Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài thu hoạch Một số vấn đề cơ bản về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.17 KB, 21 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

TỈNH ỦY BẮC KẠN

BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG, CẬP NHẬT KIẾN THỨC CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG 3

Chủ đề: Một số vấn đề cơ bản về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Họ và tên:
Đào Minh Thuyết
Chức vụ:
Trưởng Ban QLDA
Đơn vị công tác: Sở Xây dựng tỉnh Bắc Kạn

BẮC KẠN, THÁNG 12 NĂM 2015


2

BÀI THU HOẠCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
A. MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế vừa
chịu sự chi phối bởi những nguyên tắc và quy luật của thị trường, và cả những


nguyên tắc và bản chất xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế đó vừa có đặc trưng
chung của nền kinh tế thị trường, vừa có đặc thù của tính định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Qua gần 30 năm đổi mới đất nước, những thành tựu kinh tế - xã hội của
nước ta cho thấy sự đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc đặt trọng tâm
vào đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng , bằng sự nỗ lực sáng tạo của
quần chúng, các nghành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng,
đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị
ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh
công nghiệp hoá-hiện đại hoá, bộ mặt kinh tế-xã hội thay da đổi thịt từng
ngày, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ nét.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi
thuộc về đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với mong muốn tìm hiểu các vấn đề khi xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như: vì sao chúng ta phải


3

phát triển kinh tế thị trường, mục đích phát triển kinh tế thị trường là gì,
những đặc điểm và thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta... Vì vậy, Tôi chọn đề tài: “Một số vấn đề cơ bản về phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Đề tài
này không những giúp tôi nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường mà còn
hiểu được sự vận hành của nền kinh tế Việt Nam. Đó là: “Nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
B. NỘI DUNG
I. Nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường (trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, khi mọi
sản phẩm đều có thể trở thành hàng hóa) là sản phẩm của văn minh nhân loại,
xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thủy, được phát triển tới trình độ
cao dưới chủ nghĩa tư bản, do vậy tự bản thân kinh tế thị trường không đồng
nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Nghĩa là, kinh tế thị trường không phải là sản
phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà kinh tế hàng hóa, nguồn nuôi dưỡng
và xuất phát điểm của kinh tế thị trường, tồn tại trong nhiều chế độ xã hội
khác nhau, song không có kinh tế thị trường chung, đồng nhất cho mọi chế
độ xã hội khác nhau. Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường
mang những đặc trưng, bản chất khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển
lực lượng sản xuất, vào bản chất chính trị của chế độ xã hội đó, phù hợp với


4

lịch sử, văn hóa, tập quán của từng quốc gia dân tộc. Mặc dù rằng, những
quy luật kinh tế chi phối sự vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường là
khách quan, có những yêu cầu tất yếu như nhau; nhưng quan điểm, tập quán,
thói quen vận dụng những quy luật kinh tế khách quan đó trong mỗi quốc gia
là khác nhau. Không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này lại là bản sao
của kinh tế thị trường ở nước khác.

Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đổi
mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước. Văn kiện Đại hội VI đưa ra luận điểm quan trọng về phát triển nền
kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội –
coi đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ
lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VII, lần VIII và Cương lĩnh năm
1991 đều tiếp tục nhất quán quan điểm “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội IX (tháng 4/2001) lần đầu tiên đưa ra mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Văn kiện Đại hội IX chỉ rõ, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế
vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội,
thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Quan điểm này được thể hiện nhất quán từ Đại hội Đảng lần IX đến
lần thứ XI và có thể coi đây là bước đột phá trong tư duy lý luận cách mạng
Việt Nam.


