Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nghiên cứu thành phần loài tuyến trùng ký sinh trên cây lạc ở tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.35 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các cây công nghiệp ngắn ngày đang được sản xuất ở Việt Nam thì cây Lạc
có một vị trí rất quan trọng. Cây Lạc, còn được gọi là Đậu phộng hay Đậu phụng (tên
khoa học là Arachis hypogaea), là một loài cây thực phẩm thuộc họ Đậu có nguồn
gốc tại Trung và Nam Mỹ. Sản phẩm của cây lạc rất giàu lipit, protein dùng làm thức
ăn cho người và gia súc, dầu lạc cũng được sử dụng trong công nghiệp. Ngoài tiêu
dùng nội địa, sản phẩm của cây lạc còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao,
mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 100.000-135.000 tấn thu về 65-120 triệu USD [26].
Cây lạc được trồng khá phổ biến tại Việt Nam, trong đó tỉnh Hưng Yên là một
trong những tỉnh trồng nhiều nhất. Nằm gọn trong một ô trũng thuộc đồng bằng sông
Hồng, được cấu tạo bằng các trầm tích thuộc kỷ Đệ Tứ, với chiều dài 150m - 160m và
đất đai trong tỉnh được hình thành do phù sa sông Hồng bồi đắp. Thành phần cơ giới
của đất khá đa dạng từ đất thịt nhẹ đến đất thịt pha nhiễm chua. Bên cạnh tài nguyên
đất đai, tỉnh Hưng Yên còn có nguồn tài nguyên nước khá phong phú, có thể cung cấp
nước trực tiếp cho nông nghiệp qua các hệ thống sông ngòi tự nhiên và hệ thống trung
đại thuỷ nông Bắc - Hưng - Hải. Với những ưu thế đó thì cây lạc được chú trọng quan
tâm đặc biệt bởi nó phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh Hưng Yên.
Thành phần sinh hoá của hạt lạc có thể thay đổi phụ thuộc vào giống, vào sự biến
động các điều kiện khí hậu giữa các năm, vào vị trí của hạt ở quả, các yếu tố không
bình thường như: sâu bệnh hại, và phương pháp phân tích khác nhau cũng ảnh hưởng
đến thành phần sinh hoá của hạt lạc [1].
Các loại bệnh hại trên cây lạc chủ yếu do các loài sâu, rệp, vi khuẩn... gây ra và
còn một loại bệnh nữa do tuyến trùng gây ra cũng gây hại không kém tới năng suất
cây trồng. Tuyến trùng gây thiệt hại ở tất cả các khu vực trồng cây lạc trên thế giới.
Theo khảo sát của các nhà tuyến trùng học, tổn thất hàng năm gây ra bởi các loài
tuyến trùng trên cây lạc được ước tính khoảng 12% và thiệt hại ước tính khoảng 1,03
tỷ USD [26].

1



Trong những năm gần đây, năng suất cây lạc tại tỉnh Hưng Yên có sự suy giảm
bởi một số bệnh hại, trong đó phải kể đến bệnh do tuyến trùng ký sinh gây ra. Chúng
làm giảm năng suất cây trồng, ảnh hướng tới chất lượng củ lạc và có thể lây nhiễm ở
trong đất rất lâu với điều kiện thuận lợi.
Nhưng hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có một báo cáo khoa học cụ thể nào về mức
độ gây hại của tuyến trùng trên cây lạc hay những loài tuyến trùng ký sinh gây hại
chính, đôi khi người nông dân vẫn bị nhầm lẫn bệnh do tuyến trùng gây ra có thể là do
nấm và vi khuẩn vì biểu hiện bệnh của chúng tương đối giống nhau. Chính vì vậy, tôi
đã chọn đề tài “Nghiên cứu thành phần loài tuyến trùng ký sinh trên cây lạc ở tỉnh
Hưng Yên” nhằm bước đầu xác định về thành phần loài tuyến trùng ký sinh trên lạc,
mô tả hình thái của một số loài tuyến trùng ký sinh quan trọng cũng như triệu chứng
bệnh gây ra trên cây lạc bởi chúng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định thành phần loài tuyến trùng ký sinh gây hại trên cây lạc ở Hưng Yên.
- Triệu chứng bệnh gây ra bởi mật độ và số lượng của tuyến trùng ký sinh.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Cung cấp thông tin về tuyến trùng gây hại trên cây lạc, cụ thể tại tỉnh Hưng Yên.
- Đánh giá mức độ gây hại trên cây lạc của tuyến trùng, từ đó chúng ta có thể tìm
hiểu để đưa ra các giải pháp phòng bệnh và hạn chế sự lây nhiễm của chúng.

2


Chương 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về tuyến trùng ký sinh cây lạc trên Thế giới và
tại Việt Nam
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tuyến trùng ký sinh cây lạc trên Thế giới
Tuyến trùng ký sinh thực vật là nhóm tuyến trùng chủ yếu sống trong đất và có
qua hệ chặt chẽ với thực vật đang phát triển. Chúng sống và ký sinh ở tất cả các phần

của thực vật, bao gồm rễ, thân, lá và các hoa của thực vật đang phát triển. Do quá trình
sống và sinh sản trên hoặc trong cơ thể thực vật, tuyến trùng có thể gây ra nhiều biến
đổi theo chiều hướng bất lợi đối với thực vật-cây chủ như phá hủy mô thực vật, tạo
các vết thương, các biến đổi về sinh lý…Ngoài tác hại trực tiếp trên, chúng còn có
mối quan hệ với các tác nhân gây bệnh khác, từ đó làm giảm khả năng miễn dịch của
thực vật [4].
Tuyến trùng thuộc ngành Nemata, trong đó tuyến trùng ký sinh thực vật gồm các
loài tuyến trùng ở 4 bộ, khác nhau về cấu tạo hình thái, giải phẫu và tính chất ký sinh
ở thực vật. Bộ Tylenchida: bao gồm hầu hết các loài tuyến trùng là đại diện cho các
nhóm ký sinh ở các phần khác nhau của thực vât. Bộ Aphelenchida: gồm một số loài
tuyến trùng ký sinh ở các phần trên mặt đất của cây như lá, hoa. Bộ Dorylaimida: gồm
các loài họ Longidoridae là nhóm tuyến trùng ngoại ký sinh thực vật, một số loài có
khả năng mang truyền virus. Bộ Triplonchida: gồm các loài của 2 họ Trichodoridae
và Diphterophoridae là nhóm ngoại ký sinh thực vật, nhiều loài có khả năng mang
truyền virus. Trong đó bộ Tylenchida là nhóm tuyến trùng ký sinh đông đảo nhất và
có tầm quan trọng nhất trên phạm vi toàn thế giới [4].
Theo báo cáo tổng quan của các nhà nghiên cứu về tuyến trùng học, cho đến nay
đã xác định hàng trăm loài tuyến trùng ký sinh gây thiệt hại trên cây lạc tại nhiều khu
vực khác nhau trên thế giới, trong đó phổ biến nhất là: Meloidogyne spp.,
Pratylenchus brachyurus, Belonolaimus longicaudatus, Criconemella ornata,
Aphelenchoides arachidis, Aphasmatylenchus straturatus, Scutellonema cavenessi,
Tylenchorhynchus brevilineatus và Ditylenchus destructor [26].

