là
Theo đó CSTT của quốc gia tập trung nhiều
một cơ quan “một nhiệm vụ” sử dụng
hơn vào việc hỗ trợ giúp nền kinh tế thoát
"công cụ duy nhất" là lãi suất ngắn hạn để
khỏi khủng hoảng suy thoái và kích thích
đạt được mục tiêu duy nhất là duy trì sự ổn
tăng trưởng. Thực hiện mục tiêu này,
định của giá cả, kiểm soát lạm phát. Chính
NHTW ở Mỹ và các nền kinh tế tiên tiến lớn
sách tiền tệ (CSTT) của một quốc gia chỉ
khác đã theo đuổi CSTT nới lỏng bao gồm
nên giới hạn ảnh hưởng và phục vụ lợi ích
cả thông qua một loạt các hành động chính
của chính quốc gia đó. Quan điểm cổ điển
sách mạnh mẽ và hiếm có tiền lệ để trực tiếp
cũng cho rằng tốt nhất NHTW cần được
hoặc gián tiếp bơm tiền vào nền kinh tế. Lãi
đứng ngoài các chính sách tài chính.

suất cơ bản liên tục hạ thấp cả ngắn hạn và
Khủng hoảng tài chính Bắc Đại Tây
dài hạn và đã chạm mức thấp lịch sử.
Dương (NAFC) năm 2008 đã gây ra cơn
NHTW mua các tài sản từ ngân hàng
chấn động với hệ thống tài chính – ngân
thương mại và các tổ chức tư nhân khác
hàng toàn cầu và dẫn đến những thay đổi
nhằm bơm tiền vào nền kinh tế để khuyến
mạnh mẽ trong việc hoạch định và thực thi
khích doanh nghiệp và cá nhân tìm kiếm lợi
chính sách tiền tệ của các quốc gia. Để thoát
nhuận qua hoạt động kinh doanh và đầu tư.
khỏi khủng hoảng và suy thoái, rất nhiều
27


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
Khi cuộc khủng hoảng dưới chuẩn bắt
đầu xảy ra, tháng 8/2007, Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (Fed) đã chuyển sang thực thi
CSTT theo hướng nới lỏng. Tháng 9/2007,
Fed nhanh chóng cắt giảm lãi suất cơ bản
từ mức 5,25% xuống 2% vào tháng 4/2008
và xuống 0% vào tháng 5/2008 và giữ
nguyên mức này trong một thời gian dài.
Tiếp theo Fed, NHTW Anh (BoE) và
NHTW Canada (BoC) cũng theo chân hạ
lãi suất. NHTW châu Âu (ECB) sau một
hồi lừng chừng cũng đã hạ lãi suất và tỷ lệ

thấp nhất là 0,25% trong tháng 11/2013.
Các NHTW khác thể hiện phản ứng hai
chiều rất khác nhau nhưng nhìn chung, kể
từ năm 2007, chính sách lãi suất của các
ngân hàng trung ương bị ảnh hưởng nặng
nề bởi biến động ở Mỹ.
UMP đã tác động hai chiều lên nền
kinh tế tài chính của các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi. Các tác động rất
phức tạp và khó phân định rõ ràng. Về mặt
lý thuyết, các dòng vốn lớn, rẻ, dễ tiếp cận
có thể tăng đầu tư và hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế, nâng cao trình độ và quy mô thị
trường tài chính của các nền kinh tế mới
nổi và đang phát triển, qua đó góp phần
tăng cường sự ổn định của thị trường tài
chính toàn cầu. Do đó, UMP không phải
trục lợi, làm "nghèo hàng xóm" (beggarthy-neighbor) mà là chính sách chủ động,
tích cực mang tính "hỗ trợ hàng xóm"
(enrich-thy-neighbor). Các nước phát triển
(Aes), các quốc gia thực hiện UMP, bảo vệ
và cổ vũ nhiệt thành cho quan điểm này.
Tuy nhiên, nhiều các bằng chứng thực
tế cho thấy lợi ích thực sự của UMP lên các
nền kinh tế mới nổi và đang phát triển
thường rất khó xác định, khó nắm bắt trong
các mô hình tính toán cũng như thực tế.
Các nghiên cứu thực nghiệm về lợi ích từ
tài khoản vốn mở thường được nhấn mạnh


ở khía cạnh gián tiếp như giúp các định chế
tài chính phát triển tốt, nâng cao năng lực
quản trị và sự ổn định kinh tế vĩ mô. Nhưng
điều này đặt ra vấn đề quan hệ nhân quả là
liệu việc mở cửa thị trường vốn dẫn đến lợi
ích gián tiếp hay sự phát triển của thị
trường tài chính trong nước đã thu hút các
nguồn vốn.
Có rất ít tài liệu và luận cứ thuyết phục
rằng việc mở cửa thị trường tài chính quốc
gia với các dòng vốn xuyên biên giới mang
lại tác động tích cực trực tiếp cho phúc lợi
hoặc tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của các nước
đang phát triển (Obstfeld, 2009). Nhiều lập
luận cho rằng, trong những hoàn cảnh nhất
định, sự tự do tài khoản vốn hoàn toàn có
thể là điều không mong muốn (Korinek,
2011). Như một kết quả của gia tăng toàn
cầu hóa tài chính, tỷ giá hối đoái linh hoạt
không còn là cứu cánh cho bộ ba bất khả
thi hoặc những tác động tiêu cực từ biến
động lãi suất nước ngoài.
Ở góc độ tiêu cực, UMP đã khiến lãi
suất ngắn hạn về mức 0% và lãi suất dài
hạn ở mức thấp trong lịch sử của lãi suất
dài hạn ở các nền kinh tế phát triển
(EMEs). Sự gia tăng mạnh về quy mô bảng
cân đối tài sản, chênh lệch lãi suất và tham
vọng lợi nhuận của các nhà đầu tư đã dẫn
tới các luồng vốn đầu cơ lớn đổ vào EMEs.

Điều này tạo áp lực tăng giá trên các đồng
nội tệ, tạo ra những thách thức với kinh tế
vĩ mô và ổn định và tài chính của các quốc
gia này. Điều đáng quan ngại nhất là các
EMEs luôn ở thế bị động bất lợi trước sự
biến động các dòng vốn kiểu “no dồn, đói
cóp” này. Quyết định bơm vào hay hút vốn
ra của của nhà đầu tư dựa nhiều hơn vào
tình hình diễn biến kinh tế tài chính của
nước có nguồn vốn chứ không phải là nước
tiếp nhận. Ví dụ, sự tăng vọt của các dòng
vốn vào EMEs trong năm 2010 đã bị gián
28


