Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

đề CƯƠNG ôN THI đạo đức học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.76 KB, 20 trang )

ĐỀ MÔN: ĐẠO ĐỨC HỌC
Câu 1. Nguồn gốc, bản chất của đạo đức?
Trả lời:
Đạo đức xuất hiện từ rất sớm, từ khi xuất hiện xã hội loài người. Đạo đức được hiểu
là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều
chỉnh hành vi, đánh giá ứng xử con người trong quan hệ với nhau và với xã hội, chúng
được thực hiện bằng niềm tin cá nhân, truyền thống dân tộc và sức mạnh dư luận xã hội.
Về nguồn gốc của đạo đức. Trước hết, các quan niệm ngoài Mác xít, theo quan điểm
của tôn giáo, xem đạo đức là sản phẩm của thần thánh, chúa trời tạo ra, hay Phật giáo, đạo
đức gắn liền với quan niệm về cuộc đời, “tứ diệu đế”; Nho giáo, đạo đức gắn liền với bậc
quân tử, nguồn gốc là do trời định sẵn. Như vậy, theo quan niệm tôn giáo, đạo đức được
nảy sinh từ lòng tin tôn giáo, mọi nguyên tắc, chuẩn mực của con người đều do thần
thánh, chúa trời ban phát cho.
Quan niệm của duy tâm tìm đạo đức trong ý thức tư tưởng, lực lượng siêu nhiên nào
đó. Duy tâm chủ quan cho rằng đạo đức là cái vốn có của lý trí con người. Ý chí đạo đức
hay là “thiện ý” theo cách gọi của Cantơ: là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có
trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của
con người. Duy tâm khách quan, đại diện là Platon xem đạo đức bắt nguồn từ “ý niệm”,
con người chỉ là ý niệm; Hay Heghen: Con người và đạo đức con người là sự tha hóa ý
niệm tuyệt đối.
Những nhà duy vật trước Mác, tiêu biểu là Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức trong
quan hệ của con người. Nhưng với ông, con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến,
nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan niệm Đác-uyn xã hội cho rằng, những phẩm chất đạo đức của
con người là đồng nhất với những bản năng bầy đàn của động vật. Đạo đức chỉ là những
năng lực được đem lại từ bên ngoài con người, ngoài xã hội.
Thứ hai, theo quan niệm Mác xít, Mác và Ăng ghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh
do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Đạo đức là hiện tượng
xã hội, nó nảy sinh trong đời sống hiện thực người, chịu sự quyết của cơ sở kinh tế - xã
hội. Con người khi sống phải có “quan hệ song trùng”, một mặt tác động vào tự nhiên,
một mặt con người phải quan hệ với nhau để tác động vào tự nhiên, vậy ngoài chịu sự quy


1


định của kinh tế, xã hội đạo đức còn phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh sống của con
người. Từ đó, đạo đức cũng được nảy sinh từ các hình thái xã hội khác như triết học, tôn
giáo, pháp luật,…
Như vậy, đạo đức không phải là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài
xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự biểu hiện của những năng
lực tiên nhiên, nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã
hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh
tế - xã hội. Ăng ghen cho rằng: Xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ.
Đạo đức sinh ra trước hết là do nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất
vật chất, trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát
triển. Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khác quan và chủ quan, là sản phẩm
của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người – người, cá
nhân – xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của chúng càng có tính chất xã
hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng có đạo đức.
Về bản chất của đạo đức. Xuất phát từ nguồn gốc ra đời của đạo đức mà các trường
phái cũng đưa ra bản chất đạo đức khác nhau.
Xét quan niệm ngoài Mác xít, theo quan niệm tôn giáo xem bản chất của đạo đức là
phản ánh ý chí của thượng đế, của chúa trời, các nguyên tắc, chuẩn mực là sản phẩm của
chúa trời tạo ra để cứu vớt nhân loại. Quan niệm duy tâm chủ quan mang đậm tính chủ
quan của cá nhân. Quan niệm duy tâm khách quan thì đạo đức mang bản chất của ý niệm
tuyệt đối chứ nó không mang bản chất xã hội. Quan niệm thuyết Đác_uyn đạo đức mang
bản chất tự nhiên giống như bản chất tộc loài của con vật.
Quan niệm Mác xít về bản chất đạo đức. Đạo đức xuất phát từ cơ sở kinh tế - xã hội,
nó gắn liền với đời sống kinh tế - xã hội của con người, do đó đạo đức luôn mang bản chất
xã hội, được hiểu theo nghĩa:
Thứ nhất, nội dung của đạo đức do hoạt động thực tiễn, tồn tại xã hội quy định, phạm

trù của đạo đức ở những hoàn cảnh khác nhau thì quan niệm khác nhau.
Thứ hai, sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của đạo đức được quy định do sự
hoàn thiện, phát triển của thực tiễn con người. Nói cách khác, nội dung khách quan của
2


các quan niệm, quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện cảu
trạng thái, một trình độ phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội, của cơ sở kinh tế.
Việc khẳng định tính qui định của cơ sở kinh tế đối với đạo đức cho phép nhìn nhận
sự biến đổi của đạo đức theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế. Phân tích mối quan hệ giữa cơ
sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng mà trong đó đạo đức là một yếu tố của nó. Mác cho
rằng: Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít
nhiều nhanh chóng.
Thứ ba, khi trong xã hội có sự phân chia về giai cấp, do mỗi giai cấp có lợi ích khác
nhau, cho nên quan niệm về chuẩn mực đạo đức khác nhau. Đạo đức cũng mang tính giai
cấp.
Đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội đã phản ảnh và khẳng định lợi ích của
mỗi giai cấp. Ý thức đạo đức giúp mỗi giai cấp hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những
cách thức, biện pháp bảo vệ và khẳng định lợi ích giai cấp. Mặt khác, mỗi giai cấp đều sử
dụng đạo đức của mình như là công cụ bảo vệ lợi ích của mình.
Như vậy, tính giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và sự thể hiện lợi ích của các giai
cấp. Mỗi giai cấp có những lợi ích riêng do đó nó cũng có những quan niệm đạo đức, hệ
thống đạo đức riêng. Những hệ thống đạo đức này có sự tác động khác nhau, triệt tiêu
nhau (nếu đối kháng), do đó mà tác động hoặc tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển và
tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức được áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là
hệ thống đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù, trong cuộc sống hàng ngày, mỗi giai cấp
vẫn ứng xử theo những lợi ích trực tiếp của mình.
Do chiếm được địa vị thống trị trong đời sống xã hội, giai cấp thống trị đã làm cho
đạo đức của mình trở thành yếu tố thống trị trong đời sống xã hội. Giai cấp thống trị nắm

