Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.97 KB, 15 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Mọi sự vật và hiện tợng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn là một hiện tợng phổ biến có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên,
xã hội và t duy của con ngời . Trong lĩnh vực kinh tế mâu thuẫn cũng mang
tính phổ biến , nh giữa cung và cầu , tích luỹ và tiêu ding .
Mâu thuẫn luôn luôn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho tới khi sự vật kết
thúc. Trong mỗi sự vật mâu thuẫn hình thành và tồn tại không chỉ một còn là
nhiều mâu thuẫn, và trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập, mâu thuẫn
này mất đi mâu thuẫn khác xuất hiện .
Trong nền kinh tế thịi trờng định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa của nớc ta,
Đảng và nhà nớc ta đã dành đợc những thắng lợi và thành công nhất định.
Nhng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những vấn đề mâu thuẫn
làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc mới . Để nền kinh tế nớc ta ngày
càng trở lên vững mạnh và đạt đợc những thành công nh mong muốn, đòi hỏi
phải giải quyết những vấn đề ấy. Nếu giải quyết đợc nó sẽ thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế nớc ta.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giải quyết những vấn đề mâu
thuẫn đang tồn tại trong nền kinh tế thị trờng định hớng Xã Hội chủ nghĩa ở
nớc ta. Nên em đã chọn đề tài Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận
dụng mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa.
Mục đích em chọn đề tài này là để tìm hiểu và nắm bắt rõ hơn những
vấn đề mâu thuẫn, mặt trái cũng nh mặt phảI của nó.
Vì thời gian có hạn nên trong tiểu luận này em chỉ xem xét và đánh giá
một vài mâu thuẫn tiêu biểu:
- Đổi mới kinh tế và chính trị
- Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Các hình thức sở hữu trớc đây và nên kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa.
- Tồn tại giữa kinh tế thị trờng với việc xây dung con ngời xã hội chủ


nghĩa.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A. Lý luận chung.
Mỗi sự vật hiện tợng đang tồn tại đều là một thể thống nhất đợc cấu
thành bởi các mặt, các khuynh hớng, các thuộc tính phát triển ngợc chiều
nhau . Những mặt này đối lập với nhau nhng lại liên hệ ràng buộc nhau tạo
thành mâu thuẫn. Ơ đây ta chia làm 3 phần :
1- Mâu thuẫn là hiện tợng khách quan và phổ biến.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật và hiện tợng
trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong . Nó chẳng những là một hiện
tợng khách quan mà còn là một hiện tợng rất phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại
khách quan trong mọi sự vật và hiện tợng của giới tự nhiên, đời sống xã hội
và t duy con ngời. Chẳng những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật,
hiện tợng mà còn tồn tại phổ biến trong suốt quá trình của chúng. Không có
một sự vật nào không có mâu thuẫn và không có giai đoạn nào trong sự phát
triển của mỗi sự vật, hiện tợng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất
đi thì mẫu thuẫn khác lại hình thành.
VD: Trong sản xuất nếu ta sản xuất thủ công là chủ yếu, thì năng
xuất sẽ thấp mà giá thành sản xuất lại cao nhng khi ta thực hiện máy móc hoá
để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm sẽ phải đối mặt với việc d thừa
thủ công cũ.
Vì vậy, mâu thuẫn này đợc giải quyết trong sự nối tiếp của các mâu
thuẫn tồn tại khác, sự nối tiếp đó đối với chúng ta, thực tế là vô tậnvà giải
quyết trong sự vận động đi lên .
2 - Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính, những khuynh hớng phát triển ngợc chiều nhau tồn tại
trong cùng một sự vật hiện tợng, tạo nên sự vật hiện tợng đó. Do đó cần phân
biệt mặt đối lập và mâu thuẫn . Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập, nhng