3


Tuyến trùng sần rễ Meloidogyne spp.
Giống tuyến trùng sần rễ Meloidogyne có 3 loài ký sinh trên cây lạc là:
M. arenaria, M. javanica, M. hapla. Ba loài này được biết đến rộng rãi ở cả 3 vùng
bắc, trung và nam nước Mỹ, Châu Phi, Ấn Độ, Châu Âu bao gồm cả Địa Trung Hải,

Nhật Bản, Úc và đảo Fiji. Các yếu tố sinh học và môi trường thuận lợi có liên quan
chặt chẽ tới sự phân bố và tầm quan trọng của chúng, cụ thể tuyến trùng M. arenaria
và M. javanica thường tập trung ở vùng ấm và nóng trên thế giới còn loài M. hapla thì
được tìm thấy ở vùng lạnh [13].
Theo báo cáo gần đây, loài M. arenari đặc biệt chiếm ưu thế khi ký sinh trên cây
lạc ở vùng Alabama, Georgia, Texas và Arkansas và M. hapla có mức độ gây hại lớn
nhất tại các vùng Bắc Carolina, Virginia và Oklahoma [41]. Cả M. arenaria và
M. hapla đều được xác định là nguyên nhân gây hại cho cây lạc ở các bang Georgia,
Bắc Carolina và Oklahoma của Mỹ. Loài M. javanica cũng được tìm thấy tại một số
vùng trồng lạc ở bang Georgia [43].
Tại một số nơi khác trên thế giới, M. arenaria cũng đã được tìm thấy như ở
Zimbamwe (Martin, 1958), Isarel (Orion & Cohn, 1975), Ấn Độ (Sharma & cs., 1978;
Dhruj & Vaishnav, 1981; Sakhuja & Sethi, 1985c). Một báo cáo từ Senegal (Châu Phi)
cho biết đã tìm thấy 2 loài tuyến trùng sần rễ M. arenaria và M. javanica, nhưng
chúng đều không gây hại nhiều trên cây lạc (Netscher, 1975). Trước đó, Martin (1958)
là người đầu tiên nghiên cứu và thông báo về loài M. javanica ký sinh trên cây lạc ở
Zimbabwe [11].
Biểu hiện gây bệnh: Ấu trùng của Meloidogyne thường xâm nhập gây hại đối với
rễ và củ lạc. Chúng đi vào phần đầu của rễ và làm hỏng cấu trúc mỏng manh của rễ
khi có một số lượng lớn đi vào diện tích giới hạn của rễ [9].
Minton (1963) đã nghiên cứu sự lây nhiễm và mô bệnh học của M. arenania trên
cây lạc. Chúng gây nhiễm vào rễ lạc với ấu trùng tuổi 2 của M. arenania thì sẽ phát
triển rất nhanh sau 2 ngày. Chỉ sau 8 ngày các tế bào phát triển lớn, đa nhân và mật độ
dày đặc. Các tế bào gần chỗ tuyến trùng xâm nhập bắt đầu phân chia nhanh chóng và

4


tăng về kích thước rồi phình to ra dẫn đến mất tổ chức của mô mạch. Sự xuất hiện các
nốt sần ở rễ giống như các u mô nhỏ của tế bào có liên quan tới tuyến trùng bao bên

ngoài của trụ rễ, chúng được nhân rộng và phát triển ra ngoài vỏ. Các tế bào lân cận
của vỏ tế bào cũng đã bị phá hủy bởi sự nhân lên nhanh chóng của mật độ tuyến trùng
và các mô tế bào bắt đầu bị hoại tử, sự phát triển về chiều dài của rễ bị hạn chế bởi
những u nốt trên rễ, chức năng vận chuyển nước và chất dinh dưỡng của rễ cũng bị
phá hủy [26].
Tất cả sự thay đổi về cấu tạo giải phẫu bởi M. javanica trên các tế bào rễ cây lạc
chính là sự tăng nhanh và phình to ra của các tế bào mà kết quả là do sự hình thành
của các tế bào khổng lồ đa nhân ở vỏ và thân của rễ. Các nốt sần trên rễ và củ lạc do
M.arenaria và M. javanica thường giống nhau và lớn hơn so với các nốt sần do
M. hapla [9,19]. Các nốt sần được tạo ra bởi M. arenaria và M. javanica có thể có
đường kính lớn gấp vài lần so với các rễ bên cạnh, do đó nó ít mở rộng hơn so với các
rễ nhánh không bị nhiễm. Sakhuji và Sethi (1985) quan sát ở các rễ bị nhiễm bởi
M. javanica thì chúng tăng lên nhanh chóng từ 2 đến 5 lần so với các rễ bên cạnh ở tất
cả vị trí. Nốt sần tạo ra do Rhizobium trên rễ cây lạc có thể được chẩn đoán nhầm
giống như nốt sần do tuyến trùng gây ra nhưng thực tế chúng lại rất khác nhau [32].
Machmer (1951) đã mô tả các triệu chứng trên cây lạc bị nhiễm bởi M. arenaria
như sau: sự sây sát xảy ra trên tất cả các phần dưới của cây lạc kể cả vỏ lạc cũng xuất
hiện các nốt mụn. Thân củ lạc thường rất nhiều nốt mụn và dễ dàng bị cắt đứt nếu củ
lạc bị nhiễm sớm từ đó sẽ ảnh hưởng tới phôi thai hạt giống. Machmer cũng nói thêm
về quần thể thực vật cây lạc không biểu hiện bệnh dễ thấy cho đến khi chúng gần
được thu hoạch. Tại Trung Quốc, Zhang (1985) cũng đã thông báo cây lạc bị nhiễm
tuyến trùng M. arenariasau khoảng 40 ngày trồng thì lá cây lạc đã bắt đầu chuyển
màu vàng và cây bị còi cọc. Biểu hiện trên mặt đất của M. hapla (Taylor & Sasser,
1978) và M. javanica (Minton & cs., 1969b) tương tự giống như của M. arenaria. Khi
cây bị ảnh hưởng thì tăng trưởng và năng suất đều kém [44].

