Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.86 KB, 26 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Năm 1986 trở về trớc nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang
tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do
những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế n-
ớc ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp.
Đứng trớc bối cảnh đó con đờng đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nớc là
đổi mới kinh tế. Từ 1986 , trên cơ sở quan điểm toàn diện nhận thức rõ về thực
trạng đất nớc cùng với những thành tựu trong những năm đầu đổi mới đến năm
1991 tại Đại hội lần VII, Đảng ta đã đi tới quyết định : Xoá bỏ cơ chế quản lý kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc.
Đờng lối đó đợc thực hiện trên mời năm đổi mới đã đem lại những thành tu
đáng khích lệ chứng tỏ đờng lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc là hoàn toàn đúng
đắn. Nhng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm do
trong nền kinh tế thị trờng đó còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn khác nhau. Do đó
cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế
nớc ta phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hớng đó. Đây
là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nớc vì vậy tôi đã quyết
định chọn đề tài: Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu
thuẫn trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để
nghiên cứu.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I
Lý luận chung
I- Quy luật mâu thuẫn
1. Nội dung của quy luật.
1.1. Nội dung của quy luật mâu thuẫn phép biện chứng.
Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật là
hạt nhân của phép biện chứng. Nội dung của qui luật chỉ ra cho chúng ta thấy


nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Mâu thuẫn và mặt đối lập thờng đợc dùng nh những khái niệm đồng nghĩa.
Chẳng hạn, ngời ta có thể nói rằng các sự vật có mâu thuẫn hay các sự vật là sự
thống nhất của các mặt đối lập về thực chất là một. Nhng hiểu cho đúng hơn thì
mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các mặt đối lập, còn mặt đối lập là mọi mặt hợp
thành của mâu thuẫn. Mỗi mặt đó hợp thành từ nhiều thuộc tính, nhiều khuynh h-
ớng khác nhau. Ví dụ: hai mặt đối lập trong chu kỳ tuần hoàn máu, trong sự trao
đổi chất của thực, động vật với môi trờng... Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn mặt
đối lập nói chung với mâu thuẫn. Trong thực tế không phải mặt đối lập nào cũng
tạo thành mâu thuẫn, chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau thành một chỉnh
thể, tác động qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn.
Khái niệm khác nhau chỉ một trong những hình thức biểu hiện, một giai
đoạn phát triển của mâu thuẫn. Ví dụ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong hàng
hoá chỉ về sau trong điều kiện khác nhau của nền sản xuất hàng hoá, nh trong chủ
nghĩa t bản chẳng hạn, sự khác nhau đó đều biến thành mặt đối lập, thành mâu
thuẫn. Tuy nhiên, không chỉ có sự khác nhau biến thành mặt đối lập, thành mâu
thuẫn mà còn có cả quá trình những mặt đối lập, mâu thuẫn biến thành sự khác
nhau. Ví dụ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay trong điều kiện các xã hội phân chia thành giai cấp để chuyển thành
sự khác biệt (khác nhau) trong chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật là một thể thống nhất tuyệt đối, chúng
không có mâu thuẫn bên trong. Thực chất của quan điểm này là phủ nhận mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của phát triển . Còn quan điểm của chủ nghĩa duy
vật cho rằng sự vật, hiện tợng luôn có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn là hiện t-
ợng khách quan chủ yếu bởi vì sự vật hiện tợng của thế giới khách quan đều đợc
tạo thành từ nhiều yếu tố, nhiều bộ phận, nhiều quá trình khác nhau. Giữa chúng
có mối liên hệ, tác động lẫn nhau trong đó sẽ có những liên hệ trái ngợc nhau, gọi
là các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn của sự vật. Các mặt đối lập thờng xuyên tác
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