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
xác định những loại chính sách tiền tệ và
chính sách quản lý của AEs nào kích hoạt
các vốn rủi ro nhất chảy vào EMEs và trách
nhiệm của họ trong trường hợp như vậy
(Gallagher và Ocampo, 2013).
Cần phải thừa nhận rằng các EDEs
phát triển nhanh nhất có tốc độ tăng trưởng
cao hơn và tỷ lệ lạm phát và lãi suất cao
hơn các AEs. Hơn nữa, trong điều kiện đặc
thù về dân số và mức thu nhập đầu người
tương đối thấp, tăng trưởng, lạm phát và lãi
suất chênh lệch giữa EDEs và các nền kinh
tế tiên tiến có thể được dự kiến sẽ kéo dài
trong nhiều năm tới. Trong trường hợp

không có bất kỳ sự kiểm soát hay điều chỉnh
nào trên các luồng vốn xuyên quốc gia,
chênh lệch lãi suất cao sẽ mang theo rủi ro
và nguy cơ cho các EMEs khi thu hút dòng
chảy vốn lớn trong thời gian dài dẫn đến tỷ
giá hối đoái bị đẩy lên cao, tín dụng nóng và
bong bóng giá tài sản. Khi dòng vốn bị dừng
đột ngột sẽ có thể dẫn đến suy thoái hoặc
khủng hoảng trầm trọng. Chênh lãi suất do
đó phản ánh các yếu tố cấu trúc. Trong khi
yếu tố mang tính chu kỳ có thể mở rộng
hoặc thu hẹp trong chu kỳ, yếu tố mang tính
cấu trúc vững chắc hơn. Do đó, các biện
pháp quản lý tài khoản vốn, đặc biệt là đối
với các dòng vốn nợ có thể vẫn tồn tại lâu
dài, ít nhất là khi sự chênh lệch về tăng
trưởng, lạm phát và lãi suất vẫn còn.
Tuy nhiên, các khuyến nghị kiểu truyền
thống theo hướng thắt chặt chính sách tài
khóa và CSTT để đối phó với các dòng vốn
chảy vào cũng cần được cân nhắc cẩn trọng.
Chính sách tài khóa và CSTT thắt chặt dẫn
đến cắt giảm chi tiêu công ích và an sinh,
tạo không gian để các dòng vốn đầu cơ đổ
vào giúp tầng lớp giàu có hơn được hưởng
lợi. Bên cạnh đó nó cũng dẫn đến cắt giảm
đầu tư công và hạn chế đầu tư tư nhân, gây
tác động bất lợi cho tăng trưởng dài hạn.

đoạn bởi cuộc khủng hoảng nợ khu vực

đồng euro trong năm 2011. Việc nối lại vốn
chảy vào EMEs vào năm 2012 một lần nữa
lại bị gián đoạn vào giữa năm 2013 khi các
nhà đầu tư đã lo lắng về việc Fed cắt giảm
các chương trình nới lỏng định lượng.
2. Ứng phó của những nền kinh tế
mới nổi
Tiếp cận thận trọng với các dòng vốn
nóng từ bên ngoài trong quản lý kinh tế vĩ
mô và tài chính: UMP của các nền kinh tế
tiên tiến bị chi phối bởi điều kiện kinh tế vĩ
mô và tài chính nội bộ của họ. Do đó, các
EMEs nên tiếp cận thận trọng với các dòng
vốn nóng từ bên ngoài trong quản lý kinh tế
vĩ mô và tài chính. Kiểm soát vốn là cần
thiết ngay cả khi tỷ giá hối đoái linh hoạt.
Biện pháp tối ưu là điều hòa dòng vốn bằng
các biện pháp hỗ trợ dòng vốn vào và
ngược lại đánh thuế luồng vốn ra trong
những giai đoạn biến động đột ngột sẽ giúp
trung hòa dòng chảy vốn để thúc đẩy chu
kỳ kinh doanh. Các EMEs sẽ được hưởng
lợi từ cách tiếp cận và các biện pháp quản
lý linh hoạt và mềm dẻo này.
Dựa trên kinh nghiệm của một nền
kinh tế, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF –
International Monetary Fund) đã đề xuất
một khuôn khổ các biện pháp chính sách để
quản lý việc tự do hóa dòng vốn của các
quốc gia (IMF, 2012). Thừa nhận lợi ích

cũng như những rủi ro gắn liền với các
dòng vốn, thừa nhận một số khía cạnh tích
cực của việc kiểm soát vốn, nhưng IMF
cũng nhấn mạnh chính sách kiểm soát vốn
chỉ nên mang tính tạm thời và không nên là
lựa chọn số một. Đáng chú ý là trong khi
thừa nhận ở mức độ nhất định vai trò tích
cực của kiểm soát vốn, IMF cũng thừa
nhận chính sách tiền tệ ở các AEs trong
thời gian dài có tính hỗ trợ. Khuôn khổ
chính sách của IMF cũng chưa điểm mặt và
29


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
Các phương pháp đánh giá truyền
thống về tác động của các biện pháp và
chính sách quản lý tài khoản vốn thường
không thực sự chính xác. Một số nghiên
cứu (Fratzscher, Lo Duca và Straub, 2013)
kiểm tra độ hiệu quả của các biện pháp này
thường dựa vào các chỉ số phổ biến của
kiểm soát vốn như các chỉ số Chinn-Ito và
các chỉ số Quinn có rất nhiều sai sót. Các
chỉ số này hầu như không thay đổi trong
nhiều năm qua. Ví dụ, đối với Ấn Độ, chỉ
số Chinn-Ito được giữ nguyên kể từ năm
1970 và chỉ số Quinn là không thay đổi kể
từ năm 1994, ngay cả khi Ấn Độ đã tự do
hóa tài khoản vốn đáng kể kể từ đầu những

năm 1990. Những nghiên cứu dựa trên các
chỉ số như vậy để đo lường hiệu quả của
kiểm soát vốn sẽ đưa ra những kết luận sai
lầm. Các chỉ số này được dựa trên dữ liệu
hàng năm, trong khi các nhà chức trách
thường xuyên “tinh chỉnh” các biện pháp
và dữ liệu tài khoản vốn trong chu kỳ của
năm. Một số bất cập trong quản lý và kiểm
soát không có nghĩa là chúng không hiệu
quả. Các chi phí và lợi ích của các biện
pháp quản lý tài khoản vốn với các công ty
cá nhân cần phải được cân nhắc với các lợi
ích vĩ mô có được từ sự ổn định kinh tế vĩ
mô và tài chính. Kiểm soát và quản lý các
dòng vốn nhằm tăng cường sự ổn định tài
chính qua việc ngăn ngừa tích tụ tiền tệ,
đảm bảo thanh khoản hoặc hạn chế sự phát
triển của trung gian thông qua các ngân
hàng trong nước đóng một vai trò quan
trọng (Eichengreen và cộng sự, 2011).
Tăng cường các thỏa thuận tài chính
khu vực. Khi nước Mỹ thực hiện chương
trình nới lỏng định lượng, các EMEs đã
phải xử lý các biến động lớn về nguồn vốn
trong thị trường tài chính bằng việc sử
dụng kho dự trữ ngoại hối mà không có bất
kỳ cơ chế hoán đổi nào với các NHTW của

các quốc gia có đồng tiền dự trữ. Một cơ sở
hoán đổi như vậy, nếu có, lẽ ra đã góp phần