khâu tuyên truyền điều khiển toàn bộ quá trình sản xuất tinh thần, trong đó có sản xuất các
giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích giai cấp của nó, và buộc mọi thành viên trong xã hội
phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức này. Từ đó, nó trở thành cái phổ biến trong xã hội
và được cũng cố thành thói quen, phong tục, tâm lí. Vì vậy, nó có sức sống dai dẳng trong
tâm lí xã hội và cá nhân. Còn giai cấp bị trị, do bị tước đoạt mất những điều kiện và tư liệu
sản xuất tinh thần các giai cấp bị thống trị không thể phát triển đạo đức của mình ngang
3


tầm với đạo đức của giai cấp thống trị. Hệ thống này luôn bị chèn ép và do đó kém phát
triển. Đạo đức của giai cấp bị trị không đủ điều kiện để ảnh hưởng đến toàn bộ các thành
viên của giai cấp mình. Nó tồn tại như cái không chính thống, không phổ biến bằng đạo
đức của giai cấp thống trị. Vì các giai cấp thống trị có điều kiện để sản xuất, tuyên truyền
và sử dụng đạo đức của mình trên phạm vi toàn xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp nhưng không phải vì vậy mà
phủ nhận tính nhân loại chung của đạo đức. Bản chất của đạo đức không thể thổi phồng
tính nhân loại chung của đạo đức để đi đến những quan niệm sai lệch về đạo đức trừu
tượng, về đạo đức phổ biến phi lịch sử, chẳng có tác dụng gì trong thực tiễn. Nhưng cũng
không được phủ nhận tính nhân loại của đạo đức. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở
hình thức thấp là biểu hiện của những quy tắc đơn giản, thông thường nhưng lại cần thiết
để bảo đảm trật tự bình thường cho cuộc sống hàng ngày của con người. Biểu hiện cao
hơn trong tính nhân loại của đạo đức lại ở những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng
giai đoạn phát triển của lịch sử những giá trị đạo đức này thường thường là những giá trị
đạt được ở giai cấp tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại. Đi
đến tột đỉnh các giá trị đạo đức của giai cấp tiến bộ của từng thời kỳ lịch sử, nhân loại sẽ
bắt gặp đạo đức của mình tương ứng với các thời kỳ lịch sử đó.
Thứ tư, đạo đức vừa mang tính dân tộc đồng thời mang tính nhân loại. Mỗi một dân
tộc có hệ thống chuẩn mực riêng, đồng thời cũng hòa chung vào những giá trị chung của
nhân loại. Chẳng hạn, tính nhân văn, nhân đạo.
Tóm lại, nguồn gốc của đạo đức không phải là từ sự “tiên nghiệm”, càng không phải

là lực lượng từ bên ngoài đưa vào xã hội, đạo đức là sản phẩm của xã hội vì thế đạo đức
mang bản chất xã hội.

4


Câu 2. Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật?
Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, pháp luật quan hệ mật thiết với
các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Chính những mối quan hệ này
đã góp phần thể hiện bản chất của pháp luật. Một trong những mối quan hệ mà chúng ta
luôn luôn phải nói đến là mỗi quan hệ của pháp luật và đạo đức.
Để nắm rõ hơn mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, trước tiên, ta cần hiểu được
khái niệm đạo đức và pháp luật cũng như những đặc điểm mang tính thống nhất và khác
biệt của hai vấn đế này.
Đạo đức được hiểu là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các quy tắc,
chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi, đánh giá ứng xử con người trong quan hệ với
nhau và với xã hội, chúng được thực hiện bằng niềm tin cá nhân, truyền thống dân tộc và
sức mạnh dư luận xã hội.
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do NN ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý
chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong, được NN bảo đảm thực hiện, kể cả bằng
biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội.
Đạo đức và pháp luật có sự thống nhất thể hiện ở ba điểm sau đây:
Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều có chung mục đích. Chúng là những phương tiện
điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội và hành vi của con người. PL và đạo đức đảm bảo
cho xã hội tồn tại và phát triển một cách ổn định và trật tự qua đó bảo vệ và định hướng
những quan hệ xã hội phù hợp với ý chí và lợi ích chung của cộng đồng xã hội và giai cấp
thống trị. Pháp luật và đạo đức còn là công cụ hướng hành vi của con người vào những
khuôn khổ trật tự nhằm đảm bảo hoạt động bình thường của xã hội.
Thứ hai của pháp luật và đạo đức là tính phổ biến và xu hướng phù hợp với xã hội.
ĐĐ và PL mang tính quy phạm phố biến, chúng đều là những khuôn mẫu chuẩn mực

trong hành vi của con người. Chúng tác động đến tất cả các cá nhân tổ chức trong xã hội,
tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống. Để có phạm vi ảnh hưởng lớn như vậy,
pháp luật và đạo đức phải có sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội ở mức độ nhất định.
Thứ ba, pháp luật và đạo đức đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Chúng là kết quả của quá trình nhận thức đời sống
của chính mình. PL và ĐĐ đều chịu sự chi phối, đồng thời tác động lại đời sống KT-XH.
5