động qua lại lẫn nhau gây nên một biến đổi nhất định, làm cho sự vật vận động
phát triển.
Các mặt đối lập là những mặt có xu hớng phát triển trái ngợc nhau nhng
chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể duy nhất là sự vật.
Quan hệ đó thể hiện các mặt vừa thống nhất vừa tiêu diệt nhau. Do thống nhất
giữa các mặt đối lập là sự nơng tựa, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau làm tiền đề để
tồn tại và phát triển cho nhau có mặt này mới có mặt kia. Đấu tranh giữa các mặt
đối lập là sự bài trừ ngạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. Hai mặt đối lập cùng
tồn tại trong một hệ thống nhất, chúng thờng xuyên muốn tiêu diệt lẫn nhau. Đó là
mặt tất yếu khách quan không thể tách rời sự thống nhất giữa chúng.
Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh là hai mặt đối lập tồn tại không tách
rời nhau. Sự thống nhất giữa các mặt chỉ diễn ra trong những điều kiện nhất định
với một thời gian xác định. Bất cứ sự thống nhất nào cũng diễn ra sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập làm cho nó luôn luôn có xu hớng chuyển thành cái khác. Còn
đấu tranh diễn ra từ khi thể thống nhất xác lập cho đến khi nó bị phá vỡ để chuyển
thành mới. Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trải qua nhiều giai đoạn với
nhiều hình thức khác nhau, từ khác biệt đến đối lập, từ đối lập đến xung đột, từ
xung đột đến mâu thuẫn.
Đến đây nếu có đủ điều kiện thích hợp thì nó diễn ra sự chuyển hoá cuối
cùng giữa các mặt đối lập. Cả hai đều có sự thay đổi về chất, cùng phát triển đến
một trình độ cao hơn. Từ đó mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật mới ra đời thay thế sự
vật cũ và quá trình lại tiếp tục.
Vì thế đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của
sự phát triển.
2.2. Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong các sự vật, hiện tợng. Nó không những
tồn tại đối lập, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con ngời mà còn qui định cả ý
thức, ý chí con ngời.
Mâu thuẫn mang tính chất phổ biến. Mâu thuẫn có trọng mọi sự vật, hiện t-
ợng của thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội lẫn t duy con ngời. Mâu thuẫn có

trong mọi giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự vật, hiện
tợng với nhau.
Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình của thế giới khách
quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khách mâu
thuẫn trong xã hội, khác mâu thuẫn trong t duy. Bản thân mỗi quá trình khác nhau
trong tự nhiên, xã hội t duy lại có những mâu thuẫn khác nhau.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nh vậy, sự động nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho thấy mối liên hệ
khách quan cơ bản tất yếu và phổ biến của các sự vật hiện tợng, nó qui định nguồn
gốc, động lực phát triển tất yếu của thế giới vật chất. Đó chính là qui luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, một trong những qui luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật.
2.3. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát các
thuộc tính, khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, tồn tại trong cùng một sự vật,
hiện tợng và tạo nên sự vật, hiện tợng đó. Do đó cần phải phân biệt riêng bất kỳ
hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật, hiện tợng
của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập. Trong
cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những
mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nh một chỉnh thể, nhng có
khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn
nhau. Sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc, động lực đồng thời qui định các
bản chất, khuynh hớng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập nh vậy mới gọi là
hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất của các mặt đối lập là "nơng
tựa" vào nhau, là điều kiện tồn tại của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập
chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự
thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu đợc cho sự tồn tại của
bất kỳ sự vật, hiện tợng nào.
Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng của bản thân sự vật tạo nên.

Ví dụ: Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trờng là
điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt
Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau về bản chất và những biểu hiện của nó
nhng nó lại hết sức quan trọng vì nó là sự thống nhất tạo nên quá trình đổi mới
kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam
không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phơng thức sản xuất: khi
lực lợng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai
mặt này chính là điều kiện tiền đề để cho sự phát triển của phơng thức sản xuất.
Lực lợng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn vận động theo hớng hoàn thiện, quan
hệ sản xuất phải vận động theo để cho kịp với trình độ của lực lợng sản xuất, tạo
động lực phát triển lực lợng sản xuất và có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này cũng chỉ tơng đối. Bản thân khái niệm
đã nói lên tính chất tơng đối của nó: thống nhất của phái đối lập, song thống nhất
đã bao hàm trong nó sự đối lập.
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại
với nhau, "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua
lại theo xu hớng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự
vật thống nhất nh một chỉnh thể trọn vẹn nhng không nằm yên bên nhau mà điều
chỉnh chỉnh hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu
tranh chuyển hoá bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách
quan thể hiện dới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ: lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối
kháng mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm
hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội
bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết đợc mâu thuẫn một cách

căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập đợc chia làm nhiều giai đoạn. Thông th-
ờng, khi mới xuất hiện, mặt đối lập cha thể hiện có sự xung khắc gay gắt, ngời ta
gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng
đợc gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau, tồn tại trong một sự vật hiện t-
ợng liên kết hữu cơ với nhau, phát triển ngợc chiều nhau, tạo thành động lực bên
trong của sự phát triển, khi hai mặt ấy mới hình thành bớc đầu của mâu thuẫn. Khi
hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến
thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn
nhau, sự vật cũ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Sau khi mâu thuẫn đợc giải quyết sự
thống nhất giữa hai mặt đối lập cũ đợc thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối
lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu
thuẫn đợc giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn. Có nh thế, đấu
tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao.
Chính vì vậy Lênin khẳng định: "Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt
đối lập".
Khi bàn về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin
khẳng định rằng: "Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa
nó chính là nó khi có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết đ-
ợc sự vật hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống
nhất chỉ tơng đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó
diễn ra thờng xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trạng thái sự vật ổn định, cũng nh khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của các mặt đối
lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tơng đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng nh sự phát triển, sự vận động và tuyệt đối".
2.4. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá
giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến trình độ nhất