5


Hình 1.1. Triệu chứng bệnh trên cây lạc do loài Meloidogyne spp. gây ra

(theo D.W. Dickson, 1971)
Các chủng sinh học: Taylor & Sasser (1978) gợi ý chỉ nên dùng từ “chủng” cho
quần thể Meloidogyne bởi nó đã được chứng minh bằng rất nhiều thí nghiệm khác
nhau trên các cây chủ từ những loài bình thường cho tới loài có liên quan và có vùng
phân bố địa lý lớn. Sasser & Nusbaum (1955) quan sát thấy rằng quần thể của
M. arenaria ở Bắc Carolina đã không nhiễm trên cây lạc ở Georgia và chúng rất khác
với quần thể ở Georgia và một số vùng khác. Dựa trên những lần kiểm tra về quần thể
M. arenaria, M. javanica, M. hapla đang ký sinh trên cây lạc từ các vùng tách biệt
nhau về địa lý trên thế giới, Sasser (1972), Taylor & Sasser (1978) và Eisenback &

6


cs.(1981) đã chia M. arenaria thành 2 chủng trong đó một chủng sinh sản được trên
cây lạc còn một chủng thì không. Chủng chủ yếu thuộc loài M. arenaria có sự phân
bố rộng rãi trên thế giới và hình thái của chúng rất khó phân biệt (Sasser, 1979a;
Osman & cs., 1985). Phản ứng của M. javanica và M. hapla trên các cây chủ khác
nhau tương đối đồng đều, do đó các chủng khác nhau rất khó được phát hiện, mặc dù
cũng có một vài biến đổi trong quần thể của M. javanica được ghi nhận. Hầu hết quần
thể của M. javanica không sinh sản được trên cây lạc. M. javanica đã được báo cáo là
lây nhiễm trên cây lạc tại Zimbabwe và Malawi (Martin, 1958), Georgia, USA
(Minton & cs., 1969b) và Brazil (Lordello & Gerin, 1981) [10, 32, 33].
Sự tồn tại của tuyến trùng sần rễ và phương thức lan truyền: Orr & Newton (1971)
đã tìm thấy ấu trùng của Meloidogyne trong 28 chi thu được từ việc lấy mẫu cách 2m
dưới đất ở khu vực phía Tây bang Texas. Nó được phân tán theo dòng chảy của nước
và hoạt động tưới tiêu cây trồng nhưng phần lớn chúng được lan truyền rộng rãi do
hoạt động của con người. Chúng có thể được lây lan khi đào bới các cây lạc tươi, bao
gồm cả củ và rễ lạc, nhưng nói chung chúng không tồn tại trong củ lạc có vỏ quá khô.
Nếu việc làm đất không kỹ và không được khô hoàn toàn thì đó có thể là nơi ẩn náu
cho trứng phát triển và ấu trùng sẽ được lây nhiễm trở lại vào cây chủ. Đất từ các khu

vực bị nhiễm bệnh có thể bị lây vào các khu vực khác khi chúng được đào xới bằng
các phương tiện vận chuyển hoặc sự đi lại của vật nuôi, con người cũng có thể là
nguồn gốc cho trứng và ấu trùng phát triển [15].
Các yếu tố môi trường ảnh hướng tới hoạt động ký sinh của tuyến trùng: Nhiệt độ
được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự tồn tại và hoạt động ký sinh của
Meloidogyne và nhiệt độ thấp nhất và cao nhất cho sự tồn tại tương ứng vào khoảng
từ 00C- 50C và 350C- 400C (Taylor & Sasser, 1978). Nói chung nhiệt độ tối ưu cho sự
phát triển của trứng và ấu trùng là 100C-150C (Bergeson, 1959; Thomason & cs.,
1964). Nhiệt độ tối ưu cho sự ấp trứng của M. hapla và M. javanica tương đối từ
250C-300C (Birdge& Wallace, 1965). Nhiệt độ để trứng nở của M. javanica vào
khoảng 300C, cao hơn so với M. hapla. Milne & Du Plessis (1964) đã nhận thấy rằng
chu kỳ sống của M. javanica là 56 ngày tại nhiệt độ 14,30C và 21 ngày ở nhiệt độ

7


26,10C [11, 12, 34].
Độ ẩm đất là yếu tố cần thiết để duy trì mọi hoạt động sống của Meloidogyne.
Trong đất ẩm khoảng từ 40-60% thì ấu trùng có thể hoạt động và di chuyển trong đất
qua lớp màng nước.Trong đất khô chúng trở nên kém hoạt động và có thể bị chết (Van
Gundy, 1985). Trong đất ẩm, quá trình trứng nở có thể bị ức chế và ấu trùng di chuyển
chậm do thiếu oxy. Baxter và Blake (1969) đã nhận thấy rằng tất cả các hoạt động của
M. javanica sẽ tăng lên nếu nồng độ của oxy tăng từ 0,2 tới 21% và kết luận rằng môi
trường cung cấp thuận lợi đó là khi đất ẩm thoát nước nhanh và nồng độ oxy tăng trên
10%. Zhang (1985) báo cáo rằng M. arenaria ít nghiêm trọng hơn trong các khu vực
thấp nhưng có các mạch nước cao hơn so với khu vực thoát nước tốt. Mặc dù vậy
M. arenaria ít gây nguy hiểm trên cây lạc trong các ruộng bị ngập hơn so với các
ruộng không bị ngập lụt [8, 45].
Trong các nghiên cứu phòng trừ mức độ phụ thuộc vào nhiệt độ, Vrain (1978) đã
tìm thấy mức độ lây nhiễm của M. incognita và M. hapla thấp hơn sau khi tiếp xúc

với các nhiệt độ khác nhau từ 200C tới -80C trong đất có độ ẩm bão hòa hơn khi tiếp
xúc với các nhiệt độ trong đất có độ ẩm cao hơn ở 51cm. Trong số những loài
Meloidogyne đang tồn tại, trứng nở và sinh sản được trên phạm vi pH rộng. Nếu độ
pH trong đất thuận lợi cho sự phát triển của cây thì tuyến trùng sẽ hoạt động rất mạnh
(Wallace, 1971). Zhang (1985) cho rằng việc bổ sung để làm thay đổi thành phần các
chất hữu cơ trong đất có thể làm giảm mức độ sinh sản của M. arenaria [44].
Tổ hợp gây bệnh: Garcia và Mitchell (1975a) đã quan sát mức độ phức tạp trong
tỷ lệ bệnh thối quả lạc khi Pythium myriotylum kết hợp với Fusarium solani hoặc
M. arenaria hoặc sự kết hợp của các tác nhân gây bệnh khác. Garcia và Mitchell
(1975b) cũng thông báo sự kết hợp giữa nấm P. myriotylum và tuyến trùng M.
arenaria làm cho tỷ lệ cây bị đổ ngang nhiều hơn so với các tác nhân gây bệnh riêng
biệt. Khi cho nhiễm vào cây lạc từ 2g-4g sợi nấm F. solani cùng với 1000-2000 M.
arenaria sẽ làm cây héo sớm hơn so với khi tiêm một mình F. solani (Patel &
cs.,1985). Kết quả nghiên cứu 2 năm trong chậu đất cho thấy sự hiện diện của