5

Trong nội dung Văn kiện Đại hội X (tháng 4/2006) định hướng xã hội
chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là “thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội lần thứ X
của Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã

hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta: mục tiêu của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm: thực hiện
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; phát triển nền
kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển
con người; phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh
tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến nền kinh tế còn ở trình độ
thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn, hướng tới chế độ xã hội mới – xã
hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền kinh
tế thị trường đó được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những
khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại
đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Sự hình thành tư duy
của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự phát
triển và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mác – Lê nin,
quy luật chung của phát triển kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể; là kết
quả quá trình tìm tòi thể nghiệm, tổng kết từ thực tiễn đổi mới sinh động của
đất nước. Đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế
thị trường của các nước trên thế giới, trong đó có kinh nghiêm phát triển kinh


6

tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc. Việc khẳng định mô hình
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” hoàn toàn không phải là

thổi phồng đặc điểm dân tộc, hay cố làm cho dị biệt, chủ ý đi theo “con
đường riêng”, càng không phải gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế
thị trường và chủ nghĩa xã hội theo như “luận điệu chống phá” của các thế
lực thù địch.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan
xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có và chưa có đầy đủ các yếu tố
của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
vừa mang tính chất chung của nền kinh tế thị trường, vừa có những tính chất
đặc thù, dựa trên nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong đó, vai
trò của Nhà nước thực hiện 3 chức năng cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực
và hạn chế tối thiểu tiêu cực của nền kinh tế thị trường gồm: định hướng phát
triển nền kinh tế và tạo môi trường cho nền kinh tế phát triển (chính phủ xây
dựng chiến lược quy hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân, tạo môi trường
pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội để nền kinh tế thị trường phát triển.);
quản lý phân phối thu nhập và nguồn lực; giải quyết các vấn đề xã hội để bảo
đảm nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thực tiễn 30 năm đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục
rằng: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải kinh qua kinh tế thị
trường. Không phát triển kinh tế thị trường thì không thể đi tới chủ nghĩa xã
hội. Bởi vì, kinh tế thị trường có những lợi thế mà kinh tế hiện vật, tự cung,
tự cấp không thể so sánh được:
Một là, kinh tế thị trường tạo động lực lao động tích cực, tự giác cho
từng người lao động thông qua cơ chế cạnh tranh để trở thành người giỏi nhất
(sáng tạo nhất, năng động nhất và hợp lý nhất);
Hai là, kinh tế thị trường thúc đẩy chuyên môn hóa ngày càng sâu để
phát huy tiềm năng nhiều mặt của những con người khác nhau;


7


Ba là, kinh tế thị trường phối hợp, điều tiết hành vi của mọi người một
cách tự giác thông qua cơ chế trao đổi hàng hóa một cách tự nguyện, thỏa
thuận theo quy luật cung - cầu;
Bốn là, kinh tế thị trường phản ánh mức độ tự do, dân chủ cao trong điều
kiện nguồn lực để thỏa mãn nhu cầu còn khan hiếm. So với cơ chế kế hoạch
hóa tập trung của Nhà nước trong thời bao cấp, kinh tế thị trường không tốn
chi phí lập và điều hành kế hoạch, mà lại phát huy được sức mạnh của mọi
người. Nhưng cần khẳng định: kinh tế thị trường tự nó không thể mang lại
chủ nghĩa xã hội cho con người. Nước ta muốn đi lên chủ nghĩa xã hội phải
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của kinh tế thị trường
Nhìn biểu hiện bề ngoài thì kinh tế thị trường là cạnh tranh, là hình thành
giá một cách tự phát theo tương quan lực lượng giữa cung (lượng hàng hóa
muốn bán và giá bán) và cầu (lượng hàng hóa muốn mua và giá muốn mua)
thông qua cơ chế thỏa thuận tự nguyện được hiện thực hóa bằng hợp đồng, là
quyền tự do kinh doanh (tự do sản xuất, tự do mua và bán). Nhưng, bản chất
của kinh tế thị trường là quan hệ hàng - tiền - hàng, hình thức được con
người lựa chọn để kết nối các hoạt động mang tính tự do sản xuất, kinh
doanh, tự do sáng tạo với nhau nhằm duy trì sự tồn tại xã hội về mặt kinh tế.
Nói cách khác, quan hệ hàng - tiền - hàng là chất dung môi để những con
người vừa duy trì được sự tự do sản xuất, kinh doanh của mình, nhờ đó
chuyên môn hóa sâu hơn, vừa kết nối chặt chẽ với người khác thông qua các
quan hệ trao đổi nhằm hợp tác với nhau trong mạng lưới phân công lao động
xã hội ngày càng hợp lý hơn. Như vậy, kinh tế thị trường là hình thái kinh tế,
trong đó lực lượng sản xuất được tự do phát triển dựa trên quá trình chuyên
môn hóa ngày càng sâu sắc hơn, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ngày
càng nhanh hơn nhờ con người được tự do phát triển những năng lực tiềm
tàng của mình trong mối quan hệ hợp tác với nhau thông qua trao đổi hàng -