Bên cạnh những điểm giống nhau, PL và ĐĐ có những điểm khác nhau cơ bản:
Về mặt lịch sử, đạo đức ra đời cùng sự tồn tại của con người. Pháp luật ra đời gắn với
sự ra đời của sự phân chia giai cấp.
Về con đường hình thành, pháp luật hình thành thông qua hoạt động xây dựng pháp lý
của nhà nước. Trong khi đó đạo đức được hình thành một cách tự phát do nhận thức của
cá nhân và cộng đồng.
Về hình thức thể hiện của pháp luật và đạo đức. Hình thức thể hiện của đạo đức đa
dạng hơn so với hình thức so với hình thức thể hiện của pháp luật, nó được biểu hiện
thông qua dạng không thành văn (văn hóa truyền miệng, phong tục, tập quán...) và dạng
thành văn (kinh, sách chính trị, tôn giáo, nghệ thuật,...) còn pháp luật lại biểu hiện rõ ràng
dưới dạng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
Về tính xác định của hình thức văn bản thì đạo đức mang tính chung, định hướng còn
pháp luật thì cụ thể, rõ ràng. ĐĐ chỉ nhằm định hướng cho con người nên con người cần
tự tìm tòi khám phá và qua dư luận mà điều chỉnh hành vi của mình một cách cụ thể.
Đạo đức có nguồn gốc giá trị lâu dài, khi con người ý thức hành vi tự họ sẽ điều
chỉnh hành vi đó. Do sự điều chỉnh đó xuất phát từ tự thân chủ thể nên hành vi đạo đức có
tính bền vững. Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, tác động bên ngoài, dù muốn hay
không người đó cũng phải thay đổi hành vi của mình. Sự thay đổi này có thể là không bền
vững vì nó có thể lập lại ở nơi này hay nơi khác nếu vắng bóng pháp luật.
Về tác dụng của đạo đức và pháp luật, đạo đức nghiêm cấm, khuyên răn điều gì đó
không xảy ra, cái chưa có, chưa xảy ra, không có và không nên có. Pháp luật xử lý, giải

quyết những cái đã có, đã xảy ra.
Về biện pháp thực hiện, pháp luật đảm bảo bằng nhà nước thông qua các bộ máy cơ
quan như cơ quan lập pháp, tư pháp, hành pháp, cảnh sát,... còn đạo đức lại được đảm bảo
bằng dư luận và lương tâm con người.
PL và đạo đức có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau.
Đầu tiên là tác động của đạo đức đến pháp luật, thứ nhất, đạo đức tác động đến
việc hình thành các qui định trong hệ thống pháp luật. Bất kỳ một hệ thống pháp luật nào
bao giờ cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng đạo đức nhất định. Đạo đức là môi
trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là một trong những chất liệu
6


làm nên các qui định trong hệ thống pháp luật. Những quan điểm, quan niệm, chuẩn mực
đạo đức đóng vai trò là tiền đề tư tưởng, chỉ đạo việc xây dựng pháp luật.
Sự tác động của đạo đức tới việc hình thành các qui định trong pháp luật diễn ra ở
nhiếu cấp độ. Ở cấp thấp nhất thì các qui phạm pháp luật được xây dựng không trái với
đạo đức xã hội. Ở cấp độ cao hơn thì các qui định được ban hành có sự thống nhất, phù
hợp với những quan niệm đạo đức. Ở cấp độ này thì đạo đức đã ảnh hưởng tới việc hình
thành qui định trong hệ thống pháp luật như thừa nhận một tập tục, tập quán đạo đức thành
tập quán pháp hay giải quyết một vấn đế, một vụ việc cụ thể dựa trên quan niệm đạo đức
trở thành tiền lệ pháp.
Trong đạo đức xã hội, đạo đức của giai cấp thống trị có ảnh hưởng đến PL mạnh mẽ
nhất vì bộ máy NN được cấu thành trước hết và chủ yếu từ các thành viên trong giai cấp
thống trị, hơn nữa giai cấp này còn có tiềm lực kinh tế, các công cụ tuyên truyền,... Những
chuẩn mực đạo đức truyền thống cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới pháp luật vì truyền thống
làm nên bản sắc dân tộc, truyền thống là cơ sở, động lực của phát triển.
Thứ hai, đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Sự tác động
này phụ thuộc vào hai yếu tố: sự phù hợp của đạo đức với pháp luật và ý thức đạo đức của
mỗi chủ thể cá nhân trong xã hội.
Sự phù hợp của đạo đức và pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc thực hiện pháp

luật. Nếu như PL được xây dựng phù hợp với đạo đức thì nó sẽ được công dân chấp hành
nghiêm chỉnh. Nhưng nếu như có những điều lệ mà pháp luật đưa ra trái với đạo đức thì
nó sẽ khó đi vào cuộc sống của mọi người và từ đó sẽ gây khó khăn trong việc thực hiện.
Thêm vào đó, chính ý thức đạo đức của mỗi cá nhân cũng ảnh hưởng tới việc thực
hiện pháp luật. Đạo đức là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp
luật. Những người có ý thức đạo đức cao thì trong mọi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực
hiện pháp luật. Trái lại những người có ý thức đạo đức thấp, sống trong môi trường đạo
đức thấp thì dễ vi phạm pháp luật.
Tiếp theo, là tác động của pháp luật tới đạo đức, thứ nhất, pháp luật dựa trên một
cơ sở đạo đức nhất định và ghi nhận, củng cố, bảo vệ những quan điểm, quan niệm, tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị, những giá trị đạo đức truyền thống.