8


M. arenaria không có ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm Aspergillus flavus trong hạt lạc
(Minton & Jackson, 1967). Thí nghiệm của Minton & cs.(1969a) cũng cho thấy lệ
nhiễm của A. flavus lớn hơn trong hạt giống của cây khi chủng đồng thời cả A. flavus
và M. hapla so với cây chỉ cho nhiễm A. flavus [31].
Tầm quan trọng và mức độ thiệt hại về mặt kinh tế: Thông tin về tầm quan trọng
kinh tế của Meloidogyne ký sinh trên cây lạc không có sẵn ở một số khu vực trên thế
giới. Ước tính năng suất thiệt hại do một loài tuyến trùng gây ra thường tương đối khó
khăn vì thiệt hại năng suất không phải do một loài tạo ra mà thường là sự kết hợp của
nhiều loài đồng thời gây ra.Ở Georgia, Motsinger & cs. (1976) đã tìm thấy 9,7% của
12 khu vực khảo sát đã bị tàn phá bởi M. arenaria hoặc M. hapla. Trong 11 vùng ở
Alabama, Ingram và Rodriguez-Kabana (1980) đã tìm thấy 41,4% các vùng khảo sát
bị tàn phá bởi các loài Meloidogyne [13].

Thiệt hại trong các khu vực bị tàn phá có thể vượt quá 50%, tuy nhiên thiệt hại
thường phân bố không đều và tổn thất trung bình có thể ít hơn 50%. Gần đây, thiệt hại
ước tính do M. arenaria trong rễ chính của cây lạc tại những vùng sản xuất dao động
từ 0,5% ở Oklahoma tới 5,4% ở Alabama. Thiệt hại do M. hapla dao động từ 0,3% ở
Georgia tới 4,7% ở Bắc Carolina. Sasser (1979b) đã chỉ ra rằng ước tính thiệt hại sản
xuất do Meloidogyne ở phía tây Châu Phi và Đông nam Châu Á là 15% [26].
M. arenaria được chỉ ra là nguyên nhân chính gây bệnh ở cây lạc tại Trung Quốc
(Zhang,1985). M. arenaria xuất hiện lần đầu tiên ở phía bắc của khu vực trồng cây lạc
còn M. hapla ở khu phía Nam. Điều tra cho thấy rằng khoảng 61% trong số diện tích
6200 ha trồng cây lạc đã bị nhiễm M. arenaria (Zhang, 1985).Trong các thí nghiệm
về tiêu diệt tuyến trùng, sản lượng thường tương quan với số lượng ấu trùng
Meloidogyne có trong đất. Phân tích hồi quy dữ liệu từ 16 thí nghiệm ở cây lạc trên
vùng Alabama chỉ ra rằng sản lượng xấu có liên quan tới số lượng của ấu trùng
M.arenaria trong đất xác định khi gần thu hoạch [44].
Các biện pháp phòng trừ: Sự phòng trừ Meloidogyne có thể là cần thiết đối với
một số khu vực đem lại lợi nhuận từ việc trồng cây lạc nhưng ở một số khu vực khác

9


thì không. Do đó trên mỗi khu vực nên có các đánh giá dựa trên mức độ gây hại của
tuyến tùng theo các thời điểm, các loại cây trồng khác phát triển luân canh với cây lạc,
mức độ số lượng tuyến trùng hiện tại. Dựa vào các khảo sát, Motsinger & cs. (1976)
đã nhận thấy rằng chỉ có 26,6% diện tích trồng cây lạc ở Georgia là đáp ứng được các
quy trình trong việc hạn chế số lượng tuyến trùng. Tuy nhiên những điều trên không
hoàn toàn giải thích đúng cho các biện pháp bởi nó còn phụ thuộc sự luân canh và chế
độ canh tác ở những khu trồng cây lạc. Ngăn chặn sự phát triển của tuyến trùng là một
vấn đề đem lại kinh tế hơn là việc quản lý sự phát triển của chúng [28].
Loài tuyến trùng nội ký sinh rễ lạc Pratylenchus brachyurus
P. brachyurus là loài gây hại chính trên cây lạc. Chúng thường tập trung ở các

vùng ấm trên thế giới (Loof, 1964). Steiner (1949) đã báo cáo lần đầu tiên về sự xuất
hiện của P. brachyurus ở Alabama, Mỹ vào năm 1942. Và hiện nay chúng lây nhiễm
hầu hết các vùng trồng cây lạc trên nước Mỹ và một số nơi khác trên thế giới bao gồm
Ai Cập (Oteifa, 1962), Aus tralia (Colbran, 1968) và Zimbabwe (Anon, 1973). Ngoài
ra, P. coffee cũng gây hại trên cây lạc tại Ấn Độ (Chabra & Mahajan, 1976) [29].
Triệu chứng gây hại: P. brachyurus là tuyến trùng nội ký sinh trong rễ, củ và vỏ
lạc. Steiner (1945) & Boyle (1954) đã mô tả thấy rõ sự lây nhiễm của chúng trong vỏ
lạc. Good & cs. đã chỉ ra P. brachyurus ký sinh trong rễ và củ giống như ký sinh trong
vỏ củ lạc trưởng thành, nhưng số lượng ký sinh trong vỏ nhiều hơn vì ở đó có các nốt
hoại tử tối màu. Vài trăm tuyến trùng P. brachyurus có thể xâm chiếm tạo ra một tổn
thương duy nhất và lây nhiễm ở tất cả các giai đoạn phát triển. Khi chúng lây nhiễm
được vào rễ thì số lượng sẽ tăng lên nhanh chóng, kết quả làm cho cây héo vàng và
ảnh hưởng tới năng suất cây lạc [20].
Trong thí nghiệm được tiến hành với đất vô trùng và sau đó lây nhiễm
P. brachyurus vào thì Boswell (1968) đã phát hiện ra rằng tuyến trùng đã trui qua vỏ
có màu vàng nhạt mỏng manh đến màu nâu bên trong vỏ để xuất hiện trong hạt. Tổn
thương đặc trưng trên mô vỏ là các lỗ nhỏ màu đen và gần chỗ tổn thương thì màu sắc
các mô nhạt dần hơn so với phần trung tâm. Kiểm tra chặt chẽ màu sắc của các tổn