8

tiền - hàng. Nói cách khác, những quan hệ cần thiết cho trao đổi hàng - tiền hàng như quyền tự do kinh doanh, sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các bên
giao dịch, chế tài bảo đảm sự thực hiện cam kết theo hợp đồng, các quy định
thống nhất giữa các bên về đơn vị đo, đơn vị tiền tệ, phương thức giao dịch…
là những quan hệ sản xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng
sản xuất. Điều này là tất yếu không phân biệt quốc gia duy trì kinh tế thị
trường lựa chọn chế độ chính trị nào. Ngày nay, giới kinh tế hay gọi các quan
hệ sản xuất nêu trên là thể chế kinh tế thị trường.
Quan hệ hàng - tiền - hàng ở xã hội nào cũng là quan hệ thỏa thuận giữa
hai bên mua và bán trong tương quan sức mạnh thỏa thuận và sự đánh giá lợi
ích, chi phí của mỗi bên. Giữa các bên mua, đó là sự cạnh tranh để mua được
các hàng hóa khan hiếm ở mức giá hợp lý. Giữa các bên bán, đó là sự cạnh
tranh về chi phí để có thể có mức lợi nhuận hợp lý. Trong giao dịch hàng
hóa, mỗi bên đều có quyền tự do ra các quyết định của mình và có trách
nhiệm chịu đựng những rủi ro từ quyết định của mình. Đó là những nguyên
tắc chung trong giao dịch thị trường ở bất kỳ nền kinh tế nào và được luật
pháp quốc tế công nhận. Tính xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, trình độ
phát triển hay còn kém phát triển không phản ánh qua các quan hệ giao dịch
căn bản này. Trình độ phát triển của nền kinh tế phản ánh qua quy mô và
chủng loại các thị trường, qua phương thức giao dịch. Tính tư bản chủ nghĩa
hay xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ khối lượng lớn tư liệu sản xuất thuộc về
số nhỏ giới chủ hay thuộc về nhân dân lao động. Nếu tư liệu sản xuất thuộc
về nhân dân lao động dưới một hình thái nào đó thì họ có thực lực kinh tế để
buộc nhà nước phải đứng ra bảo vệ lợi ích cho quảng đại nhân dân lao động.
Nếu tư liệu sản xuất thuộc về giới chủ thì sức mạnh kinh tế nằm trong tay
giới chủ và họ có ảnh hưởng để chính sách kinh tế của nhà nước phải ưu tiên
bảo vệ lợi ích của họ. Tuy nhiên, nắm được tư liệu sản xuất chưa giải quyết
được vấn đề sử dụng tư liệu sản xuất hiệu quả. Để sử dụng tư liệu sản xuất