giảm thiểu những biến động và hậu quả tiêu
cực trong suốt giai đoạn này. Phương tiện
thanh khoản phòng ngừa – một công cụ
thanh khoản ngắn hạn có sẵn của IMF vẫn
bị nhiều EMEs tiếp cận thận trọng với con
mắt hoài nghi do sự kỳ thị liên quan đến họ
(IMF, 2014).
Sự kỳ thị với các công cụ hỗ trợ của
IMF và thiếu cơ chế hoán đổi với NHTW
của các nền kinh tế phát triển, các EMEs
phải đã dựa vào các công cụ và chính sách
riêng của mình để đối phó khủng hoảng.
Những công cụ và chính sách này bao gồm
chính sách tỷ giá linh hoạt, can thiệp vào thị
trường ngoại hối, các biện pháp quản lý tài
khoản vốn… Dự trữ ngoại hối lớn đã không
thể cứu vãn sự giảm mạnh và đột ngột về tỷ
giá hối đoái của nhiều EMEs cho dù đã có
những hồi phục kể từ mức thấp nhất tháng
9/2013. Ở đây, cũng cần lưu ý rằng trong
khi nghiên cứu của IMF đã khẳng định rằng
dự trữ ngoại hối của EMEs là cao hơn mức
cần thiết nhưng thị trường dường như đã đặt
câu hỏi cho nhận định này.
Với những diễn biến của thị trường tài
chính toàn cầu sau khủng hoảng năm 2008,
trong bối cảnh giới hạn nguồn lực, cơ chế
hạn ngạch và quản trị chưa được cải cách
của IMF, hầu như không có sợi dây hoán
đổi ngoại tệ với những nền kinh tế tiên tiến,

một mối quan tâm và nhu cầu ngày càng
tăng trong các EMEs là hướng đến sự hợp
tác tài chính khu vực (RFAs-Regional
Financial Agreements). Cuộc khủng hoảng
tài chính châu Á 1997-1998 đã dẫn đến sự
ra đời của Sáng kiến Chiang Mai (bây giờ
là Sáng kiến Chiang Mai đa phương với
nguồn tài chính hơn 240 tỷ USD). Các
RFAs như Quỹ ổn định tài chính châu Âu
(EFSF), Cơ chế ổn định châu Âu (ESM)
30


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
với năng lực cho vay 700 tỷ Euro đã đóng
một vai trò quan trọng giải quyết khủng
hoảng nợ quốc gia trong khu vực đồng
Euro gần đây. Trong sự thay đổi của thời
thế, IMF trở thành một cầu thủ hạng B
trong sân chơi của các thoả thuận tài chính
trong khu vực. Các nước BRICS đã và
đang xây dựng một thỏa thuận tiền tệ trị giá
100 tỷ USD và công việc đang tiến triển
khá thuận lợi. Giao dịch hoán đổi tiền tệ
song phương cũng đã và đang được thiết
lập hay mở rộng trong thời gian gần đây.
Các RFAs sẽ cung cấp một công cụ bổ
sung hiệu quả cho EMES để quản lý và
kiểm soát các biến động dòng vốn trong
điều kiện môi trường tài chính tiền tệ quốc

tế thiếu vắng cơ chế hoán đổi và hợp tác
của NHTW tại các nền kinh tế tiên tiến với
các EMEs lớn. Tuy nhiên, hiệu quả của các
RFAs vẫn cần thời gian để được kiểm tra.
Một câu hỏi cũng được đặt ra là cho dù
giao dịch hoán đổi tiền tệ song phương
hoặc khu vực mà chúng ta đang thấy có thể
là một sự thay thế hiệu quả hoặc tối ưu cho
hệ thống đa phương như IMF? Câu trả lời
tốt nhất cho câu hỏi này là những xu hướng
mới này là sự phối hợp tiền tệ quốc tế lớn
hơn, chứ không phải là sự thay thế hay sự
phân mảnh tài chính trên quy mô toàn cầu.
3. Một vài gợi ý cho Việt Nam
Việt Nam đã và đang chịu tác động
mạnh mẽ của những thay đổi trong diễn biến
kinh tế tài chính quốc tế mà UMP của các
AEs đóng vai trò là một trong những tác
nhân chính. Do đó, Việt Nam cũng cần có
những thay đổi linh hoạt trong việc hoạch
định chính sách tiền tệ, phát huy tích cực và
hạn chế những tác động tiêu cực từ UMP
của các quốc gia phát triển.
Thứ nhất, cần duy trì sự quản lý chặt
chẽ nhưng linh hoạt đối với các luồng vốn
quốc tế đặc biệt là các luồng vốn đầu cơ

vào bất động sản và chứng khoán bằng cơ
chế khuyến khích các dòng vốn đầu tư sản
xuất và dịch vụ, hạn chế các dòng vốn

mang tính đầu cơ bằng thuế hay các rào cản
kỹ thuật khác để giảm thiểu biến động bất
thường của các dòng vốn này.
Thứ hai, duy trì tỷ giá hối đoái ổn định
tương đối để tránh tình trạng đồng Việt
Nam bị định giá quá cao hay quá thấp do cả
hai thái cực này đều gây bất lợi cho nền
kinh tế.
Thứ ba, hạ lãi suất cho vay để đưa lãi
suất cho vay về tiệm cận với mức chung
của thế giới. Nhiều phân tích cho rằng lãi
suất của Việt Nam hiện nay quá cao so với
các nước trong khu vực. Ví dụ với xuất
khẩu, các doanh nghiệp của Việt Nam đang
vay với lãi suất là 9 - 11%/năm, trong khi
doanh nghiệp của các nước có mặt hàng
xuất khẩu cạnh tranh trực tiếp với Việt
Nam lại đang vay với lãi suất thấp hơn
nhiều: Trung Quốc là 6,6%, Thái Lan là
6,9%, Malaysia là 4,9%. Mặt bằng chung,
các doanh nghiệp Việt Nam đang vay với
lãi suất 11 - 13%/năm, trong khi các doanh
nghiệp FDI, nếu vay ở chính quốc để đầu
tư vào Việt Nam thì mức lãi suất vay rất
thấp: Hoa Kỳ, khoảng 3,3%/năm, Nhật Bản
là 1,5%, Hàn Quốc là 4,7%, Đài Loan là
2,9%... Sự chênh lệch về lãi suất trên đã và
đang là một bất lợi và là sức ép rất lớn đối
với các doanh nghiệp nội. Mặt khác nó
cũng là điều kiện để các dòng vốn đầu cơ

tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất đổ
vào. Hạ lãi suất sẽ là mũi tên trúng hai
đích, hỗ trợ, kích thích đầu tư và ngăn
chặn, giảm thiểu các nguồn vốn đầu cơ trục
lợi lãi suất.
Thứ tư, CSTT cần nhấn mạnh đến vai
trò hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
thay vì quá tập trung vào kiểm soát lạm
31


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
phát. Sau cú sốc lạm phát mạnh các năm
2008, 2010, 2011, Chính phủ và NHTW đã
ban hành và thực thi quyết liệt nhiều biện
pháp đồng bộ, đặc biệt là thực thi chính sách
tài chính và CSTT thắt chặt nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Điều này
đã giúp kinh tế vĩ mô đã ổn định. Tuy nhiên
tác dụng phụ của điều hành tài chính – tiền
tệ quá chặt, thậm chí đôi khi “giật cục”, đã

khiến nhiều khi nền kinh tế xét ở góc độ nào
đó bị "hạ cánh cứng", hệ thống doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Trong bối
cảnh hiện nay, khi mà môi trường kinh tế vĩ
mô khá ổn định, lạm phát ở mức thấp, việc
nới lỏng ở mức độ phù hợp chính sách tài
khóa và CSTT sẽ tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường và kích

thích phát triển kinh tế.