10


thương thì thấy rằng nguyên nhân chủ yếu là do hoại tử nhu mô. Mức độ tổn thương
gây ra bởi tuyến trùng không rõ ràng như mức độ tổn thương được gây ra khi
Rhizotonia solani có mặt. Tổn thương bị gây ra bởi 2 sinh vật trên được mô tả khá đơn
giản vì chỉ xuất hiện các đốm màu nâu chuyển thành màu đen bên trong các khu vực
hoại tử. Các tổn thương có một giới hạn nhất định mặc dù hình dạng của chúng có thể
không ổn định. Tổn thương bị nhiễm cả P. brachyurus và R. solani thì khi kiểm tra
bằng kính hiển vi cho thấy sự hiện diện của hạch nấm. Boswell (1968) đã mô tả các
triệu chứng của P. brachyurus gây thiệt hại trên vỏ củ lạc có sự khác nhau đôi chút

trong các vùng. Get & cs. (1958) đã phân biệt được sự tổn thương trên vỏ trưởng
thành có màu nâu tím với các tổn thương gây ra bởi vi sinh vật đất thường có màu tối
hơn và thường không phai dần vào các mô khỏe mạnh xung quanh cũng như không
phân hủy vi sinh vật [29].

Hình 1.2. Tổn thương trên củ lạc do P. brachyurus gây ra (theo T.E. Boswell, 1968)
Hình thức tồn tại và cách lây nhiễm: P. brachyurus rất dễ lây nhiễm vào rễ và củ
lạc bởi nó có thể chịu được nhiệt độ và độ ẩm ở mức thấp nhất, điển hình nó có thể tồn
tại ở Đông nam Mỹ trong những mô chết thực vật của mùa đông. Ở phía nam Châu
Phi, Keon (1967) đã nghiên cứu với khoai tây và ngô thì thấy rằng vào cuối mùa đông
có khoảng 66,1% P. brachyurus được tìm thấy trong các chất hữu cơ của đất mặc dù
các chất hữu cơ chỉ chiếm 0,29% của đất. Boswell (1968) đã tái sinh P. brachyurus từ

11


vỏ lạc và lưu trữ ở 240C trong khoảng 3, 6 và 28 tháng. P. brachyurus là tuyến trùng
ký sinh đa thực nên có thể tồn tại qua mùa đông trong rễ của nhiều loại cây trồng và
cỏ dại [22, 40].
P. brachyurus có thể được lây nhiễm bằng nhiều cách giống như Meloidogyne. Vì
đây là một ký sinh trùng di chuyển và chúng có thể tấn công vào bất cứ cây trồng nào
trong đất. Chúng có thể dễ dàng di chuyển trong rễ và các bộ phận của cây trong đất.
Nói chung, phương pháp lây lan chủ yếu là do hoạt động của con người có liên quan
đến vận chuyển các cây trong đất cũng như cách làm đất.Vỏ lạc được sử dụng như lớp
phủ và đất giống như một môi trường chứa tuyến trùng sống. Ngoài ra, dòng chảy của
mạch nước ngầm cũng như nước tưới tiêu là một nguyên nhân dẫn đến lây lan tuyến
trùng trong đất [23].
Yếu tố môi trường ảnh hưởng tới việc ký sinh của tuyến trùng: Sự phân bố và ký
sinh của P. brachyurus có liên quan tới nhiệt độ và thường cư trú ở những nơi nóng
lên của thế giới (Loof, 1964). Boswell (1968) đã nghiên cứu được mức độ sinh sản tối

ưu của tuyến trùng trong rễ và vỏ củ lạc ở nhiệt độ thích hợp là 260C. Loại đất cũng có
thể ảnh hưởng đến ký sinh của P. brachyurus trên cây lạc. Độ ẩm của đất cũng ảnh
hưởng tới khả năng sinh sản của P. brachyurus trên cây lạc (Good & Stansell, 1965)
[20].
Biện pháp phòng trừ: Thiệt hại năng suất do P. brachyurus gây ra trên cây lạc là
tương đối nhỏ so với số lượng các khu vực bị nhiễm. Do đó, việc phòng trừ tuyến
trùng này trên cây lạc đã không được tiến hành rộng rãi, ngoại trừ trong một số lĩnh
vực bị nhiễm nghiêm trọng và gây thiệt hại nặng với cây trồng [29].
Biện pháp canh tác: Nói chung, luân canh cây trồng để phòng trừ P. brachyurus
trên cây lạc không có hiệu quả vì tuyến trùng có khả năng ký sinh rộng rãi trên các
loại cây trồng và cỏ dại. Và cũng bởi vì có rất ít cây có thể luân canh được với cây lạc
mà không bị nhiễm tuyến trùng. Good & cs.(1954) đã tìm thấy rằng số lượng của
P. brachyurus trong cây ngô lớn hơn so với cây lạc khi trồng xen canh ngô với lạc.
Ngoài ra, ông còn quan sát thấy rằng nếu thu hoạch lạc kịp thời sẽ loại bỏ

12


P. brachyurus so với các vùng thu hoạch trễ, do đó tuyến trùng sót lại trong đất ít và sẽ
không lây nhiễm các vụ tiếp theo. Boswell (1968) cũng cho thấy thu hoạch kịp thời
gia tăng năng suất và giá trị của cây lạc so với thu hoạch trễ. Good & Stansell (1965)
cho thấy cây lạc bị nhiễm P. brachyurus trên đất không được tưới tiêu sẽ có năng suất
cao hơn so với cây lạc được tưới đầy đủ, mặc dù số lượng tuyến trùng trên cây lạc
được tưới tiêu lớn hơn gấp 10 lần so với cây lạc khô [20, 29].
Giống kháng: Không một giống cây lạc nào có thể kháng với P. brachyurus.
Minton & cs.(1970) đã xác định 6 giống lạc bị nhiễm bệnh giống nhau với
P. brachyurus, nhưng các triệu chứng tổn thương không dễ thấy. Smith & cs.(1978)
đã giới thiệu được 2 giống kháng là PI 290606 và PI 295233. Starr (1984) sau đó công
nhận những phát hiện của họ và giới thiệu bổ sung thêm cây kháng là PI 365553
[26, 39].