định, hội tụ đủ các điều kiện cần thiết mới chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn
nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thờng xuyên diễn ra một
cách tự phát, còn trong xã hội, sự chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải
diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngời. Chuyển hoá các mặt đối lập
chính là lúc mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật cũng mất đi, sự vật mới ra đời, đó
chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú.
Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự
hoán vị đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thờng thì mâu thuẫn chuyển
hoá theo hai phơng thức:
Phơng thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nh-
ng ở trình độ cao hơn, xét về mặt phơng diện chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất
t bản chủ nghĩa và lực lợng sản xuất mới cao hơn về trình độ.
Phơng thức thứ hai: Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt
đối lập hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội
chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật
hiện tợng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có
khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối
lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tợng
khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn đợc giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự
vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các
mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật
mới hơn. Cứ nh vậy mà các sự vật, hiện tợng trong thế giới khách quan thờng
xuyên biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc là động
lực của mọi quá trình phát triển.
6

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II
Nền kinh tế thị trờng ở nớc ta trong giai đoạn
hiện nay.
I. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trờng
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nớc ta xây dựng và phát triển
các thành phần kinh tế mới. Sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch
sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về
lực lợng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát triển không đều
đó quyết định quan hệ sản xuất, trớc hết hình thức, qui mô và quan hệ sở hữu phải
phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là
cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nớc
ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn.
Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai
trò đối với sản xuất và đời sống. Mỗi thành phần kinh tế đều có những thế mạnh
riêng rất cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH. Trong xu thế quốc tế hoá đời
sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài Nhà nớc xã hội chủ nghĩa
có thể liên doanh hợp tác với t bản t nhân trong nớc và nớc ngoài làm hình thành
kinh tế t bản Nhà nớc.
Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần
kinh tế ở Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế
hàng hoá là do : phần công lao động xã hội với t cách là cơ sở kinh tế của sản xuất
hh chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều
sâu. ở nớc ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trớc đây
bị cơ chế kinh tế cũ làm mai mọt nay đợc khôi phục và phát triển. Sản phẩm đa ra
trên thị trờng phong phú, đa dạng chất lợng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn
hoá và hợp tác hoá lao động đã vợt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao
động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nớc ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh
tế nhng trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong

cùng một thành phần kinh tế vẫn cha đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh
trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải
thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm
bảo lợi lích giữa các tổ chức trong các thành phần với ngời lao động và giữa các tổ
chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế.
Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân Mặc
dù các thành phần kinh tế nàycó sự khác nhau về hình thức sở hữu, về cách thức
thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền
kinh tế và xã hội ta vàchúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế
thống nhất có sự quản lý của Nhà nớc.
1. Kinh tế Nhà nớc.
Kinh tế Nhà nớc bao gồm các doanh nghiệp Nhà nớc, các tài sản thuộc sở
hữu của Nhà nớc nh đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân
hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn
quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế Nhà nớc cần tập trung vào những
ngành, những lĩnh vực chủ yếu nh : Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài
chính ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất thơng mại. Nh vậy, vị trí của
kinh tế Nhà nớc là rất quan trọng và to lớn.
Kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với
các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà nớc tạo lực l-
ợng về kinh tế để Nhà nớc có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hớng, đòn
bẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng tr-
ởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những
hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng nh : Giao thông,
thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh,... Đồng thời kinh tế Nhà nớc đảm bảo vai
trò can thiệp và điều tiết vĩ mô của Nhà nớc, khắc phục những khuyết tật của cơ
chế thị trờng, thực hiện một số chính sách xã hội.