IMPACT OF THE DEVELOPED COUNTRIES’ NON-TRADITIONAL
MONETARY POLICY ON THE DEVELOPING COUNTRIES AND THE
IMPLICATIONS FOR VIETNAM
Huynh Cong Danh
Thu Dau Mot University
ABSTRACT
In recent years, the developed countries often apply the non-traditional monetary
policy with big change in the objectives, instruments and performance measures. Not only
the non-traditional monetary policy affects the developing countries or emerging countries
but its risk factors are also relevant to all countries. For Vietnam, the cautious approach,
the strict management of external capital flows, the flexible exchange rate policy
implementation, bringing asymptotically the lending rates to the general approaching level
in the world, the economic growth support and promotion instead of focusing too much on
the inflation control are the necessary measures to limit risks from changes in the nontraditional monetary policy from developing countries.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] IMF, “Monetary Policy Coordination and the Role of Central Banks”, April 2014, Rakesh
Mohan and Muneesh Kapur
[2] Nguyễn Đắc Hưng, Thành công trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2014, quan điểm và dự
báo năm 2015, Tạp chí Cộng sản, />Home/PrintStory.aspx?distribution=32356&print=true.
[3] Nguyễn Đức Thành, Kinh tế Việt Nam: Nhìn lại năm 2015 và triển vọng 2016, Tạp chí Tài
chính kỳ I tháng 1/2015.
[4] Nguyễn Thanh Hương, Các công cụ phi truyền thống của chính sách tiền tệ, Tạp chí Khoa học
Kinh tế (0866-7969), Trường Đại học Kinh tế – Đại học Đà Nẵng, số 4 (08), 2014.
[5] Quốc hội, Luật Ngân sách Nhà nước, số 83/2015/QH13, Hà Nội, 25/6/2015.
[6] Trần Đức Hiệp, Các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô ở Việt Nam: Năng lực và một số giới hạn
đặt ra, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 212 (II), 2015.
[7] Trần Thọ Đạt, Hà Quỳnh Hoa, Nguyễn Việt Hùng, Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ ở
Việt Nam giai đoạn 2001-2015 và phương án năm 2016, Tạp chí Tài chính, kỳ 1/2016





Ngày nhận bài: 20/8/2015
Chấp nhận đăng: 20/1/2016
32


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016

VAI TRÒ CHIẾN LƯỢC CỦA ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH
QUA ĐÁNH GIÁ CỦA BÁO CHÍ VÀ CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU
PHƯƠNG TÂY
Lê Đình Hùng
Học viện Chính trị Công an Nhân dân
TÓM TẮT
Đường 559 − đường mòn Hồ Chí Minh như dư luận phương Tây quen gọi là đỉnh cao
của sức sáng tạo trong chiến tranh nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Con đường góp phần quyết định thắng lợi của cuộc chiến. Nghiên cứu về nó sẽ góp
phần giải mã phần nào đó của sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam và giải thích góc
độ nào đó sự thất bại của một đạo quân đại diện cho một siêu cường hùng mạnh nhất thế
giới thời bấy giờ. Bài viết này trình bày một số nội dung được truyền thông và các học giả
phương Tây đánh giá về "đường mòn Hồ Chí Minh" trên các phương diện: vấn đề chiến
lược xuyên suốt cuộc chiến, nhận diện con đường chiến lược, lịch sử con đường, vai trò của
đường mòn Hồ Chí Minh trong chiến tranh giải phóng.
Từ khóa: chiến tranh, đường mòn Hồ Chí Minh, phương Tây
Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam
1954 – 1975, hầu hết các hãng thông tấn
nổi tiếng của phương Tây, đài truyền thanh,

truyền hình đều có phóng viên của mình ở
Đông Dương và những nhà báo xuất sắc
của phương Tây đều quan tâm đến "đường
mòn Hồ Chí Minh". Hãng Reuteurs, AFP,
các phóng viên chiến tranh của Hoa Kỳ...
đã viết về con đường này từ nửa đầu thập
kỷ 60 thế kỷ XX.

mòn Hồ Chí Minh", thì các nhà nghiên cứu
viết về đề tài này từ góc độ lịch sử của cuộc
chiến tranh, nghĩa là xem xét vị thế của nó
trong cuộc chiến. Cũng có nhà nghiên cứu
về lịch sử chiến tranh Việt Nam rất nổi
tiếng ở Hoa Kỳ hoặc châu Âu, nhưng họ
không trình bày riêng về con đường huyền
thoại này, tuy nhiên, tất cả họ đều ý thức
được và đều đề cập đến vị trí của con
đường này trong cuộc đấu tranh thống nhất
đất nước của nhân dân Việt Nam.
Trong những công trình nghiên cứu về
Đường mòn (The Trail), có nhiều bài viết
trực tiếp và gián tiếp về đường mòn Hồ Chí
Minh. Một số cuốn sách được xuất bản có
nội dung sâu bao gồm:
Cuốn The Blood Road: The Ho Chi
Minh Trail and the Vietnam War (Con
đường máu: Đường mòn Hồ Chí Minh và
cuộc chiến tranh ở Việt Nam) của tác giả

Đưa tin nhanh và nhiều nhất vẫn là các

hãng thông tấn, báo chí phương Tây nổi
tiếng như các hãng Reuteurs, Le Figaro,
New York Times... Các bài báo đưa tin về
chiến trường Đông Dương nói chung và
"đường mòn Hồ Chí Minh" nói riêng tỷ lệ
thuận với mức độ Hoa Kỳ tăng cường leo
thang chiến tranh ở Việt Nam.
Nếu như các phóng viên phương Tây
đưa tin thời sự nhiều và nhanh về "đường
60


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
John Prados, xuất bản năm 1998 tại New
York. Cuốn RLG Operations and Activities
in the Laotian Panhandle do Soutchay
Vongsavanh, một quân nhân viết
(Washington DC: US Army Center of
Military History, xuất bản năm 1980). Tác
phẩm này tập trung phân tích các cuộc
hành quân và bắn phá của đối phương đối
với phần đường mòn "vùng cán xoong"
trên đất Lào. Cuốn The War Against
Trucks, Aerial Interdiction in Southern
Laos, 1968 - 1972 (Cuộc chiến của không
lực chống xe vận tải ở Nam Lào 1968 1972) do Bernard C. Nalty viết
(Washington DC: US Air Force History
and Museums Program, 2005). Cuốn Rain
of Fire, Air War 1969 - 1973 (Mưa lửa,
chiến tranh trên không 1969-1973) của