Biện pháp hóa học: Sự phá hoại nghiêm trọng của P. brachyurus có thể làm giảm
năng suất nhiều cũng như vài trăm kg mỗi ha. Những nơi xảy ra phá hoại nghiêm
trọng thì điều trị bằng phương pháp hóa học là hiệu quả nhất. Phòng trừ loài tuyến
trùng Meloidogyne cũng phòng trừ luôn cả P. brachyurus [26, 39].
Loài tuyến trùng ngoại ký sinh rễ lạc Belonolaimus longicaudatus
Đây là tuyến trùng dạng chích hút, B. longicaudatus, chúng tồn tại trong đất cát
dọc theo đồng bằng ven biển Đại Tây Dương từ Connecticut và New Jersey tới
Florida và Westward Texas, Oklahoma, Arkansas, Kansas và ở Mỹ. B. longicaudatus
ký sinh trên cây lạc ở hầu hết các quốc gia sản xuất cây lạc, thiệt hại ước tính đã được
báo cáo ở Virginia, Bắc Carolina và Oklahoma (Anon, 1987). Cooper & cs. (1959)
báo cáo rằng B. longicaudatus đã được tìm thấy ở 16 nước trồng cây lạc thuộc phía
bắc Carolina và trong đó có 8 nước sản xuất cây lạc chủ yếu. Ở Virginia,
B. longicaudatus là một vấn đề hết sức nghiêm trọng vì trong vòng chưa đầy 5% của
khu vực trồng cây lạc đã bị nhiễm [12, 13, 15].
Triệu chứng: B. longicaudatus ký sinh bên ngoài, dọc theo hai bên của rễ mọng
nước cũng như trên vỏ hạt non. Tổn thương hoại tử nhỏ có thể được quan sát thấy trên

13


rễ, củ (Owens, 1951). Esser (1976) thấy rằng khi bị nhiễm tuyến trùng thì gốc rễ sẽ bị
sưng và uốn ngược lên trên. Nếu nhiễm nặng có thể gây ra rễ cong queo và chỉ có rễ
cái còn lại (Owens, 1951). Biểu hiện trên mặt đất thường thấy cây bị còi cọc và úa
vàng. Tăng trưởng cây lạc có thể không đồng đều trong khu vực bị nhiễm chủ yếu.
Năng suất và chất lượng của cây lạc có thể giảm nghiêm trọng [18].

Hình 1.3. Hệ thống rễ cây lạc bị giảm đáng kể do loài tuyến trùng B. longicaudatus
ký sinh gây ra (theo J.N. Sasser, 1960)
Phương thức tồn tại: Sự phân bố hạn chế của B. longicaudatus có thể do một số
hạn chế sinh học và môi trường ảnh hưởng đến sự phát tán của chúng. Kết quả nghiên

cứu cho thấy rằng kết cấu của đất, nhiệt độ đất và độ ẩm của đất là rất quan trọng
trong quá trình sinh sản của tuyến trùng. B. longicaudatus có thể dễ dàng tồn tại trong
môi trường mới với điều kiện thuận lợi. Nó có thể di chuyển sang một địa điểm khác
bằng phương pháp vận chuyển đất như các thiết bị nông nghiệp, chân động vật, nước
và cấy ghép mà đất đã bị nhiễm tuyến trùng [16].
Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến việc ký sinh: Sự phân bố hạn chế của
B. longicaudatus cho thấy rằng các yêu cầu về mặt sinh thái của nó có thể rất cụ thể.
Thames (1959) mặc nhiên công nhận rằng với kết cấu đất tốt thì sẽ gia tăng mức độ di
chuyển và sinh sản của nó. Miller (1972a) đã tìm thấy B. longicaudatus trong đất

14


trồng cây lạc ở Virginia nơi đất có hàm lượng cát 84-94%. Nhiệt độ và độ ẩm đất cũng
ảnh hưởng đến sự sinh sản và sự sống còn của B. longigcaudatus. Nhiệt độ sinh sản
thuận lợi nhất là ở 250C-300C (Robbins & Barker, 1974) giống với kết quả thu được
của Perry (1965). Perry quan sát thấy rằng nhiệt độ lớn nhất cho sinh sản của B.
longicaudatus là ở 29,4 0C, thấp nhất là 26,70C và sinh sản sẽ giảm khi ở nhiệt độ
350C. Boyd & Perry (1969) kết luận rằng tuyến trùng này hoặc là chết hoặc di cư
xuống đất cách mặt đất khoảng 2,5cm khi nhiệt độ là 39,50C hoặc cao hơn. Robbins
và Barker (1974) được tìm thấy độ ẩm đất tối ưu cho sinh sản là 7% [24, 25, 44].
Tầm quan trọng kinh tế và mức độ thiệt hại: Thiệt hại kinh tế cho cây lạc ở Mỹ do
B. longicaudatus là không lớn mặc dù có thiệt hại nghiêm trọng tuyến trùng này gây
ra. Thiệt hại do tuyến trùng này đã được báo cáo ở Bắc Carolina (0,30%), Oklahoma
(0,25%) và Virginia (0,50%) (Anon, 1987). Sản xuất nông nghiệp đã được gia tăng
lên đến 400% ở Bắc Carolina (Cooper & cs., 1959) khi xử lý được tuyến trùng này ký
sinh. Trong đó mật độ số lượng trung bình của B. longicaudatus là khoảng 50 trong
473cm3 đất. Cũng ở Bắc Carolina, Sasser & cs. (1960) thấy được sự gia tăng năng
suất trên cây lạc là 109% trong đất khi số lượng dao động khoảng 135-205 trong mỗi
473cm3 [33].

Biện pháp phòng trừ: Không giống với giống cây lạc thương mại thì chúng có khả
năng chống B. longicaudatus. Với tuyến trùng này chỉ có khả năng ký chủ trên một
vài cây trồng như ngũ cốc nhỏ, thuốc lá (Nicotiana tabacum L.) và dưa hấu (Citrullus
vulgaris).Việc trồng luân canh cây lạc với các cây trồng khác đã làm giảm số lượng
tuyến trùng này. Việc sử dụng các phương pháp tiêu diệt truyến trùng là phương tiện
chủ yếu để phòng trừ chúng. Bằng việc áp dụng 2 phương pháp xông khói và không
xông khói đã làm gia tăng năng suất của cây lạc [9, 10].
Loài tuyến trùng ngoại ký sinh rễ cây lạc Criconemella ornata
Tuyến trùng C. ornata có dạng vòng, chúng được tìm thấy lần đầu tiên trên cây
lạc ở Georgia (Boyle, 1950; Machmer, 1953).Và hiện giờ chúng được tìm thấy với tỷ
lệ lớn ở các vùng sản xuất lạc của Mỹ.Tuyến trùng Criconemella đã được tìm thấy ở

15


Burkina Faso (Germani & Dhery, 1974), Ai Cập (Ibrahim & El-Saedy, 1976) [21].