7


Bằng cách này, pháp luật góp phần củng cố, giữ gìn, và phát huy các giá trị đạo đức
xã hội, bảo đảm cho đạo đức trở thành phổ biến hơn trên toàn xã hội, đồng thời nó góp
phần hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức, đảm bảo chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực
tế thông qua những biện pháp tác động của nhà nước.
Thứ hai, pháp luật giữ vai trò loại bỏ những quan niệm, tư tưởng đạo đức lạc hậu,
phản tiến bộ trong đời sống xã hội, đồng thời ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo
đức, ngăn chặn việc hình thành những quan niệm đạo đức trái với thuần phong mĩ tục của
dân tộc và tiến bộ xã hội.
Thông qua những qui định cụ thể, PL không cho phép hoặc cấm những hành vi thực
hiện theo những quan niệm, tư tưởng đạo đức xưa cũ, lạc hậu, không phù hợp với cuộc
sống hiện đại. Thêm vào đó, xã hội ngày nay, khi những cánh cửa hội nhập đang mở rộng
mang theo những ảnh hưởng của kinh tế, chính trị, văn hóa,... hoặc khi những giá trị đạo
đức truyền thống không còn được nhận thức đúng đắn, việc giáo dục đạo đức trong gia
đình và nhà trường bị coi nhẹ. Trong những trường hợp ấy, pháp luật là phương tiện, là
công cụ hữu hiệu nhất để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại đạo đức trong xã hội.

Liên hệ thực tiễn nước ta hiện nay:
Ở nước ta hiện nay, vị trí, vai trò cũng như mối quan hệ của pháp luật và đạo đức
ngày càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực.
Pháp luật được xây dựng để trở thành công cụ quan trọng nhất của nhà nước để quản
lý các quan hệ xã hội. Tuy vậy, đối với đời sống xã hội rộng lớn, phức tạp thì còn cần có
những công cụ phương tiện khác nữa, trong số đó đầu tiên phải nhắc đến đạo đức. Chính
vì vậy, tại Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định quan điểm:
“Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
Đồng thời, pháp luật phản ánh rõ nét tính thân nhân đạo - tư tưởng đạo đức cơ bản
của nhân dân ta. Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam được thể hiện rất rõ
trong các qui định về các chính sách xã hội của nhà nước. Nhà nước Việt Nam đã có nhiều
chính sách ưu đãi, quan tâm đặc biệt tới các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách
mạng, người già, trẻ em không nơi nương tựa, và người tàn tật.
Đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện cho pháp luật, tạo điều
kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống. Nhà nước ta thừa nhận tập
8


quán có thế thay thế cho pháp luật trong những trường hợp pháp luật chưa qui định và nội
dung tập quán không trái với các qui định pháp luật, ở chiều ngược lại, pháp luật đã góp
phần quan trọng trong việc, gìn giữ và phát huy các quan niệm đạo đức tốt đẹp, hình thành
những tư tưởng đạo đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, loại trừ
những tư tưởng đạo đức cũ lạc hậu, phản tiến bộ. Trong chừng mực nhất định, nhà nước
pháp luật hóa các quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành các quy phạm pháp luật - những
qui tắc xử sự tương đối cụ thể cho các chủ thể trong xã hội, xác định rõ hành vi được phép
thực hiện, các hành vi buộc phải thực hiện, các hành vi bị ngăn cấm.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp thì ranh giới điều chỉnh giữa đạo đức và pháp
luật chưa rõ ràng hay sự pháp luật hóa các quy tắc các quan niệm, quan điểm đạo đức
không cụ thể dẫn đến khó ứng dụng trong thực tế. Trên thực tế, đánh giá một hành vi nào
đó là trái hay không trái với đạo đức xã hội không phải là vấn đề đơn giản, cùng một hành

vi nhưng có thể có các đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Trong xã hội nhiều quan niệm, tư tưởng, ĐĐ cổ hủ, lạc hậu vẫn còn tồn tại mà chưa
bị ngăn chặn đúng mức cấn thiết, ví như tư tưởng gia trưởng, thói cá nhân chủ nghĩa, tư
tưởng địa vị, đẳng cấp, trọng nam khinh nữ,... vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ trong đại bộ
phận dân cư và hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu nhiếu qui định cấn thiết, đáng có.
Cuối cùng, đạo đức trong xã hội xuống cấp là nguyên nhân chính làm gia tăng các vi
phạm pháp luật cả vế số lượng và mức độ nghiêm trọng, ở mọi cấp độ: người dân, cán bộ,
công chức nhà nước và cả những vị trí trong bộ máy cấp cao của Đảng và Nhà
nước( Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH lần thứ 9: “Tình trạng tham nhũng (...) ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng” ). Nguyên nhân cơ bản là
sự nhận thức không đúng đắn về vai trò của đạo đức, nhất là đạo đức truyền thống.
Nói tóm lại, giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn
nhau, cả hai đều có vai trò trong sự điều chỉnh hành vi con người, hướng tới chân-thiệnmỹ. Đồng thời góp phần vào sự ổn định và đảm bảo cho sự phát triển của xã hội và của
cộng đồng.