9

hiệu quả cần tạo động lực làm việc tích cực cho người lao động. Con người
có nhiều động cơ để hoạt động hiệu quả, nhưng cho đến nay, động cơ lợi ích
vật chất vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, nhất là ở các nước đang phát triển như
Việt Nam.
Như vậy, sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ ai làm chủ sức
mạnh kinh tế và sức mạnh chính trị trong một nước. Trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa: đó là giới chủ; trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa: đó là đông đảo nhân dân lao động. Đó là sự khác
biệt duy nhất. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn lại của kinh tế thị trường, như
nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm soát nền kinh tế thị trường, kỹ
thuật tổ chức quản lý để nền kinh tế quốc dân nói chung, mỗi tổ chức kinh tế
nói riêng hoạt động ở trạng thái hiệu quả đều có thể chung nhau giữa hai loại
nước vì đó là thành quả tiến hóa mang tính nhận thức và khoa học của loài
người.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có những đặc
trưng sau:
1. Về mục đích phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là: “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nếu như kinh tế thị
trường tự do tư bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, xây dựng
cơ sở vật chất cho CNTB, bảo vệ và phát triển CNTB thì kinh tế thị trường
định hướng XHCN lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu. Phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại cho CNXH và nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân.
2. Nền kinh tế thị trường ở nước ta gồm nhiều thành phần, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.



10

Nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu: toàn
dân, tập thể, tư nhân... Từ đó, hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế bao gồm kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân),
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên các quan hệ sở hữu khác nhau
và thường đại diện cho những giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Do đó
trong quá trình phát triển, chúng đấu tranh mâu thuẫn và phát triển theo
những khuynh hướng khác nhau. Vì vậy kinh tế nhà nước phải giữ vai trò
chủ đạo là để giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế. Kinh tế
nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế nhà nước nắm giữ những khâu,
những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân.
3. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức
phân phối trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội lại có hình thức phân phối đặc trưng. Các hình thức
phân phối là một bộ phận của quan hệ sản xuất và do quan hệ sở hữu quyết
định.
Ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác nhau với nhiều thành phần kinh tế. Do đó, có nhiều hình thức phân phối
khác nhau như phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng
góp, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối thông các quỹ phúc lợi
tập thể và xã hội. Điểm khác biệt cơ bản với kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa là chúng ta lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Phân phối theo lao
động là đặc trưng, bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó là
hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu.

4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


11

Nhà nước quản lý nền kinh tế ở nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN,
là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là yếu tố khác nhau cơ bản giữa
kinh tế thị trường định hướng XHCN với nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì tất yếu phải tuân theo
những quy luật vốn có của kinh tế thị trường. Sự quản lý của nhà nước
XHCN nhằm sửa chữa “những thất bại của kinh tế thị trường”, thực hiện các
mục tiêu xã hội, đảm bảo cho nền kinh tế theo đúng định hướng XHCN.
5. Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển
kinh tế gắn với phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; gắn mục tiêu kinh tế với mục tiêu xây dựng con
người mới XHCN
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, phát triển
kinh tế, xã hội và văn hoá gắn kết chặt chẽ, hài hoà. Các mục tiêu kinh tế và
các mục tiêu xã hội được kết hợp chặt chẽ trên bình diện cả nước cũng như ở
từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội
trên cơ sở phát triển kinh tế. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để mọi
người dân làm giàu chính đáng, đồng thời thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo, ưu đãi xã hội, quan tâm phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, phát triển
giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
6. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế mở
hội nhập.
Đây là đặc điểm phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế trước đây.

Trong điều kiện hiện nay do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật đang diễn ra quá trình quốc tế hóa toàn cầu hóa. Đời sống kinh tế, sự
phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy mở cửa kinh
tế, hội nhập kinh tế khu vưc và thế giới là tất yếu.


12

Trong tình trạng còn nghèo còn lạc hậu, xuất phát điểm thấp, chúng ta
phải có biện pháp để thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh riêng có,
phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
II. Thực trạng - thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1. Những kết quả đã đạt được
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt nhiều kết quả và thành tựu.
Nền kinh tế liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao, phát triển ổn định; tỷ lệ
đói nghèo giảm mạnh, bền vững và ấn tượng, được cộng đồng thế giới công
nhận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát
triển, trở thành nước có thu nhập trung bình. Chính trị - xã hội ổn định, quốc
phòng - an ninh được tăng cường. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và
đi vào chiều sâu, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên
trường quốc tế.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhất là hệ thống luật
pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức
cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng
và thông thoáng hơn.

Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ
hơn, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế.
Hầu hết các loại giá cả hàng hóa, được xác lập theo nguyên tắc thị trường.
Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị
trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy
động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát


13

triển kinh tế - xã hội đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và
kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và
chuẩn mực của thị trường toàn cầu.
Sau gần 30 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hoá thành Hiến
pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN hình thành và phát triển. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần
kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế đan xen hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ
đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong và
ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội. Các loại thị trường cơ bản đã ra
đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu
vực và thế giới.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống,
doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh
để phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp
bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh chuyển sang

quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc gắn phát triển
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo đạt nhiều kết
quả tích cực.
Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xóa bỏ nền kinh tế kế
hoạch hóa, tập trung bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế đã được các nhà đầu tư trong, ngoài nước và người tiêu dùng hưởng
ứng nhiệt tình. Kế hoạch pháp lệnh được dỡ bỏ, các doanh nghiệp tư nhân


14

trong nước và doanh nghiệp có vốn nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều,
hộ nông dân chuyển sang kinh doanh hàng hóa, hộ tư thương phát triển
mạnh, thị trường hàng hóa và dịch vụ phát triển với quy mô ngày càng lớn,
chủng loại phong phú hơn. Thị trường tài chính phát triển khá nhanh, nhất là
thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán. Thị trường bất động sản đã hình
thành. Thị trường lao động và thị trường khoa học - công nghệ, dù còn chưa
phát triển một cách chuẩn tắc, nhưng cũng đã hình thành. Xuất, nhập khẩu
phát triển mạnh, nước ta trở thành nước có nền kinh tế mở ở mức độ cao.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện mô hình này còn
có nhiều hạn chế, yếu kém và gặp không ít trở ngại, khó khăn.
2. Những tồn tại, hạn chế:
- Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN còn
chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc
tế của đất nước.
- Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống
nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc.
- Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước
chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản

nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hoá. Doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử. Các yếu tố thị trường và các loại
thị trường hình thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông
suốt. Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu
thuế còn nhiều, chậm được khắc phục. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp
lý.
- Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân, chưa bảo đảm đời
sống của người hưởng lương, chưa khuyến khích, thu hút và sử dụng được
người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện tốt chức năng điều tiết và bảo đảm


15

công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát
triển nguồn thu.
- Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất
cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp.
- Cải cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tệ tham
nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển
các lĩnh vực văn hoá, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục
- đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa
các vùng ngày càng lớn.
- Hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai. Tỉ lệ người tham gia bảo hiểm xã
hội thấp. Nhiều vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường
chưa được giải quyết tốt.
3. Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế cho phép tranh thủ được các nguồn lực bên
ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh như vốn, khoa học - công nghệ, kinh
nghiệm tổ chức quản lý nền sản xuất lớn để phát triển kinh tế thị trường,

nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, mở rộng và phát triển thương mại
quốc tế để đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu tạo tiền đề đáp ứng nhu cầu
đầu vào và giải quyết đầu ra cho nền kinh tế thị trường. Những năm qua khi
Việt nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế đã tạo cơ hội cho xuất nhập
khẩu không ngừng tăng lên.
3.2. Thách thức:
Năng lực cạnh tranh thấp: Đây là thách thức lớn nhất hiện nay của nền
kinh tế Việt Nam khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hệ thống luật pháp:
chưa hoàn thiện và chưa đồng bộ.
Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay cũng là thách thức lớn bởi trên thực
tế lực lượng lao động không có tay nghề dôi thừa lớn tạo áp lực việc làm lớn,