Morocco
John
(Boston
Publishing
Company, 1985) viết về chiến tranh không
quân của Hoa Kỳ ở Đông Dương tại chiến
trường Lào và Campuchia. Keith Nolan
viết về cuộc hành quân Lam Sơn II/719
(Into Laos: The Story of Dewey Canyon II/
Lam Son 719, Vietnam 1971) có nội dung
chiến dịch bịt đường mòn ở đường 9 - Nam
Lào (Novato CA: Presidio Press, 1986).
Frank Snepp với cuốn Decent Interval
(Khoảng cách hợp lý), New York: Random
House, 1977, đã nhìn lại cuộc chiến khi nó
đã kết thúc và trong bối cảnh đó tác giả có
nêu vai trò của tuyến "đường mòn Hồ Chí
Minh" trong cuộc chiến tranh kéo dài hai
thập kỷ. Có thể nêu một số nội dung nghiên
cứu chính mà truyền thông và các học giả
phương Tây đạt được về "đường mòn Hồ
Chí Minh" như sau:
1. Đường mòn Hồ Chí Minh - vấn đề
chiến lược xuyên suốt cuộc chiến
Trong con mắt của các nhà quan sát,
giới khoa học phương Tây, đường mòn Hồ
Chí Minh là một “câu chuyện huyền thoại”

và bản thân nó đã chứa đựng hàng trăm
ngàn sự kiện chồng xếp lên nhau, kéo dài

suốt 16 năm của cuộc chiến tranh. Nó được
quan tâm như là một trong những sự kiện
hàng đầu của cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ
tiến hành ở Việt Nam.
Một điều lý thú là, nếu như hầu hết các
sự kiện liên quan đến lịch sử quan trọng của
cuộc chiến trên chiến trường Đông Dương
được đánh giá rất khác nhau, thì ngược lại
"đường mòn Hồ Chí Minh" được truyền
thông và giới nghiên cứu phương Tây đánh
giá khá thống nhất: đó là tuyến đường huyết
mạch có tính chất quyết định chiến lược
trong cuộc chiến. Ngay trong lúc cuộc chiến
đang nổ ra cũng như sau này khi chiến tranh
đã qua đi, các bài báo, các công trình nghiên
cứu nước ngoài đã xem đường mòn là huyền
thoại, là biểu tượng của khát vọng độc lập,
là nhân tố sống còn đối với cuộc chiến đấu
của nhân dân miền Nam.
2. Nhận diện con đường chiến lược
Trong một số cuốn từ điển quân sự của
một số quốc gia đã nêu định nghĩa về
"đường mòn Hồ Chí Minh". Họ khái quát
các thông tin cụ thể: đó là một hệ thống
đường dài 1.200 dặm bao gồm đường vận
tải xuyên rừng và đường mòn chạy song
song với vùng rừng núi miền Trung Việt
Nam được miền Bắc Việt Nam sử dụng là
một tuyến đường huyết mạch làm giao liên,
vận chuyển phương tiện và quân đội tới

miền Nam trong thời gian chiến tranh.
Theo mô tả của báo chí và các nhà
quan sát phương Tây, trên con đường dài
hàng ngàn dặm luồn lách dưới tán lá rừng
nhiệt đới xum xuê đó, có hàng trăm điểm
được chọn làm các vị trí đồn trú, đóng
quân... (quân đội nhân dân Việt Nam gọi là
binh trạm) để bảo vệ hệ thống đường trọng
yếu này. “Để tránh bom, các đơn vị vận tải
thường chỉ chạy khi trời tối, cao điểm là lúc
61


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
gần sáng. Khi máy bay Mỹ tới, giao thông
sẽ dừng lại cho đến khi trời gần sáng, khi
các máy bay ném bom và bắn phá ban đêm
trở về căn cứ. Rồi xe lại chạy, cao điểm
tiếp theo là khoảng 6 giờ sáng khi các lái xe
cố gắng đưa xe về điểm tập kết trước khi
mặt trời mọc và các đợt máy bay buổi sáng
bắt đầu”(1:218). Một trong những điểm chiến
lược của đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh
là đèo Mụ Giạ, điểm xuất phát của con
đường mòn từ buổi đầu lịch sử. Dù sau này
cột mốc số "0" được đặt ở thị trấn Lát thuộc
miền tây Nghệ An, nhưng điểm xuất phát
của tuyến đường từ đỉnh đèo Mụ Giạ vẫn
được báo chí phương Tây ghi nhận là vị trí
quan trọng nhất trong quá trình tuyến

đường vươn dài vào phía Nam.
"Đường mòn Hồ Chí Minh" được báo
giới nước ngoài miêu tả là đủ rộng cho 2 xe
cơ giới tránh nhau, thành một hệ thống
phức hợp bao gồm đường giao liên, các căn
cứ đồn trú đóng quân, trạm sửa chữa, bệnh
viện, kho hậu cần... Các điểm này có
khoảng cách chừng một ngày đường đi bộ,
khoảng trên dưới 20 dặm. Hàng trăm cứ
điểm này đã kéo nối hệ thống đường từ đầu
Trường Sơn (cả phía đông và phía tây) rồi
vượt qua biên giới Việt Nam sang và cả đất
Lào và vùng Đông Bắc Campuchia. Có 5
khu căn cứ lớn trong “vùng cán xoong” của
Lào. Căn cứ 604 là trung tâm hậu cần
chính; từ đó, quân và quân nhu được điều
phối vào Vùng 1 chiến thuật của Việt Nam
Cộng hòa và các căn cứ khác xa hơn ở phía
Nam. Căn cứ 611 hỗ trợ vận tải từ căn cứ
604 tới căn cứ 609; cung cấp xăng dầu và
đạn dược cho căn cứ 607 và tới tận thung
lũng A Sầu ở Thừa Thiên. Căn cứ 612 được
dành để hỗ trợ Mặt trận B3 tại Tây Nguyên.
Căn cứ 614 nằm giữa Chavane (Lào)
và Khâm Đức (Nam Việt Nam) vận chuyển
quân và hàng hóa vào Vùng 2 chiến thuật

và Mặt trận B3. Căn cứ 609 giữ vai trò
quan trọng, do mạng lưới đường ở đây có
thể dùng để vận chuyển quân nhu trong