9


Câu 3. Đạo đức mới? Tính quy luật của đạo đức mới?
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các quy tắc, chuẩn mực
xã hội nhằm điều chỉnh hành vi, đánh giá ứng xử con người trong quan hệ với nhau và với
xã hội, chúng được thực hiện bằng niềm tin cá nhân, truyền thống dân tộc và sức mạnh dư
luận xã hội.
Trước khi chủ nghĩa Mác – Lê nin ra đời, nhân loại đã trải qua hàng thập kỷ bàn về
đạo đức, đạo đức được xem là hình thái xuất hiện rất sớm, theo quan niệm Mác – Lê nin
thì có 5 kiểu đạo đức, trong đó có đạo đức của giai cấp công nhân chính là đạo đức mới.
Khái niệm: Đạo đức mới là đạo đức CM của GCCN là đạo đức cộng sản. Sự tồn tại
của đạo đức cộng sản là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu này do chính phương thức
sản xuất chủ nghĩa cộng sản quy định cũng như vai trò sứ mệnh lịch sử của GCCN.
Đạo đức mới có vai trò hết sức to lớn trong đời sống xã hội mới, điều đó có ý nghĩa

hết sức to lớn: Đạo đức mới là vũ khí tinh thần của GCCN trong quá trình xây dựng
CNXH cũng như trong cuộc đấu tranh chống lại GCTS; Đạo đức mới góp phần to lớn
trong việc nhân đạo hóa con người và XH hóa loài người và đạo đức mới cũng góp phần
thúc đẩy XH mới phát triển, ở đây đạo đức mới biểu hiện tính độc lập tương đối của nó
đối với tồn tại XH mới, đó là sự tác động trở lại của ý thức XH đối với tồn tại XH.
Trước khi đi sâu nghiên cứu đạo đức mới, chúng ta tìm hiểu sự hình thành của đạo
đức nói chung. Ở mức độ khái quát nhất, tính quy luật sự hình thành đạo đức được thể
hiện ở các điểm sau:
Một là, quy luật TTXH quyết định YTXH, quy luật này được hình thành trên cơ sở
luận giải YTXH là sự phản ánh TTXH do tồn tại xã hội quyết định ở đây ý thức đạo đức
với tư cách là một hình thái ý thức xã hội cũng chịu sự quyết định của tồn tại xã hội.
Hai là, về tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức đạo đức, lịch sử cho đến nay trải
qua năm hình thái kinh tế xã hội khác nhau và tương ứng với năm hình thái đó có năm
kiểu đạo đức khác nhau, các kiểu đạo đức sau thường kế thừa những yếu tố của các kiểu
đạo đức trước đó để bổ sung, hoàn thiện, phát triển thêm. Tất nhiên việc kế thừa, loại bỏ
cái gì phụ thuộc vào chủ thể kế thừa.
Ba là, tồn tại chung trong giai đoạn phát triển lịch sử, ý thức đạo đức không đứng độc
lập, riêng lẽ mà có sự tương tác, tác động qua lại giữa các ý thức xã hội khác, như: chính
10


trị, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học,.. sự tương tác này vừa mang tính bổ sung
hoặc chế ước quy định lẫn nhau.
Bốn là, trong xã hội có giai cấp, ý thức đạo đức mang tính giai cấp. Đặc biệt trong xã
hội có tính đối kháng giai cấp, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Đạo đức được giai
cấp thống trị quy định, sử dụng để thực hiện quyền thống trị của giai cấp mình.
Năm là, tiến bộ ĐĐ, nói cách khác trong quá trình vận động và phát triển về cơ bản
đạo đức có sự tiến bộ nhất định (tất nhiên có những bước thụt lùi – chẳng hạn như từ nền
đạo đức thuần nhất, thống nhất trong XH nguyên thủy chuyển sang chế độ nô lệ nó là
bước thụt lùi tương đối – Ăng ghen.) Tuy nhiên, lịch sử phát triển của XH loài người từ

thấp cho đến cao cho nên các kiểu đạo đức sau thường tiến bộ hơn các kiểu đạo đức trước
đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có
gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai
chân đứng vững xuống đất, đầu ngẫng lên trời.
Thực chất của đạo đức cộng sản như Lênin nói: Đạo đức, đó là những gì góp phần
phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản.
Như vậy, đạo đức mới cũng được hình thành và phát triển theo quy luật chung đó,
tính quy luật này được thể hiện:
Thứ nhất,
thành trong cu c

o

c m i b t ngu n t

o

c cách m ng c a giai c p vô s n hình

u tranh cách m ng. Về mặt lịch sử, đạo đức mới đã tồn tại và phát triển

trước khi tồn tại xã hội XHCN, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh của GCCN chống lại
giai cấp tư sản, nhằm xác lập địa vị thống trị chính trị của mình. Chính nội dung cuộc đấu
tranh này quy định nội dung của đạo đức cộng sản. Khi xác lập được chính quyền và nền
chuyên chính của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo xã hội xây dựng nền kinh tế mới, một
cơ cấu xã hội – giai cấp mới, một đời sống văn hóa tinh thần mới có tính XHCN. Đây là
cơ sở tất yếu cho sự phát triển đạo đức mới. Đạo đức mới hình thành và phát triển từ đạo

đức cách mạng của giai cấp vô sản trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống có chọn
lọc và ngày càng trở thành đạo đức chung của nhân loại.
11