không phải bất kì mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Trong cùng một
thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có nhữngmặt
đối lập lại tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nhng có khuynh hớng
phát triển ngợc chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau. Thống
nhất của các mặt đối lập đợc hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên
cạnh mà là nơng tựa vào nhau tạo ra sự phù hợp, cân bằng nh liên hệ phù
thuộc, quy định mà ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia
làm tiên đề cho sự tồn tại của chính mình và ngợc lại. Nếu thiếu một trong
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự
vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thế nào
thiếu đợc cho sự tồn tại của bất kì sự vật hiện tợng nào.
+ Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật
tạo nên.
Ví dụ: Lực lợng sản xuất quan hệ sản xuất trong phơng thức sản
xuất. Khi lực lợng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng
phát triển. Hai hình thức này chính là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của
phơng thức sản xuất. Nhng quan hệ của lực lợng săn xuất và quan hệ sản xuất
phảI thoả mãn một số yêu cầu sau:
Thứ nhất: Đó phải là khái niệm chung nhất đợc khái quát từ các mặt
phù hợp khác nhau phản ánh đợc bản chất của sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với lực lợng sản xuất.
Thứ hai: Đó phải là khái niệm động phản ánh đợc trạng thái biến
đổi thờng xuyên của sự vận động, sự phát triển trong quan hệ của lực lợng
sản xuất và quan hệ sản xuất.
Thứ ba : Đó phải là khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Khái niệm về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất đợc coi là thoả đáng là
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực l-
ợng sản xuất.

Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời
sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì, đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Hai
mặt đối lập này không nằm yên bên nhau, mà chúng luôn luôn đấu tranh với
nhau . Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định nhau trong thế giới vật chất
đợc thể hiện dới những dạng rất khác nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình
ấy có thể chia ra tong giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của
nó. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn thờng đợc biểu hiện ở mỗi sự khác nahu
của hai mặt. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự khác nhau đó biến
thành sự đối lập . Khi hai mặt đối của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt,
nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu
thuẫn đợc giải quyết. Sự thống nhất của hai mặt đối lập mới đợc hình thành
cùng với mâu thuẫn mới. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm cho các sự
vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giữa các mặt đối
lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của mọi sự vận động và phát triển.
Chính vì vậy, Lênin đã viết: phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt
đối lập.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3- Sự chuyển hoá của các mặt đối lập .
Không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển
hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một
trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hoá,
bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc
mâu thuẫn đợc giải quyết sự vật cũ mất đi, sự mới hình thành. Đó chính là
quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau.
Thông thờng thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phơng thức:
Phơng thức một: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhng
ở trình độ cao hơn xét về phơng chất của sự vật.
Phơng thức hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình

thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh và phủ định lẫn nhau để tạo sự vật
mới. Cứ nh vậy mà các sự vật, hiện tợng trong thế giới khách quan thờng
xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc
và động lực của mọi quan niệm mới.
Nh chúng ta đã biết, từ khi Xã hội chủ nghĩa đợc xây dựng, tất cả các
nớc Xã hội chủ nghĩa đều đợc thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
cơ chế vận hành và quản lí kinh tế này đợc duy trì trong một thời gian khá dài
và xem nh là một đặc trng riêng biệt của Xã hội chủ nghĩa, là cái đối lập với
cơ chế thị trờng của Chủ nghĩa t bản . Nền kinh tế tập trung đã đợc các nớc
T bản áp dụng từ trớc khi nhiều nớc xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa .
Nhng các nớc T bản chủ nghĩa đã xoá bỏ cơ chế thị trờng sau khi chiến
tranh kết thúc và đã đạt đợc những thành tựu rất lớn về kinh tế xã hội. Nhng
công bằng mà nói, nền kinh tế thị trờng cũng cha phải là cái duy nhất bảo
đảm cho sự tăng trởng và phát triển của xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hịên nay. Đảng ta một lần nữa khẳng định
những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác Lênin và t tởng Hồ Chí Minh
làm kim chỉ nam cho ngời hành động.
+ Một số đặc điểm của nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam nhìn từ góc
độ triết học.
Nền kinh tế nớc ta hiện nay, có thể nói,đang ở trong giai đoạn quá
độ chuyển tiếp nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị
trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nớc ta, đơng nhiên là
một vấn đề có ý nghĩa, rất cần đợc nghiên cứu, xem xét.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vậy từ phơng diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá
độ của nớc ta hịên nay là gỉ ? Nh chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung

bao cấp, mọi chức năng kinh tế xã hội của nền kinh tế đều đợc triển
khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp nhà nớc
đối với các hoạt động của sản xuất, lu thông, phân phối khá nặng nề . Lợi
ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân ngời lao động, một động lực trực tiếp
của hoạt động xã hội cha đợc quan tâm đúng mức. Ví thế, sự vận động của
nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ đại hội lần th VI của Đảng ( 12/ 1986 ) đến nay, theo đờng lối
đổi mới, đất nớc ta đã tong bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng với định h-
ớng xã hội chủ nghĩa và điều đó có nghĩa là, chúng ta đã đạt đợc những thành
tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta điều chỉnh bổ
xung nhận thực, làm cho quan niệm chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đờng
lối, chủ trơng, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực
tiễn. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, cũng gián tiếp
khả năng của nền kinh tế thị trờng trong việc năng động hoá nền kinh tế đất
nớc.
Thành tựu những năm đổi mới ở nớc ta vừa qua đã có tácdụng làm cho
chúng quen dần với các quan hệ hàng hoá. Bớc chuyển sang cơ chế thị trờng
này đơng nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó; nhng dẫu
sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trờng.
Về thực chất của bớc chuyển này, một số cho rằng: ở Việt Nam, dù nền
kinh tế thị trờng chỉ mới vừa đợc hình thành, còn đang trong những bớc chập
chững ban đầu và đợc điều tiết một cách có ý thức theo định hớng xã hội chủ
nghĩa, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để
lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá Sự đan xen chi phối mãnh
liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh cơ chế thị trờng
bị khúc xạ theo nhiều chiều hớng khác nhau.
Vai trò của Nhà nớc và của nền kinh tế Nhà nớc trong một nền kinh tế
hớng tới thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là điều không bàn cãi.
Nhà nớc, ngoài việc trực tiếp phải quyết định những vấn đề của bản thân nền
kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và

xã hội. Nhà nớc với các chính sách luật lệ của mình, một mặt, có khả năng
làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng trởng có hiệu quả, nhng một mặt
khác, nó cũng lại chính là ngời lo giải quyết các vấn đề do chính sự tăng tr-
ởng kinh tế đó tạo ra. Trên thực tế, bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nớc đối với
nền kinh tế còn quá kồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế Nhà nớc đều hoạt động thiếu năng động và hiệu quả, quá ỷ lại vào
Nhà nớc.
Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên dù ít, dù nhiều, cũng
là các vấn của bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế
quản lý đang ở gia đoạn hình thành nên thờng là không đồng bộ, thiếu hụt.
Chúng ta cha thực sự tạo ra môi trờng an toàn và ổn định cho sản xuất và
kinh doanh. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định cả trên phơng diện kinh
tế xã hội dờng nh đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trng cho các
quan hệ trong nền kinh tế nớc ta. Cần thiết phải lu ý rằng, khác với cơ chế
hành chính bao cấp, cơ chế thị trờng với các qui định khách quan khó
nắm bắt của mình, thờng biểu hiện ra nh một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên
hơn và nắm bắt của mình, thờng biểu hiện ra nh một cơ chế thị trờng, tự
nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con ngời hơn. Bao giờ cũng vậy, trong
giai đoạn quá độ, chuyển tiếp yếu tố tự phát vai trò của mình mạnh hơn yếu
tố tự giác. Bởi vậy, trong nền kinh tế nớc ta hiện nay, việc nắm đợc các yếu
tố t phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu đợc phơng thức hoặc tìm ra đợc phơng
pháp kiểm soát thích hợp đối với chúng ta đều hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng có quá nhiều hiện tợng và quá trình mà chúng ta còn buông
lỏng sự kiểm soát hoặc cha thực sự có khả năng kiểm soát hoạt động của
chúng ta.
Mà hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng
ta, sản xuất hàng hoá cùng với. Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trờng hiện đã đợc chúng ta hiểu là không đối lập với chủ

nghĩa xã hội. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một Cơ
hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trờng rõ
ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội nớc ta.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trờng bao nhiêu, chúng ta
lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sợ vận động của đời
sống xã hội. Sự tăng trởng kinh tế đơng nhiên là một mục tiêu của phát triến
xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội.Nhng
tăng trởng kinh tế không nhất thiết đi liền với sự tiến bộ của xã hội. Do vậy,
trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội với mục tiêu dân giầu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh thì kinh tế
thị trờng nhất định phải có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa.
6

×