mùa mưa(2:12). Vào nửa đầu thập kỷ 60, các
cuộc chuyển quân từ phía Bắc vào Nam
phải mất nửa năm. Với việc xây dựng
nhanh trong những năm 1965 - 1967, các
chuyến xe cơ giới đã đưa hàng cho chiến
trường giảm thời gian từ 6 tháng xuống 1
tháng. Nhưng nguy hiểm về sốt rét rừng và
thú rừng thì vẫn đe dọa thường xuyên
không thay đổi. Dù tuyến đường này phát
triển theo cuộc kháng chiến của nhân dân
Đông Dương, nghĩa là luôn hướng vươn về
khu đô hội nhưng nói chung nó chủ yếu
chạy qua địa bàn được mô tả là vùng xa
xôi, biệt lập và chưa phát triển.
Dù lầy lội, mùa mưa ngập chìm trong
nước, sạt lở vì mưa xói và bom đạn, có khi
chỉ di chuyển được khoảng vài dặm một
ngày, nhưng hệ thống đường Hồ Chí Minh
phát triển rất nhanh và trở thành hệ thống
đường liên hợp, kết hợp nhiều nhánh đơn,
kép... cho vận tải đường bộ (mang, vác, xe
đạp, voi), cơ giới, thuyền bè... được ví như
"trận đồ bát quái xuyên rừng rậm".
3. Lịch sử con đường
Báo chí và các công trình nghiên cứu
của phương Tây nêu sơ lược sự phát triển
của đường Hồ Chí Minh như sau: "Đường
mòn Hồ Chí Minh" ra đời vào ngày 19
tháng 5 năm 1959 lịch sử. Nhưng thực ra
đường mòn có từ cuộc chiến tranh Đông

Dương lần thứ nhất (1945 - 1954); có một
cung đoạn ở miền Trung (phần thuộc Nam
Khu 5) từng được đặt tên là đường Hồ Chí
Minh. Sau này, trong thời gian thực hiện
300 ngày chuyển quân tập kết, lực lượng vũ
trang Việt Minh đã men theo chân núi phía
đông Trường Sơn ra miền Bắc. Mấy năm
sau, một số người đã quay về miền Nam
bằng cách đi lần ngược lại con đường họ
62


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
từng tập kết. Đó là đoạn đường đầu tiên của
"đường mòn Hồ Chí Minh" trong những
năm từ 1959 đến vài năm đầu thập kỷ 60.
“Trong những năm đầu của Chiến tranh
Đông Dương, Việt Minh đã sử dụng hệ
thống đường mòn này làm đường nối liền
Bắc Nam, một trong các tuyến đường đưa
cán bộ di chuyển giữa hai miền để tránh sự
truy quét của quân Pháp. Tháng 5 năm
1958, các lực lượng thuộc Quân đội Nhân
dân Việt Nam và Pathet Lào đã chiếm giữ
các nút giao thông tại Sepon (Tchepone),
trên đường 9 thuộc địa phận Lào”(8:15).
Trong thời gian đầu, nó thực sự là con
đường mòn nối từ địa bàn phía nam của
miền Bắc đến đèo Mụ Giạ. Khoảng từ năm
1961 trở đi, “Đoàn 559 đã chuyển các

tuyến giao thông của mình sang sườn Tây
của dãy Trường Sơn”(8:15). Từ "vùng cán
xoong" đến ngã ba Atôpơ, sau đó xuống
phía đông Campuchia rồi vào Việt Nam.
Từ năm 1961 đến 1967, hệ thống đường
phát triển ở vùng Nghệ An đến sát biên giới
Campuchia. Năm 1967, một nhánh khác
nối từ cảng Xihanúcvin tiến lên phía bắc
Campuchia. Đây là nhánh "đường Hồ Chí
Minh trên đất Campuchia" và tuyến này nối
với tuyến phía bắc xuống tạo nên hệ thống
đường Hồ Chí Minh khá hoàn chỉnh ở
Đông Dương.
Sau sự kiện đảo chính ở Campuchia
năm 1970, hệ thống đường Hồ Chí Minh
được nới rộng ở vùng Tây Bắc và Đông
Campuchia. Đến năm 1973, hệ thống
đường Hồ Chí Minh đã có nhiều làn đường
nối từ miền Bắc vào khắp các chiến trường
miền Nam “bao gồm một con đường (rải
sỏi và đá vôi) rộng hai làn xe, chạy từ các
cửa khẩu ở Bắc Trung Bộ tới dãy Chu
Pông ở miền Nam. Năm 1974, đã có 4 làn
hoàn chỉnh từ Tây Nguyên đến tận tỉnh Tây
Ninh ở phía tây bắc Sài Gòn. Đường ống

dẫn dầu duy nhất đã từng kết thúc tại thung
lũng A Sầu nay bao gồm 4 đường (đường
lớn nhất có đường kính 200 mm) kéo về
phía Nam tới tận Lộc Ninh”(8:371). Theo tính

toán của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, tổng độ
dài của nó vào cuối cuộc chiến tranh là
5.645km (Con số này gần bằng 1/3 số liệu
của Hà Nội – khoảng 20.000km). Trong
năm 1961 số quân vào Nam theo đường
Trường Sơn là 5.843, năm 1962 12.675
(con số thực là 5.300); năm 1963 7.693
(thực tế 4.700); và năm 1964 là 12.424
(thực tế là 9.000). Năm 1964, khả năng
cung ứng của đường Trường Sơn đã đạt
đến từ 20 đến 30 tấn mỗi ngày. Năm 1965,
nhờ có các tuyến đường mới mở (trong đó
có các tuyến đi qua Campuchia), lượng
quân nhu được chuyển vào Nam trong năm
này gần bằng tổng của 5 năm trước(8:45).
“Năm 1966, Mỹ ước tính tổng số quân vào
Nam qua đường Trường Sơn là từ 58.000
đến 90.000 người, trong đó có ít nhất 5
trung đoàn hoàn chỉnh”(8:182).
Dựa vào trục Trường Sơn, đường Hồ
Chí Minh kéo dài từ Bắc xuống Nam Đông
Dương với hai hệ thống chính là đường ô tô
và đường bộ. Theo tư liệu tổng kết của Hoa
Kỳ, đường ô tô nối từ phía tây Nghệ An
đến tận vùng Mỏ Vẹt (Tây Ninh). Đường ô
tô bám phía tây Trường Sơn và có nhiều
nhánh rẽ từ trục chính xuống các tỉnh miền
Nam. Song song với đường vận chuyển
bằng phương tiện cơ giới, là hệ thống
đường đi bộ và gùi mang vác. So với hệ

thống vận chuyển cơ giới, đường đi bộ có
phần bó sát vào phía tây dãy Trường Sơn
và thâm nhập sâu vào nội địa miền Nam.
Hệ thống đường đi bộ xuyên Trường Sơn
có nhiều nhánh nối ngang vào các tỉnh từ
trung phần miền Nam đến địa phận nam
Tây Ninh.
63