Đạo đức cộng sản được hình thành và phát triển qua các giai đoạn sau: Đạo đức cách
mạng của GCVS đến đạo đức XHCN và cuối cùng đạo đức cộng sản (theo nghĩa rộng).
Như vậy, đạo đức XHCN chỉ là một giai đoạn trong sự hình thành đạo đức cộng sản.
Bản chất nhân đạo của đạo đức cộng sản xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ bản chất
nhân đạo của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa quy định, tuyệt nhiên không phải do một đầu
óc uyên thâm, thiện chí của một người nào đó nghĩ ra mà bị chi phối bởi nền kinh tế xã hội
xã hội cộng sản. Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa đồng thời là một kết quả của quá
trình hình thành và phát triển của đạo đức mới. Đây cũng là giai đoạn triển khai, phổ biến
của đạo đức cộng sản trên quy mô toàn xã hội. Do đó, quá trình này vô cùng khó khăn và
phức tạp, trải qua một cuộc phê phán gay gắt với mọi hình thức, chuẩn mực của đạo đức
phi vô sản khác. Đạo đức cộng sản, theo nghĩa hẹp là đạo đức mới được phát triển ở một
giai đoạn cao nhất trong lịch sử xã hội loài người.
Thứ hai, đạo đức mới là sản phẩm tổng hợp của quá trình xây dựng xã hội mới. Đạo
đức mới không phải từ trên trời rơi xuống mà nó xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định. Đời sống xã hội sản sinh ra đạo đức quyết định nội dung và khuynh hướng phát
triển của đạo đức. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, nó bị quy định bởi một tồn tại xã hội, một cơ sở hạ tầng nhất định. Quá trình
xây dựng xã hội mới cũng là quá trình hình thành và phát triển của đạo đức mới. Điều đó
được thể hiện như sau: Nền sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa là cơ sở kinh tế của đạo đức
mới; Quan hệ bình đẳng giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí
thức xã hội chủ nghĩa và các tầng lớp lao động khác là cơ sở xã hội – giai cấp của đạo đức
cộng sản; Nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa là cơ sở tinh thần của đạo đức
cộng sản. Sự tác động của chính trị đến đạo đức là hết sức to lớn và mang ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển của đạo đức, nhất là đối với đạo đức cộng sản.
Như vậy, cơ sở kinh tế - xã hội – giai cấp quyết định nội dung của đạo đức mới, bảo

đảm sự tồn tại vững chắc của nó. Cơ sở tinh thần làm phong phú nội dung và hoàn thiện
cấu trúc của đạo đức cộng sản. Nó có ý nghĩa như là công cụ phương tiện giáo dục và
hoàn thiện đạo đức cộng sản.
Thứ ba, đạo đức mới không là sản phẩm tự phát mà được hình thành một cách tự
giác (nói cách khác nó là kết quả của giáo dục và tự giáo dục). Giáo dục có vai trò quan
12


trọng hàng đầu trong quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nhờ có giáo
dục mà đạo đức mới dần dần được phát triển và hoàn thiện trong ý thức cá nhân và ý thức
xã hội, trở thành yếu tố phổ biến, thống trị trong đời sống xã hội. Quá trình giáo dục đạo
đức cộng sản cần tuân theo một số yêu cầu sau:
Một là, giáo dục đạo đức cộng sản phải là quá trình giáo dục tổng hợp bao gồm
chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa, lao động…và chúng luôn gắn bó với nhau.
Hai là, giáo dục đạo đức cộng sản phải là một quá trình thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Trong chủ nghĩa xã hội tính tự giác của quá trình hình thành đạo đức mới không
chỉ thể hiện ở công tác giáo dục, mà nó còn thể hiện trong toàn bộ hoạt động xây dựng xã
hội mới, xây dựng nền kinh tế mới. Đây là quá trình hình thành và phát triển các phẩm
chất đạo đức cá nhân: quá trình đó, một mặt, con người thể hiện niềm tin đạo đức, những
biểu hiện về giá trị, chuẩn mực đạo đức, mặt khác, nhờ những kết quả hoạt động, họ xác
nhận một cách thực tiễn những giá trị đạo đức của mình.
Ba là, giáo dục đạo đức cộng sản là quá trình kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục.
Quá trình tự giáo dục là sự tiếp tục giáo dục đạo đức ở chủ thể, là mặt bên trong, nội tâm
cả quá trình giáo dục đạo đức do xã hội thực hiện đối với mỗi cá nhân. Những tri thức về
đạo đức trở thành đối tượng của những rung cảm sâu lắng, trở thành những nội dung cơ
bản của đối tượng giáo dục. Quá trình giáo dục và tự giáo dục có ý nghĩa quyết định đến
tính tự giác của đạo đức mới.
Tóm lại, mỗi bước thắng lợi của sự nghiệp xây dựng xã hội mới – Xã hội XHCN là
mỗi bước khẳng định địa vị thống trị của giai cấp công nhân về kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hóa, trong đó có đạo đức mới. Đạo đức cộng sản dần dần khẳng định địa vị thống trị

của mình trong đời sống đạo đức xã hội và là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân
trong quá trình xây dựng xã hội mới.

13


Câu 4. Đạo đức trong kinh tế thị trường?
Chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh
tế là trung tâm. Thực chất của đổi mới kinh tế là chuyển từ mô hình kinh tế tập trung quan
liêu, bao cấp sang phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Bên cạnh mặt tích cực, KTTT
cũng tạo ra nhiều tác động tiêu cực đến giá trị đạo đức.
Vậy, KTTT là gì? Thực chất của mối quan hệ KTTT và đạo đức như thế nào?
KTTT là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị trường với quy luật giá trị giữ
vai trò chi phối và được thể hiện bằng quan hệ cung cầu trên thị trường.
Còn ĐĐ là một hình thái YTXH, bao gồm hệ thống các quy tắc, chuẩn mực XH nhằm
điều chỉnh hành vi, đánh giá ứng xử con người trong quan hệ với nhau và XH, chúng được
thực hiện bằng niềm tin cá nhân, truyền thống dân tộc và sức mạnh dư luận XH.
Khi bàn về ảnh hưởng của KTTT đến đạo đức, có nhiều quan niệm khác nhau, như:
Quan niệm của Mác cho rằng: KTTT TBCN làm tha hóa con người nhưng cũng tạo
ra những điều kiện vật chất để con người phát triển.
Hay quan niệm theo thuyết “Trả giá” và thuyết “Trượt dốc” nhấn mạnh tác động tiêu
cực của KTTT tới đạo đức, coi sự phát triển kinh tế trong nền KTTT sẽ phải trả giá bằng
sự suy đồi của đạo đức xã hội.
Theo thuyết “Leo dốc” và thuyết chữ “U ngược”, thời kỳ đầu KTTT có tác động tiêu
cực tới đạo đức nhưng xét về tổng thể, KTTT có xu hướng nâng cao đạo đức xã hội.
Như vậy, thực chất của mối quan hệ giữa KTTT và đạo đức được biểu hiện:
Trước tiên, tác động của KTTT tới đạo đức:
Một là, KTTT tác động làm biến đổi mối quan hệ giữa lợi ích và đạo đức. Trong xã
hội tiền thị trường, lợi ích – đặc biệt là lợi ích cá nhân, lợi ích vật chất thường bị xem là
đối lập với đạo đức. Đến nền KTTT có sự công khai thừa nhận và khuyến khích thể hiện