16

nhưng lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường hiện đại (sản xuất
kinh doanh những ngành nghề chất lượng cao) lại rất thiếu.
Quản lý, khai thác các nguồn lực như: đất đai, vốn, lao động ở nước ta
hiện nay đang là thách thức lớn bởi sự khai thác tài nguyên bừa bãi, quản lý
của các cơ quan nhà nước kém hiệu quả, làm cho tài nguyên của quốc gia cạn
kiệt, nhất là các tài nguyên không tái tạo được; tình trạng môi trường ô nhiễm
ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống.
Trong thời kỳ đổi mới đầu tư để phát triển hệ thống giao thông, điện,
nước, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế rất lớn, nhiều công trình đã đưa vào sử
dụng phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất về vấn đề này
là sự phát triển thiếu đồng bộ, công tác quản lý kém dẫn đến hiệu quả khai
thác và chất lượng hạ tầng thấp; tình trạng thất thoát lãng phí trong khu vực
này là vấn đề quốc nạn làm ảnh hưởng đến sức mạnh của nền kinh tế.
III. Một số giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

1. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
Tiếp tục đổi mới tư duy và nhận thức về thể chế kinh tế thị trường và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đồng thời tiếp tục
nghiên cứu để làm rõ nội dung mô hình kinh tế tổng quát về phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta là nền kinh tế tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, có hệ
thống đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường; các chủ thể thị trường được cạnh
tranh tự do theo pháp luật; giá cả được hình thành trên cơ sở cung - cầu và
quy luật giá trị; thị trường ngày càng đóng vai trò chủ yếu trong huy động và


17

phân bổ các nguồn lực phát triển và là một bộ phận hữu cơ của thị trường thế
giới; Nhà nước đóng vai trò phục vụ, tạo khung khổ pháp lý, hỗ trợ và quản
lý phát triển nền kinh tế, tôn trọng các nguyên tắc và các quy luật của kinh tế
thị trường. Các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, kế
hoạch, quy hoạch và theo cơ chế thị trường.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, định hướng, cùng với các công cụ và chính sách khác để Nhà
nước điều tiết nền kinh tế đảm bảo phát triển bền vững. Kinh tế tư nhân là
một động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế. Khuyến khích phát triển
các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở

hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Trong thiết kế và vận hành thể chế KTTT định hướng XHCN, cần phải
tiếp tục hoàn thiện đồng bộ 3 bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế có quan
hệ hữu cơ: (1) Hệ thống pháp luật, quy tắc, chuẩn mực xã hội điều chỉnh
hành vi và giao dịch kinh tế; (2) Các thể chế về chủ thể và các yếu tố, các
loại thị trường trong nền kinh tế; (3) Cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát, điều
chỉnh và xử lý vi phạm trong nền kinh tế.
2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh
tế, các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ
chức và cá nhân đã được xác lập trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh
bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch
vụ công; quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền
bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế.


18

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế giải
quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước trên cơ sở đẩy mạnh cổ phầnhóa, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm
giữ theo nguyên tắc thị trường. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản, kể cả đất
đai, tài sản vô hình trong cổ phần hóa. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh
doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản,
vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước. Khẩn trương nghiên cứu để sớm thành lập cơ quan chuyên trách ngang
bộ làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng chế độ
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công về tổ chức bộ máy,
biên chế, nhân sự và tài chính. Áp dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp

cho các đơn vị sự nghiệp công có nhu cầu và điều kiện. Tiếp tục đổi mới kinh
tế hợp tácvà khu vực hợp tác xã, phát triển, nhân rộng các hợp tác xã kiểu
mới, nhất là trong nông nghiệp, tăng cường chính sách thu hút các nguồn lực
từ bên ngoài, chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước
ngoài có trình độ quản lý, công nghệ hiện đại, có vị trí trong chuỗi giá trị
toàn cầu, có liên kết với các doanh nghiệp trong nước trong phát triển công
nghiệp hỗ trợ.
3. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; đẩy
mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính,nhất là tái cơ cấu thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu
của nền kinh tế (bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tài chính, các doanh nghiệp...). Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ
giá, các công cụ của Ngân hàng Nhà nước theo nguyên tắc thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách để thị trường bất động sản được vận hành thông suốt, phù hợp cung cầu. Đổi mới chính sách để khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất


19

đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất. Xây dựng các thể chế hình thành thị
trường sơ cấp, thứ cấp về đất đai, kể cả đất nông nghiệp thay thế cho cách
thức giao đất, cho thuê đất, bảo đảm thị trường về đất đai hoạt động công
khai, minh bạch và trật tự. Hoàn thiện thể chế về giá, phí, về cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị
trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai minh bạch các yếu tố hình
thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách
hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Không lồng ghép các
chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí và lệ phí; rà soát,
chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng
chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Hoàn

thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng
xã hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát
triển và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng nghiên
cứu, ban hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát
triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ
giữa Nhà nước, xã hội và người dân.
5. Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy
hoạch và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương. Xây
dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng
địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính.
Tạo lập thể chế kinh tế đặc thù, đẩy mạnh cho các địa phương, vùng kinh tế
trọng điểm thực sự trở thành đầu tàu, động lực lan tỏa vùng ngoại vi và cả
nước. Hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa
phương, vừa bảo đảm tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính
chủ động, sáng tạo của địa phương. Đổi mới hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia và địa phương.


20

6. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội
nhập quốc tế, tham gia và khai thác có hiệu quả lợi ích kinh tế các hiệp định
tự do hóa kinh tế song phương và đa phương, gắn với xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Hoàn
thiện thể chế phòng ngừa và giảm thiểu tranh chấp quốc tế; sớm hoàn thiện
tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
7. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục điều chỉnh, hoàn chỉnh

chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của các cấp ủy, chính quyền trong
phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; thiết lập khung khổ
pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi bảo đảm các loại thị trường liên tục
được hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, có cạnh tranh công bằng, bình
đẳng và kiểm soát hiệu quả độc quyền kinh doanh dưới mọi hình thức; tổ
chức cung ứng các loại dịch vụ công ích, thiết yếu; giảm bất công, bất bình
đẳng về thu nhập, phúc lợi và thực hiện các nhiệm vụ xã hội khác. Tăng
cường năng lực thiết kế tổng thể và giám sát quá trình thực hiện đổi mới thể
chế kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, nhất là
thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, có sức cạnh
tranh cao. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân
chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp,
pháp luật. Bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của các tổ chức chính trị, xã hội,
xã hội - nghề nghiệp trong xây dựng thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã
hội.
8. Kiên quyết cải cách hành chính để có các cơ quan quản lý nhà nước
trong sạch, thủ tục quản lý đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách
nhiệm phục vụ và giải trình của công chức. Công cuộc cải cách này là trọng


21

trách của Đảng. Đảng phải lãnh đạo thành công công cuộc cải cách này và
phải thu hút, đào tạo được các công chức trong sạch, tài năng, thích hợp với
chức trách được giao. Tạo cơ chế để nhân dân tăng cường giám sát đảng
viên, công chức (tổ chức các kênh thông tin cung cấp bằng chứng sai trái của
công chức, tổ chức bảo vệ có hiệu quả nhân chứng, tăng cường trách nhiệm
phản biện của công luận, nhất là báo chí, truyền thông...).
C. KẾT LUẬN

Qua tìm hiểu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, Tôi đã biết vì sao nước ta lại phải lựa chọn phát triển kinh tế thị trường
và kinh tế thị trường là lực chọn đúng đắn và cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Khi chúng ta chuyển sang chế độ mới xã hội chủ
nghĩa từ một nước kinh tế còn lạc hậu và nền kinh tế còn kém phát triển vì
vậy để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chúng ta phải tìm ra con đường
đúng đắn tạo cơ sở vững chắc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vì thế
chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Để kinh tế thị trường không đi
chệch hướng tư bản chủ nghĩa. Chúng ta phải định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành trên cơ chế thị
trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tăng
trưởng kinh tế gắn liền với sự tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là xây dựng
một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng
thời phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ
nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức,
phân phối. Chúng ta cũng thấy được phương hướng và giải pháp của Đảng và
nhà nước đề ra trong những năm tới để đưa kinh tế thị trường ngày càng phát
triển, đưa nước ta phát triển ổn định bền vững.



×