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
4. Vai trò của đường mòn Hồ Chí
Minh trong chiến tranh giải phóng
Cách mở đầu cho cuộc chiến tranh giải
phóng của Việt Nam từng gây bất ngờ
chiến lược cho Hoa Kỳ, điểm mở đầu đó
dựa vào sự lợi hại chiến lược của đường Hồ
Chí Minh lịch sử. Các tư liệu đã công bố ở
Hoa Kỳ cho thấy, ngay từ năm 1954, Hoa
Kỳ đã hướng sự chú ý về khu phi quân sự
Nam - Bắc vĩ tuyến 17. Họ từng tính toán
rằng cuộc chiến do miền Bắc khởi sự sẽ bắt
đầu từ phía bên kia chiến tuyến với một kịch
bản của chiến tranh xảy ra sẽ giống như ở
Triều Tiên - nơi những quân đoàn chủ lực
miền Bắc với xe tăng Liên Xô ào ạt vượt qua
vĩ tuyến 38 sang đất Đại Hàn. Hình dung như
vậy, nên họ cho rằng chiến tranh ở Việt Nam
sẽ bắt đầu từ việc "Việt Cộng" đánh tràn qua
vĩ tuyến 17 xuống phía Nam. Vì thế,

Washington đã quan sát mọi động tĩnh của
đối phương ở khu phi quân sự. Động thái này
thể hiện qua tâm trạng của tướng Sammuel
Williams, trưởng phái đoàn quân sự Hoa Kỳ
tại Việt Nam vào tháng 12 năm 1955: "Tôi
đã nghỉ hè ở ngoài Việt Nam. Tướng
Williams ở lại chỗ tôi. Ông ta nói với tôi ông
ta đã vui Noel và năm mới với quân đội Nam
Việt Nam trong khu phi quân sự giữa Bắc
Việt Nam và Nam Việt Nam và chưa bao giờ
trong đời ông, ông cảm thấy cô đơn đến thế!
Ông đã nhận được nhiều báo cáo về cuộc
chuyển quân Bắc Việt Nam có xe tăng Xô
Viết và pháo binh yểm trợ đến vùng biên giới
này. Ông thường xuyên tưởng tượng đến một
cuộc xâm lăng quy mô của các lực lượng
cộng sản... Ông ta đã chiến đấu ở Triều Tiên.
Tại đây những người cộng sản đã tung lực
lượng của họ không che đậy vượt qua biên
giới. Và ông ta nhớ bài học ấy"(4:337).
Lo sợ quân đội nhân dân ở miền Bắc,
nên ngay trong thời gian đầu vừa về nước
chấp chính, dù trong tay mới chỉ có 03 sư

đoàn quân chiến đấu, nhưng Ngô Đình
Diệm vẫn phải "cắm" phía nam Bến Hải 01
sư đoàn, đề phòng bộ đội miền Bắc tràn
qua vĩ tuyến 17. Dù rằng ở vào thời điểm
ấy, ở Sài Gòn - Nam Bộ, có rất nhiều mối
nguy tiềm tàng khác đang rình rập và sẵn

sàng nhấn chìm vận mệnh chính trị của
Ngô Đình Diệm.
Nhưng Hoa Kỳ và cả Sài Gòn không
tính được bài toán là hướng đột kích của
lực lượng cách mạng nhằm giải phóng
miền Nam sẽ bắt đầu từ vị trí nào. Những ý
đồ chiến lược của Hà Nội đã vượt ra ngoài
sự tính toán của Washington và của Sài
Gòn. Cuộc chiến lại xuất phát từ một con
đường mòn mà ít ai ở Hoa Kỳ hình dung
được. Chính các đoàn quân từ miền Bắc,
ngày càng đông đảo, đã vượt rừng núi, tạt
sườn quân đội Sài Gòn và Hoa Kỳ từ phía
Tây Nguyên - Trường Sơn.
Khi phát hiện được con đường "thâm
nhập" của bộ đội miền Bắc qua rừng thẳm
Trường Sơn, Hoa Kỳ và Sài Gòn đã đối
phó quyết liệt. Hoa Kỳ quan niệm rằng,
nguồn gốc nổi dậy và sự thành bại của Sài
Gòn trong việc có thể đè bẹp "nổi loạn"
(quan niệm của họ cho rằng phong trào đấu
tranh của nhân dân miền Nam là cuộc nổi
loạn) của nhân dân miền Nam hay không
hoàn toàn phụ thuộc vào việc có cắt đứt
được con đường "thâm nhập" của miền Bắc
vào Nam hay không. Hoa Kỳ cho rằng, cội
nguồn sức mạnh của các cuộc "nổi loạn" ở
miền Nam phụ thuộc vào miền Bắc, vào sự
chi viện của con đường huyết mạch,
"đường mòn Hồ Chí Minh".

Bởi vậy cuộc đấu tranh giữa lực lượng
mở rộng đường chiến lược với lực lượng
"bịt kín" con đường đó trở thành một nội
dung quan trọng nhất, căn bản nhất trong
toàn bộ cuộc chiến của hai bên ở chiến
trường miền Nam nói riêng và điều đó
64


Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
đúng cho cả chiến trường Đông Dương nói
chung. Cũng vì thế, báo giới và các nhà
nghiên cứu nước ngoài tập trung tìm hiểu
về tuyến đường Hồ Chí Minh, tập trung
miêu tả về cuộc chiến quyết liệt giữa hai
lực lượng "thâm nhập" (Infiltrator) và
chống thâm nhập diễn ra ngày càng sôi
động ở hai bên dãy Trường Sơn hùng vĩ xương sống của tuyến đường Hồ Chí Minh.
Những tờ báo thạo tin đã đăng tải khá
sớm về các cuộc hành quân do thám, quấy
phá của quân đội Sài Gòn trên trục đường
vận tải 559 trong thời gian Hoa Kỳ thực
hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Tuy
nhiên, hầu hết các toán thám báo, trinh sát
của quân đội Sài Gòn khi lùng sục khu vực
đường 559 đã không thể hoàn thành nhiệm
vụ mà còn bị tiêu diệt. Theo dư luận
phương Tây, trong thời gian này, dường
như chỉ có các toán biệt kích của tướng
Vàng Pao mới gây được một số tổn thất

cho lực lượng bộ đội 559 ở phía tây Trường
Sơn.
Theo đánh giá của một số quan chức
Hoa Kỳ thì tại Lào, lực lượng của Vàng
Pao được CIA hậu thuẫn đã quấy rối, phá
hoại các lực lượng Bắc Việt và Pa-thét Lào
trên tuyến đường Hồ Chí Minh có hiệu quả
hơn lực lượng Sài Gòn đánh phá đường 559
trên phần đất Việt Nam. Một số báo chí
miêu tả các bộ tộc người Mẹo (người
H'mông) tỏ ra không thiện cảm đối với
những "traditional enemies" (địch thủ
truyền thống) là người Trung Quốc và Việt
Nam. Nhóm người này theo Vàng Pao,
được nhân viên của CIA huấn luyện và
trang bị theo kiểu du kích phối hợp cùng
các lực lượng "mũ nồi xanh" hoạt động
mạnh ở phía đông Lào giáp Việt Nam. Lực
lượng này tấn công các đơn vị Việt Nam và
Pa-thét Lào trên đường hành quân; phát
hiện các tuyến đường mòn, kho hàng và

phương tiện vận chuyển. Hiệu quả của
chương trình này như Giám đốc CIA Uy-liam Côn-bi (William Colby) đã viết rằng nó
khác với những gì CIA thu được ở Việt
Nam: "Ở Lào, sự trái ngược với các trận
chiến đấu ở Việt Nam thật rất ấn tượng.
Lực lượng H'mông đánh du kích: họ tiến
hành phục kích, tập kích quân đội Bắc Việt.
Khác với các trận chiến đấu ở Nam Việt