lợi ích cá nhân chính đáng nên không có sự đối lập giữa lợi ích và đạo đức.
Hai là, KTTT chứa đựng các khả năng tác động tích cực đến đạo đức. Trong nền
KTTT, con người buộc phải tuân theo các nguyên tắc, quy tắc, pháp luật trong hoạt động
kinh doanh và các thói quen này sẽ mở rộng ra các hoạt động ngoài kinh doanh từ đó góp
phần thúc đẩy sự phát triển của đạo đức xã hội.

14


KTTT tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển đạo đức nghề nghiệp. Sự phát
triển KTTT đã tạo ra những điều kiện cho sự phát triển con người (tiến bộ KHCN, hoạt
động có hiệu quả của NN pháp quyền, sự mở rộng dân chủ, tăng trưởng kinh tế,…). KTTT
tạo cơ chế khuyến khích sự phát triển của tự do và bình đẳng giữa các cá nhân do đó tạo
cơ sở cho những quan niệm về công bằng và bình đẳng trong quan hệ xã hội.
Thứ ba, KTTT chứa đựng các khả năng tác động tiêu cực đến đạo đức.
KTTT khuyến khích lợi ích cá nhân nên dễ dẫn đến xu hướng tuyệt đối hóa lợi ích cá
nhân để từ đó vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật. Lợi ích cá nhân ở nước ta đã tồn tại từ
thời phong kiến kéo dài đến xã hội hiện nay, nó cũng giống như lò xo bị nén đến cùng
cực, đến KTTT là môi trường thuận lợi để lợi ích cá nhân bung ra.
Trong nền KTTT, giá trị của con người được đo bằng hiệu quả của hoạt động kinh tế,
hoạt động kinh doanh và giá trị này có xu hướng trở thành thước đo của nhân cách nên
con người dễ bất chấp tất cả và bằng mọi cách để đạt được giá trị này. Ví dụ: sự biến
tướng đa cấp, vì lợi nhuận cá nhân mà bằng mọi cách, mọi thủ đoạn, kể cả đạo đức để đạt
được mục đích đề ra.
Sự cạnh tranh trong KTTT buộc con người phải bằng mọi cách để tự khẳng định
mình nên cũng dể nảy sinh tiêu cực. Trước kinh tế thị trường, con người có xu hướng ẩn
mình trong đám đông, “xấu đều còn hơn tốt lõi”; KTTT buộc bản thân vươn lên, bởi chân
giá trị khác trước, tạo điều kiện cho con người tự khẳng định mình, tuy nhiên sự tự khẳng
định quá mức này đôi khi vượt chuẩn giá trị đạo đức.
Như vậy, KTTT tác động tới đạo đức theo cả hai chiều tích cực cả tiêu cực. Do vậy

cần chú ý cả hai chiều này để tránh sự kiềm hãm, bài xích KTTT hoặc để cho đạo đức xã
hội bị xói mòn, suy thoái. KTTT tác động tiêu cực đến đạo đức ở dạng khả năng, do đó
KTTT tác động đến đạo đức phụ thuộc nhiều vào vai trò của nhân tố chủ quan.
Tiếp theo, đạo đức có vai trò trong nền KTTT định hướng XHCN. Đạo đức là một bộ
phận của kiến trúc thượng tầng của ý thức xã hội, một mặt bị quy định bởi cơ sở hạ tầng
của tồn tại xã hội; mặt khác nó cũng có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại
đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Vì vậy trong điều kiện phát triển KTTT định hướng
xã hội chủ nghĩa đạo đức có vai trò rất to lớn. Chúng ta xem xét một số khía cạnh sau:

15


Thứ nhất, đạo đức góp phần định hướng mục tiêu xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế.
Hiện nay nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mà định hướng thì tiềm ẩn khả năng sẽ chệch hướng, như vậy có rất nhiều nhân tố giúp
chúng ta đi đúng hướng đó chính là đạo đức. Như vậy, mục tiêu định hướng xã hội chủ
nghĩa của cách mạng nước ta đồng nhất với mục tiêu của chủ nghĩa nhân đạo là làm cho
mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh
Thứ hai, đạo đức góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế.
Chẳng hạn như trong việc hoạch định những chính sách kinh tế, không những đảm bảo sự
phát triển kinh tế mà đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đạo đức góp phần
khơi dậy tính tích cực, năng động sáng tạo, ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với bản
thân mình và đối với xã hội. Đạo đức vẫn cho phép con người đạt tới những lợi ích cá
nhân. Những hành vi tìm kiếm lợi ích cá nhân, làm giàu một cách chính đáng, bằng mồ
hôi, công sức và trí tuệ của bản thân với tiền đề đã được xã hội chấp nhận và bảo đảm,
đồng thời không làm tổn hại đến xã hội, đến tập thể, đến người khác đều không phải là
hành vi phi đạo đức. Nói đến kinh tế thị trường là nói đến con người kinh tế và khi tiến
hành hoạt động kinh tế, con người chịu sự chi phối của lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân đã

có vai trò đáng kể trong việc thúc đẩy con người hành động. Nhờ việc theo đuổi các lợi
ích cá nhân khác nhau mà hoạt động của con người không những tạo ra những sản phẩm
thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình, góp phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp
phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu cho xã hội.
Liên hệ thực tiễn
Ở nước ta, sau 30 năm đổi mới, kinh tế thị trường định hướng XHCN, là cơ sở hiện
thực xã hội đã có tác động rất lớn đến sự phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên, với
những biểu hiện như: tính quyết đoán, năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Đây cũng là điều kiện thuận lợi để mỗi cán bộ, đảng viên rèn luyện, hoàn thiện về phẩm
chất đạo đức, lối sống.