Mấy năm qua khu vực kinh tế Nhà nớc có chuyển biến tích cực biểu hiện ở:
Tỷ trọng tổng sản phẩm trong nớc tăng từ 36% năm 1991 lên đến 43,6% năm
1994. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt.
Tuy nhiên, nó cũng cha phát huy đầy đủ tính u việt và sự chủ đạo đối với nền kinh
tế quốc dân, những tiến bộ đạt đợc cha đáp ứng yêu cầu, cha tơng xứng với năng
lực sẵn có. Hiệu quả kinh doanh còn thấp, một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc
không có lãi. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế Nhà nớc là tạo ra
động lực, lợi ích trực tiếp cho ngời lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm
tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế Nhà nớc phải
hết sức coi trọng đầu t và thờng xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm,
bổ xung những tri thức cập nhật nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu
định hớng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Thành phần kinh tế hợp tác.
Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh tế hợp
tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nớc tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa là rất khó
khăn. Vì vậy, Đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh
tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao.
Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải đợc tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ
phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hởng lợi quá theo cổ phần và
kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc
chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt
động chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về
một hay một số dịch vụ trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng
một phần vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có
thể là kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn
bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Hợp tác xã có thể huy động vốn cả trong lẫn
ngoài.

Để đảm đơng vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh
tế tập thể phải có sự đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sở hữu, quản lí và
quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt
động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện tự chịu trách nhiệm với t cách pháp nhân
lời ăn lỗ chịu.
Sự tồn tại, phát triển của kinh tế hợp tác là một tất yếu kinh tế phù hợp với
con đờng tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế nớc ta. Vị trí, vai trò của thành phần
kinh tế này đã đợc khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng đặc biệt là trong kinh
tế hợp tác xã nông nghiệp.
3. Kinh tế t bản Nhà nớc.
Kinh tế t bản Nhà nớc ở nớc ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập
trung trong ngành dịch vụ (64%). Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9%
GDP. Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã
hội ở nớc ta hiện nay, là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn góp phần thúc
đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
Lênin đã chỉ rõ Trong một nớc tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa t
bản Nhà nớc tiến lên xã hội chủ nghĩa. Vận dụng t tởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là
phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức t bản Nhà nớc để phát triển kinh tế
theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Thu hút đầu t nớc ngoài có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển thành phần kinh tế này. Đó là việc thu hút vốn, công nghệ và
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bớc gớp phần cấu
trúc lại nền kinh tế, tạo việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Vì vậy Việt Nam
cần tạo ra một môi trờng đầu t thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá
thủ tục đầu t, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ đủ khả năng đảm đơng đợc
công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn
định. Tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu t nớc ngoài.
4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu t nhân, sản xuất kinh doanh

phân tán, mục đích kinh doanh chủ yếu nuôi sống mình. Thế mạnh của thành phần
kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy
kinh tế cá thể tiểu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nớc ta. Đảng và Nhà nớc chủ trơng giúp đỡ thành
phần kinh tế tiểu thủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trờng tiêu thụ sản phẩm.
Song nó còn có những hạn chế không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Do đó cần h-
ớng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các
doanh nghiệp Nhà nớc và hợp tác xã. Đó là cách tốt đất để nó hoà nhập với các
thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế,
phát triển đất nớc.
5. Thành phần kinh tế t bản t nhân.
Kinh tế t bản t nhân tồn tại dới các hình thức nh : Doanh nghiệp t nhân,
doanh nghiệp cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 1991, sau khi có luật
Doanh nghiệp t nhân ở nớc ta, kinh tế t bản Nhà nớc phát triển khá mạnh và sẽ trở
thành một lực lợng đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nớc. Hiện nay có 12.109
Doanh nghiệp t nhân với số vốn đăng ký 2.234 tỷ đồng, Công ty trách nhiệm hữu
hạn có 5583 Công ty với tổng số vốn 3 tỷ đồng. Nền kinh tế nớc ta phát triển có
năng động với tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của
khu vực kinh tế này. Mặt khác việc t nhân hoá các Doanh nghiệp Nhà nớc chỉ có
thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế t nhân đợc phát
triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nớc ta hiện nay sự phát triển mạnh
mẽ và năng động của kinh tế t bản t nhân có ý nghĩa rất lớn và đòi hỏi phải đợc sự
quan tâm đúng mức của Đảng- Nhà nớc.
Nhà nớc cần khuyến khích, tạo môi trờng thuận lợi cho các nhà đầu t bỏ
vốn ra kinh doanh. Những nhà đầu t t nhân phải đợc thực sự bình đẳng trong kinh
doanh trớc pháp luật, đợc tôn trọng trong xã hội. Chính sách của Nhà nớc ta là
khuyến khích t bản t nhân phát triển trong những ngành và lĩnh vực pháp luật cho
phép. Nhà nớc góp phần vốn đầu t cùng t nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế
10

×