Hình 1.4. Con cái và trứng của loài tuyến trùng C. ornata (theo Minton & Bell.,1969)
Triệu chứng: Machmer (1953) đã mô tả cây lạc bị úa vàng ngày càng tăng ở
Georgia trong đất bị nhiễm khuẩn mạnh với một loài Criconemella mà ông gọi là
bệnh "úa vàng lạc". Mặc dù ông không xác định loài nhưng nó có thể là C. ornata.
Barker & cs.(1982) thông báo cây lạc trồng trong nhà kính cũng có hiện tượng úa
vàng và rễ, củ, vỏ củ của cây lạc bị nhiễm khuẩn mạnh với C. ornata đã đổi từ màu
vàng sang màu nâu với tổn thương lớn hơn. Tổn thương nhỏ thường không thấy rõ,
nhưng với tổn thương lớn thì thường mở rộng sâu vào mô khiến nhiều rễ và rễ cái bị
chết, dẫn đến giảm số lượng rễ của cây. Từ đó, sản lượng cây lạc từ các khu vực bị
nhiễm tuyến trùng đã giảm khoảng một nửa [27].
Phương thức tồn tại phổ biến: Các thông tin liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng
đến sự sống còn của C. ornata thường rất ít và bị hạn chế. Một số thí nghiệm đã được
thực hiện để tìm ra loại đất thích hợp cho thấy chúng thích hợp với loại đất nhẹ

(Barker, 1974) và số lượng sẽ giảm nhanh chóng nếu đất nghèo dinh dưỡng. Sự phát
tán của C. ornata thường xảy ra chủ yếu khi vận chuyển đất trên thiết bị nông nghiệp,
chân của động vật, trong nước và trong đất bám vào cây [28].
Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến tuyến trùng ký sinh: Các yếu tố môi trường ảnh
hưởng đến việc ký sinh trên cây lạc của C. ornata đã nhận được rất ít sự chú ý. Barker

16


(1974) thấy rằng ở khu vực phía bắc Carolina ảnh hưởng đến sự xuất hiện và hoạt
động của Criconemella spp. hơn so với khu vực chân núi và núi với đất ẩm hơn và
chứa nhiều mùn, đất sét. Tần số xuất hiện của Criconemalla spp. Trên cây lạc là 54%
cao hơn so với bất kỳ cây trồng khác.
Tầm quan trọng kinh tế và mức độ thiệt hại: Thiệt hại trên cây lạc do C.ornata
trong sản xuất thường nhỏ và với mức thấp của thiệt hại có thể không bị phát hiện.
C. ornata hiếm khi có mặt một mình, và thường xuất hiện trong một quần thể có
nhiều loài khác nhau, do đó thiệt hại do C. ornata chưa được xác định rõ ràng. Trong
một thí nghiệm ở đất bị nhiễm khuẩn với tuyến trùng C. ornata cho thấy mật độ của
C. ornata có tương quan âm với chỉ số tăng trưởng và năng suất tạo hạt của cây lạc
[13].
Dựa trên một mô hình hồi quy tuyến tính, Rickard & cs.(1977) đã xác định rằng
cây lạc mất năng suất ở những mảnh đất nhỏ là 18,7% và tăng gấp 10 lần so với dân số
ban đầu của C. ornata trong đất. Barker & cs. (1982) phát hiện ra rằng với số lượng là
178 C. ornata /500cm3 đất gây ra thiệt hại năng suất đáng kể. Trong một thí nghiệm
thứ hai được thực hiện ở khu vực nhỏ thì Barker & cs. (1982) thấy rằng C. ornata đã
di chuyển sang cây thuốc lá sau khi cây lạc được thu hoạch, nhưng sau đó chúng cũng
không ảnh hưởng nhiều tới năng suất của cây thuốc lá.Từ đó, các nhà nghiên cứu kết
luận rằng nhiều tuyến trùng ở trong đất vào mùa xuân sau khi trồng thuốc lá có thể đã
chết vì thuốc lá là một cây chủ nghèo.Vì thế, các cây chủ có thể là yếu tố ảnh hưởng
tới sự ký sinh của tuyến trùng C. ornata.

Phòng trừ: Mức độ thiệt hại do C. ornata trên cây lạc chưa được xác định rõ ràng,
vì thế các kiến nghị để phòng trừ tuyến trùng này chưa được chú trọng thực hiện và
cũng chưa có giống cây lạc nào kháng được tuyến trùng trên. Một số cây trồng như
bông, đậu tương, ngô và lúa được trồng luân canh với cây lạc để có thể làm giảm mức
độ số lượng của loài tuyến trùng này. Ngoài ra, hai phương pháp điều trị tuyến trùng
là xông khói và không xông khói cũng có hiệu quả chống lại tuyến trùng này [23].
Loài Tylenchorhynchus brevilineatus

17


T. brevilineatus lần đầu tiên được quan sát thấy hại trên cây lạc vào năm 1976 ở
khu vực Kalahasti Andhra Paradesh, Ấn Độ. Vì thế, các bệnh do tuyến trùng này gây
ra được gọi là "căn bệnh Kahahasti". Từ năm 1976, căn bệnh này đã được phổ biến
rộng rãi trong khu vực Kalahasti và cũng đã được quan sát thấy ở quận Nellore ở bang
Andhra Pradesh. Tuy nhiên trên thế giới, bệnh do tuyến trùng này gây ra chưa bao giờ
được báo cáo là một dịch hại đối với các khu vực trồng cây lạc trên thế giới [9, 16].
Triệu chứng: Các triệu chứng bệnh được đặc trưng bởi vỏ nhỏ và đổi màu nâu đen
trên bề mặt vỏ. Tổn thương nhỏ màu vàng nâu xuất hiện trên bề mặt củ và vỏ. Từ đó,
năng suất giảm sút do sự phát triển tế bào chủ xung quanh tổn thương. Trong giai
đoạn phát triển của bệnh thì chiều dài của vỏ bị giảm đi rất nhiều, bề mặt vỏ trở nên
hoàn toàn bị đổi màu, nhưng hạt giống từ củ bị bệnh đều khỏe mạnh [15].
Biện pháp phòng trừ: Aldicarb (10G) và Carbofuran (3G) áp dụng sau khi trồng
cây lạc được 20 ngày nhằm phòng trừ với liều lượng là 2.0, 4.0, 6.0 và 8.0 kg a.i / ha.
Các phương pháp trên nhằm làm giảm mật độ số lượng của tuyến trùng
T. brevilineatus trong đất và tỷ lệ quả bị bệnh [16].
Loài Ditylenchus destructor
D. destructor lần đầu tiên được báo cáo là tuyến trùng gây thiệt hại làm thối khoai
tây vào năm 1988. Một cuộc khảo sát tiếp theo đã tìm thấy sự xuất hiện của tuyến
trùng này trong 7 khu vực trồng cây lạc chính. Khoảng 73% của 877 mẫu hạt giống