16


Bên cạnh đó, sự phân hóa giàu - nghèo làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội; dễ
nảy sinh tham nhũng, tội phạm, bạo lực; kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá
nhân, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý…
Chính từ những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường đến nay chưa có
giải pháp khắc phục hữu hiệu, trong khi có những mặt trở nên nghiêm trọng, nhất là tình
trạng quan liêu, tham nhũng, hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một số cán bộ
có chức, có quyền. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”, nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
Tóm lại, có thể nói, kinh tế thị trường đã tác động đến đạo đức theo hai hướng trái
ngược nhau. Theo hướng tích cực, góp phần tạo nên các giá trị và các chuẩn mực đạo đức
mới. Theo hướng tiêu cực con người có thể làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống
của mình. Cả hai xu hướng đó đều song song tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy,

không thể nói một cách chung chung rằng KTTT có tác động tích cực hay tiêu cực đến
đạo đức xã hội. Để đánh giá tính tích cực hay tiêu cực của KTTT đối với đạo đức, cần
xem xét hiệu quả mà lợi ích đó đem lại có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay
không. Đồng thời, đạo đức là nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy, định hướng nền
KTTT theo hướng XHCN như nước ta hiện nay.

17


Câu Bổ sung: Giải thích luận điểm “Đạo đức là cái gốc của Cách mạng” của HCM.
Trả lời:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức
cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu
của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng,
coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự
nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng
lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”.
Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi
nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp
với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn suy
nghĩ và trăn trở về nguy cơ có thể xảy ra đối với một đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về

đường lối chính trị, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Theo Hồ Chí Minh, đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo nhà nước, nếu cán bộ,
đảng viên không tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể
làm tha hóa bản chất con người. Vì thế, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: muốn
làm cách mạng, trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, có đạo đức cao đẹp đối
với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và đối với dân tộc, luôn phải kiên quyết đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Người cách mạng, phải
18


có đạo đức cách mạng”. Đây không chỉ là yêu cầu về phẩm chất, năng lực mà còn là vấn
đề có tính nguyên tắc trong chỉ đạo nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên.
Mặc dù coi đạo đức là gốc, chiếm vị trí hàng đầu trong thang giá trị nhân cách người
cách mạng nhưng Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức và tài năng trong mối quan hệ biện
chứng với nhau, tác động và quy định lẫn nhau. Bởi vì, nhờ có phẩm chất và năng lực, đức
và tài mà cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với
dân, vì nhân dân phục vụ, quyết tâm đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa tài và đức Hồ Chí Minh viết: "Có tài mà không có
đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không
có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Trong di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấy người đã xác định rõ
những chuẩn mực của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
- Một là, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu suốt đời
hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Vô luận trong hoàn cảnh nào, đảng viên
cũng phải đặt lợi ích của đảng lên trên hết.
- Hai là, yêu thương, quý trọng con người, sống có nghĩa tình; hòa mình với quần
chúng thành một khối, tin quần chúng, hiếu quần chúng, lắn nghe ý kiến của quần chúng.
- Ba là, cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Bốn là, giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất

phục.
- Năm là, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
- Sáu là, tinh thần yêu lao động, tinh thần trách nhiệm và nỗ lực học tập, cầu tiến bộ,
đức khiêm tốn, thật thà, đoàn kết.
- Bảy là, có tinh thần quốc tế trong sáng.
Những chuẩn mực giá trị của đạo đức cách mạng mà chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên
được hình thành và phát triển trong bốn điều kiện chính sau đây: Thứ nhất, từ những giá
trị của đạo đức truyền thống. Đây được xem là tiền đề, là cơ sở trực tiếp. Thứ hai, ảnh
19


hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thứ ba, từ thực tiễn phong trào cách mạng của nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh. Thứ tư, là sự tiếp thu tinh hoa văn
hóa đạo đức của nhân loại.
Xây dựng nền đạo đức mới trong tình hình hiện nay cần phải khai thác và phát huy
tốt mặt tích cực, đồng thời phải kiên quyết đấu tranh chống lại và khắc phục cho được mặt
tiêu cực của nó, do nó gây ra. Làm tốt việc này chúng ta mới xây dựng thành công nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những yêu cầu về phẩm chất đạo đức của người CB-ĐV hiện nay: Có tinh thần yêu
nước, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực, không cơ hội; gắn bó mật thiết với nhân
dân, được nhân dân tín nhiệm; Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, có trình độ văn
hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc; có cả đức lẫn tài, đức là gốc.
Trong bối cảnh hiện nay, tiếp tục xây dựng và nâng cao đạo đức cho đội ngũ CB-ĐV
là nhiệm vụ bức bách, đòi hỏi cần thực hiện trên một số giải pháp:
Một, tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN;
Hai, thực hiện nghiêm nguyên tắc phê và tự phê;
Ba, thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ;

Bốn, đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội;
Năm, tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Sáu, tổ chức thật tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM.
Trên con đường đi tới thành công của sự nghiệp cách mạng, Đảng và nhân dân ta
luôn có ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, dẫn lối, tấm gương đạo đức cách mạng
của Người để học tập, noi theo. Tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
di sản quý giá mà Người để lại cho Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc Việt Nam ta. Đó chính
là di sản quý của một danh nhân văn hóa thế giới để lại góp vào kho tàng tinh hoa văn hóa
của nhân loại.
20



×