Nam, vai trò của hai bên ở đây đã đảo
ngược"(15:248).
Từ năm 1965, Lầu Năm Góc đánh giá
rằng, trong cuộc chiến ở miền Nam, lực
lượng đối phương chỉ sử dụng trung bình
khoảng 60 tấn vật liệu chiến tranh mỗi
ngày và điều này miền Bắc có thể đáp ứng
được, vì tính ra như vậy chỉ cần đưa
khoảng 12 đến 15 xe tải vào chiến trường là
đáp ứng được yêu cầu chiến tranh. Hoa Kỳ
tính toán rằng, trung bình hàng năm Hà Nội
huy động đến 25.000 xe tải vận chuyển
hàng cho miền Nam. Dù một số lượng xe
khá lớn đã bị đánh cháy, nhưng Trung
Quốc và Xô Viết đã chi viện đủ bù số thiệt
hại đó và hàng ngày vẫn có thể có hàng
trăm xe từ miền Bắc vào đến các chiến
trường phía Nam (riêng trong 06 tháng đầu
năm 1965 Hoa Kỳ tính được có ít nhất
2.294 xe tải miền Bắc vượt qua đèo Mụ Giạ
vào Nam)(14).
Trong chiến lược "chiến tranh cục bộ",
Hoa Kỳ đã sử dụng tối đa lực lượng không
quân đánh phá huỷ diệt tuyến đường Hồ
Chí Minh. Chất độc trụi lá, bom phát
quang, bom napan, B.52 đánh phá ác liệt
mọi tuyến trên đường Hồ Chí Minh. Các
thành tựu khoa học mới nhất như sử dụng
mưa nhân tạo, cây nhiệt đới... và cả hàng
rào điện tử nổi tiếng được Hoa Kỳ sử dụng

nhằm phát hiện và huỷ diệt lực lượng và
phương tiện chiến tranh đang được đối
phương vận chuyển trên đường. Nhưng mọi
65


Scientific Journal of Thu Dau Mot University, No 1 (26) – 2016
cố gắng của Hoa Kỳ và Sài Gòn dù gây cho
miền Bắc nhiều khó khăn, thiệt hại trong
quá trình chi viện cho miền Nam qua mọi
ngả đường 559, vẫn không ngăn cản được
người và của từ miền Bắc vẫn tuôn chảy
vào chiến trường.
Dưới thời tổng thống Richard Milhous
Nixon, cuộc chiến tranh trên bộ đã mở rộng
ra toàn cõi Đông Dương. Trong các đợt
hành quân của Hoa Kỳ và Sài Gòn ở thời
gian đầu của chiến lược "Việt Nam hoá
chiến tranh", quân đội Hoa Kỳ và Sài Gòn
tập trung lực lượng đánh phá trục đường
vận tải chiến lược 559. Nước cờ của đối
phương tính toán trong giai đoạn này có
khác trước. Bởi trước kia Hoa Kỳ và Sài
Gòn sử dụng biệt kích, máy bay... không
chặn được con đường mòn, thì nay dùng
lực lượng quân đội ra chăng kín đường tiếp
tế của Việt Cộng! Trong tính toán mới này,
cuộc hành quân Lam Sơn 719 (năm 1971)
thể hiện ý đồ rõ nhất của Hoa Kỳ và Sài
Gòn là đưa lực lượng bộ binh ra lấp kín, cắt

ngang và từ đó chặn đứng đường Hồ Chí
Minh đoạn từ đường 9 - Nam Lào đến Sê
Pôn.
Cuộc hành binh Lam Sơn 719 là đỉnh
cao trong quá trình lịch sử xuyên suốt cuộc
chiến tranh về ý đồ của Hoa Kỳ và Sài Gòn
nhằm cố gắng đánh phá, cắt đứt tuyến vận
tải chiến lược đường 559 của đối phương.
Vì thế, các phóng sự và bài viết của các nhà
báo, nghiên cứu phương Tây tập trung rất
nhiều vào chủ đề cuộc hành quân Lam Sơn
719. Các nhà bình luận phương Tây đã chỉ
ra thất bại thảm hại trên cả ba mục tiêu và ý
đồ chiến lược của Hoa Kỳ và Sài Gòn khi
xua quân lên hòng chiếm đóng toàn tuyến
đường 9 - Nam Lào. Các bài báo phương
Tây thời gian này đã miêu tả cuộc hành
quân của Sài Gòn thất bại thảm hại, đặc
biệt họ đưa tin máy bay trực thăng của Hoa

Kỳ "bị rụng như sung" ở Nam Lào. Các
phóng viên nhận định rằng, trong chiến
tranh Đông Dương, chưa bao giờ trực thăng
Hoa Kỳ bị bắn hạ ở "mức độ kinh hoàng"
như ở đường 9 - Nam Lào. Theo Keith
Nolan có “108 trực thăng bị bắn rơi (chiếm
10% số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong
cả Chiến tranh Việt Nam) và 618 chiếc
khác bị bắn hỏng”(9). Việc Bộ Tư lệnh tiền
phương của quân lực Sài Gòn bị bắt sống

được báo chí phương Tây đăng tít đậm trên
trang nhất.
Sự thất bại của cuộc hành quân Lam
Sơn 719 báo hiệu sự phá sản của chiến lược
"Việt Nam hoá chiến tranh" và đồng thời
nó cũng chấm dứt quá trình cố gắng đánh
phá của Hoa Kỳ và Sài Gòn nhằm ngăn
chặn con đường huyết mạch - tuyến vận tải
chiến lược đường Hồ Chí Minh trên bộ.
“Trong năm 1971 Quân đội Nhân dân Việt
Nam chiếm Paksong và tiến tới Pakse tại
trung tâm cao nguyên Bolovens. Năm sau,
Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm được
Khong Sedone… Cũng năm 1971, "đường
kín" dưới tán rừng bắt đầu được xây dựng.
Đến năm 1973, xe tải có thể chạy suốt dọc
đường mà không ra khỏi mái ngụy trang,
ngoại trừ khi đi qua suối cạn hay vượt suối
qua các ngầm (loại cầu được xây ngay dưới
mặt nước). Trong năm đó, các cứ điểm của
các Lực lượng Đặc biệt của Mỹ tại Khe
Sanh và Khâm Đức (cả hai đều do SOG sử
dụng làm các căn cứ tiền phương cho các
hoạt động biệt kích chống phá đường
Trường Sơn) đều bị bỏ hoặc đánh
bại”(1:295).
Việt Nam là một đất nước đất không
rộng, người không đông, có hình chữ S có
chiều dài hàng ngàn km, mà chiều ngang
tính từ Tây sang Đông - từ Trường Sơn ra

biển Đông rất hẹp, có nơi chỉ có mấy chục
km. Trong cuộc chiến đấu chống một
66


×