thu được đã bị nhiễm tuyến trùng này với số lượng trung bình 160 con mỗi hạt giống.
Tuy nhiên tuyến trùng này đã không được báo cáo về khả năng gây hại trên cây lạc ở
các khu vực trồng cây lạc khác trên thế giới [13].
Triệu chứng : Tuyến trùng D. destructor đã được tìm thấy trong rễ, vỏ và hạt của
cây lạc. Vỏ hạt bị bệnh thường có màu đen. Khoảng 40-60% của vỏ lạc và hạt giống
đã bị phá hủy nặng nề trong khu vực bị nhiễm tuyến trùng. Trong các thí nghiệm để
kiểm tra khả năng gây bệnh của tuyến trùng thì họ đã phát hiện tuyến trùng có mặt tại
củ, vỏ ngoài và vỏ trong của hạt, phôi và trên lá mầm. Triệu chứng đầu tiên để phát
hiện bệnh là mô hoại tử có màu nâu bên trong vỏ hạt, sau đó chúng lan rộng ra toàn bề

18


mặt. Triệu chứng rõ rệt nhất của bệnh khi tiến triển là màu nâu sẫm đổi thành màu đen
theo chiều dọc của hạt và ở bên dưới bề mặt vỏ. Hạt giống bị nhiễm bệnh thường teo
lại và có màu nâu sẫm rồi đến đen. Tuy nhiên, mức độ thiệt hại gây ra bởi tuyến trùng
và kết quả nghiên cứu về vấn đề này đã không được báo cáo cụ thể [23].
Một số tuyến trùng khác
Sharma (1985) đã biên soạn một danh sách các tác nhân gây bệnh bởi tuyến trùng
trên cây lạc ở khắp các khu vực trên thế giới. Danh sách này rất lớn, bao gồm nhiều
chi và loài chưa được chứng minh là gây ra thiệt hại kinh tế trên cây lạc. Các nghiên
cứu bổ sung có thể chứng minh rằng một số loài này, trên thực tế đã gây bệnh và gây
ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sản xuất cây lạc, trong khi những loài khác có
thể gây bệnh trên cây lạc nhưng không gây thiệt hại kinh tế. Khả năng tương tác của
hai tuyến trùng không được coi là gây hại nghiêm trọng trên cây lạc, mà chúng giống
như một loại virus truyền bệnh. Ở Senegal, Merny & Mauboussin (1973) đã điều trị
bệnh gây ra bởi một loại virus trong đất với DD. Họ cho rằng một hoặc nhiều tuyến
trùng đã hành động như một vector lây bệnh và chỉ ra Longicaudatus siddiqii có mặt
trong các mẫu đất. Gần đây hơn, Singh và Sakhuja (1984) ở Ấn Độ đã thử nghiệm
mức độ giảm bệnh của tuyến trùng là 97% và 84,1% với DBCP và aldicarb 3 kg a.i /

ha. Và mẫu đất thu thập từ vùng rễ của cây bị bệnh luôn luôn có mặt của
Paralongidorus citri. Thỉnh thoảng, loài Helicotylenchus, Tylenchorhynchus và
Hoplolaimus cũng có mặt [36].
Hướng nghiên cứu trong tương lai
Thiệt hại năng suất do tuyến trùng ký sinh trên cây lạc xảy ra ở tất cả các vùng sản
xuất lớn trên thế giới. Ước tính thiệt hại là 12%, rõ ràng là tổn thất rất lớn và những nỗ
lực để giảm bớt những thiệt hại là điều cần thiết [26].
Loài Meloidogyne là các tuyến trùng lớn làm hư hại cây lạc ở hầu hết các khu vực
trên thế giới, nhưng ở một số vùng như ở phía tây Châu Phi, các loài khác có thể gây
hại nghiêm trọng hơn.Ví dụ ở Senagal, các loài Meloidogyne không gây thiệt hại trên

19


cây lạc và thường được trồng luân canh với các cây trồng khác nhằm giảm số lượng
tuyến trùng M. arenaria. Một số tuyến trùng như A. arachidis, A. straturatus,
S. cavenessi, T. brevilineatus và D. destructor đã được báo cáo là gây thiệt hại nghiêm
trọng trên cây lạc tại các khu vực cách ly của Châu Phi và Châu Á nhưng không phải
là tác nhân chính trong các khu vực khác trên thế giới. Belonolaimus longicaudatus là
một tác nhân gây bệnh chính trên cây lạc ở một số khu vực của Hoa Kỳ.
Câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao những tuyến trùng này lại được báo cáo là tác
nhân gây hại duy nhất trên cây lạc ở các khu vực này và khả năng trở thành dịch bệnh
của chúng trong các khu vực khác trên thế giới là gì [37].
Trong quá khứ, ở các nước công nghiệp, họ quản lý tuyến trùng dựa vào hóa chất.
Nhưng hiện nay ở các nước này thiệt hại do các loại thuốc xông hơi như DBCP, EDB,
DD và mức độ ô nhiễm môi trường do thuốc này gây ra cùng với các chi phí tăng lên
của việc áp dụng hóa chất đang ở mức độ báo động khẩn cấp. Vì vậy, việc tìm kiếm
hóa chất an toàn hơn và kinh tế hơn để phòng trừ tuyến trùng là nhu cầu cấp thiết.
Phương pháp lý tưởng nhất hiện này là tìm ra các giống kháng tuyến trùng. Tuy
nhiên khả năng kháng của các tế bào mầm và cây non ở lạc đã không được xác định

hoặc chưa được đưa vào trồng thử nghiệm. Do đó, cần có sự nỗ lực nghiên cứu trong
lĩnh vực này [38].
Sử dụng, mở rộng các hình thức như luân canh cây trồng, cây che phủ, cây bẫy,
phơi khô đất và các chất hữu cơ có thể làm giảm thiệt hại do tuyến trùng gây ra và cần
thiết trong tương lai để duy trì nền kinh tế sản xuất cây lạc. Nỗ lực ngăn chặn sự lây
lan của tuyến trùng thông qua vệ sinh và kiểm dịch trong các tình huống có thể góp
phần ngăn chặn các vấn đề về tuyến trùng trong tương lai [42].
Chính vì vậy, thử thách đối với các nhà tuyến trùng học hiện nay là phải cố vấn
cho người trồng trong tương lai làm sao có thể phòng trừ hiệu quả nhất sự phát triển
của tuyến trùng để đem lại chất lượng lạc tốt và tăng năng suất kinh tế cây lạc cùng
với sự bảo vệ an toàn cho người tiêu dùng và môi trường.

20



×